ĐÔI KHI TA LẮNG NGHE TA

Ngày tháng nào đã ra đi khi ta còn ngồi lại
Cuộc tình nào đã ra khơi ta còn mãi nơi đây
Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
Ôi những dòng sông nhỏ lời hẹn thề là những cơn mưa…
 
Khi bước chân ta về, đêm khuya nhìn đường phố,
Thành phố hoang vu như một lần qua cuộc tình
Làm sao em biết đời sống buồn tênh…
 
Đôi khi ta lắng nghe ta,
Nghe sóng âm u dội vào đời buốt giáZZ
Hồn ta gió cát phù du bay về…
 
Đôi khi trên mái tình ta nghe những giọt mưa,
Tình réo tình âm thầm,
Sầu réo sầu bên bờ… vực sâu
 
Còn thấy gì sáng mai đây thôi ta còn bạn bè
Giọt rượu nào mãi chua cay trong tình vẫn u mê…
Từ một ngày tình ta như núi rừng cúi đầu
Ôi tiếng buồn rơi đều,
nhìn lại mình đời đã xanh rêu….

Trịnh Công Sơn – Tình Xa

**************************************

Chẳng ai nắm bắt được thời gian!  Chẳng ai giữ được người muốn đi!  Tình yêu như trò chơi cút bắt, gần đó nhưng thật xa, xa vời vợi nhưng lại gần gũi thân thương!  Nào ai dám chắc khi nào tình ở, lúc nào tình đi!  Nhưng khi tình thực sự vuột khỏi tầm tay thì lòng người mới cảm thấy hụt hẫng, chới với!  “Ngày tháng nào đã ra đi,” “cuộc tình nào đã ra khơi,” “từng người tình bỏ ta đi….” tất cả đã xa rồi, chỉ còn lại lời hẹn thề, những cơn mưa…. những gì mà con người không thể mang theo được, những gì không thể xóa nhoà của một thời yêu thương nồng cháy.

Còn lại một mình trong cô quạnh, với nỗi trống vắng của người bị tình phụ, bước chân lang thang trong đêm khuya giữa lòng thành phố ồn ào xôn xao, mà nay sao thật hoang vu lạnh lẽo như lòng người…  Người nhạc sĩ họ Trịnh giờ đây mới thấm thía cảnh “từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ,” người này nối tiếp bước chân người kia, lại thêm một lần dở dang trong cuộc tình, trái tim thêm một lần rách nát. “Ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa,” lòng người thêm một lần ngán ngẩm, núi cao biển rộng thêm một lần chứng kiến những lời thề non hẹn biển, như những cơn mưa vội vã chảy ào xuống, không đủ thấm đất rồi trôi nhanh vào quên lãng. “Làm sao em biết đời sống buồn tênh?”  Lời nhạc thoáng nghe như một lời trách móc nhẹ nhàng, nhưng đầy hàm ý thách đố của nhạc sĩ với người xưa.  Phải chăng “dòng sông nhỏ” bỏ bến xưa ở lại để tìm ra đại dương vì chê đời nghệ sĩ buồn chán, không còn gì hấp dẫn lôi cuốn?  Phải chăng cuộc đời dưới mắt em là nhàm chám vô vị, được lập đi lập lại những nhịp đập đều đều vô hồn?  “Dòng sông nhỏ” tiếp tục chảy mãi biết đâu là bến đỗ?

Sau mỗi lần vấp ngã là thêm một kinh nghiệm sống.  Tuy trái tim mang thêm thương tích nhưng cặp mắt người nhạc sĩ đã bừng mở để nhìn ra một chân lý sống cho mình và “dòng sông nhỏ” vội bỏ đi: “Đôi khi ta lắng nghe ta.”  Có cần không những khoảnh khắc “ta lắng nghe ta” trong cuộc đời bon chen bận rộn này?  “Ta lắng nghe ta” có là một chuyện vô ích mất thời gian trong cuộc sống tốc độ của thời đại hiện kim này không?

Với “đôi khi ta lắng nghe ta,” tác giả đã nghe ra tiếng “sóng âm u dội vào đời buốt giá,” mà mải mê với tiếng động ồn ào của cuộc đời, không phải ai cũng nghe được.  Tiếng sóng tuy “âm u” nhưng thức tỉnh lòng người, tuy lạnh “buốt giá” nhưng thấm thía.  Chỉ vài phút “ta lắng nghe ta” tác giả mới ngỡ ngàng nhìn ra “hồn ta gió cát phù du bay về.”  Ôi, tất cả chỉ là phù du thôi sao?  Kể cả tình yêu, tuổi trẻ, tiền tài và danh vọng…?  Nếu không có những giây phút thiêng liêng “ta lắng nghe ta,” không hiểu người nghệ sĩ có cái nhìn thoáng đạt ra ngoài chân trời vật chất như thế không?

Với “đôi khi ta lắng nghe ta,” mình “nhìn lại mình,” tác giả mới giật mình nhìn ra “đời đã xanh rêu…”  Tất cả những giành giựt bon chen của hôm qua, hôm nay trở nên vô nghĩa.  Tất cả những mối tình rượt đuổi của thời trai trẻ, nay trở nên rỗng tuếch.  “Còn thấy gì sáng mai đây thôi ta còn bạn bè,” bây giờ nhìn lại, chẳng còn ai bên đời!  Người tình bỏ đi, bạn bè quay lưng, cuộc sống gió cát phù du… còn lại gì?  Có chăng chỉ là “tình réo tình âm thầm,” “sầu réo sầu bên bờ vực sâu.”  Ôi cuộc sống, là những “tiếng buồn rơi đều” mãi sao?  Ôi, tình yêu, chẳng lẽ chỉ có một thứ tình duy nhất trên đời?

Để nghe được tiếng nói thiêng liêng thầm kín trong tâm hồn, ta phải tách mình ra khỏi dòng đời xô bồ đầy những tiếc động đinh tai nhức óc để đi vào trong sa mạc cõi lòng, lúc bấy giờ ta mới nghe được những âm thanh diệu kỳ của cuộc sống.  Để hiểu rõ ta hơn, con người cần có những phút giây “ta lắng nghe ta.”  Để hiểu rõ người hơn, cũng cần có những khoảnh khắc “ta lắng nghe ta.”  Làm sao có thể hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống nếu thiếu những giây phút lắng đọng “ta lắng nghe ta?”  Nếu em biết lắng nghe em, lắng nghe nhịp đập thổn thức của con tim, thì chưa chắc “đời sống buồn tênh” như em vội đoán.  Tiếc thay cho em là người vội vã hấp tấp, không biết thưởng thức hương vị cuộc sống mà tạo hoá đã ban tặng.

Trong ngày sống bận rộn, nếu dành ra đôi ba phút lắng đọng để “ta lắng nghe ta” trong thinh lặng của bình minh, hay trong ánh hoàng hôn dần buông, ta sẽ nghe được những đói khát thiêng liêng ẩn kín trong sâu xa tâm hồn.  Chắc chắn trong những giây phút huyền nhiệm “ta lắng nghe ta,” không những chỉ được nghe, mà ta sẽ nhìn được chiều sâu đời sống nội tâm mà Thượng Đế ban tặng cho con người. Khi có cơ hội nhìn lại mình với mọi thứ tình đều được lấp đầy: tình yêu nam nữ, tình vợ chồng, cha mẹ, gia đình, tình bạn hữu, quê hương…, mọi thứ tình ta đã một thời nếm thử hương vị và đã có đủ…. nhưng sao con vẫn cảm thấy khát khao chưa đủ?  Có chăng một thứ tình nào đó thiêng liêng hơn, cao qúy hơn những thứ tình ở cõi phàm trần này?  À, thì ra cái loại “động vật có lý trí” đó không chỉ có cơm bánh, danh vọng… lấp đầy là xong!  Tấm hình hài này không chỉ cần những chiếc áo đẹp, đi xe mới, ở nhà lầu… là đủ.  Cuộc sống không chỉ có tình yêu nam nữ, vợ chồng, gia đình, bạn hữu, quê hương… là hết.  Trong sâu thẳm của cái ta kia còn thao thức khát khao một thứ tình nào đó thiêng liêng hơn, mãnh liệt hơn, vĩnh hằng hơn đang réo gọi âm thầm trong đáy lòng của những tạo vật bé nhỏ “bên bờ vực sâu,” mà chỉ trong thinh lặng “ta lắng nghe ta” mới nghe ra được.

Cái thao thức băn khoăn trong hồn đó đã được thánh Augustinô thổn thức kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa tạo dựng con cho Ngài, lòng con không hề yên nghỉ bao lâu con chưa nghỉ ngơi trong Chúa.”

**************************************

Lạy Chúa, trong cuộc sống bon chen mà con người luôn bị giằng co với những bận rộn lo toan tất bật thường ngày, xin cho con biết chiến đấu dành giựt lấy vài phút giây trong ngày để con lắng nghe con, lắng nghe tiếng Chúa nói trong con.  Xin cho con ý thức rằng, nếu không biết lắng nghe những khát khao thiêng liêng trong tâm hồn mình, con sẽ trở thành câm điếc với chính mình, và với Chúa.  Nếu không nghe được tiếng sóng trong hồn mình, tiếng gió cát phù du của kiếp người, tiếng “tình réo tình âm thầm,” thì con sẽ mãi mãi không nhận ra sự đói khát của linh hồn mình, và bấy giờ đời sống quả là buồn chán, vô nghĩa.

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, trong những lúc tuyệt vọng vì tình, tiền, tài, danh vọng… rũ áo bỏ đi, xin cho con nhớ đến Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng yêu thương con ngay từ lúc con còn trong tội lỗi bùn nhơ.  Xin luôn nhắc con nhớ rằng con không chỉ là cát bụi phù du, nhưng còn mang hình ảnh và hơi thở của Chúa nữa. Amen!

Lang Thang Chiều Tím
August 2007

HAI SẮC HOA TI GÔN

T.T.Kh

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người ấy với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng “Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng thế thôi.”

Thuở đó nào tôi có hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy.”

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi, thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
“Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhung hồng tựa trái tim tan vỡZZ
Và đỏ như màu máu thắm phai

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu cũ rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu…
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng  

********************************

Huyền thoại thi ca tiền chiến Việt Nam những năm 1937-1938 bỗng nổi cơn ba đào với bốn bài thơ ký tên T.T.Kh, rồi sau đó lặng lẽ tan vào cõi hư không, mặc cho dư luận ồn ào xôn xao.  Chất hưng phấn làm hoa ti gôn nở rộ một thời, được khai hoa nở nhụy bằng một câu chuyện “Hoa Ti Gôn” của ký giả Thanh Châu, đăng trên báo “Tiểu Thuyết Thứ Bảy,” xuất bản tại Hà Nội.  Là một truyện ngắn không có gì đặc sắc, nhưng nhẹ nhàng và bay bổng, “Hoa Ti Gôn” kể về một chuyện tình buồn giữa một chàng họa sĩ và một thiếu nữ gia đình thượng lưu.

Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được một bài thơ “Hai Sắc Hoa Ti Gôn,” ký tên T.T.Kh do một thiếu phụ trạc hai mươi, dáng bé nhỏ thùy mị, nét mặt u buồn mang đến.  Đó là lần đầu, và cũng là lần cuối người thiếu phụ nầy xuất hiện.  Câu chuyện “Hoa Ti Gôn” đã khơi lại mối tình xưa của người thiếu phụ (T.T.Kh.) với một chàng nghệ sĩ, cả hai đã qua một thời yêu thương hẹn hò dưới giàn hoa ti gôn.  Rồi chàng ra đi biền biệt không hẹn ngày về.  Nàng ở lại vâng lời mẹ cha, gạt nước mắt nên duyên cùng người khác – một người chồng luống tuổi – để rồi tan nát tâm tư, mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của thời quá khứ.  Bài thơ Hai Sắc Hoa Ti Gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ, bởi những câu thơ quá da diết.  Sau bài thơ nầy, tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại nhận được bằng đường bưu điện ba tác phẩm khác cũng mang tên T.T.Kh.  Đó là các bài “Bài Thơ Thứ Nhất,” “Bài Thơ Đan Áo” (riêng đăng ở Phụ Nữ Thời Đàm), và “Bài Thơ Cuối Cùng.”

Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T.T.Kh nữa.  Không ai hiểu tại sao bài “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” lại xuất hiện trước “Bài Thơ Thứ Nhất,” và cũng không hiểu tại sao tác giả lại lặng lẽ rời bỏ văn đàn không lời từ biệt, để lại trong lòng người yêu thơ bao nỗi niềm thương nhớ luyến tiếc.

********************************

Bảy mươi năm trôi qua, nhân gian tốn bao giấy mực để tìm hiểu T.T.Kh là ai.  Người thì đoán Trần Thị Khánh, một nữ sinh Hà nội, người yêu của Thâm Tâm, một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với bài Tống Biệt Hành.  Kẻ lại bảo là Nguyễn Bính, rồi em gái họ nhà thơ Tế Hanh.  Người khác đoan chắc đó là Trần Thị Vân Chung, người yêu nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa Ti Gôn.  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi tác giả tiếp tục thinh lặng “sống hờ hết kiếp, trong duyên trái đời.”

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình buồn nếu chỉ có một người?  Thế là dư luận đổ xô đi tìm “người ấy” của T.T.Kh để hỏi xem “người ấy có buồn không, có còn nghĩ tới loài hoa vỡ.”  Kẻ xầm xì nói đó là nhà thơ Thâm Tâm, người lại bảo là nhà văn Thanh Châu.  Nguyễn Bính, J. Leiba và bao nhiêu anh hùng thiên hạ khác nữa, cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của mình!  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi loài hoa ti gôn chỉ nở một lần, hoa rụng mang theo niềm bí mật của người yêu hoa.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình ngang trái nếu không có người thứ ba, là kẻ có nợ nhưng không duyên, có nghĩa nhưng không tình?  Thế mà thiên hạ chẳng ai buồn tìm hiểu người chồng “nghiêm luống tuổi” là ai?  Báo chí chẳng tốn một giọt mực, không một lời phân ưu.  Chẳng ai buồn thắc mắc đến danh tính của kẻ chiến thắng, nhưng lại là chiến bại, kẻ “được” nhưng là “mất.”  Cũng như vợ mình, chân dung của ông vẫn là một ẩn số, nhưng là một ẩn số phụ bé nhỏ, không lối đáp trong nghi án văn học T.T.Kh.

ZZZBài thơ tình lãng mạn thời tiền chiến này đã đi sâu vào lòng tôi một thời.  Ngắm hoa ti gôn “sắc hồng tựa trái tim tan vỡ, và đỏ như màu máu thắm pha,” tôi ngậm ngùi xót thương người con gái bạc phận ôm mối tình dang dở lên xe hoa, theo lời mẹ cha nhắm mắt đưa chân sống “quang cảnh lạ, tháng năm dài, đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.”  Tôi cảm thông tâm tình cay đắng người thiếu phụ buồn, ngồi bên song cửa sổ miễn cưỡng “đan đi đan lại áo len cho chồng,” mà mắt cứ dõi nhìn phương xa.  Tôi thầm trách “người ấy” đã làm tan nát thêm cõi lòng người yêu khi mang “Bài Thơ Đan Áo nay rao bán, cho khắp người đời thóc mách xem.”  Xót xa, tiếc nuối… là những tình cảm lưu luyến dành cho hai nhân vật trai thanh gái tú, có duyên gặp gỡ nhưng không phận phu thê, đã dệt nên những áng thơ tình bất hủ cho nền văn chương Việt Nam!

Cũng như người đời, tôi chưa một lần thắc mắc tâm tư người chồng đi bên lề cuộc đời vợ mình ra sao.  Ông buồn hay vui khi đêm đêm nằm ôm cái xác không hồn, với cặp mắt ngơ ngác thất thần?  Ông nghĩ gì khi môi đụng làn môi băng giá?  Ông cảm thấy gì khi được vợ, nhưng không được trái tim của nàng?  Cho đến một ngày tình cờ đọc Kinh Thánh, tôi ngờ ngợ như đọc được nỗi niềm cay đắng của ông, một người đứng bên lề cuộc đời người yêu qua những dòng chữ chua chát “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b).  Ôi, Thiên Chúa của tôi, Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, giàu sang và uy quyền, lại chia sẻ chung số phận hẩm hiu với người chồng già bạc phận trong “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” hay sao?  Tôi đã sống ra sao để Ngài phải thốt lên những lời ai oán ấy.

Từ “ngày vui pháo nhuộm đường” đó, cuộc sống tuy nhiều sầu muộn, tháng ngày đong đầy những chua cay, nhưng T.T.Kh. không hề có ý định chạy trốn cuộc sống, cũng chẳng dự định trốn theo người yêu.  Nàng “vẫn đi bên cạnh cuộc đời,” trong sự “ái ân lạt lẽo” của chồng, với một thái độ lạnh lùng, dửng dưng chấp nhận sự thật dù phũ phàng.  Tôi cũng thế, vẫn đi bên Thiên Chúa, vẫn thờ phượng Ngài, không có ý định bỏ đạo, càng không muốn chống đối Ngài.  Chỉ là một thái độ lạnh nhạt chấp nhận sự việc có Chúa bên đời như một tình cờ, như một sự ép đặt của mẹ cha.  Còn lòng tôi ư? Người thiếu phụ có chồng “vẫn giấu trong tim bóng một người,” chỉ một người thôi!  Còn tôi, thờ phượng Ngài đó nhưng che giấu trong tim biết bao bóng hình, những mộng mơ với thế gian phù phiếm, những toan tính cho tương lai, dù tương lai không thuộc về tôi, và bao dự định dang dở…  Những bóng hình đó không ngừng đeo đuổi tôi đến nhà thờ những ngày Chúa nhật dù chỉ một tiếng, vẫn hiện diện trong những lời kinh ro ro thuộc lòng dù chỉ vài phút.  Như một thiếu phụ đoan trang khép mình trong lễ giáo, tôi tuân giữ những luật buộc một cách máy móc, dâng Ngài những của lễ dư thừa trong nhăn nhó.  Nhưng linh hồn tôi, trái tim tôi, tâm trí tôi… dật dờ đâu rồi trong một cõi xa xăm nào đó!

Đi bên chồng nhưng lại hỏi “người ấy” có buồn không, đó là tâm trạng của người xưa.  Còn tôi hôm nay đi bên Ngài đó, nhưng vất vả lo toan cho những việc ở trần gian.  Miệng nói tôn kính Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự.  Nhưng bao sức lực, trí lực, tài năng, máu huyết của tuổi thanh xuân… tôi đã dâng hiến cho thế gian hết rồi, để mong tìm một chỗ đứng trong xã hội, một cuộc sống tiện nghi…  Còn chăng chỉ là cái xác mệt mỏi vô hồn trong lòng nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật buồn.  Xa thật hai cõi lòng của tôi và Ngài!  Phải chăng những lời trách móc “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b) là để chỉ tôi sao?

“Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời…, vẫn giấu trong tim…,” “vẫn đi” “vẫn giấu,” một sự ngoan cố đến lạ lùng của một phụ nữ yếu đuối.  Không có ý định từ chối cuộc sống và gia đình, nhưng cũng không có ý định chôn hình ảnh xưa cố quên để sống.  Nàng đã cố bám víu lấy nó như một thứ lương thực nuôi sống hiện tại.  Tôi thấy thấp thoáng hình ảnh mình trong sự cố chấp, bám dính quá khứ của người thiếu phụ.  Vẫn biết một ngày nào đó tôi sẽ phải rũ áo ra đi, không mang theo được gì, nhưng tôi vẫn ngoan cố xây đắp cho thật nhiều.  Vẫn biết đời sau mới là thiên thu vĩnh cửu, nhưng tôi chỉ chăm lo hạnh phúc hời hợt của vài thu chóng qua.  Phải chăng đó là oan trái của kiếp người?  Phải chăng con rắn ngày xưa vẫn tiếp tục cám dỗ trong lòng mỗi người mãi không thôi?  Người thiếu phụ đã bám lấy cả hai, và nàng đã phản bội cả hai: người yêu và chồng mà cuộc sống chỉ là “từng thu chết, từng thu chết.”  Kết quả cuộc sống của tôi có khá hơn không khi tôi cùng bám vào cả hai: Thiên Chúa và thế gian?

Còn gì xót xa não nùng cho bằng khi nghe những lời thở than của người vợ hiền “Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời, ái ân lạt lẽo của chồng tôi.”  Phải chăng đó cũng là những tiếng trách móc của tôi về sự “ái ân lạt lẽo” của Thiên Chúa?  Như một ông chồng già giàu có nhưng keo kiệt, uy quyền nhưng bủn xỉn, Ngài quay mặt làm ngơ trước những lời van xin thống thiết của tôi: cái xin không được, cái không xin lại cho, cái muốn được thì mất, cái mất lại được.  Ngài đã bỏ tôi chới với một mình trong khổ đau, mặc tôi ngụp lặn trong cô quạnh không lời ủi an.  Trong nỗi đau không tình cờ đó, Ngài tiếp tục thinh lặng, bí mật và khó hiểu… không một lời đáp trả.  Quả là lạt lẽo và vô tình làm sao!

Dù lời thơ ai oán, hồn thơ chất chứa niềm trách móc cam chịu của người vợ bị chồng “lạt lẽo, hờ hững,” nhưng tôi vẫn bắt gặp đâu đó một sự quảng đại nơi người chồng “nghiêm luống tuổi” môn đăng hộ đối.  “Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ, “người ấy” cho nên vẫn hững hờ.”  Chỉ là hững hờ thôi sao?  “Vẫn biết,” một sự khẳng định chắc chắn đến thế, nhưng không có cảnh đòi ly dị, không đuổi về nhà người vợ ngày qua đêm lại chỉ “thờ thẫn hồn eo hẹp” nhớ người xưa, không cưới năm thê bảy thiếp, không đánh đập hành hạ, mà cũng chẳng có chuyện “ông ăn chả bà ăn nem,”… không một hành động cụ thể nào cho sự trả thù.  Chỉ là một thái độ “hững hờ” của người quân tử!  Thái độ “hững hờ” hay nồng nàn, “lạt lẽo” hay sốt mến còn do thái độ cảm nhận của đối tượng nữa.  Tôi không thể nhìn thấy cuộc đời màu hồng khi đeo cặp kiếng đen.  Làm sao có thể tìm thấy một sự yêu đương nồng cháy khi “từ đấy thu rồi, thu lại thu, lòng tôi còn giá đến bao giờ?”  Ai có thể làm tan tảng băng nếu lối vô bị bít kín?  Ly nước đã đầy làm sao có thể rót thêm?  Làm sao có thể tìm được lòng sốt sắng yêu mến khi tôi đến với Thiên Chúa với tấm lòng giá băng, qua những nghi thức thờ phượng hời hợt bên ngoài, với trái tim đầy ắp những tham vọng thế gian, và cái đầu tính toán đầy những thành kiến.

Có đúng chăng sự “hững hờ” “lạt lẽo” của người chồng trong “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” là kết quả cách sống thờ ơ của người vợ?  Có sai không thái độ giận dữ của Thiên Chúa “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!  Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16) là kết quả cách sống dở dở ương ương của tôi?  Tôi còn có sự tự do lựa chọn cho mình một lối sống, nhưng người con gái đất Việt bảy mươi năm về trước thì không.  Vậy tôi và nàng ai đáng thương, và đáng trách hơn?

Xuyên suốt bốn bài thơ của T.T.Kh, ngoài thái độ “hững hờ” “lạt lẽo” của người chồng, còn một thái độ tế nhị khác nữa, đó là sự chờ đợi!  Ông đã âm thầm đi bên cạnh cuộc đời vợ mình, để chờ đợi sự quay về của người vợ hiền, nếu không quay về vì yêu thương thì cũng xin vì bổn phận.  Qua ông, tôi bắt gặp hình ảnh chờ đợi của Thiên Chúa, Ngài đã kiên nhẫn đứng bên lề cuộc đời của những người đã chọn Ngài là Chúa, nhưng chỉ là môi miệng, để ngày qua tháng lại tiếp tục mòn mỏi trông chờ.  Một Thiên Chúa đầy quyền uy nhưng thật tội nghiệp vẫn lặng lẽ đứng đó, không một lời giải thích cho thái độ tưởng như hờ hững, lạt lẽo của mình, với đôi cánh tay giang rộng để chờ đợi không chỉ thân xác, không chỉ hình thức, không chỉ môi miệng, nhưng là một tình yêu đích thực từ trái tim, từ một cái xác có hồn, một sự dâng hiến trọn vẹn tuyệt vời của người yêu.

Ngược lại với sự quảng đại chờ đợi trong âm thầm nhẫn nhục của người chồng, là một sự phản bội tế nhị của “người ấy”:

“Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài Thơ Đan Áo của chồng em
Bài Thơ Đan Áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.”
Là giết đời nhau đấy biết không? (Bài Thơ Cuối Cùng)

Bây giờ thì nàng đã rõ rồi tấm lòng yêu thương của người mà nàng hằng ấp ủ trong tim.  Trong khi người con gái “vườn Thanh” lo lắng “nếu biết ngày mai tôi lấy chồng, trời ơi, người ấy có buồn không,” với một niềm tin mạnh mẽ vào người yêu “nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ, người ấy ghi lòng vẫn nhớ em,” và nỗi khắc khoải mong chờ được tái ngộ dù chỉ trong mơ “tiếng lá thu khô xiết mặt hè, như tiếng chân người len lén đến.”  Thế mà người ấy lại nhẹ nhàng đem tình nàng “rao bán” trên mặt báo. “Bài Thơ Đan Áo” chỉ viết riêng cho chị, chia sẻ nỗi lòng u uất của người con gái lấy chồng phương xa, giờ còn đâu nữa những tâm tư thầm kín của người thiếu phụ khuê các.  Người ta đã quên rồi lời hẹn xưa “cố quên đi nhé câm mà nín, đừng thở than bằng những giọng thơ.”  Người ta thương gì “một mảnh lòng tan vỡ,” xót xa gì “một tâm hồn héo,” tiếc gì một đóa “hoa tàn dấu xác xơ.”  Không ăn được thì đạp đổ!  Hạnh phúc của người yêu nào có nghĩa lý gì!  Thẳng tay, phũ phàng, và dứt khoát “lại chính là anh, anh của em” đó!  Đâu rồi một tâm hồn nghệ sĩ cao thượng?  Đâu rồi nét quân tử của người yêu hoa?  Chả trách nào tiếng chim trong lồng tắt lịm từ đó!

Hình ảnh “người ấy” phải chăng là hình ảnh của thế gian: đẹp đẽ, lãng mạn, nên thơ… khi tình đang mặn nồng, thưở “nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn.”  Nhưng khi lòng tôi thao thức với lời mời gọi thiêng liêng từ trong đáy tim, thì thế gian cố níu kéo bằng những dụ dỗ ngon ngọt, những hình ảnh phù phiếm, sự hưởng thụ thân xác.  Và khi tôi nhất quyết quay gót trở về với Thiên Chúa, thì bộ mặt thế gian biến đổi, với những gian trá mưu mô xảo quyệt, với hành động trả thù bỉ ổi, nhằm phơi bày tội lỗi thầm kín của tôi, cho dù làm thế “là giết đời nhau.” “Đời chỉ đẹp khi tình còn dang dở!”  Tình đã dang dở rồi đây, nhưng người trong cuộc có thấy đẹp hơn, thơ mộng hơn không, hay chỉ toàn cay đắng phũ phàng?

Thế gian là thế đấy!  Người tình là thế đó!  Mặc dù “oán hờn anh mỗi phút giây” nhưng lòng thì “giận anh không nỡ nhớ không thôi!”  Thiên Chúa có lẽ quá thấu hiểu sự yếu đuối mù quáng của con người, nên hai chữ TỈNH THỨC được lập đi lập lại nhiều lần trong giáo huấn của Ngài, và ân sủng từ trời cao không ngừng tuôn đổ, để giúp con người biết lựa chọn, và sống với sự chọn lựa của mình một cách sáng suốt.

Chuyện tình nào rồi cũng có đoạn kết, mối tình tay ba nào cũng phải kết thúc bằng sự lựa chọn.  Như “Người chồng Người tình” không thể cùng song hành với nhau trong cuộc sống “Người vợ,” thì Thiên Chúa cũng không thể cùng đồng hành với thế gian trong trái tim, và linh hồn một người.  Tôi đang ở đâu trong mối tình tay ba giữa “Thiên Chúa – Thế gian – và Tôi?”  Tôi sẽ chọn lựa ai, chỉ một trong hai?  Và sẽ sống với thái độ nào trong sự tự do lựa chọn đó?

Lang Thang Chiều Tím
August 2007

 

CHUYỆN THÀNH NA-IN

 (Lc 7:11-17)

Một buổi sáng khi mặt trời đã vắt vẻo trên đỉnh đồi cao, nắng bình minh chiếu chan hòa xuyên qua những kẽ lá đầu cổng thành Na-in, một thành nhỏ miền Galilê nước Do thái, tiếng chim hót ríu rít chào mừng một ngày mới bắt đầu.  Trời trong veo lững lờ vài đám mây xanh biếc hứa hẹn một ngày đẹp.  Quyện trong tiếng chim hót là tiếng lao xao của một đám đông đang theo chân một cỗ quan tài.  À, một đám tang buồn!  Thật ra có đám tang nào mà không buồn?  Có cuộc tiễn biệt nào mà không nước mắt, đau thương?  Có mất mát nào mà không gây đau lòng cho kẻ còn sót lại?  Nhưng đám tang này lại buồn hơn mọi đám tang khác bởi lẽ người nhắm mắt xuôi tay còn quá trẻ.  Anh chưa làm nên công danh sự nghiệp, chưa có gì để lại cho đời ngoài một bà mẹ goá nghèo xơ xác.  Gia tài duy nhất của mẹ anh cũng chính là anh.  Vậy mà anh nỡ lòng ra đi mang theo bao niềm hy vọng cậy trông của người mẹ tuổi đã về chiều.  Người chết xong phận mình nhưng người còn ở lại thì sao?

Đám tang nghèo quá, tiêu điều quá!  Đám tang đi trong thinh lặng buồn tênh: không kèn, không trống, không vành khăn tang, chỉ có tiếng khóc nỉ non của bà mẹ già thay cho tiếng kèn đưa tiễn người đi.  Giọt lệ buồn chảy dài trên đôi má nhăn nheo hốc hác đang khóc thương cho người con bạc phận hay khóc than cho chính thân mình?  Ôi, số phận sao khắc nghiệt thế!  Sao người nằm đó lại là con tôi?  Hai bàn tay khốn khổ xưa đã chôn chồng, nay lại chôn con, đến phiên mẹ ra đi thì bàn tay nào sẽ chôn mẹ?  Con ơi…..!  Tiếng lá vàng khóc lá xanh rơi nghe não nề mủi lòng làm sao!  Hòa theo tiếng kể lể của người mẹ già là những tiếng sụt sùi cảm thông của bà con láng giềng.  Người ta tới để tiễn biệt chàng thanh niên về nơi chín suối, đến để chia sẻ số phận hẩm hiu của người mẹ già góa bụa từ nay bơ vơ không nơi nương tựa ủi an.

Đám tang lặng lẽ u buồn ra đi đến gần cửa thành gặp một đám đông khác đông hơn, ồn ào hơn, náo nhiệt hơn đang ùn ùn kéo vô thành.  Đám đông đang hăm hở theo chân một người mang tên Giêsu, là người nổi tiếng thời bấy giờ, một ngôn sứ đầy uy thế trong lời nói cũng như việc làm trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. ZZ Một đám đông buồn gặp đám đông vui!  Đám đông ồn ào vui nhộn dạt ra để dành chỗ cho đám tang đi qua với những cặp mắt tò mò hiếu kỳ.  Đám tang à?  Vài người nhún vai:

–     Có gì lạ đâu!

Đám tang của một thanh niên trẻ ư?  Vài cái chép miệng xót thương:

–     Ừ, đáng thương thiệt, nhưng mà… phận bạc vắn số thì chịu thôi, rồi ai cũng phải chết, không sớm thì muộn!

Để lại một bà mẹ già goá bụa không nơi tựa nương sao?  Thêm đôi ba cái lắc đầu tội nghiệp:

–     Ừ, tội quá, nhưng chắc có lẽ tại tội của bà ta hay tội của cha mẹ bà ta nên bây giờ bà phải lâm cảnh đáng thương như thế!

Những người khiêng xác kẻ chết tiếp tục cuộc hành trình.  Người mẹ khổ đau không màng gì đến thế giới bên ngoài, không để ý gì đến những lời nói vô tình độc địa bên tai, thân già như cành lá liễu trong gió thu chiều, cứ rũ xuống đất mà không sao đứng thẳng lên được.  Những người làng xóm tốt bụng đi xung quanh xốc vào hai bên nách đỡ cho bà khỏi té quỵ xuống đường, và dìu bà kéo lê trên cát đằng sau cỗ quan tài cho đến nơi chôn cất người con thân yêu!

Cảnh đau lòng ai oán đó đập vào mắt vị ngôn sứ, Ngài bàng hoàng đứng sững lại người như chết trân, khuôn mặt đầy xúc động với cặp mắt nhắm nghiền như không dám chứng kiến thêm cảnh mẹ khóc con.  Với đôi môi cắn chặt vào nhau tím ngắt như cố nén tiếng thở dài não ruột đang xiết chặt trái tim tan nát, Ngài loạng choạng tiến lại gần người mẹ khổ đau.  Mọi người tò mò ngạc nhiên không hiểu vì sao vị ngôn sứ lại xúc động đến thế!  Ngài đã nhìn thấy trước cảnh gì rồi chăng?

–     Đứng lại!

Một giọng nói trầm ấm vang lên mang nhiều âm chất ra lịnh.  Cả hai đám đông cùng ngỡ ngàng nhìn nhau không hiểu chuyện gì xảy ra.  Ai đứng lại?  Người chết hay kẻ sống?  Những người khiêng quan tài như bị thôi miên tự động dừng chân.  Bước chân người đàn bà đau khổ cũng khựng lại, bà ngước khuôn mặt dại khờ với hai hàng lệ chưa khô nhìn lên.  Ánh mắt già nua chớp chớp.  Qua làn nước mắt nhạt nhoè bà nhìn thấy khuôn mặt hiền từ nhân hậu mập mờ trước mắt.  Ai thế?  Bà không hề quen biết người này!  Bà lắc đầu đưa tay dụi mắt.  Bạn của con trai bà ư?  Không thể nào.  Bà biết hết mặt những đứa bạn của con trai dấu yêu.  Một vị kinh sư hay Pharisêu đại diện tôn giáo đến đây để chia buồn với bà ư?  Không đời nào.  Có bao giờ họ đoái hoài đến nỗi đau của những người nghèo cùng đinh trong xã hội như mẹ con bà.

Mặt bà ngây ra, ánh mắt ngơ ngác.  Như đoán được tâm trạng của bà, đám đông lao nhao lên với những câu trả lời mà bà nghe tiếng được tiếng mất:

–     Giêsu! Giêsu Nadarét!  Giêsu con vua Đavít!

À, bà nhớ ra rồi, cách đây không lâu trong dân chúng có đồn về một người mang tên Giêsu, người Nadarét xứ Galilê, Người đã trừ quỷ, chữa lành nhiều bệnh tật, đả phá những lề luật cứng ngắc trong xã hội, rao giảng về Tình Yêu, Nước Thiên Chúa và niềm hạnh phúc vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại khổ đau.  Bà nghe nói ông Giêsu đó có một trái tim nhân hậu, thương yêu trẻ thơ, những người nghèo, và đặc biệt là những người bất hạnh cô nhi quả phụ như bà.  Bàn tay ông chạm đến ai là cuộc đời người đó đổi thay!  Ánh mắt ông đi liền với trái tim!  Là ông ta đây sao?  Tuy chưa hề được gặp mặt ông lần nào nhưng bà đã nghe về ông ta rất nhiều.  Bây giờ con người nổi tiếng đó đang đứng trước mặt bà đây, bằng xương bằng thịt.  Nhưng để làm gì cơ chứ?  Con bà đã chết rồi, chết thật rồi!  Bà đang đi chôn nó đây, còn gì nữa đâu để mà xin!  Còn gì nữa đâu để mà chữa lành!

Vị ngôn sứ tiến đến bên bà, ông đưa tay nhè nhẹ lau những giọt lệ trên khuôn mặt gầy guộc đầy những nếp nhăn.  Khuôn mặt Giêsu lộ đầy vẻ xúc cảm thương mến, đôi môi run run mấp máy như muốn thốt nên lời an ủi mà không sao thoát ra thành lời.  Rồi bất chợt Giêsu dang rộng hai cánh tay ôm choàng bà vào lòng, bất kể tục lệ khắt khe thời đó không cho phép người đàn ông ôm hôn người đàn bà ngoài đường phố, bất kể quần áo bà tang thương rách nát dơ bẩn, bất kể đến thân phận hèn kém nghèo khó của bà.  Có lẽ Giêsu biết vết thương lòng bà sâu quá không lời nào có thể xoa dịu được.  Bà nhắm mắt lặng im bất động để cho Giêsu ôm mình vào lòng, vỗ về như người cha vỗ về đứa con thơ.  Rồi bà nấc lên thành tiếng, nước mắt trào ra, dòng lệ tưởng đã cạn khô sau khi khóc chồng, và sau mấy ngày ngồi bên xác con nay có người khơi dậy, lại ào ào tuôn trào như hai dòng suối.  Bà gục đầu vào vai Giêsu òa khóc, khóc thật to như đứa con nít, khóc như chưa bao giờ được khóc, khóc cho vơi đi những sầu khổ chất chứa trong lòng, khóc như sợ từ nay sẽ không còn ai lau khô giọt nước mắt cho bà nữa.  Hai tay bà vòng ra sau ôm choàng lấy Giêsu chặt cứng như ôm đứa con trai thân yêu vào lòng, như sợ Giêsu sẽ vuột mất khỏi tầm tay bà.  Chưa ai ôm bà như thế bao giờ!  Chưa ai an ủi bà bằng cách này!  Chưa có ai rung cảm với nỗi đau bà đang thấu chịu như ông Giêsu này!  Bà nức nở thì thầm:

–     Giêsu ơi, ông có biết tôi đau khổ lắm không? Ngài có cảm nhận được nỗi đau của tôi không?

Đáp trả lại lời bà là tiếng nhịp tim đập thổn thức trong lòng Giêsu mà bà cảm nhận được qua cánh tay hùng mạnh đang xiết chặt lấy bà.  Nhịp tim đó đang hòa chung nhịp với trái tim tan nát của bà, hai con tim cùng chung một nhịp đập!  Ôi, sao mà ngọt ngào quá!  Đây là gì nếu không phải là tình thương? Ông Giêsu này là ngôn sứ ZZư?  Nếu đúng thế thì ông ta quả là ngôn sứ của tình thương!  Rồi vẫn giọng nói trầm ấm đó nhẹ nhàng thì thầm bên tai bà những lời an ủi dịu ngọt:

–     Thôi, bà đừng khóc nữa! (Lc 7:13b)

Đợi vài phút cho những xúc cảm lắng xuống nơi cung lòng người mẹ đau khổ, Đức Giêsu buông bà ra, chậm rãi tiến về phía quan tài, sờ vào đó và nói:

–     Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! (Lc 7:14a)

Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.  Người mẹ kinh hãi trợn tròn đôi mắt giật lùi ra phía sau mấy bước.  Đám đông hoảng hốt ồn ào láo nháo:

–     Chuyện gì thế, chuyện gì thế? Người chết sống lại ư?  Ôi, Lạy Chúa tôi!

Và họ bắt đầu náo loạn xô đẩy chen lấn về phía trước để coi cho được khuôn mặt người chết, để chính mắt kiểm chứng phép lạ hi hữu trong đời: người chết chuẩn bị đem chôn nay được sống lại.

Đức Giêsu dìu anh thanh niên đứng dậy, gỡ anh ra khỏi những băng vải liệm quấn quanh người, cầm tay anh dắt về phía người mẹ, trao anh lại cho bà và nói:

–     Bà xem, con bà đang sống đây!

Bà ấp úng ngỡ ngàng trước một niềm vui bất ngờ ngoài sức tưởng tượng như thế, miệng bà ú a ú ớ trước món quà quá lớn lao được trao ban lần thứ hai từ tay Thượng Đế.  Tim bà như ngừng đập, lưỡi bà cứng đơ không thốt lên được một lời cám ơn.  Bà có xin đâu mà được nhận lãnh một phép lạ cả thể như thế!  Đúng hơn bà không dám xin, không dám mơ đến khi đối diện với Giêsu vì bà biết con bà chết đã được mấy ngày rồi.  Đó là điều “không thể được” khi xin cho một kẻ chết sống lại.  Trong nỗi đau, bà quên đi rằng đã có lần vị đại ngôn sứ Elia đã kêu xin cùng Thiên Chúa cho con trai một bà goá sống lại.  Đối với Thiên Chúa, không có gì là “không thể” làm được.

Thấy bà góa cứ đứng trân trân như hóa đá, Đức Giêsu dịu dàng cầm lấy tay người thanh niên đặt trong lòng bàn tay sần sùi nhăn nheo của người mẹ.  Ngài xiết chặt hai đôi bàn tay một già một trẻ trong lòng bàn tay mình âu yếm đưa lên môi hôn, mắt Ngài thương mến nhìn hai mẹ con như chúc phúc cho cảnh vui vầy đoàn tụ của gia đình bà.  Hai mẹ con bà góa ôm chầm lấy nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc trào dâng!  Bà thầm thĩ bên tai con:

–     Quả thật, ông Giêsu này đích thực là Con Thiên Chúa.

Quay về phía Giêsu và đám đông, bà đứng thẳng người mạnh mẽ tuyên xưng:

–     Vâng, bây giờ tôi biết ông chính là Giêsu, Con Thiên Chúa Hằng Sống, và lời Đức Chúa do miệng ông phán ra là đúng!

Đám đông và những người hàng xóm tốt bụng sau giây phút ban đầu kinh sợ giờ đây họ bu xung quanh hai mẹ con bà goá la hét mừng rỡ trước cảnh đoàn viên, họ nhẩy lên hò reo chúc tụng Thiên Chúa:

–     Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (Lc 7:16).

Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận thời đó.  Họ lại tiếp tục hò la lớn tiếng:

–     Chúc tụng Thiên Chúa của Tình Yêu, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, Đấng đã lau khô những giọt lệ chảy trong bóng đêm. Chúc tụng Thiên Chúa của Tình Yêu, Đấng đã luôn an ủi vỗ về những người đau khổ.  Chúc tụng Thiên Chúa Tình Yêu, Alleluia, Alleluia!

Những lời này về Đức Giêsu sau được loan truyền khắp tứ phương thiên hạ cho loài người được nhận biết chúng ta có một người Cha yêu thương ở trên trời, đó là Thiên Chúa Tình Yêu! Alleluia, Alleluia!

Lang Thang Chiều Tím
June 2007

 

CUỘC HẸN BẤT NGỜ

 (Lc 7:36-50)

Ngôi nhà khang trang nằm cuối con đường lớn duới hai dàn thiên lý với bóng mát giăng đầy lối đi hôm nay bỗng tưng bừng náo nhiệt khác thường.  Gia nhân kẻ ra người vô tất bật chuẩn bị cho bữa tiệc thịnh soạn tiếp đón những bậc vị vọng trong vùng tối nay.  Chủ nhân Simon là một vị Biệt phái (Pharisee) nổi tiếng đạo đức khắt khe, giữ mình nghiêm nhặt những luật lệ tỉ mỉ.  Với kiến thức uyên thâm về Kinh Thánh cộng thêm sự hiểu biết về giáo huấn Moses, ông đã từng được mời giảng dạy nhiều lần ở đền thờ Giêrusalem trong những ngày lễ lớn.  Ngoài địa vị một người lãnh đạo tinh thần được mọi người kính nể, chủ nhân cũng là một người khá giả với tiền dư bạc để, với hàng chục tôi tớ phục dịch trong nhà.

Mặt trời chiếu chênh chếnh về hướng Tây, các người Biệt phái và kinh sư với những tua áo dài lụng thụng, mặt mày nghiêm trang đạo mạo bắt đầu lục đục kéo đến.  Theo phong tục Do Thái thời ấy, chủ nhân thường để vài chum nước trước cửa để đầy tớ hoặc chủ nhà rửa chân cho khách tùy theo lòng hiếu khách của gia chủ.  Trong một bữa tiệc trang trọng như đêm nay, được mời đến dự tiệc là một vinh dự lớn lao cho khách được mời nên Simon thiết nghĩ – chủ nhân không cần phải hạ mình làm công việc hèn kém đó.  Dân đen dễ mấy ai có được sự hân hạnh như thế?  Biết rõ điều này nên khách được mời chẳng ai dám trách móc hay kêu ca về thái độ đón tiếp của chủ nhân, trái lại họ còn ngẩng cao đầu hãnh diện trước những ánh mắt kính nể thèm muốn của đám gia nhân khi bước chân vào nhà.

Duy có một vị khách cao lớn vạm vỡ, dáng phong sương trong bộ quần áo cũ kỹ bám đầy bụi đường, khuôn mặt trầm ngâm lặng lẽ lách qua những khuôn mặt hớn hở đang đứng hàn huyên chờ rửa chân.  Một vài gia nhân tròn mắt ngạc nhiên khi nhận ra vị khách này.  Đó không ai khác hơn là vị ngôn sứ Giêsu mà họ thường thấy đám đông bu quanh mỗi khi Ngài xuất hiện.  Một con người đã làm ngả nghiêng đất trời Do Thái trong những tháng ngày gần đây bằng những giáo huấn đặc biệt và những phép lạ chưa từng thấy.  Một tôn sư (rabbi) đã từng gây náo động trong giới Biệt phái Kinh sư vì các hành vi thân thiện công khai với những kẻ tội lỗi, đàng điếm.  Vài gia nhân lăng xăng chạy đi lấy gàu múc nước và thau để rửa chân cho vị khách đặc biệt này.  Lạ thay, khách lắc đầu xua tay ra dấu không cần thiết rồi âm thầm bước vào bên trong.

Ngôi nhà giờ đã tràn đầy tiếng cười nói, tiếng người chào hỏi nhau, tiếng trò chuyện râm ran đó đây làm không khí thêm phần sôi nổi, hứa hẹn một buổi tiệc đầy hấp dẫn.  Sau khi khách đã an vị với tư thế nằm dài, đầu tựa vào gối bên những chiếc bàn, chủ nhân vẫn với khuôn mặt kênh kiệu cố hữu đi xung quanh nhà điều khiển gia nhân mang thức ăn lên cho khách.  Những chiếc bình rượu bắt đầu được rót ra mời khách, những chiếc ly được nâng lên hoà với lời chúc tụng chủ nhân vang lên rôm rả.

Bỗng có những tiếng chân chạy huỳnh huỵch, tiếng xô đẩy nhau từ phía cửa ngoài vang lên như tiếng người đang vật lộn chen lẫn những tiếng la hoảng hốt cắt ngang không khí vui vẻ buổi tiệc: “Ê… ê… đi đâu vậy?” … “bắt lấy nó,”… “tóm cổ nó”…

Cả phòng tiệc ngơ ngác hướng về phía cánh cửa không hiểu chuyện gì xảy ra.  Một vị khách đến trễ ư?  Sao mà đến một cách lộn xộn ồn ào đến thế!  Nhưng, cả chủ lẫn khách đều ồ lên một tiếng kinh ngạc khi thấy bóng dáng một phụ nữ xinh đẹp xuất hiện ngay ngưỡng cửa.  Nàng đứng đó, trong bộ quần áo đơn sơ mộc mạc của người thiếu nữ Xion, tay cầm bình bạch ngọc qúy, tay đưa lên vuốt lại mái tóc dài óng ả vừa mới bị xổ tung ra đang quyện bay trong gió chiều.  Hơi thở nàng dồn dập sợ hãi, cặp mắt to đen láy ẩn trên khuôn mặt kiều diễm xanh mét vẫn chưa hết vẻ hồi hộp, một vài vệt xước dài trên cánh tay trắng ngần do vết tích của cuộc xô xát vừa qua.  Một nam gia nhân tay cầm chiếc khăn voan choàng đầu vừa mới giật được từ dải tóc mây mượt mà đang lăm le tiến lên tính tóm cổ vị khách không mời mà tới này.  Chủ nhân bình tĩnh đưa tay ra dấu cho anh ta đứng lại.  Khách tuy không được mời nhưng đã lọt vào nhà trong thì để đích thân ông giải quyết.

Một vài tiếng kêu sửng sốt, mọi người bắt đầu ngồi lên khi nhận ra người phụ nữ này: một kỹ nữ nổi tiếng của thành phố.  Một con người tội lỗi trụy lạc bất cần đời: cô là kẻ thù của các bà có chồng, người tình công khai của những thanh niên sống buông thả, bạn tình trong bóng đêm của những tay đạo đức giả hình.  Không ai hiểu con người như vậy đến đây để làm gì giữa buổi tiệc chỉ toàn đàn ông đứng đắn đang bàn luận về những chuyện đạo đức.  Chủ nhân chậm rãi tiến đến trước mặt nàng, đứng khoanh tay giang chân áng lối vô, hất hàm gằn giọng từng tiếng một:

–     Cô tìm ai ở đây?

Vài khuôn mặt nghiêm trang đạo mạo bỗng giật mình đổi sắc khi nghe câu hỏi.  Cô gái không trả lời, ngướng cổ nhìn vào bên trong, đôi mắt dáo dác lo âu liếc một vòng quanh bàn tiệc như kiếm người thân quen, như đã hẹn hò với ai ở đây từ trước.  Khổ nỗi, người ấy không biết đến cuộc hẹn đêm nay!  Nàng sợ hãi không biết mình sẽ phải làm gì nếu không tìm được người mình hằng mong đợi mà nàng nghe nói sẽ đến đây, trong bữa tiệc cao sang trọng đại này.  Nàng nhủ thầm “Không biết những con cọp đói đạo đức kia sẽ làm gì mình nhỉ?  Chắc mình sẽ bị nhục mạ vì làm ô danh chốn thanh cao thánh thiện, có thể thêm một trận đòn nhừ tử cũng nên và bị tống cổ ra ngoài như một con chó con đi lộn chuồng.”  Nàng nuốt nưóc miếng một cách khó khăn.  Tình yêu đã ban cho nàng thêm sức mạnh phi thường, giúp nàng có thêm can đảm để tiếp tục tìm kiếm.

Ánh mắt nàng bỗng loé lên tia mừng vui khi bắt gặp vị khách đặc biệt đang nằm âm thầm cuối phòng.  Đây rồi, đây đúng là người mà nàng muốn tìm!  Nàng không trả lời chủ nhà, nhẹ nhàng lách mình lỏn qua khe hở chiếc áo đen lùng thùng của vị chủ nhân đáng kính, rồi luồn mình lách qua những chiếc ghế cái bàn, bước chân thoăn thoắt tiến về phía vị ngôn sứ.

Ngôn sứ Giêsu ngạc nhiên chống tay ngồi lên nhìn nàng, Ngài cũng không hiểu người phụ nữ xinh đẹp này muốn gì nơi mình.  Ngài ngơ ngác trước cuộc hẹn bất ngờ đêm nay.  Ánh mắt tuy có thoáng vẻ ngỡ ngàng nhưng ân cần săn đón không chút khinh khi miệt thị, Giêsu âu yếm nhìn nàng như ngầm hỏi: “Ta có thể giúp gì cho chị?”  Không lời trách móc hạch hỏi, cũng chẳng lời thăm hỏi khách sáo, bốn mắt lặng lẽ nhìn nhau như đã quen biết từ muôn kiếp trước.  Cả phòng tiệc im như tờ, mọi người nín thở chờ đợi, bao cặp mắt tò mò đổ dồn về phía cuối phòng.

Rồi như không chịu được trước cái nhìn rộng lượng bao dung của người đối diện, nàng bật lên tiếng nấc nghẹn ngào, gục xuống nức nở trên đôi chân lấm đầy bụi đường.  Đôi bờ vai mảnh mai rung lên từng hồi, hai dòng lệ nóng tuôn trào như suối đổ lên đôi bàn chân xa lạ.  Qua dòng lệ nhạt nhòa, quãng đời nhơ nhuốc như cuốn phim từ từ hiện lên trong tâm trí nàng.  Nàng thổn thức ăn năn.  Lần đầu tiên trong đời nàng qùy xuống khóc dưới chân một người đàn ông.  Lần đầu tiên trong đời nàng ý thức trọn vẹn cuộc đời tội lỗi sa đọa của mình.  Nàng không đủ can đảm để nhìn lên, cũng chẳng dám mở miệng xin tha thứ!  Hối hận trào dâng khi nàng, một kỹ nữ tiếng tăm, được chạm đến con người thánh thiện nhân từ này.  Giờ đây, nàng thật sự hối hận vì cuộc đời đã qua, nàng biết mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa khi sử dụng sắc đẹp trời ban để chống lại Ngài, làm ô uế phẩm giá chính mình và danh dự gia đình.  Nàng tự hỏi, có muộn màng không khi nàng muốn làm lại cuộc đời mới như lời rao giảng Tin Mừng của ngôn sứ Giêsu?  Có còn cánh cửa nào mở ra cho con người tội lỗi nhuốc nhơ như nàng nữa không?

Vị ngôn sứ ngồi lặng yên mặc cho những giọt lệ ăn năn đang chảy trên bàn chân mình mang theo những hạt bụi đường xa.  Ngài không rút chân về để bảo vệ phong tục của cha ông, không rút chân về để bảo vệ thân mình khỏi bị ô uế.  Ngài ngồi lặng thinh chịu đựng những cái nhìn toé lửa căm ghét của các vị kinh sư đạo đức.

ZZKhi dòng lệ ăn năn vơi dần, nàng kéo dải tóc mây như làn suối óng ánh, mái tóc ngày nào chỉ dùng để làm duyên, để bới tóc kiểu này mốt nọ giúp nàng thêm phần quyến rũ, khêu gợi thì nay lại được dùng như mảnh vải tơ xổ ra lau khô đôi chân trần, giúp nàng nói lên tấm lòng thương mến của mình với vị ngôn sứ mà nàng hằng kính yêu.  Nàng nâng niu lau nhẹ những giọt nước mắt còn đọng lại trên những vết trầy xước của đôi bàn chân chai sạm, rồi hai tay cung kính nhẹ đưa lên môi hôn.  Nước mắt lại tiếp tục lăn xuống trên khuôn mặt sám hối khi cặp môi tội lỗi được chạm vào thánh tích.  Nàng xúc động chiêm ngắm bàn chân vị ngôn sứ, đôi bàn chân khô cằn đầy những đường nứt ngắn dài toác miệng, những vết gai xước còn chưa khô màu máu như một minh họa cho đôi bàn chân lang thang quá nhiều.

Đặt bàn chân xuống, nàng lặng lẽ cầm lấy bình bạch ngọc qúy kính cẩn đổ lên chân Đức Giêsu, từng giọt dầu thơm hòa với dòng lệ nóng từ từ chảy xuống.  Nàng lấy tay nhè nhẹ xoa đều lên đôi chân Giêsu như một lời thì thầm xin tha thứ.  Rồi “xoảng….” một tiếng chát chúa vang lên, chiếc bình bạch ngọc quý giá vỡ tan nát.  Những gì đẹp đẽ, những gì quý giá giả tạo, những gì nàng đã một thời theo đuổi…. giờ không còn nữa, nàng như không muốn giữ lại vết tích của quãng đời đã qua.  Khi chiếc bình bị đập vỡ thì mùi dầu thơm trước đây chỉ thoang thoảng, giờ hương thơm nồng nực bay tỏa khắp phòng.

Những khuôn mặt hồi hộp căng thẳng trong phòng tiệc đang chờ đợi một màn kịch hấp dẫn xảy ra, giờ đây từ từ đổi qua thất vọng và khó chịu.  Sao một người tự xưng mình là Con Thiên Chúa lại để thân mình ra ô uế khi để một kỹ nữ chạm vào mình như thế kia nhỉ?  Bất mãn nhất có lẽ là chủ nhà.  Giá trị đạo đức của cha ông từ bao đời đã bị xúc phạm ngay trong ngôi nhà thánh thiện này.  Ông hậm hực nhủ thầm:

–     Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” (Lc 7:39)

Đức Giêsu như đọc thấu tư tưởng các ông, Ngài còn lạ gì hạng người giả hình này.  Nhẹ nhàng đưa mắt nhìn thẳng vào khuôn mặt cau có đầy vẻ bực tức, Ngài nói:

–     Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông.

Ông thưa:

–     Dạ xin thầy cứ nói:

Đức Giêsu khoan thai hỏi:

–     Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai.  Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?” (Lc 7:41-42)

Đưa ánh mắt ngờ vực nhìn vị khách đặc biệt trong bữa tiệc tối nay, Simon nhíu mày suy nghĩ: không biết có cái bẫy nào giăng sẵn đằng sau câu hỏi đơn sơ này không?  Dù muốn hay không, dù chưa nghĩ ra câu trả lời thích hợp, ông vẫn phải trả lời.  Mọi người đang hồi hộp theo dõi cuộc đối thoại thú vị, ông đành ấp úng nói sự thật:

–     Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.

Ngôn sứ Giêsu cười nhẹ, khẳng định:

–     Ông xét đúng lắm!

Cúi nhìn xuống người phụ nữ tội lỗi nãy giờ vẫn ngồi nép dưới chân mình như đứa con nhỏ sợ hãi nép vào người mẹ tìm chỗ tựa nương, Ngài đưa mắt nhìn nàng đầy yêu thương quý trọng.  Đẹp quá hình ảnh một con chiên lạc tìm về với đàn, một kẻ tội lỗi sa đọa đi tìm sự tha thứ, hình ảnh mà Ngài tha thiết chờ mong kiếm tìm!  Ngẩng lên, bắt gặp khuôn mặt hống hách, cái nhìn hằn học chứa đầy sự ghen ghét của vị gia chủ đạo đức, Đức Giêsu khoan thai từng chữ:

–     Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau.  Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi.  Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi.  Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.  Còn ai được tha ít thì yêu mến ít (Lc 7:44-47).

Người kỹ nữ tròn xoe mắt ngước nhìn lên, tâm thần bị rúng động mạnh.  Sao vị ngôn sứ này hiểu rõ tâm can nàng?  Sao Ngài lại dám thẳng thắn phơi bày những điều thầm kín sâu sa tận đáy lòng nàng ở đây?  Lòng yêu mến của một con điếm thì có giá trị gì mà Ngài đề cao?  Lấm lét nhìn qua những khuôn mặt đạo đức xung quanh, nàng hồi hộp chờ đợi một sự bùng nổ chống đối.

Còn Simon tái mặt, người chao đảo đứng không vững.  Trước mặt bao người tiếng tăm đạo đức, cái ông Giêsu này lại dám so sánh ông, một thầy Biệt phái đạo hạnh mẫu mực, với một con điếm nổi tiếng trác táng ai cũng biết đến.  Chưa hết, trong cuộc so sánh bất cân xứng đó, ông bị hạ 3-0 một cách phũ phàng không chút xót thương, không một điểm vớt vát danh dự.  Đúng là không biết điều!  Ông lắp bắp tính nói vài lời nhưng… chỉ ú ớ được vài tiếng.  Biết nói gì bây giờ?

Đức Giêsu chẳng buồn nhìn đến con cọp đang bị thương gầm gừ đứng đó như một kẻ bại trận, Ngài cúi xuống đặt tay trên vai người phụ nữ đang run rẩy trong cuộc tranh luận mà bất ngờ nàng là kẻ chiến thắng.  Như không màng đến quá khứ tội lỗi của nàng, Ngài dịu dàng bảo:

–     Tội của chị đã được tha rồi (Lc 7:48).

Cả bàn tiệc láo nháo, bấy giờ không chỉ một con cọp bị tấn công mà câu nói đó đã làm hàng chục con cọp cao ngạo khác cùng bị thương tổn.  Tất cả gầm gừ ngồi bật dậy như muốn ăn tươi nuốt sống hai người, ánh mắt căm giận vì sự lộng ngôn của người mà họ chẳng rõ là ai.  Không hẹn mà gặp, tất cả cùng chung một hạch hỏi:

–     Ông này là ai mà lại tha được tội? (Lc 7:49)

Đức Giêsu phủi áo đứng dậy chẳng buồn giải thích hoặc dạy dỗ như Người vẫn thường làm với đám đông.  Ngài đưa tay nâng người phụ nữ tội lỗi đứng thẳng lên như trả lại cho nàng vị trí nhân cách của một con người mà nàng đã tự đánh mất lâu nay, như muốn khẳng định cho tất cả biết rằng phẩm giá của nàng không thua kém gì mấy vị đạo đức ở đây.  Nhẹ nhàng lau những giọt lệ còn đọng lại trên khuôn mặt xanh mét sợ hãi như người cha âu yếm chùi nước mắt con thơ, vị ngôn sứ đầy lòng xót thương cảm thấy mình có trách nhiệm phải bảo vệ con chiên lạc vừa tìm về đàn thoát khỏi hang cọp này.  Ngài dắt nàng đi qua những chiếc bàn ngổn ngang, bước qua những khuôn mặt đỏ tía đang gầm gừ tức tối.  Họ bình thản đi ra bên ngoài bỏ lại phiên chợ ồn ào sau lưng, bỏ lại dĩ vãng một thời đã qua!

Gió về đêm thổi thốc lên mát rượi làm tung dải tóc mây bay phất phơ trong gió.  Khí trời thanh khiết, những vì sao lung linh trên trời cao như đang nhảy múa chào đón bước chân trở về của đứa con lạc loài.  Đã đến giờ chia tay, vị ngôn sứ đã đưa nàng đi qua đoạn đường hiểm nguy nhất, giờ đến phiên nàng phải tự bước đi trên con đường nàng đã can đảm chọn để theo Ngài.  Con đường tuy hẹp đầy những chông gai thử thách, nhưng mang lại cho nàng niềm hạnh phúc ngọt ngào, cho nàng cảm nếm hương vị tình yêu thánh thiêng, giúp nàng sống một cuộc sống tốt đẹp hơn, xứng đáng với lòng vị tha, và tình yêu của ngôn sứ Giêsu dành riêng cho nàng.

Dưới ánh trăng, nàng thấy hình ảnh mình lấp lánh phản chiếu trong ánh mắt yêu thương dịu hiền của vị ngôn sứ khả kính.  Nàng mỉm cười, nụ cười đầu tiên từ khi bước chân vào bàn tiệc, lòng tràn đầy tự tin yêu đời vì biết rằng từ đây nàng sẽ không còn cô đơn và lữ hành một mình nữa.  Nàng đã liều lĩnh không hẹn mà đến, Giêsu nhân hậu vẫn mở rộng vòng tay đón tiếp nàng cách nồng nhiệt, đã rộng lượng tha thứ cuộc đời đa truân lầm lỡ của nàng.  Giờ thì tạm chia tay đó nhưng nàng xin hẹn Ngài cuộc gặp mặt lần sau.  Ngày đó, Giêsu sẽ ra tận cổng nhà cha Ngài để đón nàng, sẽ trao tặng nàng món quà sự sống vĩnh cửu như lời Ngài đã hứa ban.

Giêsu cầm đôi bàn tay nhỏ bé trong lòng bàn tay mình như chúc lành cho nàng trong cuộc đời mới, như muốn truyền thêm cho nàng sức mạnh và lòng can đảm trên bước đường sắp đến.  Giọng Ngài trầm ấm dưới ánh trăng:

–     Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an! (Lc 7:50)

Nàng luyến tiếc bước đi, đầu ngoái lại tay đưa lên vẫy chào lần cuối người nàng kính yêu.  Giêsu mỉm cười nhân hậu đưa tay lên vẫy vẫy.  Những giọt nước mắt hạnh phúc lăn dài trên má, nàng xin ghi khắc mãi hình ảnh này trong tim, sẽ mang theo suốt đời lời chia tay cuối cùng “Chị hãy đi bình an!”  Gió thổi nhè nhẹ như lập lại bên tai lời chúc bình an của Đấng giàu lòng xót thương.

Lang Thang Chiều Tím
June 2007

 

 

MƯA RỪNG THÁNG BA!

Lạy Trời mưa xuống!
Lấy nước tôi uống!
Lấy ruộng tôi cầy! ….

Tiết trời tháng ba, Cali không cần chắp tay “lạy trời mưa xuống” mà trời vẫn rộng rãi ban cho, những trận mưa xối xả dầm dề kéo dài ngày này qua ngày khác.  Những hạt mưa lớn nhỏ dồn dập, lúc nặng lúc nhẹ, lúc ít lúc nhiều, nương theo những cơn gió trải đều từ núi cao tới đồng bằng, từ những đồi thông tít tắp trên cao xuống những đồng cỏ xanh rì của miền Thung Lũng Hoa Vàng.  Những hạt mưa dai dẳng, chẳng hỏi ý người vào buổi sáng sớm đi làm, hay những chiều tan sở, đã làm cho kẻ buồn người vui theo những giọt mưa vô tình đó.

Dù buồn hay vui, chấp nhận hay chối bỏ thì mưa vẫn rơi, như ân sủng từ trời cao rộng lượng ào ào tuôn đổ xuống chan hòa mặt đất, mà không hề hỏi nhân gian có vui lòng đón nhận hay không.  Đồng bằng ơi, mi buồn hay vui với những cơn mưa dầm tháng ba này?  Thung Lũng Hoa Vàng ơi, mi có sẵn lòng đón nhận những giZZọt nước thánh thiêng từ trời cao đổ xuống không?

Riêng núi rừng thì vui lắm với những cơn mưa bất tận của đất trời.  Mưa là dịp để lá xanh gột rửa những bụi bặm thế trần tích lũy từ bao tháng ngày qua.  Mưa là dịp để cây rừng đón nhận ân huệ, thanh tẩy khí trời.  Mưa là dịp để đất giữ lại cho mình nguồn nước dưỡng nuôi cây cỏ trong tháng ngày sắp tới.  Chẳng ai phí công đem nước từ đồng bằng tưới cho núi rừng bao giờ!  Rừng biết phận mình lắm chứ!  Nếu không cất giữ những giọt nước thấm sâu vào lòng đất, mà tưởng như thừa thãi lúc này, thì rừng sẽ sống bằng gì trong những ngày nắng mưa hạn?  Phận người có khác chi đâu!  Nếu không nâng niu gìn giữ ân sủng Thiên Chúa ban cho trong những lúc sốt sắng đầy lòng yêu mến, thì linh hồn sẽ được nuôi sống bằng gì trong những lúc khô khan thử thách?

Có những cơn mưa rừng nhẹ như hơi thở người thiếu nữ, theo gió lả lơi vuốt nhẹ những nhành lá trên cao, rồi từ từ đáp xuống những bụi hoa dại bên đường.  Mưa phùn trong tiết trời đầu xuân không đủ thấm đất, chỉ vừa làm những chiếc lá phơn phớt ướt, nhưng núi rừng vẫn vui vì sự hạ giáng của trời cao.  Gió nhẹ thổi nghiêng những giọt nước mảnh mai đu đưa bám lơ lửng trên cành cây.  Những nhánh thông mỏng trên đầu ngọn cây thông cao phất phới theo chiều gió, như những cánh tay vỗ vào nhau để tạ ơn Trời với những cơn mưa đầu xuân, để cùng hoà nhịp vào bản trường ca êm dịu của đất trời trong một âm thanh nhẹ nhàng du dương.

Có những cơn mưa rừng mịt mờ che phủ chân trời, chắn ngang lối đi. Những chùm hoa dại màu vàng run rẩy đón nhận những giọt nước lách tách từ những tàng cây lớn rớt xuống.

Có những hôm núi rừng quay cuồng với những cơn mưa vần vũ.  Con đường xa lộ 17 ngoằn nghèo uốn khúc theo triền núi, chìm ngập trong làn mưa ân sủng như thác từ trời cao ào ào đổ xuống, bất chấp núi rừng có kịp dang tay đón nhận hay không.  Những cành cây lớn nhỏ trong rừng thông hòa chung với vũ điệu của gió rừng, nắm tay nhau cùng vũ khúc hoan ca trong làn sương mịt mờ tạo nên một âm thanh vi vút huyền bí, mà chỉ có ai sống gần thiên nhiên mới hiểu được ngôn ngữ đó.  Những chiếc xe hơi bò chầm chậm dọ dẫm từng bước trong dòng nước mịt mờ, như phận người mò mẫm từng bước tiến về quê Trời.

Giang tay đón nhận mà thôi, chưa đủ!  Đất rừng còn hào phóng đáp lại ân tình đó, với những làn sương mỏng từ dưới đất thấp bốc lên, phủ mờ lối đi như đường vào Động Thiên Thai.  Vươn cao hơn nữa, rừng âm u đáp trả lại bằng lớp sương mù dày đặc, quấn quít quyện lấy những cành thông xanh.  Xa xa, những áng mây bay là đà, ôm lấy dãy núi chập chùng như phụ với núi rừng đáp trả lại ân tình của trời xanh.

Con đường núi nhỏ hẹp thơ mộng từ thành phố dắt ra bãi biển, xuyên qua hai ngọn núi có hình dáng như người thiếu nữ mơn mởn tuổi xuân, đang ưỡn người xoải hai cánh tay dài đón nhận những hạt mưa ân sủng từ trời cao vào lòng.  Không thể phân biệt được đâu là ranh giới giữa đất và trời: sương mù, làn mưa, hơi nước, Đấng Sáng Tạo và loài thụ tạo…. tất cả quyện lấy nhau nên một trong nguồn ân sủng vô biên.  Trời cao khiêm cung hạ mình xuống dang tay ôm thụ tạo vào lòng, như người cha cúi xuống ôm đứa con thơ.  Đất nín thở nghe nhịp tim rung lên với giai điệu hạnh phúc bất ngờ vì sự chiếu cố của Chúa Tể muôn loài, như đứa bé thơ sung sướng ngọ nguậy trong lòng mẹ.  Đẹp thay ân tình của đất trời!  Đẹp thay sự nhận lãnh và trao ban của núi rừng!

Mỗi giọt mưa rơi xuống từ trời mang theo mình một sứ mạng khác nhau.  Mỗi hạt mưa đọng lại trên cành lá đều mang một hình dạng sắc thái khác nhau.  Không giọt nào giống giọt nào, không cơn mưa nào giống cơn mưa nào: mưa sa, mưa đá, mưa phùn, mưa dầm, mưa rào, mưa xuân…. Mỗi cơn mưa dù lớn dù nhỏ, mỗi hạt mưa dù bé nhỏ mong manh hay to như hạt đá… tất cả đều gói ghém tâm sự của trời cao đổ xuống lòng nhân thế.  Nhiều cơn mưa nhưng chỉ có một tâm tình!

Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời,
không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nảy lộc,
cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn (Is 55:10).

Sau cơn mưa, rừng như vừa được lãnh nhận ơn thanh tẩy tái tạo từ Trời cao, bẽn lẽn mang vào mình chiếc áo mới.  Màu áo trong sạch tinh khiết của thời tạo thiên lập địa, khi bụi bặm thế gian chưa khoác lên áo rừng.  Làn sương mỏng như tơ, nhè nhẹ bay là đà ngang đầu ngọn cây, làm cho cảnh vật trở nên thánh thoát như Vườn Địa Đàng, lúc Thượng Đế và con người thường nắm tay nhau đi dạo mỗi buổi chiều tà.  Những chiếc lá non gặp làn nước ân sủng đua nhau đâm chồi nẩy lộc.  Màu vàng của sắc hoa dại trở nên rực rỡ như màu áo hoàng bào của vua chúa thời xưa, xen lẫn giữa những màu lá xanh đậm lợt nhiều tầng, tô điểm cho núi rừng thêm phong phú nhiều màu sắc.  Bầu trời quang đãng trong veo nằm vắt vẻo ngang đầu ngọn núi nhìn thật gần, tưởng như với tay có thể đụng trời, giơ tay có thể bắt mây.  Những chú chim ẩn nấp đâu đó trong cơn mưa, giờ đua nhau bay ra chuyền từ cành này qua cành khác líu lo chào đón rừng mặc chiếc áo mới.  Gió thổi nhẹ cuốn những chiếc lá vàng bay xào xạc như đang thầm thì với bước chân người lữ khách: “Đâu phải chỉ có con người mới cần đến Bí Tích Hòa Giải!”

Lang Thang Chiều Tím
Thương nhớ về mùa mưa 2006

TRỞ NGẠI LỚN NHẤT CỦA TÌNH YÊU

Trở ngại lớn nhất để yêu mến Chúa là tính kiêu căng.  Vì kiêu căng là thèm muốn cho mình được trổi vượt một cách quá đáng; trong khi đó Đức Ái lại khiến ta xem Chúa là đối tượng tối thượng cho mọi cố gắng của ta.  Đang khi kiêu căng khiến ta co cụm lại với chính mình, thì Đức Ái lại gắn bó trí tuệ ta, trái tim ta, và ý chí ta với Chúa.  Vì trực tiếp chống lại điều răn thứ nhất, nên tính kiêu căng là tội lớn nhất trong tất cả mọi thứ tội.

Kiêu căng là nguyên nhân căn bản của khuynh hướng biến cái tôi của mình, chứ không phải là Chúa Ki tô, thành trung tâm đời sống mình.  Vì thế, Chúa đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình như là dặc điểm đầu tiên của những kẻ theo Ngài.  Theo một nghĩa nào đó, sự hãm mình duy nhất mà chúng ta cần thực hiện là từ bỏ chính mình, vì cái tôi cá nhân đi ngược lại lề luật và tình yêu dành cho Chúa.  Không gì phá hoại đời sống Chúa Kitô ở trong ta bằng tính kiêu căng.

ZZTính kiêu căng – một thứ tà giáo

Tính kiêu căng đúng là một thứ tà giáo, vì nó lấy chính bản thân mình làm thần tượng thay vào chỗ chỉ dành cho Chúa.  Đó là sự tôn thờ quá đáng cái tôi của mình, vì nó coi cái tôi của mình như nguyên nhân đầu tiên và cũng như mục đích cuối cùng.  Nó thúc đẩy ta tìm cách khoe những điều tốt của mình ra, đồng thời giấu kín những khiếm khuyết hay thất bại của mình.  Nó cũng có thể xúi giục ta tìm cách hạ kẻ khác xuống vì sợ rằng họ sẽ làm giảm sự trổi vượt mà ta tưởng rằng mình đang có.

Nó làm ta đóng tai lại trước những lời phê bình, và đề nghị khách quan của người khác, nhưng lại thích lắng tai nghe những lời tán tụng mà nó hằng tìm kiếm.  Nó khiến ta nhắm mắt lại không thấy được những nhân đức hay tài năng của người khác đang khi tất cả mọi người đều trông thấy rành rành và thán phục, nhưng nó lại khiến ta chú ý những khuyết điểm hay thất bại dù nhỏ nhất của họ.  Bi đát hơn là nó khiến ta sống vì mình, chứ không phải vì Chúa.  Đấy đúng là một sự tôn thờ bản thân một cách sai lầm!

Tính kiêu căng biến ta thành người vong ân

Tính kiêu căng cũng biến chúng ta thành những kẻ vong ân.  Tại sao thế?  Vì cứ sợ rằng người khác sẽ không công nhận những thành công hay do tài năng và đức độ của mình.  Nên chúng ta cảm thấy rất miễn cưỡng khi phải công nhận sự thành công đó là nhờ Chúa.  Thật ra, tất cả mọi sự tốt đẹp chúng ta có được đều xuất phát từ Thiên Chúa, chỉ có một điều duy nhất trong đời sống chúng ta mà Chúa không nhúng tay vào, đó là tội lỗi của chúng ta.  Ngoài tội lỗi ra, thì có thứ gì khác chúng ta có được mà không nhận từ bàn tay Thiên Chúa không?  Tính kiêu căng dường như làm ta không nhận ra chân lý cơ bản này.

Tính kiêu căng tạo ra một tế bào ung thư trong Nhiệm Thể Chúa Kitô.  Tế bào ung thư là tế bào hoạt động theo đường lối riêng của nó, nó từ chối không làm việc chung với những tế bào lành mạnh của thân thể.  Tính kiêu căng của bất kỳ ai đều giống như bệnh ung thư luôn luôn gây tai hại cho sự sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô, cản trở sự lưu thông của sự sống và tình yêu của Chúa Kitô là Đầu đến với các Chi Thể.

Tính kiêu căng ăn trộm vinh quang của thiên chúa

Cuối cùng, tính kiêu căng biến ta thành kẻ trộm, vì nó ăn trộm vinh quang vốn chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi.  Theo sự an bài của Chúa Quan Phòng, mọi sự mọi việc trong đời sống chúng ta cuối cùng đều nhắm đến làm vinh danh Thiên Chúa.  Nhưng người kiêu căng lại dùng mọi cố gắng, tài năng để xây một giáo đường tôn thờ sự trổi vượt của mình.  Do đó, họ là kẻ ăn cắp quyền lực, sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa.

Hậu quả đáng buồn nhất của tính kiêu căng là sự tự phụ khiến cho người kiêu căng tự cho mình là rất quan trọng, quan trọng đến nỗi Chúa không thể loại họ ra khỏi nhãn quan của Ngài.  Họ nghĩ rằng họ có thể cứu vớt linh hồn mình mà không cần phải thực sự từ bỏ chính mình, và có thể lên được thiên đàng mà không cần có đức trông cậy đích thực.  Họ quên rằng họ phải đặt Chúa trong trái tim họ trước khi trái tim họ được lên đến Cõi Trời.

Chúa chống lại người kiêu căng thì có gì đáng ngạc nhiên không?  Chúa không thể giúp người kiêu căng vì họ ở ngoài tầm giúp đỡ của Chúa.  Chúa sẽ giúp họ chừng nào họ nhận ra hay cảm thấy họ cần Ngài.  Họ bắt đầu trở lại với Chúa khi nào họ thành khẩn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi”.  Chúng ta cũng phải cầu nguyện như vậy!

Trích: Nên Thánh Trong Thời Đại Mới

Tác giả: Kilian Mc Gowan, C.P

Người dịch: LM JBM Trần Minh Cương

 

CÁT BỤI

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi.

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.

Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày.

Mặt trời nào soi sáng tim tôi
Để tình yêu xay mòn thành đá cuội
Xin úp mặt bùi ngùi
Từng ngày qua mỏi ngóng tin vui.

Cụm rừng nào lá xác xơ cây
Từ vực sâu nghe lời mời đã dậy
Ôi cát bụi phận này
Vết mực nào xóa bỏ không hay…

Trịnh Công Sơn

*********************************

ZZHàng năm Giáo Hội dành ra ngày thứ tư Lễ Tro để nhắc nhở con cái về thân phận con người.  Một ít tro được rắc lên đầu bôi lên trán, hai ngày giữ chay, bốn mươi ngày sống tinh thần Mùa Chay.  Lời mời gọi xám hối hãy xé lòng, đừng xé áo.  Lời nhắc nhở bố thí, cầu nguyện, cảnh giác những cơn cám dỗ trong cuộc sống….. một vài điều gọi là nhắc nhở phận người chóng nhớ mau quên.  Có là ai, có là gì… cũng phải tuân theo định luật tự nhiên!  Có bao nhiêu, có thế nào… rồi cũng xuôi tay chẳng mang được chi!

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng ưu tư khắc khoải về thân phận con người:  Là ai? Từ đâu đến?  Đi về đâu?  “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?” ông nhận ra phận người đến từ bụi đất, mang kiếp sống mong manh vắn vỏi.  Hạt bụi nhỏ bé trong vũ trụ bao la, bất lực trước định luật tự nhiên của tạo hoá, bị lôi cuốn theo con tạo xoay vần cuộc sống.  Sau “một mai vươn hình hài lớn dậy” để sống kiếp cát bụi phù du tạm bợ, dù muốn hay không, chấp nhận hay chống đối, hạt bụi lại rũ áo ra đi về với thân phận bụi đất của mình.  “Để một mai tôi về làm cát bụi,” thế là hết, là xong một kiếp người.

Vẫn biết bụi đất một mai sẽ trở về với cát bụi.  Vẫn biết nơi đến, chốn về như nhau: tất cả chỉ là phù du, vô nghĩa.  Nhưng trong lòng ông, từ vực sâu nghe lời mời đã dậy” đang mong chờ một điều gì đó thâm sâu hơn, cao qúy hơn những gì tầm thường, đang cuốn hút hạt bụi xoay vòng trong cơn lốc đảo điên.  Hình như đôi tai tâm hồn ông đã nghe được lời mời gọi thiêng liêng nào đó.  À, thì ra cát bụi mệt nhoài sau những chuỗi ngày mặt trời soi một kiếp rong chơi,” sau những tháng năm hòa mình vào những tiếng động gõ nhịp không nguôi” của cuộc đời, sau bao nhiêu năm làm kiếp con người,” bỗng chợt nhận ra thiếu vắng một cái gì đó trong cuộc sống.  Hạt bụi nhỏ bé như pha lê được mặt trời soi sáng để rồi trái tim khát khao tin yêu thổn thức “xin úp mặt bùi ngùi, từng ngày qua mỏi ngóng tin vui.”

Là tin vui gì?  Ai có thể mang cho đến cho đất trời tin vui bất diệt?  Mỗi hạt bụi trong vũ trụ bao la đang chờ đợi một tin vui khác nhau.  Có hạt mong được chiếu sáng lấp lánh dù là hư ảo chớp nhoáng.  Hạt mong được tích lũy thêm những lớp đất cát phù du, dù bụi sẽ chẳng mang được chi khimột mai về làm cát bụi.”  Hạt khác thích cả đời rong chơi dưới ánh mặt trời.  Hạt lại thích hưởng thụ cho bõ kiếp phù sinh vắn vỏi.  Có hạt mong được nâng đỡ những hạt bụi khác mảnh mai yếu kém hơn.  Hạt lại mong cho đi chính mình để làm mem, làm muối ướp mặn cho đời.  Tin vui mà nhạc sĩ họ Trịnh, bạn và tôi đang mong chờ là tin vui gì?

Con Một Thiên Chúa đã từ bỏ vương quyền trên chốn trời cao, nhập thể làm người chỉ với một khát vọng duy nhất, là mang Tin Vui đến cho con người, cho những hạt bụi bé nhỏ dấu yêu.  Trong Ngài, bụi đất trở thành vô giá.  Với Ngài, đất bụi trở thành bất tử.  Nhờ Ngài, bụi đất nếm mùi thiên thu vĩnh cửu.  Nhưng, phũ phàng thay không phải tất cả hạt bụi đều chấp nhận Ngài!

Tin Vui dù muộn nhưng không bao giờ trễ.  Chẳng phải ai cũng được phúc đón nhận Tin Vui từ thưở bình minh.  Dòng đời ngược xuôi tuy vất vả nhưng hào nhoáng, tuy tạm bợ nhưng đầy hấp dẫn, tuy nhiều đau khổ nhưng không thiếu niềm vui giả tạo.  Không dễ gì mà cát bụi chấp nhận phận mình từ thưở mới vươn hình hài lớn dậy.”  Nhạc sĩ tài ba họ Trịnh đã đi sâu vào cuộc sống, khi ông kinh nghiệm bản thân từ từ đi qua ba giai đoạn của đời người:   Với thời trai trẻ hăng say yêu đời, dù biết phận mình là cát bụi, nhưng đó là tiếng hò reo mừng vui: Ôi cát bụi tuyệt vời!”   Cuộc sống dần trôi, với bao đắng cay chất đầy lên đôi vai gầy, mà ý nghĩa cuộc đời vẫn biệt tăm, ông buông một tiếng thở dài chán chườngÔi cát bụi mệt nhoài!”   Tiếp tục cuộc hành trình vô định của con người, sắp đến đích mà không biết nơi đến là đâu, kết thúc bài nhạc là một lời chua chát xuôi tay tuyệt vọng:Ôi cát bụi phận này!”

Con người, chỉ khi “chợt một chiều tóc trắng như vôi” mới giật mình nhìn lại mình, vội vàng đi tìm ý nghĩa cuộc sống.  Khi nhìn “lá úa trên cao rụng đầy” với “cụm rừng nào lá xác xơ cây” lòng người mới chùng xuống, băn khoăn lòng hỏi lòng, chiếc lá vàng kia đi về đâu?  Phận người có gì hơn một chiếc lá vàng, một hạt bụi không?  “Trăm năm vào chết một ngày,” đời người ky cóp, một ngày xuôi tay!

Mùa Chay gợi lại hình ảnh người Cha nhân lành trong ngụ ngôn đứa con hoang đàng, lúc nào cũng thấp thỏm trước ngõ, chờ mong đứa con đi xa trở về!  Muộn nhưng không bao giờ trễ!  Đừng để đến khi “vết mực nào xóa bỏ không hay…..” thì buồn thay cho một kiếp người!  Sống vô duyên, chết phận bạc!

********************************

 Lạy Chúa, trong Mùa Chay thánh này xin cho con cất bước trở về với Chúa khi còn có thời gian chuẩn bị.  Bốn mươi ngày Mùa Chay nhắc con nhớ đến những từ ngữ xa lạ:  ăn chay, bố thí, cầu nguyện.  Xin cho con biết cho đi một phần những gì con đang có, để giúp những hạt bụi khác cảm nếm hương vị tình yêu trong cuộc sống.  Xin giúp con một lần ăn chay với cả tâm hồn yêu thương, để nhìn ra được tình yêu của Thiên Chúa với thân phận bụi đất nghèo hèn.  Xin cho con biết tỉnh thức cầu nguyện để đừng bám vào những hạt bụi bọt bèo khác mà chỉ bám vào Đấng đã tạo thành con người từ cát bụi, Đấng đã truyền hơi thở mình vào bụi đất vô tri, để trở thành con người mang hình ảnh Ngài.  Hạt bụi bám vào Ngài chắc chắn sẽ không bị “vết mực nào xóa bỏ không hay…..” vào chốn hư không đời đời. 

Lạy Đấng Vĩnh Cửu, cuộc sống lúc bấy giờ sẽ không còn là phù du vô nghĩa, không còn là những tiếng kêu tuyệt vọng từ đáy vực sâu, mà là những tiếng kêu ngạc nhiên hoan lạc, những bản tình ca bất tận ca ngợi tình yêu Thiên Chúa bao la.  Ôi cát bụi tuyệt vời!  Ôi con người tuyệt vời!

Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8:5)

Lang Thang Chiều Tím
Mùa Chay 2007

MỘT CÕI ĐI VỀ

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta, đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.
………………….ZZ
Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta, bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà.
…………………
Trong khi ta về, lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì.

(Trịnh Công Sơn)

*************************************

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi hoài đi mãi cho đời mỏi mệt, loanh quanh luẩn quẩn như kiến bò trên miệng chén, đi suốt kiếp người mà không biết mình đi đâu, về đâu?  Đi mà chẳng biết nơi nào là chốn quê nhà, đi mà không biết cái đích mình sẽ đến, cái nơi mình đã xuất phát.  Đến nơi này lại nhớ nơi kia, ta về lại nhớ ta đi, nếu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã không biết mình đi đâu, thì hậu thế hôm nay ai dám biết chắc ông đã về nơi đâu, và đang ở đâu?

Bài Phúc âm Chúa Giêsu Biến Hình hôm nay, Chúa mời gọi ba môn đệ Phêrô, Gioan, Giacôbê “đi riêng” ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, đến một ngọn núi cao, thanh vắng, không tiếng người, không bon chen ồn ào, tránh xa “đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng…,” và ở đó, Người biến hình đổi dạng trước mặt các ông.  Trong không gian tĩnh lặng, các ông nghe được tiếng nói của Thiên Chúa từ trời cao: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7).  Hạnh phúc ngất ngây ở bên Người, mắt phàm được mạc khải vẻ huy hoàng rực rỡ của Thiên Chúa đã làm các ông quên tất cả, quên đường về, quên cha mẹ vợ con, quên bổn phận của mình và của Thầy dưới núi.  Ở đây không có cảnh “ta về lại nhớ ta đi,” hay “ta trên núi lại nhớ ta dưới núi,” cho thế nhân biết các ông đã cảm nghiệm được một hạnh phúc tuyệt đối đích thực.  Chỉ một vài giây phút cảm nghiệm hạnh phúc ngắn ngủi, mà các ông sẵn sàng đánh đổi mọi sự để chiếm cho bằng được hạnh phúc đó, dù có phải qua đồi Golgotha máu chảy lệ rơi!

Nếu hôm xưa Chúa mời gọi các ông “đi riêng” với Ngài mà các ông từ chối, thì chắc chắn các ông sẽ không bao giờ có được cảm nghiệm tuyệt vời đó!

Thiên Chúa không chỉ mời gọi ba môn đệ “đi riêng” với Người cách đây hơn 2000 năm.  Thiên Chúa cũng không chỉ biến đổi hình dạng một lần duy nhất trên núi Tabor.

Thiên Chúa đang mời gọi mỗi người chúng ta “đi riêng” ra một chỗ với Người, mỗi ngày trong cuộc sống đầy bận rộn.  “Đi riêng” để Người có dịp cho ta chứng kiến vinh quang của Người, “đi riêng” đến một nơi thanh vắng để nghe được tiếng Thiên Chúa nói trong đáy lòng mỗi người.

Ngài mời gọi và chúng ta có đáp lại tiếng mời gọi để cùng “đi riêng” với Ngài hay không?

Cuộc sống bận rộn cứ mãi vần xoay và chẳng ai tìm đâu chút thời giờ để đi riêng với Người.  Phải, kiếp người như con cù, cứ xoay hoài xoay mãi, xoay theo những đòi hỏi nhu cầu của xã hội: nhà cửa, xe cộ, tiền tài, các hoá đơn chồng chất, sự nghiệp của mình, tương lai con cái… rồi mỏi mệt nhắm mắt xuôi tay mới chua chát nhận ra rằng “đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng,” và đôi tay đó đã bóp chết bao kiếp người trong những nhu cầu tầm thường.

********************************

Lạy Chúa Giêsu Chí Thánh, mặc dù cuộc sống đầy những bận rộn lo toan, nhưng xin cho con biết thu xếp thời gian để “đi riêng” ra một chỗ với Ngài, để có được những cảm nghiệm riêng tư giữa con và Ngài, để lắng nghe tiếng Ngài nói nơi tâm hồn con.  Chúa ơi, mặc dù “trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ” với Ngài, nhưng con biết vinh quang Thiên Chúa thì vô biên không bút mực nào tả xiết, con biết, nếu con đáp lại lời mời gọi “đi riêng” với Ngài, thì con sẽ được hội ngộ với Ngài ngay từ đời này.  Xin cho con tin chắc rằng con sẽ được hội ngộ với Ngài mãi mãi trong một ngày gần đây, và xin cho con sẵn sàng sống, và chết cho niềm tin đó. Amen!

Lang Thang Chiều Tím
August 2006

 

LANG THANG CHIỀU TÍM

(x. Lc 23:39-43)

ZZHắn thường lang thang ra đây mỗi khi chiều tím dần buông trên khu Đồi Sọ hoang vắng, đầy mùi tử khí này.  Thường vào giờ đó chẳng còn ai dám lai vãng gần ngọn đồi ma quái, đã được binh lính La Mã sử dụng để thi hành án tử với các tội nhân Do Thái. Mùi xác chết sình lên chưa kịp đem chôn, tiếng quạ gọi nhau đi ăn đêm rúc lên từng hồi, quyện lẫn trong những tiếng côn trùng rả rích đó đây nghe thật rợn người.  Tên tướng cướp ngồi đó, lặng im chiêm ngắm cảnh hoàng hôn trên Đồi Sọ đang trải dài trên mấy cây thập tự xa xa.  Khi nào đến phiên hắn bị treo lên như đồng bọn?  Ngày nào sẽ là buổi hoàng hôn cuối cùng trong cuộc đời tướng cướp này?  Sau đó thì hắn sẽ đi đâu, về đâu?  Hắn tự hỏi và cũng như mọi khi: chẳng bao giờ có câu trả lời!

Dù chưa có câu trả lời nhưng hắn biết rồi cũng sẽ có một ngày đến phiên mình.  Đi đêm có ngày gặp ma.  Đã liều thân lao vào nghiệp trộm cướp để kiếm ăn, thì ai dám mơ về một mái ấm gia đình, bên bếp lửa hồng có vợ ngồi khâu áo, cạnh đám con đang í a í ới đọc bài.  Tuy không dám ước mơ, nhưng lòng tên gian phi cũng nao nao khi hình dung, mình đang ngồi trong khung cảnh gia đình hạnh phúc đó.  Đã nhiều lần hắn muốn dứt bỏ nghiệp chướng này để làm ăn sinh sống đàng hoàng, nhưng lại không đủ can đảm.  Biết làm gì khi quay lại đời sống hiền lương?  Xã hội có chấp nhận không?  Bạn bè xấu có buông tha không?  Bản thân hắn có chấp nhận một cuộc sống lương thiện đủ dùng, hay lòng còn mãi vấn vương lối sống buông thả với những đồng tiền dễ kiếm?  Và liệu rồi Thiên Chúa của cha ông có tha thứ cho quá khứ kinh tởm của một tên tướng cướp không?  Càng nhiều nghi vấn, bước chân càng ngập ngừng!  Nhớ đến những khuôn mặt đạo đức khó chịu của các thầy tư tế, các vị kinh sư, Pharisêu trong đền thờ Giêrusalem, với những tua áo dài lụng thụng, tay cầm bản văn nhịp nhịp đưa lên cao, như lúc nào cũng chực chờ hạ xuống kết án những người tội lỗi, hắn chợt rùng mình.  Nghiệp chướng này đường vào thì có, ngõ ra thì không.  Phóng lao đành phải theo lao thôi.  Hắn thở dài ngao ngán vì biết chẳng còn con đường nào khác cho một tên cướp muốn hoàn lương.

Rồi cái gì phải đến đã đến!  Tên gian phi và đồng bọn bị lính La Mã tóm cổ trong một vụ cướp của giết người.  Vài tên chạy thoát, hắn và một tên đàn em bị sa lưới, và bị kết án thập giá tử hình.  Răng đền răng, mắt đền mắt, mạng đền mạng!  Chẳng có gì là oan uổng, chẳng có gì để than thân trách phận cả!  Hắn chấp nhận bản án đó một cách bình thản chua chát.  Chỉ có chút ngạc nhiên hụt hẫng, vì tấm màn bi kịch cuộc đời hắn hạ hồi sớm quá, sớm hơn dự định.  Nhưng có hề chi, đã biết trước màn cuối của vở bi kịch sẽ phải là như thế, thì kết thúc sớm hay muộn có gì khác nhau đâu!

Lại một buổi hoàng hôn buồn bã buông xuống trên đồi Canvê như ngày nào.  Khác chăng là giờ đây tên cướp không còn lang thang trong chiều tím thơ mộng, để chiêm ngắm cảnh hoàng hôn dần buông nữa, mà đang đau đớn thoi thóp trên cây thập giá, đang đếm từng giây, từng phút cuối cùng cuộc đời mình.  Cảnh vật còn đó nhưng phận người đã đổi thay!  Câu hỏi: “Ngày nào sẽ là buổi hoàng hôn cuối cùng trong cuộc đời tôi?” giờ đã có câu trả lời.  Một câu trả lời chát chúa và phũ phàng!  Còn sau cái chết oan nghiệt này hắn sẽ đi về đâu?  Hắn vẫn không biết!

Mang thân phận tướng cướp, lúc no phủ phê, lúc đói quắt queo, không yêu ai và cũng chẳng ai dám yêu, không mái ấm gia đình, lúc nào cũng bị lương tâm dày vò bởi lối sống sa đọa tội lỗi, cuộc sống đầy ắp những hồi hộp lo âu không biết lúc nào sẽ bị bắt, bị giết thì cuộc sống đó nào có sướng gì?  Khi cất tiếng khóc chào đời, chẳng ai muốn mang thân phận một tên cướp, một con điếm, hay một thằng giết người?  Hắn không chọn cửa để sinh ra, chẳng qua là số phận hẩm hiu đẩy đưa, và hắn lại không đủ can đảm để dứt ra một khi đã bước chân vào.  Hắn đã khổ một đời rồi, hắn không muốn đời sau, nếu có, lại bị khổ ải trầm luân mãi thế.  Nghiệp chướng này mang một đời chưa đủ hay sao?

Thời gian tích tắc chậm chạp trôi! Rướn người hít lấy những hơi thở ngắn, rồi nặng nhọc thở dốc ra trên cây thập giá, mắt tên cướp lóe lên tia hy vọng héo hắt khi thấy ánh bình minh lấp ló nơi chân trời xa xa.  Hắn rùng mình thở phào nhẹ nhõm khi thoát khỏi bóng đêm tử thần.  Lại sống sót qua một đêm nữa!  Để làm gì cơ nhỉ?  Hắn không biết, nhưng sâu xa trong con tim nguội lạnh đang ngập tràn những hối hận ăn năn.  Tên cướp vẫn mong mỏi được sống, được có cơ hội làm lại cuộc đời.  Hắn không muốn chết trong tình trạng tâm hồn nhơ nhuốc thế này.  Hắn tiếc nuối, giá gì ngày đó hắn đủ mạnh dạn, giá gì ngày đó hắn gặp được một người nâng đỡ tinh thần, ban thêm cho hắn nghị lực và can đảm, giá gì ngày đó.…  Nhắm mắt thở dài xót thương cho thân phận mình, tên cướp cay đắng nhủ thầm: “Muộn mất rồi!”

Tiếng ồn ào la thét của đám đông từ dưới chân đồi đang ùn ùn tiến lên Đồi Sọ kéo hắn ra khỏi giấc mộng.  Là gì thế?  Tên gian phi chau mày tự hỏi.  Phải chăng lại một tên cướp khác sa lưới pháp luật?  Là đồng bọn hắn hay là người thuộc băng đảng khác?  Có bao nhiêu mạng người đổ máu trong vụ cướp đó mà kẻ bị bắt phải bị mang đi hành quyết thế này?  Hắn giật mình kinh hãi khi nhìn thấy bóng dáng quen quen, máu me be bét của người đang vác thập giá.  Cặp mắt lờ đờ mỏi mệt cố căng ra thật to để nhìn cho rõ hơn.  Là ông Giêsu sao?  Hắn không tin vào thị giác mình nữa.  Là vị Tiên Tri nhân từ đã từng làm bao phép lạ, trừ quỷ, và chữa lành bao bệnh tật đây sao?  Là Đấng Ngôn Sứ của dân tộc đã từng rao giảng về Nước Trời, về Tám Mối Phúc Thật mà giờ đây lại bị kết án tử hình như một tên cướp thế này hay sao?  Hắn còn lạ gì ông Giêsu này nữa.  Hắn cũng đã từng theo gót chân ông Giêsu này ngược xuôi khắp nẻo đường đất nước Do Thái mà.  Hắn không theo để nghe giảng dạy như đám đông, hay để xin làm môn đệ Người mà theo để… “làm ăn.”  Phải, ông Giêsu ở đâu thì kéo theo đám đông ở đó, và ở đâu có đám đông thì ở đó có cơ hội cho hắn làm ăn: móc túi, rạch bóp, cướp giật…

Nhưng… chẳng lẽ nào?  Tên cướp ngỡ ngàng nhìn đám đông dữ tợn đang chen lấn gào thét theo sau chân người tử tội Giêsu tạo nên một lớp bụi mịt mù.  Ngạc nhiên quá đi!  Những bàn tay đã từng đưa ra nhận bánh và cá trong buổi chiều tím bên bờ hồ Ga-li-lê hôm nào, giờ đang giận dữ nắm lại dứ dứ đưa lên cao, đòi giết cho bằng được người đã cho họ bánh ăn.  Những cái miệng mới hôm nao còn tung hô vạn tuế con Vua Đavít, giờ lại đang lớn tiếng thóa mạ sỉ nhục Người!  Những bước chân một thời theo đuổi kiếm tìm Giêsu để tìm về chân lý, giờ đang sục sạo săn đuổi bức tử Người đến cõi chết.  Những khuôn mặt đạo đức của các vị tư tế, kinh sư luôn miệng rao giảng về Mười Điều Răn chớ giết người, giờ đây lại thoả mãn hả hê, chiêm ngắm đối thủ đang lê lết ôm cây thập giá tiến lên Đồi Sọ lãnh án tử.  Thấp thoáng trong đám đông, có cả những người đã từng được ông Giêsu chữa lành nữa.  Lạ thật, tên cướp lắc đầu thở hắt ra, gian ác như hắn đến gần chết mà vẫn không hiểu nổi lòng người, và những con người thuộc thế giới lương thiện kia!

Sau khi đóng đinh Người vào thập giá như bao tử tội khác, thấy còn một khoảng cách khá xa giữa hai tên gian phi, binh lính La Mã cho dựng cây thập giá của tử tội Giêsu ở giữa.  Hắn không ngớt chăm chú quan sát người láng giềng mới.  Trông ông ta thật thểu não đáng thương!  Khuôn mặt ông phảng phất nét hiền lành thánh thiêng.  Thân thể trần truồng rách nát, máu me đầm đìa mà không một tiếng trách móc, không một lời kêu ca ai oán, tử tội Giêsu chỉ cúi đầu lặng câm giữa những tiếng la ó chửi rủa.  Hòa trong những tiếng cười nhạo báng đó, chợt tên cướp nhận ra được giọng cười ngạo nghễ, và tiếng nói đầy khinh bỉ giễu cợt của tên đồng bọn đang bị đóng đanh cạnh bên Giêsu:

–     “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23:39).

Hắn nghe mà giận quá!  Giận cái tên đàn em ngu lâu, đến giờ chết mà vẫn còn ngoan cố không nhìn thấy tội lỗi của mình, còn dám lớn tiếng xúc phạm đến Thiên Chúa.  Chưa bao giờ tên cướp thấy mình giận dữ như lúc này, bản chất vốn phóng khoáng rộng lượng với bạn bè em út, vậy mà đến gần giờ chết, hắn lại đùng đùng nổi giận với một thằng đã từng chia cơm sẻ áo khi sống, và cùng chung số phận lúc chết.  Hắn lớn tiếng mắng nó:

–     “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ sao?” (Lc 23:40).

Rồi tên cướp ngậm ngùi nhìn xuống thân thể đầy những vết roi đòn của mình đang bị treo tòng teng trên thập giá, hắn tự hỏi: Có oan không?  Không!  Chẳng oan uổng một tí nào cả.  Bàn tay này đã từng cướp của, dính máu người vô tội.  Trái tim này đã từng chai đá, đóng chặt cửa lòng trước những tiếng khóc lóc van xin của ZZnhững nạn nhân vô tội.  Đôi tai đã từng bưng bít trước những tiếng la hốt hoảng của họ.  Không!  Cả hai hình phạt dành cho hắn, và đồng bọn không oan uổng tí nào cả.  Rồi như một quan tòa trong phiên xử chung thẩm, mà bị cáo chính là mình, tên tướng cướp ngậm ngùi tuyên cáo:

–     “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, là xứng với việc chúng ta đã làm” (Lc 23:41).

Quay sang Giêsu, hắn thấy Ngài vẫn im lặng gục đầu trên thập giá mà không một lời oán than.  Loáng thoáng bên tai hắn còn vang vọng những lời cuối cùng của tử tội Giêsu khi bị quân lính La Mã đóng đinh vào thập giá:Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).  Cha ông Giêsu này là ai thế nhỉ?  Hắn không biết, cũng chẳng nhớ những gì ông Giêsu đã rao giảng, nhưng chắc Cha ông ta lớn lắm, và quyền phép lắm nên ông ta mới xin như thế.  Và câu nói ấy ắt phải xuất phát từ một tấm lòng nhân từ độ lượng, với một trái tim bao dung tha thứ.  Dưới nhãn quan của tên cướp, hắn chưa từng thấy ông Giêsu này làm một điều gì sai trái.  Có chăng là hắn từng chứng kiến bao phép lạ của Ngài, từng nghe những lời giáo huấn của Ngài.  Tiếc thay, lúc đó hắn lại quá mải mê với của cải phù du ở đời!  Tên cướp thấy những con người được mệnh danh là lương thiện sao ác tâm và vô lý quá!  Rồi vẫn như một quan tòa mà bị cáo giờ đây chính là Giêsu, tên gian phi mạnh dạn lớn tiếng tuyên bố:

–     “Người này không làm một điều gì sai trái cả!” (Lc 23:41).

Giọng tên cướp lạc đi giữa những tiếng la ó cười nhạo của đám đông.  Cho dù chẳng ai nghe tiếng hắn nói, cho dù cánh cửa tòa đã khép lại sau lưng, bản án trước đã có hiệu lực, cho dù tiếng nói của hắn chẳng cứu được người tử hình vô tội, nhưng hắn thấy mình có bổn phận cần phải lên tiếng.

Giêsu vẫn lặng im trước lời minh oan đó!  Đôi cánh tay đầy thương tích đang dang rộng trên thập giá phải gánh chịu những gì không do Ngài làm ra.  Những giọt máu ở đầu xuyên qua kẽ gai chảy dài xuống má.  Những vết thương toang hoắc há miệng để lòi cả da thịt bên trong.  Tên cướp xót xa thương cảm, chắc hẳn Ngài phải đau khổ lắm!  Nỗi đau thể xác cùng nỗi đau của tâm hồn hợp lại mà hành hạ Ngài.  Cùng là một thân phận tử tội như nhau, cùng một cách hành quyết giống nhau, nhưng hắn chỉ cảm thấy đau chứ không khổ!  Còn ông Giêsu này, trái tim chai lì của tên cướp chùng xuống như có ai bóp nghẹn, bỗng dưng hắn thấy thương người tử tội hiền lành này quá!  Ông ta có làm gì nên tội đâu!

Trong đầu hắn mang máng nhớ lại những gì Ngài đã giảng dạy: về Nước Thiên Chúa, về sự sống vĩnh cửu, hạnh phúc viên mãn….  Hắn không hiểu gì cả, và cũng không nhớ rõ hết.  Mang thân phận tướng cướp, hắn biết mình chẳng xứng đáng để được hưởng bất cứ phần thưởng nào: ở đời này cũng như đời sau.  Nước của ông Giêsu ở đâu?  Hắn không biết.  Nơi Giêsu sẽ tới?  Hắn không rành.  Hạnh phúc là gì?  Hắn không có khái niệm.  Tên cướp chỉ ao ước được ở gần con người nhân hậu này, được là người láng giềng của Giêsu mãi mãi.  Hắn ngại ngùng lúng túng muốn xin một điều gì đó, nhưng chẳng biết lời mình xin có được chấp thuận hay không.  Thôi kệ, lấy hết can đảm hắn ấp úng thưa với Giêsu:

–     “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23:42).

Giêsu ngước mắt nhìn lên.  Bốn mắt bất ngờ chạm nhau, dù đã chuẩn bị nhưng tên cướp vẫn giật mình hoảng hốt vội quay phắt mặt đi tránh tia nhìn của Giêsu như mọi lần, mà không kịp nhận biết đó là tia nhìn giận dữ hay tha thứ.  Lòng hắn thổn thức xúc động, đã bao lần hắn trốn chạy ánh mắt của Giêsu rồi.  Chẳng lẽ trong những giây phút cuối đời này hắn cũng phải lẩn trốn ánh mắt đó nữa sao?  Giờ thì còn gì nữa đâu mà phải sợ hãi tránh né chứ?  Lòng nhủ lòng và lấy hết can đảm, hắn từ từ quay lại nhìn thẳng vào ánh mắt Giêsu, hồi hộp chờ đợi một lời từ chối, một tiếng quở mắng, hay một bản án khác.

Ánh mắt Giêsu vẫn còn đó như mòn mỏi đợi mong, đôi môi sưng to bầm dập như vẫn còn mấp máy với dư âm hai chữ “Ta khát!” (Ga 19:28).  Tên gian phi ngạc nhiên trợn to cặp mắt xếch khi bắt gặp ánh mắt âu yếm đầy yêu thương của Giêsu.  Ôi, cái nhìn sao ấm áp quá!  Cái nhìn tha thứ đầy lòng cảm thông, cái nhìn thấu suốt tâm can như muốn ôm trọn thân thể nhơ nhuốc của hắn vào lòng.  Ngọt ngào và êm dịu làm sao cái nhìn trìu mến của người cha nhân từ!  Trong ánh mắt đó, hắn thấy phản chiếu lại, không phải là hình ảnh một tên cướp hung hãn từng giết người, mà là hình ảnh một bé trai ngây thơ hồn nhiên đang ngủ vùi trong vòng tay người cha.  Chưa ai ban phát cho hắn cái nhìn như thế bao giờ!  Hắn lặng người ngất ngây!  Gió ngừng thổi, mây ngừng bay, đất trời như nín thở lặng im chiêm ngưỡng giây phút gặp gỡ của hai tâm hồn.

Không một tiếng hạch hỏi, không một lời kết án. Giêsu thấu hiểu tấm lòng hoang mang đầy những lo âu của hắn, Ngài nhân từ chớp mắt gật đầu, rồi bằng chút hơi tàn còn lại, Giêsu âu yếm nói:

–     “Tôi bảo thật anh, ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43).

Hai dòng lệ nóng trào ra khoé mắt, lăn dài trên khuôn mặt gân guốc chai lì của tên cướp.  Hắn khóc, những giọt lệ đầu tiên trong cuộc đời tướng cướp mà hắn đa mang.

Chẳng ai biết hắn chết lúc nào, trước hay sau Đấng Cứu Thế, chỉ biết những người tốt bụng khi xin hạ xác hắn đem chôn, người ta thấy khuôn mặt tên cướp thật bình thản hạnh phúc, đôi môi nhợt nhạt không che giấu được một nụ cười mãn nguyện, giọt lệ vẫn còn đọng lại nơi khoé mắt, lóng lánh như hạt kim cương trong nắng chiều dương.  Đôi ống chân bị đánh giập nát giờ thôi không còn lang thang trong chiều tím buồn nữa.  Đôi chân đó đã có nơi để về!  Thôi, xin giã từ những chiều tím lang thang vô định!

Lang Thang Chiều Tím
April 2006

 

HIỂN DUNG VÀ SỰ HỘI NHẬP CỦA TA

ZZTôi không nhớ mình đã in từ đâu một bài viết rất cảm động của một tác giả lấy tên là Lang Thang Chiều Tím.  Tác giả bắt đầu bằng một lá thư điện tử của một người bạn sắp chết: “Ngày đầu của một năm mới, anh cầu chúc nhiều điều tốt đẹp đến với em.  LTCT ơi, hôm nay anh đã tìm được sự bình an trong tâm hồn, một ngày thật là hạnh phúc đối với anh trong tình yêu Chúa.  Cám ơn Chúa, cám ơn em!  Chúa ơi, con không còn phiền muộn và đau khổ trong căn bịnh ung thư của con nữa.  Lạy Chúa con vui vẻ yêu Chúa.  Thân mến.”

Tôi nghẹn ngào đến rơi lệ… Có lẽ năm sau, tôi sẽ không còn có cơ hội để nhận thiệp chúc tết của anh nữa.  Năm sau biết anh còn có cơ hội để tuyên xưng đức tin, tình yêu và niềm hạnh phúc của mình trong ngày đầu năm như thế này hay không?….

… Bác sĩ nói anh còn sáu tháng nữa, đã ba tháng trôi qua rồi và anh tiếp tục đếm từng tháng ngày đang vô tình trôi qua đời anh…  Thế mà không những anh đã cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa, anh lại còn vui vẻ đáp trả lại tình yêu đó với một thân xác bịnh hoạn sắp đến hồi kết thúc.  Thế mà anh vẫn tìm được sự bình an trong tâm hồn vào ngày Tết dương lịch cuối cùng của đời mình …

Không còn phiền muộn!  Không còn khổ đau dù rằng căn bịnh vẫn trơ trơ ra đó.  Tất cả chỉ còn lại sự bình an, một ngày đầu năm hạnh phúc, một niềm vui ngọt ngào trong tình yêu Thiên Chúa… Vết thương thể xác vẫn còn đó nhưng vết thương tâm hồn đã lành…

Còn sống ngày nào là còn có cơ hội sắp xếp chuẩn bị cho chuyến đi dài!  Anh nói với tôi, anh đã dặn vợ khi anh chết nhớ chôn anh với cỗ tràng hạt và cuốn Kinh Thánh mà tôi tặng cho anh.  Cỗ tràng hạt đó, chắc bây giờ đã bạc màu và mòn lắm rồi.  Ngày tôi tặng anh cỗ tràng hạt Mân Côi, tôi không mua một cỗ tràng hạt mới để tặng anh nhưng tặng anh cỗ tràng hạt mà tôi đang sử dụng.  Một cỗ Mân côi “có hồn” đã thấm bao giọt nước mắt ăn năn trong những ngày đầu tôi mới trở về với Chúa, tôi trao lại cho anh, xin Đức Mẹ dẫn dắt anh từng bước, từng bước đến với Chúa.  Tôi biết tràng chuỗi Mân Côi đó giờ đây lại ướt đẫm những giọt nước mắt đau khổ của người chủ mới, được lần tới lần lui mỗi ngày với những lời kinh giờ đã nhuần nhuyễn.  Cuốn Kinh Thánh ngày được cùng anh đi vào lòng đất, chắc cũng đã cũ mèm và xoắn góc dù rằng tôi tặng anh cuốn mới.  Mỗi trang Kinh Thánh được lật qua là mỗi tâm tình được gói ghém trong đó, là những khúc mắc trăn trở, là những băn khoăn ưu tư không lời giải đáp…

Ngày ngày anh vẫn đến nhà thờ để tìm sự an ủi đỡ nâng, đến để tiếp tục nuôi dưỡng sự bình an trong tâm hồn mà anh đã tìm được trong ngày đầu năm.  Đến có khi chỉ để ngồi thinh lặng một mình chiêm ngắm ông Giêsu bị treo trên cây thập giá.  Và anh tìm thấy vài điểm tương đồng giữa anh và người tử tội Giêsu đó: cùng biết trước ngày giờ chết của mình, cùng sợ hãi trước cái chết đang từ từ tiến tới gần, cùng để lại một bà mẹ khóc con!  “Lá vàng khóc lá xanh rơi!”  Ôi, nếu mẹ có thể bịnh thay cho con!  Nếu mẹ có thể chết thay cho con được sống!  Anh hiểu thêm nỗi lòng của Mẹ Maria qua tâm trạng người mẹ ruột mình.  Có lẽ những sự đồng điệu đó an ủi anh nhiều lắm.  Anh trao cho tôi bốn câu thơ mà anh đã làm dưới chân thập giá Chúa Giêsu: “Con quỳ bên tượng Chúa, chắp hai tay nguyện cầu.  Sao đời con đau khổ, một linh hồn bơ vơ!”

Suy niệm bài Tin Mừng lễ Hiển Dung hôm nay, tôi lại liên tưởng đến câu truyện đầy cảm động trên.  Tôi thấy nhân vật trong câu truyện của Lang Thang Chiều Tím đang bừng lên một ánh sáng hiển dung trong suy nghĩ, trong tâm hồn, trong đức tin, trong tình mến thật rực rỡ và chói ngời.   Một ánh sáng hiển dung bừng cháy giữa tăm tối của cuộc đời, tăm tối của tương lai, tăm tối của sức chịu đựng, chính là sức mạnh giúp can đảm sống thêm, đồng hành thêm cùng cuộc đời; lớn thêm một chút cho tương lai, dẫu tương lai ấy là bước vào vĩnh hằng; và can đảm trong sức chịu đựng mà sống cùng thánh giá Chúa Kitô.

Ngày xưa trên núi cao, khi Chúa biến đổi dung nhan rực rỡ, thì trong lòng của cuộc hiển dung ấy, chưa phải là những hạnh phúc, nhưng lại chất chứa sự thương đau vô cùng bởi những phản bội, bởi thái độ vô ơn của loài người, bởi nỗi ê chề của thập giá, của giờ tử nạn.  Vì thế, khi mà các môn đệ Chúa Kitô đang chiêm ngưỡng vinh quang tuyệt vời của cuộc hiển dung, thì điều mà các ông nhìn thấy như chỉ là một ánh chớp thoáng qua, một báo hiệu trước của tương lai, một tương lai phải trả giá bằng nỗi đau thập giá.

Đường đi trước mắt của Chúa và của các môn đệ của Người còn dài, còn lắm gian truân, nhiều thử thách.  Nó đang giăng mắc đầy những nghiệt ngã mà cả Thầy và trò phải đối diện.

Tuy nhiên, sứ mạng dù phải nếm trải những chịu đựng, có khi sự chịu đựng ấy còn vượt quá sức người, bởi sức người chỉ có ngần, có hạn, thì một ánh chớp sáng, nếu có thoáng qua, cũng có thể trở thành sức mạnh để lòng người bền bỉ hơn mà tin vào sự thắng vượt.  Vì thế, ngay trước lúc bắt đầu bước vào những khó khăn ấy, ngay trước lúc mà mọi thương đau nhất trong đời lại cùng diễn ra một lúc, thì cuộc hiển dung vô cùng cần thiết.  Nó hoàn toàn hợp lý và đúng lúc, để dù ai, dù sự việc nào, dù đau xót đến đâu, nhờ hội nhập vào cuộc hiển dung ấy, mới may ra, lòng người sẽ đủ sức mà làm cho “chân cứng đá mềm,” nhằm thách thức cùng sức chịu đựng.

Vì thế, cuộc hiển dung của Chúa Kitô, hơn bao giờ hết, trở thành ngọn đèn của hy vọng, thành cứu cánh của niềm tin, thành một lời động viên cho niềm an ủi mà các môn đệ của Chúa đang rất cần để chuẩn bị cho các ông tiến đến và nhập cuộc vào thánh giá Chúa.

Trong cuộc đời làm người, người tín hữu nói riêng, mọi người nói chung, rất cần những cuộc hiển dung như thế.  Không có bất cứ ai hoàn toàn sống trên “nhung lụa.”  Cuộc đời là một cuộc thử thách nối dài.  Đau khổ là người bạn rất thân với ta, dù ta không hề mong muốn.  Nhưng dù đau khổ đến mức độ nào, cuộc đời của mỗi cá nhân dù có bị vùi vập, bị nhận chìm đến đâu, bình minh của tương lai dẫu đã tắt, hoàng hôn dẫu là một tấm màn sắt vây kín thân phận, để có thể vượt lên chính mình, ta không có quyền đầu hàng số phận, không có quyền ngã lòng, càng không bao giờ được phép dập tắt niềm hy vọng, không bao giờ để lòng mình lạc mất niềm tin.  Niềm hy vọng, niềm tin tưởng chính là cuộc hiển dung vĩ đại giữa những nốt nhạc trầm đầy thương đau của đời người.

Nhưng để thắp sáng cuộc hiển dung bằng lòng hy vọng, lòng tin cho mình, ta lấy nguồn từ đâu?

Cuộc hiển dung của Chúa Kitô mà các tông đồ hân hoan chứng kiến, và nhân vật bị bệnh ung thư trong câu chuyện của tác giả Lang Thang Chiều Tím cho ta câu trả lời, đó cũng chính là bài học kinh nghiệm sống của đời ta: Nguồn Ánh Sáng thắp lên cuộc hiển dung cho đời ta chính là Chúa Kitô.

Các tông đồ và nhiều môn đệ của Chúa Kitô là nhân chứng về cuộc đời của Chúa cách trung thành.  Vì thế, tất cả những gì đã thấy, đã nghe làm cho các ông không bao giờ tắt niềm tin, niềm hy vọng.  Nhất là từ sau khi Chúa trao Hội Thánh cho các ông, các ông đã miệt mài xây dựng với tất cả nhiệt huyết của mình.  Các ông đã đạp trên mọi “đầu sóng, ngọn gió,” dù phải hiến dâng cả mạng sống, vẫn bất chấp tất cả.  Chính niềm tin và sự cậy trông vào Chúa Kitô, chính trái tim vàng đá của một lòng yêu mến sắt son đặt nơi Chúa Kitô, trên hết mọi sự là niềm tin tưởng vào chính Người Thầy Giêsu của mình, đã làm cho các môn đệ nên “chân cứng đá mềm” đến như vậy.  Các ông đã biết thắp lên cuộc hiển dung của Chúa giữa những tăm tối của cuộc đời mà các ông nếm trải.

Tương tự như thế, nhân vật của Lang Thang Chiều Tím đã khôn ngoan học lấy bài học của các môn đệ Chúa Kitô xưa, mà xây đắp cho mình cả một cuộc hiển dung rực sáng, khi anh biết đặt tất cả niềm tin, lòng trông cậy, sự tín thác của mình nơi Chúa Kitô.  Đặt mình nơi bàn tay tình yêu diệu kỳ của Chúa, anh đã thắp lên, thắp sáng lên, sáng lắm cuộc hiển dung của Chúa trong tăm tối và đổ vỡ của đời anh.

Chúng ta hãy soi mình vào đó mà định hướng cho chính cuộc đời mình.  Nến anh chị em của ta đã hiển dung trong Chúa, thì ta cũng có thể sống được tất cả những điều như thế.  Điều quan trọng là ta có dám đặt Chúa làm Nguồn Sáng để ta hội nhập vào cuộc hiển dung của Người hay không mà thôi!

LM Vũ Xuân Hạnh