ĐÔI MẮT TÂM HỒN Ở GIÊ-RI-KHÔ (Mc 10:46-52)

Tôi là Ba-ti-mê, một người mù từ thưở lọt lòng mẹ, sinh ra và lớn lên ở miền đất Do Thái cằn cỗi nắng cháy, nhưng lại trù phú về những luật lệ khắt khe, dồi dào những thành kiến về con người.  Chẳng biết cha mẹ tôi, ông bà Ti-mê, có phạm tội lỗi gì không mà Thiên Chúa lại trừng phạt tôi thế này.  Tôi không tin vào điều đó vì biết cha mẹ mình là người hiền lương, ngay thẳng.  Tôi cũng không tin đó là hình phạt bởi một Thiên Chúa Nhân Lành.  Nhưng đó là một tín điều mà cả xã hội Do Thái, thế hệ này tiếp nối thế hệ kia tin tưởng như vậy.  Bởi thế tôi đã bị liệt vào hạng tội lỗi ngay khi cất tiếng khóc chào đời mà không chịu mở mắt nhìn đời.  Cuộc đời vốn đã bị nhiều thiệt thòi vì không được thấy ánh sáng mặt trời, tôi lại bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người vì những thành kiến h tục của một xã hội quá “đạo đức.”

Ngày ngày tôi vác bị lê la ra ngồi ăn xin ở cổng thành Giê-ri-khô.  Bữa no, bữa đói tùy vào lòng thương xót của ông đi qua bà đi lại, nói chung cũng đủ để lây lất qua ngày, dù tôi chẳng biết sống qua ngày để làm gì.  Cuộc đời này có gì vui đâu để mà sống?  Vào buổi sáng của một ngày như mọi ngày, khi đang ngồi thơ thẩn chờ đợi ở ngoài cổng thành, tai tôi bỗng nghe được những âm thanh náo nhiệt ở phía trong thành vọng ra.  Tiếng ồn ào lào xào của một đám đông, tiếng người gọi nhau í ới, tiếng chó sủa, tiếng những bước chân chen lấn xô đẩy… đang từ phía trong thành đi ra.  Lạ nhỉ, chắc là một đám đông lớn lắm đây, những âm thanh này khác hẳn với những đám đông khác.  Chuyện gì đang xảy ra thế nhỉ?  Đám đông này là ai?  Họ đi đâu?  Tôi nghểnh tai nghe ngóng!  Vì mất đi thị giác nên thính giác của tôi rất nhạy bén.  Tôi nghe thấp thoáng xen trong tiếng gió lao xao là những tiếng thì thầm: Ông Giêsu, Giêsu thành Nazarét…  Tim tôi bỗng như ngừng đập.  Có thật không?  Là vị Ngôn sứ Giêsu người đã gây nhiều xôn xao trong những ngày gần đây bởi những phép lạ, những lời giảng dạy về một giáo lý mới mẻ…  Tôi đã nghe thiên hạ bàn tán nhiều về con người lạ lùng này, về lòng thương xót của Người đối với những kẻ bần cùng bị bỏ rơi sống bên lề xã hội.  Tôi biết ông ta mà, không những thế, tôi còn biết cả cha mẹ, nghề nghiệp, và dòng dõi xuất thân của ông ấy nữa.  Ông thuộc dòng dõi Vua Đa-vít, một vị Vua Thánh nổi tiếng nhân từ trong lịch sử dân tộc tôi.  Tôi chờ đợi cơ hội này lâu lắm rồi.  Ông Giêsu đi ngang qua đây thật ư?  Lòng tôi bừng lên một tia hy vọng mong manh.

Tôi đứng phắt dậy, chộp cây gậy và quơ quơ trong không trung, rồi quay bên phải, quay bên trái, lúng túng không biết nên đi về hướng nào.  Sợ mất cơ hội ngàn vàng này, tôi lại bỏ gậy xuống đưa tay lên miệng làm loa hướng về đám đông la thật to:

– Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi.

Tôi hét thật lớn, lập đi lập lại nhiều lần đến khàn cả giọng với hy vọng ông Giêsu đang ở đâu đó trong đám đông có thể nghe được tiếng kêu lạc loài của tôi giữa những tiếng bát nháo hỗn độn.  Khoảng cách xa quá, tiếng kêu gào chưa tới được tai vị ngôn sứ thì đã làm cho những người đứng gần bên bực bội khó chịu.  Họ quát tháo nạt nộ bảo tôi im miệng.  Tôi cụt hứng, đang còn e dè chần chừ, bỗng một cái tát nảy lửa giáng vào mặt tôi, kèm theo một lời cục cằn thô lỗ:

– Mày có câm miệng lại không?

Cái tát làm tôi xiểng liểng mất thăng bằng ngã lăn quay ra đất.  Tôi lồm cồm bò dậy, tay run rẩy mò mẫm tìm gậy, người tôi chao đảo làm tư tưởng tôi cũng bị lung lay theo.  Có nên nghe lời mấy người hung dữ này không?  Nếu không nghe họ, tôi có thể tiếp tục ăn thêm mấy cái tát, hay cú đá nữa không chừng.  Rồi sau này họ không bố thí cho tôi nữa thì sao?  Tôi đang sống nhờ lòng thương xót của họ mà!  Sau một lúc dao động, tôi chợt bừng tỉnh!  Không!  Không được, nếu nghe họ, tôi sẽ đánh mất cơ hội ngàn năm một thưở này.  Biết bao giờ ông Giêsu mới đi qua đây lần thứ hai?  Nếu có, tôi đâu dám chắc mình sẽ ngồi ở đây lúc Ngài đi qua?  Hoặc nếu có, ai dám đảm bảo lúc đó lại không có những kỳ đà cản mũi khác?  Tôi không còn gì để mất!  Cuộc đời tôi đã đến tận cùng của bất hạnh rồi, không hoàn cảnh nào có thể tệ hơn.  Bất quá thì đói thôi!  Bất quá thì bị thiên hạ ghét bỏ, hoặc ăn thêm vài cái tát tai nữa là cùng.  Thà đói còn hơn sống kiếp mù loà.  Thà bị ghét mà được sáng mắt, còn hơn được thiên hạ ưu ái mà bị mù.  Lấy hết sức bình sinh tôi lại hướng về phía đám đông tiếp tục gào lên:

– Lạy Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương xót tôi.

Tôi gào đến lạc cả giọng, chỉ sợ ông Giêsu đi ngõ khác mà biến mất.  Lần này tiếng tôi kêu gào đã thấu đến tai vị Ngôn Sứ thì phải.  Tôi nghe tiếng dừng lại của đám đông, hồi hộp chờ đợi tôi nghểnh cổ nghe ngóng.  Loáng thoáng trong những tiếng ồn ào hỗn loạn, tôi nghe văng vẳng như có tiếng Người gọi tôi:

– Gọi anh ta lại đây!

Hồi hộp chờ đợi là thế, nhưng khi nghe mình được kêu tên, ngạc nhiên chen lẫn lo sợ làm tôi lại thộn người đứng ì ra đó, không biết phải làm gì, không chắc là mình nghe có đúng không, không dám nhúc nhích, lòng vẫn còn lăn tăn sợ hãi, sợ lại bị ăn thêm mấy cái tát nảy lửa nữa thì khốn.  Như cảm thông với tâm tình rối loạn của tôi, một người đứng bên vỗ nhẹ lên vai tôi như trấn tĩnh, và bảo tôi đừng sợ, rồi một giọng nói thân thiện cất lên:

– Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!

Đúng thế ư?  Ngài gọi tôi thật sao?  Là vị tiên tri Giêsu mà tôi hằng ao ước được gặp mặt?  Tôi đứng phắt dậy, vất ngay cái áo choàng là vật gia bảo trong kiếp ăn xin của tôi lại, quờ quờ quạng quạng tiến về phía phát ra tiếng nói.  Thấy tội nghiệp, một người đưa tay ra dắt tôi đi, được vài bước rồi ra dấu bảo tôi dừng lại.  Biết là đã đến trước mặt Người, Đấng mà lòng tôi hằng ao ước được diện kiến, tôi quỳ thụp xuống bái lạy Người để tỏ lòng tôn kính.

Một thoáng im lặng ngột ngạt, tôi có cảm tưởng như Giêsu và cả đám đông đang chăm chú quan sát nhìn tôi.  Rồi tôi nghe một giọng mạnh mẽ trầm ấm vang lên, phá tan sự im lặng:

– Anh muốn tôi làm gì cho anh?

Xúc động trào dâng khiến tôi nghẹn ngào.  Vị ngôn sứ của dân tộc đang hạ mình xuống hỏi tôi, một kẻ ăn xin thấp hèn, cùng đinh của xã hội.  Tự dưng tôi ấp úng lúng búng gãi đầu gãi tai:

– Thưa Thầy, thưa… thưa… thưa… xin cho tôi nhìn thấy được.

Cung giọng trầm ấm lại vang lên một cách mạnh mẽ quả quyết:

– Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh.

Ngay lập tức cái màng đen dầy đặc che kín cặp mắt tôi từ bao năm qua được vén sang một bên.  Tôi dụi mắt bồi hồi, cặp mắt đã quen với bóng đêm dày đặc chớp liên hồi.  Tôi mở mắt he hé.  Ánh sáng mặt trời rực rỡ ôm choàng lấy tôi bất kể thân phận tôi là ai.  Lòng tôi nghẹn ngào, rạo rực.  Tôi nhắm mắt lại, rồi mở ra, được một lúc lại nhắm lại, rồi mở ra.  Ánh sáng mặt trời là đây ư?  Chói chang quá!  Những tia sáng rực rỡ muôn màu sắc lung linh nhảy múa, lượn qua lượn lại rồi ôm choàng lấy tôi.  Thế giới này nhiều sắc màu quá, mỗi màu mỗi vẻ, màu nào cũng tươi đẹp đang nở nụ cười chào đón tôi.

Đám đông ồ lên xôn xao khi tận mắt chứng kiến phép lạ cả thể đang xảy ra trước mắt.  Người ta dìu tôi đứng dậy, tay tôi vẫn quơ quơ trong không khí theo phản xạ tự nhiên của những ngày mù lòa.  Tôi nhíu mày bắt đầu đưa cặp mắt yếu ớt nhìn dáo dác một vòng những người xung quanh.  Cái nhìn đầu tiên của tôi chạm ngay một cặp mắt nhân hậu đang mở to nhìn tôi với ánh nhìn trìu mến yêu thương.  Trên khuôn mặt rám nắng nở một nụ cười mãn nguyện của một người cha đang thích thú quan sát đứa con nhỏ loay hoay với món quà mới.  Tôi đoán đây chính là Giêsu, con cháu vua Đa-vít, Người chỉ phán một lời mà đôi mắt tôi thoát ra khỏi màn đêm tăm tối.  Ngài nhẹ nhàng cầm lấy tay tôi, dìu từng bước chân tôi tiến về phía trước, như người cha chào đón đứa con thơ, và tập cho con từng bước đi vào thế giới mới.  Cánh tay rắn rỏi của Ngài thay cho cây gậy là một điểm tựa vững chắc cho tôi trước một thế giới sáng mắt phức tạp mà tôi sắp bước vào.

Rồi Ngài đứng lại, buông tay tôi ra.  Tôi đứng im từ từ quan sát những khuôn mặt chập chờn xung quanh.  Có những khuôn mặt rạng rỡ hân hoan cùng chia sẻ niềm hạnh phúc với tôi, họ vẫy tay tươi cười chào đón tôi, đặc biệt là đám con nít.  Chúng la hét reo hò, vỗ tay hoan hô Vị Ngôn Sứ như vị anh hùng dân tộc.  Họ vui vẻ cười nói, chúc phúc cho tôi, và hân hoan cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu.  Cũng có những khuôn mặt thờ ơ lạnh lùng bàng quan, họ nhún vai nhếch mép cười khẩy, chẳng buồn cũng chẳng vui!  Phép lạ này chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống họ.  Có những khuôn mặt dữ tợn thô lỗ, họ né tránh cái nhìn của tôi bằng ánh mắt tiu ngỉu, ngại ngùng.  Tôi đoán đây là những người đã la lối hiếp đáp, ngăn cản không cho tôi kêu xin Giêsu.  Bên cạnh đó lại có những cặp mắt đỏ ngầu, cau có tức giận trong những khuôn mặt ra vẻ đạo đức đăm chiêu.  Những đôi môi tím tái mím chặt, như đang muốn thốt ra những lời nguyền rủa thay cho lời tạ ơn.

Tôi rùng mình nổi da gà khi cặp mắt non nớt của tôi dừng lại trên những khuôn mặt ngút ngàn chất chứa hờn căm, đầy ánh ghen tị đó.  Đa số họ là Pharisêu, kinh sư, và các vị trưởng lão chức sắc trong dân.  Cuộc đời dưới ánh sáng mặt trời đẹp quá mà, sao lại nhìn nhau bằng ánh mắt như thế?  Sao lại ghen tị?  Họ không quý ánh sáng nơi cặp mắt họ, họ không trân trọng những gì họ đang có, đang nhìn thấy được.  Tự nhiên tôi thấy sợ khi phải đối diện với nhóm người này.  Tâm hồn ghen tương đố kỵ của họ trái ngược với vẻ ngoài đạo mạo.  Thà họ dữ tợn cục cằn như đám người lỗ mãng kia thì tôi lại không sợ.

Tôi bối rối nhắm mắt lại định thần, hít thở thật sâu cho lòng lắng xuống, cho những cảm giác ngỡ ngàng ban đầu qua đi, cho những cảm xúc hồi hộp, hoang mang không còn nữa.  Tuy là kẻ cùng đinh trong xã hội nhưng tôi biết mình có quyền chọn cho mình cái hướng để nhìn, một con đường để đi.  Tôi muốn nhìn ai, muốn thấy gì trong thế giới mới này?  Tôi muốn đi đâu, sống cuộc đời như thế nào sau khi đã được sáng mắt?  Đức Giêsu không chỉ cho tôi sáng mắt để thấy ánh sáng mặt trời, thấy thế giới vật chất này, mà Ngài còn mở mắt linh hồn tôi, cho tôi thấy được những điều thầm kín bên trong trái tim mỗi người qua cửa ngõ tâm hồn.  Vâng, tôi là một kẻ ăn xin dơ bẩn hôi hám về thể xác, nhưng tôi không muốn cửa sổ tâm hồn của mình bị vẩn đục bởi những cái không đáng để nhìn.  Tôi mở mắt ra, quay tìm về hướng Giêsu.

Ngài vẫn còn đó, hiền lành và kiên nhẫn dù các môn đệ đang giục Ngài lên đường!  Ánh mắt nồng ấm tiếp tục chờ đợi, chờ cho tôi cứng cáp, chờ cho tôi hoàn hồn trước một thế giới xa lạ, chờ xem sự chọn lựa và quyết định của tôi.  Một nụ cười cảm thông kín đáo như trấn an tôi đừng sợ trước những cái nhìn nham hiểm đầy mưu mô kia, như khích lệ tôi hãy mạnh dạn can đảm đối đầu với cuộc sống mới.  Ôi ánh mắt nhân hậu, cả một bầu trời mở ra, cả một đại dương yêu thương mà tôi muốn chìm mình trong đó.  Đây là cặp mắt mà tôi muốn ngắm nhìn mãi.  Qua cặp mắt Ngài, tôi thấy đuợc những khát vọng hoài bão thiêng liêng đang ấp ủ trong trái tim nồng cháy, tôi cảm nhận được một con tim sùng sục lửa yêu thương, một tình yêu to lớn ôm ấp không chỉ mình tôi mà cả thế giới.  Nơi Ngài toả lan một sức mạnh vô hình cuốn hút lấy tôi, làm tôi không cưỡng lại được.  Tôi chợt nhận ra rằng ngoài Ngài, không còn một con đường nào khác cho tôi.  Ngoài ánh mắt Ngài ra, tôi không thể tìm thấy được cái nhìn yêu thương ấm áp của một người cha như thế.  Không thể tìm đâu được một tâm hồn tuyệt hảo hơn!  Ôi, Giêsu!  Giêsu chữa lành cho tôi không phải vì lời kêu xin của tôi, nhưng vì lòng thương xót vô biên của Ngài, vì Ngài là tình yêu, chứ Ngài không hề nợ nần gì tôi, hoặc có trách nhiệm bổn phận phải chữa lành cho tôi.  Tự dưng nước mắt tôi trào ra khi cảm nhận được tình yêu vô điều kiện đó, những giọt nước mắt đầu tiên từ khi được nhìn thấy cuộc đời.

Tôi cúi đầu mấp máy vài lời xin cho tôi được đi theo Giêsu và các môn đệ.  Tôi nghẹn ngào không nói được gì nhiều ngoài hai hàng nước mắt tuôn rơi.  Nhưng trong tim tôi thổn thức muốn nói với Ngài bao điều:  “Giêsu ơi, con là người vô dụng, không có tài cán gì ngoài tài ăn xin.  Con là kẻ bị bỏ rơi sống bên lề xã hội, xin hãy đón nhận con người hôi hám dơ bẩn cả về thể xác lẫn linh hồn của con.  Con quên chưa nói lời cám ơn Ngài, vị ân nhân của đời con, nhưng con biết Ngài thấu suốt tâm tư con.  Cuộc đời còn lại của con đây, xin được đặt dưới chân Ngài.  Xin cho con được đi theo Ngài trên mọi nẻo đường Ngài đi.  Cặp mắt con đây, xin dâng lên cho Ngài, xin cho cửa sổ tâm hồn con chỉ nhìn thấy Ngài, thấy những điều tốt đẹp của thế giới, của tình người, những gì mà Ngài muốn con nhìn thấy.  Xin cho con được ở lại trong ánh mắt yêu thương, trong trái tim nhân hậu của Ngài hôm nay, ngày mai và mãi mãi không bao giờ rời xa.”

Lang Thang Chiều Tím
Dư âm những ngày Linh Thao 2017

CÓ NÊN TRỞ VỀ KHI CHA KHUẤT BÓNG?  

“Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.  Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.” (Lc 15:17-19)  Đang lúc soạn bài diễn văn trong đầu để nói với cha trong ngày trở về, nó lặng người đi khi nghe dân làng truyền tai nhau tin cha nó mới mất chiều qua.  Cái chết đến thật bất ngờ, người cha đã qụy ngã ngay trước cổng nhà khi ánh hoàng hôn tắt sau đồi, nơi ông thường ra đứng mỗi ngày để mong ngóng đứa con đi hoang trở về.  Tuổi già sức yếu đã cắt đứt nguồn hy vọng mong manh, ngày ông có thể dang rộng vòng tay nhân ái để đón thằng con nghịch tử về với ông, về dưới mái nhà thân thương.  Dân làng không biết người cha tội nghiệp chết vì kiệt sức trong mỏi mòn đợi trông, hay chết vì cơn đau tim, họ chỉ truyền tai nhau tin ông mới mất.

Nó hụt hẫng như người vừa bị ai giằng lấy cái phao cứu sinh cuối cùng giữa dòng nước chảy cuồn cuộn.  Thẫn thờ, nó thả người ngồi phịch xuống đất, há miệng ra thở dốc từng hồi như có ai đang bóp nghẹt lấy trái tim.  Hai dòng nước mắt lã chã tuôn rơi trên khuôn mặt gầy hốc hác sạm nắng.  Nó không hiểu là nó đang khóc thương cha, hay khóc thương cho cái bao tử xẹp lép không còn đường về.  Nó mệt mỏi đưa tay quệt nước mắt gục đầu xuống, kéo theo cái thân xác tiều tụy gầy dơ xương W13rũ xuống đất trong tiếng kêu ọc ọc của cái dạ dày trống không.  Nó không hiểu sao số phận lại nghiệt ngã với nó như vậy.  Sao cha lại chết ngay lúc nó muốn trở về.

Phải mất một lúc lâu nó mới lồm cồm ngồi dậy, chống cặp mắt ngây dại thẫn thờ nhìn về hướng thôn làng xa xa trong bóng chiều tà.  Nó bối rối đưa hai tay vò cái đầu rối bù mà vẫn không biết nên làm gì trong lúc này.  Có nên mang cái thân tàn ma dại, đầy vết lở loét về để chịu tang cha hay không?  Hay có gan chơi thì có gan chịu, lỡ đi hoang rồi thì đi luôn?  Nhưng nếu đi luôn thì đi đâu?  Nó đã từng đi ở đợ, chăn heo với mong ước là ăn những thức ăn của heo mà vẫn không ai cho.  Nếu về, thiên hạ có chửi rủa, chê cười nó không?  Trở về để ở lại trong ngôi nhà đó khi người cha đã ra đi, hay về để rồi tiếp tục đi hoang?  Ai sẽ chấp nhận nó trở về trong ngôi nhà đó?  Về với cương vị gì?  Đầu óc nó rối bung lên với một mớ những câu hỏi không lối đáp.  Nó không lạ gì người anh cả hay ghen tương, tị nạnh của nó.  Nó đã lấy hết sạch phần gia tài của nó rồi, nó đâu còn phần gì trong căn nhà, và ruộng nương nữa.  Sợi dây cuối cùng là người cha rộng lượng phóng khoáng chia gia tài cho nó cũng đã không còn.  Vậy thì có nên cất bước trở về hay không?

Cơn đói hoành hành bao tử khiến đầu óc nó không đủ minh mẫn để suy nghĩ tiếp, và không biết phải quyết định ra sao.  Bóng tối ập xuống trong đầu nó.  Nó không sợ những lời khinh chê, hay cái nhìn dè bỉu của làng xóm.  Nó chỉ sợ phải đối đầu với ông anh cả hẹp hòi ích kỷ.  Sợ ông sẽ triệt con đường sống cuối cùng của nó.  Lo rằng ông sẽ đày đọa nó cho bõ ghét, sẽ hành hạ nó như đứa đầy tớ, sẽ đay nghiến nó vì cái tội phá gia chi tử.  Nó biết cũng giống như nó, anh cả cũng chẳng thương yêu gì người cha già tội nghiệp đâu, nhưng ông sẽ chì chiết nó vì cái tội bất hiếu, gián tiếp gây nên cái chết đau khổ mòn mỏi của người cha.  Ông có thể ngược đãi dồn nó vô bước đường cùng để nó phải ra đi một lần nữa, hoặc tệ hơn ông có thể đối xử tàn ác, bức tử nó đến chết.  Nó rùng mình khi nghĩ đến ngày mai đen tối ở với ông anh cả.

Mắt nó hoa lên vì đói, nó thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, trong đầu nó hiện lên những thước phim đẹp của những ngày dĩ vãng xa xưa bên người cha nhân ái.  Những bữa cơm ấm cúng đầy thịt, nghi ngút khói của ba cha con.  Khuôn mặt phúc hậu của cha, những lời giáo huấn chứa chan yêu thương, những lời khuyên bảo anh em nó cách sống ở đời, dạy cách làm việc đồng áng, cách quản lý nhà cửa gia nhân….  Cha không những chỉ yêu thương hai anh em nó, mà ông yêu thương cả những người đày tớ, làm công trong nhà.  Ông sống chan hòa với làng giềng, già trẻ lớn bé ai ai cũng thương mến.  Trong đầu nó lại hiện lên hình ảnh của nó ngày xưa, thưở nhỏ mặc quần áo đẹp, hay chạy lon ton thả diều bên cạnh cha khi đi thăm đồng, nghe những lời dạy dỗ của cha chữ được chữ mất, tai này lọt qua tai kia.  Nó thấy trước đây khi còn ở với cha, nó cũng đâu tới nỗi nào.  Chỉ từ khi nghe lời bạn bè xấu xúi giục đòi chia gia tài.  Khi có tiền trong tay, xa gia đình, bạn bè xấu vây quanh, nó bắt đầu một cuộc sống đua đòi phóng đãng, không làm ăn, chỉ biết ăn chơi đàng điếm thì núi cũng phải lở.  Nó bị phá sản, ra thân tàn ma dại như ngày hôm nay là một kết quả đương nhiên.  Chỉ xui xẻo cho nó là ngay lúc nó trắng tay thì vùng nó đang ở lại xảy ra một nạn đói khủng khiếp.  Nó thấy tiếc nuối hình ảnh ngày xưa của chính nó.  “Nhân chi sơ, tính bản thiện,” nếu nó chịu lắng nghe lời cha, nếu nó vẫn sống bên cạnh cha nó, nếu nó không nghe lời đám bạn xấu đòi chia gia tài, nếu nó không ăn chơi đàng điếm, nếu… và nếu…!  Bên tai nó cứ văng vẳng nuối tiếc chữ “nếu…” oái oăm.

Nó bỗng choàng tỉnh dậy, người vốn đã mệt lả vì đói, giờ lại thêm hai luồng tư tưởng xâu xé nhau dữ dội như muốn vắt kiệt sức tàn của nó.  Về hay không về?  Về với ông anh cả cũng chết, mà không về cũng chết đường chết chợ.  Nó chợt nhớ tới bài diễn văn nó đang soạn dở trong đầu: “Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.”  Ừ, nó chỉ xin coi nó như một người làm công thôi mà.  Thay vì làm công cho cha, thì giờ đây làm công cho anh cả.  Cũng là làm công, chỉ khác nhau người chủ thôi, có gì đâu mà phải tính toán.  Khuôn mặt hiền lành phúc hậu của người cha hiện lên trong tâm trí như khích lệ ý tưởng đó.  Mái nhà thân yêu ngày xưa của ba cha con, căn phòng nhỏ với cái bàn học xinh xắn góc tường và cái giường thơm mùi gỗ lim, làn khói nghi ngút sực nức mùi thức ăn trong chái bếp sau hè… tất cả như đang vẫy tay mời gọi nó trở về.  Ừ, cha đã khuất nhưng về với mái nhà xưa sẽ cho nó có cơ hội tìm lại chính mình, tìm lại con người mà nó đã đánh mất trong chuyến đi hoang vừa rồi.  Về để tìm lại con người “nhân chi sơ, tính bản thiện” mà cha nó, ngày qua ngày đã dày công dạy dỗ, giáo dục anh em nó với tất cả tình thương và tấm lòng nhân hậu của người cha.

Thế là nó quyết định trở về, dù cái bụng đói trống rỗng thôi thúc, nhưng đầu óc khôn lanh ranh mãnh mách bảo cho nó biết không nên về trong lúc ma chay nhộn nhịp này.  Bà con láng giềng, họ hàng sẽ qưở trách nó, nó sẽ trở thành tâm điểm chú ý của mọi người.  Thôi, nó sẽ ráng sống lây lất đợi thêm vài ngày nữa, chờ cho những ngày chôn cất cha qua đi, cho họ hàng thân thuộc ra về, khi mọi sự trở lại nhịp sống bình thường, để không còn ai chú ý vào sự trở về không kèn không trống của nó nữa.

Đúng như nó dự đoán, người anh cả tuy không vui, không muốn nhưng ông vẫn lạnh lùng chấp nhận sự trở về của nó như một người làm công.  Ông không hạch tội, không trách mắng, chẳng hỏi han, cũng chẳng tỏ chút xót thương cái thân tàn ma dại, đầu bù tóc rối, và áo quần tả tơi của nó.  Giao ước được ký kết rõ ràng giữa hai anh em, nó không còn phần gì trong nhà này, đày tớ làm việc gì, nó sẽ làm việc đó, họ ăn cái gì, nó ăn cái đó.  Ông trả cho họ bao nhiều tiền công, cũng sẽ trả cho nó y như vậy, không hơn không kém.  Nó vui vẻ chấp nhận, miễn sao có cái gì lấp cho đầy bụng, có chỗ tá túc qua ngày, có cái mặc cho ra hồn một con người, lại còn được thêm tiền công.  Còn gì hơn nữa?

Sau vài ngày ăn uống nghỉ ngơi cho lại sức, nó bắt đầu công việc của một đứa làm thuê.  Những ngày đầu làm việc ngoài đồng, nó ngạc nhiên khi thấy đám đầy tớ âm thầm làm giúp nó nhiều công việc nặng nhọc của đồng áng, mà nó vẫn còn lúng túng chưa quen.  Đến bữa ăn, nó lạ lùng khi thấy người hầu len lén đưa thêm phần thịt cá trong bữa cơm của nó.  Quần áo mới thay ra, mắt trước mắt sau đã thấy họ đem đi giặt, và đưa cho nó bộ quần áo gấp ngay ngắn đã được giặt sạch sẽ.  Cái giường nó nằm đã được ai đó kín đáo lót thêm những lớp vải dày để nằm cho êm.  Buổi tối trời trở lạnh, bọn gia nhân lén đưa thêm cho nó tấm chăn bông mượt mà.  Những lúc tay nó phồng rộp lên vì phải cầm cái cuốc cái cày, họ đã giành làm hết phần việc của nó, đưa thuốc cho nó xức, bảo nó nghỉ ngơi cho khỏe.  Người tớ gái còn dấm dúi đưa cho nó cái nón rơm rộng vành để đội dưới ánh nắng trưa hè chói chang ngoài đồng.  Đến ngày lãnh lương, nó nhận được phần lương đầy đủ từ người anh cả như những người làm công khác, vì nó đã hoàn thành xuất sắc công việc đồng áng mà nó được giao.  Nó ngạc nhiên không hiểu tại sao nó lại được sự ưu đãi kín đáo đặc biệt như thế.  Nó không biết từ đâu, nhưng có điều chắc chắn là không phải từ người anh cả lạnh lùng hay ghen tị, vẫn nhìn nó với ánh mắt đố kỵ, và chẳng bao giờ thèm nói chuyện với nó.  Nó chẳng màng điều đó, nó chỉ thắc mắc và muốn tìm hiểu nguyên nhân.

Ngày qua ngày, nó đã từ từ lại sức và lấy lại phong độ của một thanh niên đang tuổi trưởng thành.  Căn nhà xưa không thay đổi gì nhiều so với lúc trước khi nó đi hoang, gợi nó nhớ lại hình ảnh của người cha, và những lời dạy dỗ của cha như vẫn còn văng vẳng đâu đây trong không gian thân thương này.  Bọn gia nhân trong nhà, những kẻ làm thuê ngoài đồng vẫn nhìn nó với ánh mắt kính nể, vẫn lễ phép thưa gởi nhẹ nhàng như nó vẫn còn là cậu chủ trong nhà, đã phần nào giúp nó lấy lại sự tự tin và phong thái của một cậu chủ.  Đôi khi nó cũng lúng túng không biết mình là ai trong căn nhà này.  Một cậu chủ hay một kẻ làm thuê?  Dưới cái nhìn khinh ghét và miệt thị của ông anh cả, thì nó đúng là một kẻ làm thuê, ngày ngày sắp hàng lãnh nhận tiền công.  Nhưng dưới con mắt của bọn gia nhân, nó thấy mình vẫn là một cậu chủ ngày xưa.

Thôi mặc kệ, cậu chủ hay kẻ làm thuê không quan trọng.  Những tháng ngày qua đã dạy cho nó biết rằng giá trị và nhân phẩm của một con người không phụ thuộc vào giai cấp hay tiền bạc.  Điều nó muốn là giải tỏa những khúc mắc trong lòng từ bao lâu nay.  Một hôm nó chặn một đứa gia nhân đang mang phần cơm ngon nóng hổi ra cho nó, hỏi tại sao nó lại được sự ưu đãi như thế.  Đứa gia nhân luống cuống ấp a ấp úng, gãi đầu gãi tai:

–  Thưa cậu, thưa… vì trước khi chết, ông chủ có dặn…., ông chủ có lo… có… để lại phần tiền để lo cho cậu khi cậu trở về.

Nói xong tên gia nhân lẩn nhanh đi mất như sợ bị tóm lại hỏi thêm.  Nó ngạc nhiên đến thẫn thờ.  Cha dặn…?  Sao cha biết có ngày nó trở về mà dặn dò như thế?  Hôm sau ra đồng, nó hỏi một đứa đầy tớ đang cày cho phần ruộng của nó.  Đứa đầy tớ sau một lúc lúng túng ấp úng, rồi cũng cho nó câu trả lời giống tên kia.  Buổi tối nó hỏi người quản gia, bà bếp… thì ai ai cũng bối rối và sau cùng thì cũng một câu trả lời như nhau.  Họ không nói rõ là cha dặn những gì, để lại phần tiền bao nhiêu để lo cho nó.  Họ cứ lắp bắp mãi câu:  “Ông chủ dặn… ông chủ lo… ông chủ đưa tiền trước….. cậu không cần phải bận tâm!”  Tất cả là một sự lo lắng khôn ngoan đầy yêu thương của cha nó, tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ như bà mẹ chăm con thơ, từ đầu đến chân, từ khi nó còn đang đi hoang ở mãi tận chân trời nào.

Nó nghẹn ngào, từ từ nó mới nhận ra được tình yêu sâu thẳm của cha dành cho nó.  Ông vẫn ấp ủ niềm hy vọng có ngày nó sẽ trở về.  Ông cũng lo sợ ngày đó ông không còn sống để đón nó trong vòng tay, để ôm ấp xoa dịu những vết thương của nó, để sai gia nhân đưa áo đẹp nhất cho nó mặc, xỏ nhẫn vào tay cho nó, mang dép vào chân cho nó.  Ông đã lo lắng cẩn thận trước mọi sự, mọi ngõ ngách, tính toán trước những tình huống có thể xảy cho đứa con dấu yêu.  Những sự chăm sóc, quan tâm chu đáo của đám gia nhân, càng làm nó cảm thấy nao nao nghèn nghẹn trong tim.  “Cha ơi…!”  Nó buột miệng khẽ gọi!  Trái tim nó thổn thức bồi hồi, hai dòng nước mắt lặng lẽ tuôn rơi trong bóng đêm.  Đến bây giờ nó mới nhận ra được tình yêu thương vô bờ bến của cha.  Đến bây giờ nó mới hiểu được tấm lòng bao la, ẩn sau khuôn mặt nghiêm nghị, mà đôi khi nó cảm thấy khó gần gũi.  Muộn mất rồi!  Nó gục đầu xuống ôm mặt nức nở!  Cha đã không còn sống để nó có thể qùy xuống, nói lên lời tạ lỗi chân thành từ trái tim thống hối ăn năn, chứ không phải là một bài diễn văn được soạn trước vì cái bao tử.  Cha đã ra đi trước để nó không thể nói lên lời yêu thương, mà hình như chưa bao giờ nó nói với cha.  Từ lúc nào đó, trái tim chai sạn của đứa con nghịch tử đã bắt đầu biết yêu cha mình.

Ngày tháng trôi qua, những cử chỉ chăm sóc ưu đãi của đám gia nhân không lọt qua được ánh mắt quan sát khắt khe của người anh cả, nó trở thành cái gai nhọn trong mắt ông anh.  Ông hậm hực xốn xang chỉ muốn bứng nó đi cho khuất mắt, nhưng hình như lại không dám.  Ông có vẻ còn e dè lưỡng lự, có lẽ như ông cũng đang vướng vào một lời hứa nào đó với cha.

Một ngày đẹp trời, người anh cả kêu hết đám thợ làm công, gia nhân, những người giúp việc trong nhà, và nó ra bàn chuyện.  Ông nói muốn bán hết tất cả những thưở ruộng và căn nhà của cha để lại để đi làm ăn phương xa.  Ông sẽ cho tất cả mọi người trong nhà nghỉ việc kể cả nó, không giữ lại ai hết, và cũng không giữ lại một cái gì.  Mọi người xôn xao bàn tán, người thì bất bình, kẻ thì hậm hực tỏ vẻ phản đối trước quyết định không thu phục lòng người này, còn nó thì lặng thinh không chống đối.  Nó cúi mặt xuống tư lự, di di ngón chân trần trên đất, nơi nó đã được sinh ra và lớn lên, nơi đã chứng kiến ngày nó đi hoang và trở về.  Số phận thật trớ trêu với nó, khi nó cất bước trở về, thì cha lại bỏ nó ra đi, khi nó bắt đầu chớm nở tình yêu với căn nhà thân thương và mảnh đất quê cha đất tổ này, thì người anh lại muốn bán đi tất cả.  Nó đâu còn cổ phần gì trên số gia tài này để nói lên ý kiến của mình.  Nó lấy quyền gì để khuyên răn hay ngăn cấm người anh cả?  Nó chặc lưỡi xót xa, cha dưới suối vàng chắc sẽ buồn lắm nếu anh nó bán đi ngôi nhà tổ, và ruộng nương từ bao đời để lại.  Nó cảm thấy tiếc nuối và cay đắng trong lòng.  Đứa đi hoang thì muốn ở lại.  Kẻ ở nhà thì lại muốn đi hoang!  Thôi, đành chịu vậy!  Nếu nó đã từng gom góp tất cả phần gia tài của nó để trẩy đi phương xa, bây giờ đến phiên người anh cả, thì tại sao lại không được chứ?  Công bằng thôi mà!  Nó nhún vai, không sao, chỉ sợ cha buồn!  Phần nó cũng chẳng lo, cũng may mà nó đã để dành được vài tháng tiền làm công, tích góp được một số kinh nghiệm sống trong những tháng ngày qua.

Vì cần bán nhà và ruộng nương nên một vài vị cao niên trong làng, và trưởng tộc trong dòng họ được mời tới để mở di chúc của cha nó để lại.  Láng giềng và họ hàng ai cũng biết chuyện nó lấy nửa phần gia tài bỏ đi hoang, nên chắc chắn phần gia tài còn lại trong nhà, đương nhiên sẽ thuộc về người anh cả thôi.  Họ tới và làm như một nghi thức chiếu lệ để chứng thực tính hợp pháp của căn nhà, và những cánh đồng bao la bát ngát.  Di chúc được mở ra, ai ai cũng kinh ngạc sững sờ khi biết phần gia tài được chia đều cho hai người con, người anh cả một nửa và người con út một nửa, hai phần bằng nhau không hơn không kém.  Tất cả nhà cửa và ruộng vườn khi muốn bán thì phải có sự đồng ý của cả hai anh em.  Đứa con út đã từng bỏ nhà đi hoang phải được cư xử và kính trọng như một người con trong gia đình, một cậu chủ trong nhà, chứ không phải là một người làm công, một kẻ thất bại hay ăn bám.  Người con thứ cũng có đầy đủ quyền hành trong nhà để tham gia vào những việc ma chay, hay những quyết định quan trọng trong gia đình và dòng tộc.

Nó mở to mắt kinh ngạc, miệng há hốc ú ớ cứ như đang ở trong mơ.  Nó bàng hoàng tưởng mình nghe lầm, hay người ta đọc lộn.  Nó không chắc cha có tỉnh táo, có đủ trí nhớ không khi viết bản di chúc này?  Chắc ông đã quên là đã chia cho nó phần nửa gia tài rồi mà.  Chắc ông không nhớ nó là đứa con phá gia chi tử hay sao?  Ông không sợ nó lại đi hoang lần nữa sao?  Nếu không vì lo buồn trông mong nó thì liệu ông có mất sớm như vậy không?  Nó cảm thấy như nghẹt thở, mắt hoa lên, nó đưa tay đè lên trái tim thổn thức rồi òa lên khóc như đứa trẻ thơ, miệng mếu máo: “Cha ơi!”

Người anh cả sau giây phút bàng hoàng trước sự thật phũ phàng, ông nhắm mắt, lắc đầu, bịt tai la to lên: “Không, không thể như thế được!”  Ông giận dữ bắt đầu la hét, đập phá, chửi rủa mọi người là giả dối, bất công, rồi ông hét to lên ôm đầu chạy ù ra cửa, hung hăng như một người điên.  Đám gia nhân và những người làm công nãy giờ đứng xớ rớ trong góc nhà, giờ thì ôm nhau vui mừng nhảy múa, có người sung sướng đến chảy nước mắt như chính họ được hưởng phần gia tài vậy.  Họ biết chắc một điều là họ sẽ được giữ lại trong ngôi nhà này, với những công việc cũ, với người chủ cũ, và sẽ chẳng có gì thay đổi cả.  Họ hân hoan hạnh phúc với niềm vui của cậu chủ nhỏ, mà giờ đây chính thức trở thành chủ của họ.  Họ vui mừng vì từ bây giờ họ có thể phục vụ, chăm sóc cho cậu chủ một cách công khai, như lời dặn dò của người cha, chứ không phải là trong lén lút như những tháng ngày qua.

Mọi người còn chưa hết ngạc nhiên, người quản gia già đi vô nhà trong một lúc, rồi khệ nệ bưng ra chiếc áo đẹp nhất mà người cha đã chuẩn bị sẵn để mặc cho nó.  Đại diện cho người cha đã khuất, ông xỏ vào tay nó chiếc nhẫn ấn tín tượng trưng cho quyền bính của người con, và xỏ vào chân nó đôi giầy, dấu hiệu của người con trong gia đình.  Hôm đó, bê béo được giết và một yến tiệc linh đình được khai mạc để chính thức chào đón đứa con đi hoang trở về trong cương vị một người con, một cậu chủ, theo lời dặn dò của người cha nơi chín suối.  Họ vui mừng nhảy múa, đàn ca hát xướng đến tận đêm khuya.  Trăng đêm nay sáng quá, vầng trăng tròn trên bầu trời mang dáng dấp khuôn mặt của người cha nhân hậu nở nụ cười, tuy nụ cười chưa được trọn vẹn mãn nguyện vì buổi tiệc vắng bóng người anh cả.  Ánh trăng lung linh như cõi lòng bao la của người cha chiếu sáng cả một dải đất hiền hòa, để niềm vui của những người dự tiệc được kéo dài mãi.  Những vì sao lấp lánh trên bầu trời như đang nắm tay nhau nhảy múa, hòa chung với niềm hân hoan của mọi người trong gia đình xóm làng.

***********************

“Có Nên Trở Về Khi Cha Khuất Bóng?” không chỉ là mối ưu tư trằn trọc, một sự dằng xé quyết liệt của người con đi hoang trước hai ngã rẽ cuộc đời, mà đó cũng là sự đấu tranh nội tâm, sự lựa chọn sống chết của mỗi người trong cuộc sống.  Hình ảnh người cha đã khuất là những lúc khô khan nguội lạnh trong đời sống thiêng liêng, là đêm tối của tâm hồn, những lúc bị thử thách không cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa, là khi Thiên Chúa ẩn mặt, tình yêu im tiếng, khi tôi bị bỏ rơi trong tuyệt vọng…. trong những lúc khó khăn như thế, tôi có nên trở về với Người Cha Nhân Hậu, về với nhà thờ, và về với chính lòng mình không?

Người con hoang đàng đã chọn câu trả lời và có một kết qủa bất ngờ, còn bạn thì sao?

Lang Thang Chiều Tím
Mùa Chay Năm Thánh Lòng Thương Xót 2016

MỪNG NGÂN KHÁNH LINH MỤC

ZZKính cha,

Nhân dịp mừng 25 năm ngân khánh linh mục của cha, con xin mạo muội gởi đến cha “Những Lời Chúc Mừng,” và những tâm tình mà con đã cảm nhận được về “Nét Đẹp Đời Linh Mục” trong “Ngày Lễ Bạc” của cha.

Nước Mắt và Hạnh Phúc hòa lẫn với nhau trênĐường Đời, ai rồi cũng phải nhận định Tìm Ý Chúa” để  Tìm Một Bến Bờ, hayChọn Một Con Đường cho mình bước đi.  Linh Mục” là người nhận ra Lối Đi Của Ơn Sủng, quảng đại đáp trả lạiTiếng Gọi Trên Cao, để mặc cho mình một Căn Cước đặc biệt trongGiáo Hội.”  Khác vớiNiềm Tin Của Thầy Sadhu hoang mang không biết Khi Nào Ngày Bắt Đầu,” “Linh Mục thì biết rõ conĐường Mình Đi, bởi vì cho dù Phêrô Lỗi Phạm,Phêrô Chối Thầy bảy mươi bảy lần bảy, thì Tình YêuƯớc Mơ Của Chúa vẫn tuôn đổ tràn trề trên nhữngKẻ Theo Ngài.

Ai bảo Linh MụcNgười Đổ Rác tội nghiệp trên đường?  Con thấy cuộc đời Linh Mục thật đẹp, như một Cánh Hoa Trên Gành Đá,Bóng Mát tỏa lan trên con Đường Hẹp.”  “Linh Mục với những Thánh Lễ và Đồng 50 Rúppi” đã mở cửa cho Lối Đi Của Ơn Sủng” len lỏi vào ngõ ngách của những cuộc đời Cô Đơn,”Dang Dở” tràn ngập những khổ đau.

25 năm trôi qua, Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục đã bộc bạch cho thế nhân tỏ tườngNỗi Lòng Người Chăn Chiên, khi vị cha già phải ky cóp từng đồngBán Ruộng để xây Nhà Thờ cho con chiên.  Trang Hồi Ký Của Tòa Giải Tội 25 năm qua đong đầy bao giọtNước Mắt ăn năn, dẫn đưa những cuộc đời Vắng ChúaTrở Về với Giáo Hội,Thiên Chúa Ba Ngôi.”  25 cuốn lịch đã được gỡ xuống trong cô tịch là những Dòng Sông và Câu Chuyện Đời” của bao kiếp người lầm than chất chứa lên đôi vai gầy người Linh Mục.”  “Thời Gian 25 năm đã tỏ lTâm Sự Một Người Cha, với Tình Yêu” “Bao Dung hải hà trải dài cho đứa con hoang đàng cũng như thằngAnh Cả, cho người Trong Đạo cũng nhưNgoại Đạo.”  25 năm qua rồi, vị Linh Mục trẻ ngày xưa giờ tóc đã điểm bạc, đâu mong mỏi gì Của Dâng Cho Cha Của Biếu Cho Mẹ của đàn chiên, Nỗi Lòng Cha giờ chỉ mong ước đàn chiên mình có thể “Nghe Tiếng Chúa Nói,” và thực hiện Ước Mơ Của Chúa đặt để nơi tâm hồn mỗi người, “Để Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn trên đường đến với “Nước Trời.”  25 năm là một trong Những Mốc Đường quan trọng của đời người, nhưng chẳng cần đi vàoSa Mạc để nhận Định Lại Những Giá Trị đã chọn của một thời đã qua, Lý Tưởng”  vẫn sáng rực trong tim đẩy đưa những Bước Chân Đon Đả mạnh dạn tiến bướcTrên Đường Về nhà Cha.

Mang trong mình phận người mong manh dễ vỡ, 25 năm quaLinh Mục cũng có những lúc Yếu Đuối khi trái tim thổn thức sai nhịp với Tiếng Gọi Bên Rừng Thu.  Đôi khi lòng vấn vương xao xuyến với nỗi Sầu Riêng, khi Tâm Hồn và Nỗi Trống Vắng bị bủa vây bởi niềmCô Đơn bên ánh Trăng Đêm bàng bạc.  Đôi khi đơn giản chỉ là những Lo Âu vu vơ trướcNhững Cái Nhìn quá đỗi tha thiết qua những Đôi Mắt” biết nói, khéo Trang Điểm của con chiên.  Nào ai trách được khi Dấu Chân Xưa của cố nhân bên cánh rừngMầu Tím Hoa Sim ngút ngàn những cánhHoa Thương Nhớ lại thoáng trở về trong ký ức.  Có dễ đâu để quên Lời Trên Sân Ga ngày ấy?   “Kỷ Niệm: Hạnh Phúc Hay Vết Thương?” làm sao để quên được một kỷ niệm đẹp của thời mộng mơ?  Thật là Gian Nan Cho Niềm Tin nhất là Khi Người Không Đáp Trả.”  Thế đấy, ai bảoLinh Mục là người không biết đếnTình Yêu và Đau Khổ” của kiếp nhân sinh. Hương Sắc Của Gai đong đầy những giọt Nước Mắt” phân vân khó định. Con Biết Con Cần Chúa” biết bao trong giây phút lao đao này, Chúa ơi!  Nhưng khi con nhìn xuống đôiBàn Tay đã từng được diễm phúc cầmMình Thánh Chúa, trái tim loạn nhịp lại thổn thức với Tiếng Gọi Phía Bên Trong thiêng liêng, để trở về với căn tính của mình.  Với Lời Nguyện Của Cây Đèn Chầu,” “Sức Mạnh Của Bí Tích, và đặc biệt là sự trung thành với câu Kinh Chiều” bên Thánh Thể, rồi sóng gió bão lòng cũng qua đi trong ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi, trong sự chở che Bao Dung của Mẹ Thiên Chúa.”  Tạ ơn Chúa đã cho nhữngKẻ Theo Ngài thấy rõ Thương Yêu Là Trung Thành” với Ơn Gọi của mình.  Tìm nhau không nhất thiết là phải có nhau.  Đường Đi Một Mình giờ lại thấy thênh thang hạnh phúc hơn.  Xuân Tâm Hồn” lại rộn lên khúc hoan ca.

Tạ Ơn Là Một Tâm Tình đẹp dù có tạm mượn tựa bài suy niệm của người khác để viết lên tâm tìnhBiết Ơn của mình.  Cám ơn cha ngày xưa đó đã gác qua nỗi lắng lo cho Đôi Chân Đau của cha già, vuốt giọtNước Mắt mẹ hiền trong ngày chia tay, mang theo mìnhMùa Xuân Im Lặng Trong Đôi Guốc, “Tấm Hình Của Mẹ” mà mạnh dạn Lên Đường.”  Cám ơn cha đã từ chối Tấm Thiệp Cưới năm xưa, trả lại Chiếc Nhẫn để mặc người Đi Trong Nỗi Buồn mà quảng đại đáp trả lại Ơn Gọi thiêng liêng, để Giáo Hội có những chứng nhân sống động trong thời đại mới.  Cám ơn cha đã dìu dắtNhững Bước Chân chập chững của nhữngKẻ Đi Tìm trên bước Đường Đi Hành Hương.”

Xin gởi đến chaÐôi Điều Suy Nghĩ của con, như mộtCánh Thư Mađalena, hay như một Tặng Phẩm nhân dịp kỷ niệm Ngày Lễ Bạc.”  Đây là Lời Nguyện Cầu Của Một Người Con”Viết Trong Tâm Hồn gởi đến vị cha chưa già nhưng đã vội khó tính.  Chúc cha luôn Trí Sạch – Tâm An và mong có cơ hội đểChúc Mừng cha một lần nữa trongNgày Lễ Vàng.  Mong rằng 25 năm sau, thế nhân sẽ được nghe tiếp những Truyện Cổ Tích Chưa Được Kể.”

Lang Thang Chiều Tím
May 2014

 

PHÔI PHA

ZZÔm lòng đêm / nhìn vầng trăng mới về / nhớ chân giang hồ / ôi phù du / từng tuổi xuân đã già / một ngày kia đến bờ / đời người như gió qua.

Không còn ai / đường về ôi quá dài / những đêm xa người / chén rượu cay / một đời tôi uống hoài / trả lại từng tin vui / cho nhân gian chờ đợi.

Về ngồi trong những ngày / nhìn từng hôm nắng ngời / nhìn từng khi mưa bay / có những ai xa đời quay về lại / về lại nơi cuối trời / làm mây trôi.

Thôi về đi / đường trần đâu có gì / tóc xanh mấy mùa / có nhiều khi / từ vườn khuya bước về / bàn chân ai rất nhẹ / tựa hồn những năm xưa.

Trịnh Công Sơn

*********************************

“Ôm lòng đêm, nhìn vầng trăng mới về… ” Giọng ca trầm bổng của ca sĩ Nguyên Khang cất lên nhè nhẹ trong đêm khuya thanh vắng, như ru hồn người vào cõi cô tịch với chị Hằng.  Điệu nhạc da diết quyện với những ẩn chứa sâu lắng trong từng ca từ “Phôi Pha” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn làm thổn thức cõi lòng ai, như thức tỉnh người nghe về với một thực tại phũ phàng của“từng tuổi xuân đã già,” khi bên mình “không còn ai.”  Theo phóng sự trong ngày lễ an táng ông, nhạc phẩm “Phôi Pha” là một trong những bản tình ca được viết năm 1956, khi nhạc sĩ mới 17 tuổi.  Ông đã thưởng thức “chén rượu cay, một đời tôi uống hoài” khi chưa đủ tuổi để uống rượu, đã ý thức sẽ có ngày phải “trả lại từng tin vui, cho nhân gian chờ đợi” khi chưa bắt đầu sự nghiệp, đã suy tư về từng tuổi xuân đã già” ngay khi còn rất trẻ, gẫm suy về sự chết ngay khi còn sống “một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua.”  Một cuộc đời luôn suy tư thao thức về thân phận con người.

Với “Chén rượu cay, một đời tôi uống hoài,” nhạc sĩ họ Trịnh như đã chấp nhận chén rượu cay đời mình, không trách móc than phiền, cũng chẳng hận đời oán người.  Mượn ánh trăng, lời nhạc nửa thực nửa ảo để trang trải tâm sự một cõi lòng u uất cô đơn một mình bên ly rượu.  Dù cay, dù một mình nhưng vẫn phải uống, uống hoài, uống mãi, uống đến giọt cuối cùng.  Trong kiếp làm người, dù muốn dù không, rồi ai cũng phải cạn ly rượu cuộc đời của mình.  Con Một Thiên Chúa trong thân phận thấp hèn của con người, cũng phải uống cạn chén rượu cay phần mình.  Rượu nào cay hơn?  Chén nào đắng hơn?  Thế gian này không ly rượu nào có thể cay hơn, đắng hơn chén rượu mà Con Một Thiên Chúa đã uống.  Chưa uống mà đã đổ mồ hôi máu.  Mới nhìn chén rượu cay mà đã ba lần cất tiếng van xin Cha cất cho chén đắng đó!  Môi chưa nhấp ly mà tâm hồn đã “cảm thấy buồn rầu xao xuyến,” một “nỗi buồn đến chết” người!  Rồi Ngài cũng đã uống cạn chén đắng trong vâng lời, trong yêu thương những kẻ đã trao chén rượu cay.  Từ từ uống một mình, cô đơn bên cạnh những môn đệ yêu dấu đang vô tư ngủ say sưa (x Mt 26, 36-46 và Lc 22, 44).

Rồi tôi cũng sẽ phải cạn ly rượu đời mình thôi, chưa đến giọt cuối cùng đâu.  Chẳng ai biết trước giọt cuối cùng trong chén rượu đó sẽ có vị như thế nào?  Nhưng tôi tin rằng, nếu có người bạn tri kỷ Giêsu cùng nâng ly, rượu của tôi sẽ vơi bớt vị cay, từng giọt rượu trong ly sẽ được thánh hóa để mang một màu sắc khác, thấm đẫm hương vị thiêng liêng.  Nếu biết uống cùng ai, hẳn sẽ không còn tiếng than ai oán “chén rượu cay, một đời tôi uống hoài,” và chén đắng của Giêsu ngày xưa không trở nên vô ích.

Trong nỗi buồn quay quắt của “những đêm xa người,” bên “chén rượu cay, một đời tôi uống hoài,” đôi mắt tâm hồn của nhạc sĩ họ Trịnh như được mở ra để thấy rõ sự vô nghĩa của những gì một đời mê mải kiếm tìm.  Những tin vui của thời xuân xanh: thành công, nhà lầu, xe hơi, sự nổi tiếng, chinh phục, chiếm đoạt, bằng cấp, chức tước, v.v…  tất cả nay xin “trả lại từng tin vui, cho nhân gian chờ đợi.”  Một thời để góp nhặt, một thời để trả lại!  Điểm lạ nơi ông là mới 17 tuổi, chưa ky cóp được gì, chưa bắt đầu bon chen với đời mà đã ý thức là sẽ có ngày phải “trả lại từng tin vui, cho nhân gian chờ đợi.”  Vì ông biết cần gì nữa đâu khi “một ngày kia đến bờ,” mang gì theo đâu “đời người như gió qua!”

“Thôi về đi, đường trần đâu có gì,” cung nhạc bỗng trầm xuống, lời nhạc tha thiết xuống nước như một lời năn nỉ thuyết phục ai đó hãy quay về.  Về đi, đường trần có gì vui đâu.  Có chăng cũng chỉ là những cuộc vui tạm bợ chóng qua thôi mà!  Về đi, trước khi quá muộn màng.  Đường trần có vui thì đến lúc nào đó cũng “không còn ai.”  Về đi, trước khi thấy “đường về ôi quá dài.”  Về đi, mà ai cần phải về?  Tác giả mời gọi người tình xưa trở về với mình, hay là một lời mời gọi chính mình trở về với cái nội tại của mình?  Về đi, tiếng nài nỉ như níu kéo bước chân giang hồ, nhưng về đâu?  Về với ai?  Về để làm gì?

“Về lại nơi cuối trời, làm mây trôi” ư?  Nghe thật thơ, thật lãng mạn nhưng mây làm gì có bến đỗ?  Rồi lại tiếp tục một kiếp lãng du khác, tiếp tục lang thang trôi dạt trên bầu trời bao la không nơi đến, không chỗ về.  Rồi trong kiếp mây trôi đó, lại cháy lên một niềm khát khao được trở về một lần nữa.  Bỗng dưng tôi thấy mình thật hạnh phúc vì biết nơi mình sẽ về, vòng tay nào đang chờ đợi tôi nơi cuối trời.  Thì ra khát khao được “v là khát vọng của kiếp nhân sinh cho dù là ai, niềm tin nào, ở đâu.  Ai về với ai, không quan trọng cho bằng vẫn là một cuộc trở về!  Một thời để đi hoang, một thời để quay về.  Về lại nơi tôi xuất phát, về lại với Đấng đã tạo dựng nên tôi, Đấng đã vì tôi uống cạn chén đắng.

“Thôi về đi!” dù chưa biết nơi để về thì hãy về lại với chính mình, về với tiếng gọi rất khẽ trong sâu thẳm tâm hồn, về lại với mái ấm, với bổn phận của người với người.  Về với ai đó đang chờ đợi bước chân tôi.  Về, đôi khi chỉ đơn giản để “nhìn từng hôm nắng ngời, nhìn từng khi mưa bay,” thế thôi, nhưng cũng cần lắm những cuộc trở về.  “Thôi về đi, tóc xanh mấy mùa” đâu mãi xanh hoài!  Về để thấy chén rượu cuộc đời vơi bớt vị cay, để thấy đường đi không quá dài!

Chúa ơi, thật không dễ để làm một cuộc trở về, đôi khi chân đã cất bước nhưng lòng vấn vương “nhớ chân giang hồ,” nếu không có ơn Chúa đổ xuống, chẳng ai có thể quay về.  Xin tiếp tục tuôn đổ mưa hồng ân xuống trên thế nhân, để từng người chúng con đủ can đảm trở về.  Về với Chúa, và về với nhau trước khi trở về với lòng đất mẹ.

Lang Thang Chiều Tím
Lập Thu 2012

NỮ ĐẠO CHÍCH

(Mc 5:25-34)

Ngày xửa ngày xưa… vào thời mà phụ nữ bị đối xử rẻ mạt coi khinh.  Tại một đất nước Do Thái xa xôi, khi mà các ngành nghề trong xã hội từ thượng tầng đến hạ cám không hề có bóng dáng phụ nữ, kể cả nghề… đạo chích.  Thế mà lại có một nữ lưu xuất hiện trong nghề này một cách bất ngờ.  Bà đã ra tay chớp nhoáng, rồi giải nghệ nhanh chóng.  Chỉ hành nghề một lần duy nhất trong đời mà bà sống ung dung hạnh phúc suốt đời.

Vâng, bà quả là một tên trộm tài tình.  Tuy bị bắt gặp quả tang nhưng bà đã được tha thứ, bởi bà đã lấy cái đáng để lấy, và đã ăn cắp của một người đáng để ăn cắp.  Cái tài của bà là cho đến nay, ít ai nhận diện ra bà là một tay đạo chích.  Bà đã từng là một tiểu thư con nhà giàu có, tiền rừng bạc bể.  Nhưng ông trời kể ra cũng công bằng.  Cho bà nhiều tiền lắm của, thì cũng ban thêm cho bà một căn bịnh nan y.  Cái “bịnh đàn bà” mà bà thường xấu hổ không muốn ai biết đến.  Bà bị băng huyết đã mười hai năm rồi (Mc 5:25).  Suốt cuộc đời thanh xuân, bà cứ phải đeo bên mình những chiếc khăn để thấm những giọt máu rỉ rả chảy ra ngày đêm.  Người bà lúc nào cũng thoang thoảng một mùi tanh tưởi khó chịu mà chẳng dầu thơm nào có thể át đi được.  Gia sản kếch sù của mẹ cha để lại đã tiêu dần theo tháng ngày để chữa căn bịnh đáng nguyền rủa kia.  Nhưng khốn thay, tiền mất tật mang, bịnh tình bà ngày càng thêm trầm trọng hơn (Mc 5:26).  Hạnh phúc gia đình bà cũng đội nón ra đi, vì có ông chồng nào lại muốn sống chung với người vợ bị bịnh băng huyết trầm kha như bà?

Bà đã có tất cả để rồi mất tất cả: tiền bạc, tình yêu, hạnh phúc gia đình, quyền làm vợ, làm mẹ.  Đời bà chìm sâu trong khổ đau nước mắt suốt những năm tháng dài.  Sống với nỗi bất hạnh đớn đau, bà chỉ cắn răng chôn chặt trong lòng mà chẳng dám tỏ cùng ai.  Tỏ ra mà chi, ai có thể cứu được bà khỏi nỗi oan khuất cuộc đời này?  Trong cay đắng tuyệt vọng, bà nghe loáng thoáng tin đồn về một vị ngôn sứ mới xuất hiện, thường hay rao giảng, và làm phép lạ bên bờ Biển Hồ gần nhà bà.

Như chết đuối gặp được chiếc phao, bà thầm nghĩ sao bà không đi gặp vị ngôn sứ đó, và xin ông chữa lành cho bà khỏi căn bịnh nan y, như ông đã từng chữa lành những người què cụt, đui mù, phong hủi khác?  Rồi bà lại lưỡng lự do dự.  Bao nhiêu tiền bạc còn không hết, huống chi là chữa bịnh miễn phí!  Bà lại tới lui đắn đo… nhưng nếu ông ta chữa cho bà được lành bịnh thì sao?  Ngược lại nếu không khỏi bịnh, thì bà có bị mất cái gì đâu?  Bà chẳng còn gì để mất nữa!  Được ăn cả, ngã về không!  Một canh bạc chỉ có lời chứ không có lỗ.  Bà phải đánh liều với canh bạc cuộc đời này vậy, đánh liều với số phận đen đủi đã bám theo bà bao nhiêu năm nay.

Thế là bà lân la tìm hiểu về đường đi nước bước của vị ngôn sứ mới nổi lên trong vùng.  Ông tên Giêsu, được người ta xưng tụng là Con Thiên Chúa.  Ông thường kêu gọi mọi người ăn năn hối cải vì Nước Thiên Chúa đã đến gần.  Quanh ông lúc nào cũng có những đám đông vây kín, hết vòng trong đến vòng ngoài.  Ngoài trừ các môn đệ, ít ai có cơ hội “chụp” được lúc ông đi riêng một mình.  Vậy thì làm sao bà, một phụ nữ xa lạ, lại có thể tiếp cận được với ông để xin chữa bịnh cho mình?  Bà lại chẳng quen ai trong đám môn đệ của ông để mà chạy chọt nhờ vả.  Nếu giỏi chen lấn đến được gần bên ông, liệu bà có đủ can đảm nói rõ căn bịnh của mình trước đám đông ồn ào hay không?  Không, bà không đủ can đảm.  Bà xấu hổ với căn bịnh kín này, mà chẳng biết là do tội của bà hay tội của cha ông để lại, thì làm sao bà dám tự thú trước đám đông như vậy.

Nếu không có cơ hội để xin thì phải đành… ăn cắp vậy.  Chà, một vụ trộm giữa thanh thiên bạch nhật đây, mà bà lại là người không có chuyên môn.  Tự nhiên bà hồi hộp lưỡng lự chùn bước, nếu bị bắt gặp quả tang thì sao nhỉ?  Chắc không sao đâu, đành liều mạng vậy thôi vì không còn cách nào khác.  Nạn nhân của bà là Ngôn sứ Giêsu nhìn cũng thật thà hiền lành.  Cái mà bà muốn lấy cắp là năng lực, là thần khí ở nơi ông.  Tự trong đáy lòng, bà xác tin mạnh mẽ rằng nếu được đến gần vị ngôn sứ đó, được rờ vào tua áo ông, ăn cắp nguồn sinh lực dồi dào nơi ông thì bà sẽ được chữa lành.  Phải, chỉ cần rờ vào tua áo ông thôi.  Bà nín thở nhắm mắt lại hình dung cảnh bà hết bịnh, khoẻ mạnh tung tăng tràn đầy sức sống… Và biết đâu ông sẽ không biết nguồn năng lực bị lấy cắp?   Bà nhẹ nhõm với ý nghĩ này, và lên chương trình hành động cho mình.

Một chiều thu nắng đẹp, trời trong veo, bà có mặt trong đám đông náo nhiệt đang vây quanh vị ngôn sứ Giêsu để nghe giảng.  Bà chen lấn, cố lách mình qua đám thanh niên vạm vỡ, rồi đến nhóm đàn bà con gái lì lợm không chịu nhường bước cho ai.  Tấm thân bịnh hoạn mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhại, bà thở hắt ra, và muốn bỏ cuộc.  Không, bà không được bỏ cuộc, phải ráng lên, chỉ còn vài bước nữa thôi.  Bà cố gắng vét chút hơi tàn để lách tấm thân gầy gò qua hai chú nhóc con đang mải nói chuyện với nhau.  Tới gần rồi, nhưng không thể ráng thêm được nữa.  Sao mà đông thế này!  ZZBà cảm thấy ngộp thở, muốn qụy xuống mặc cho làn sóng người đẩy đưa.  Bà giơ cánh tay về phía trước quờ quạng khua khua trong không khí, coi may ra có chộp được cái gì hay không.  Hụt rồi!  Bà thất vọng bỏ tay xuống thở hổn hển, cố ráng thêm một lần nữa xem nào.

Chợt một cơn gió nam ùa tới thổi tung vạt áo vị ngôn sứ bay về phía bà.  Bà mừng rỡ rướn người đưa tay về phía trước.  Bàn tay bà chộp được tua áo, bà nắm chặt lấy nó như giữ của qúy trong tay.  Bà nhắm mắt lại, một luồng sinh lực mạnh mẽ từ tua áo vị ngôn sứ chảy ào ào qua người bà.  Luồng điện truyền khắp châu thân, chảy dọc từ chân lên đến đỉnh đầu.  Luồng điện chạy đến đâu, người bà nóng hừng hực đến đó như có thể nổ tung ra.  Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh (Mc 5:29).  Buông vạt áo ra, bà cảm thấy khoẻ khoắn tràn đầy nhựa sống, như được tái sinh con người mới.  Đứng thẳng người, bà mở mắt hít một hơi dài làn không khí trong lành vào hai buồng phổi.  “Khỏi thật rồi!  Lạy Thiên Chúa của con!”  Bà lẩm bẩm và lặng người đi trước niềm vui bất ngờ quá lớn lao này.  Tâm hồn lâng lâng trong niềm hoan lạc, đầu óc bà bắt đầu nghĩ đến việc nhẹ nhàng rút êm, càng sớm càng tốt.  Bước chân chưa kịp lẩn trốn, bỗng bà giật thót mình khi nghe tiếng hỏi vang vang bên tai:

–  Ai đã sờ vào áo tôi? (Mc 5:30).

Bà kinh hãi chết đứng tại chỗ: “Trễ rồi sao?  Vị ngôn sứ đã biết rồi ư?  Làm sao bây giờ?”  Bà lặng người nín thở không dám lên tiếng, mặt cúi gằm xuống đất để tránh né cái nhìn tìm kiếm của ông Giêsu.  Đám đông ngơ ngác nhìn quanh.  Ngạc nhiên nhất là các môn đệ, mắt họ dáo dác nhìn nhau lắc đầu, chẳng ai hiểu Thầy mình muốn hỏi gì.

Tất cả chìm trong lặng im, chẳng thấy ai lên tiếng trả lời cho câu hỏi kỳ lạ.  Cuộc rao giảng nhường chỗ cho một vụ án mới, mà nạn nhân giờ đây đang truy tìm thủ phạm.  Lại tiếp tục thinh lặng!  Luật sư Phêrô đứng ra trả lời thay cho đám đông.  Nhưng thay vì lên tiếng binh vực cho nạn nhân Giêsu, ông nói lên một sự thật rất logic trước câu hỏi như ngớ ngẩn của thân chủ mình:

–  Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?” (Mc 5:31).  

Nạn nhân Giêsu không thèm đếm xỉa đến câu nói “phản án,” mang đầy tính binh vực cho bị cáo của luật sư Phêrô.  Ngài tiếp tục nhìn chằm chằm vào đám đông đang xô đẩy xung quanh, như quyết truy xét bị cáo cho đến cùng.  Ánh mắt sáng quắc quét qua từng người làm cho ai nấy đều khiếp vía lui lại vài bước.  Ai ai cũng lắc đầu không hiểu vị ngôn sứ đang tìm kiếm gì nơi đám đông?  Trong vụ trộm bí ẩn này, chỉ có người bị mất cắp mới biết mình vừa mất món gì.  Và chỉ có tay đạo chích vừa hành nghề xong, mới biết mình vừa “chôm chỉa” được món hàng béo bở gì.  Câu hỏi có vẻ như ngây ngô của nạn nhân Giêsu chỉ có người trong cuộc mới hiểu được.  Nó không hoàn toàn vô nghĩa như người ta tưởng.

Bà sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình (Mc 5:33).  Thoáng hạnh phúc vì được khỏi bịnh đã tan mau, giờ đây bà lại đương đầu với một vụ án mới mà bà không biết bản án cho tội ăn cắp sẽ là gì?  10 năm, 20 năm, hay 30 năm tù, hoặc là án tử hình?  Bà lo sợ tự hỏi mình như vậy.  Rồi vị ngôn sứ có đòi lại năng lực mà bà vừa mới “chôm” được từ con người của ông hay không?  Rồi bà sẽ bị trả về với căn bịnh cũ, và thiên hạ sẽ cười chê bà về tội ăn cắp?  Tim bà quặn thắt lại, bà phải làm sao đây?  Bà nghe nhiều về những việc chữa lành của vị ngôn sứ nhưng bà hoàn toàn không biết gì về con người của ông ta cả.  Giêsu là con người như thế nào nhỉ?  Nhân hậu cảm thông với những người ốm đau bịnh tật, hay thẳng tay theo đúng luật lệ như mấy ông Pharisêu?  Tội của bà có thể tha thứ được không?  Ông ta có kết án bà không?  Bao nhiêu câu hỏi quay cuồng trong đầu khiến bà run sợ, cúi gằm mặt xuống đất không dám nhìn vào ánh mắt Giêsu.

Câu hỏi một lần nữa lại được vang lên một cách nghiêm khắc:  “Ai đã sờ vào áo tôi?”

Không thể chần chờ và giữ kín được nữa rồi, bà run rẩy bước ra khỏi đám đông, và phủ phục trước mặt Giêsu.  Sau vài câu đầu lắp bắp vì sợ hãi, thần khí sự thật nay đã ở trong bà, ban thêm cho bà ơn can đảm, giúp bà mạnh dạn kể lại toàn bộ sự việc trước mặt đám đông, và ngôn sứ Giêsu.  Bà thú thật về căn bịnh băng huyết 12 năm của mình, về ước ao được chữa lành, về niềm tin nếu đụng vào áo của Giêsu thì sẽ được chữa lành, và sự thật bà đã được khỏi bịnh tức khắc ngay khi vừa đụng vào áo của ông như thế nào.

Kể xong, bà lặng im thổn thức cúi đầu chờ đợi, hai hàng nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.  Bà như một bị cáo hồi hộp đứng chờ quan tòa tuyên án.  Nạn nhân Giêsu nhẹ nhàng đặt tay lên vai bà như truyền thêm cho bà sức mạnh tình yêu, thứ mà bà chưa biết nơi con người Giêsu.  Với giọng trầm ấm nhân từ, Ngài nhỏ nhẹ nói:

–  Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an, và khỏi hẳn bịnh (Mc 5:34).

Bà ngạc nhiên mừng rỡ như không tin vào tai mình.  Như vậy là ngôn sứ Giêsu không đòi lại Thần khí mà bà vừa mới lấy cắp được ư?  Ông không kết án bà sao?  Không những đã tha tội cho bà mà ngài còn khen thưởng về lòng tin, và chúc bà về bình an nữa.  Niềm vui, hạnh phúc, trộn lẫn với những khổ đau trong 12 năm bịnh hoạn đã một thời bị đè nén, giờ ùa ra vỡ tràn bờ đê!  Bà gục xuống ôm chân vị ngôn sứ khóc nức nở.  Những giọt nước mắt của một thời khổ đau thay bà nói lên lời tạ ơn với vị ân nhân tốt bụng.  Giêsu đứng đó, lặng im tôn trọng giây phút thánh thiêng của phận người gặp gỡ nguồn ân phúc cao cả.

Trước đây bà chỉ nghe nói về một ông Giêsu chuyên làm phép lạ, chữa lành những người đau yếu, rao giảng về một Nước Trời xa lạ nào đó.  Giờ đây chính bản thân bà mới có cảm nghiệm của riêng mình về lòng tha thứ nhân từ của Giêsu, về tình yêu Ngài dành cho những kẻ khốn khổ, về ý nghĩa của hai chữ “Nước Trời.”  Cuộc đời bà giờ đã sang trang, một đức tin vững vàng nơi Thiên Chúa nhân từ ở trong một thân xác khoẻ mạnh hồng hào.  Bà có cảm tưởng như bà lại có tất cả.  Vâng!  Sức khoẻ, niềm tin, tình yêu, và một năng lực mới ở trong con người bà, là những món quà thiêng liêng mà vị ngôn sứ Giêsu đã trao tặng lại cho bà, không còn phải là của ăn cắp nữa!  Những giọt lệ nóng vẫn lăn dài trên má, nhưng giờ đây đó là những giọt nước mắt sung sướng hạnh phúc!  Tiền bạc đã hết, danh vọng cũng chẳng còn, bà chẳng còn gì để trả ơn cho vị ân nhân cứu mình, bà chỉ có tình yêu xin được đặt dưới chân Người!

Nắng ngả chênh chếch về hướng tây, đám đông rút lui dần để lại các môn đệ, và hai nhân vật chính trong vụ án khó hiểu.  Vị trạng sư Phêrô nhíu mày lắc đầu, hết nhìn thầy mình, đến người đàn bà, rồi nhìn các bạn đồng môn như vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra.  Tại sao lại có phép lạ kỳ quặc như thế này nhỉ?  Thầy mình ra tay lúc nào mà có phép lạ?  Ông vẫn sờ vào tua áo của thày mình hàng ngày đấy thôi, có chuyện gì xảy ra đâu?  Còn bao nhiêu người khác nữa, cũng đụng vào áo thày mình ầm ầm mà có thấy phép lạ, hay điềm thiêng gì đâu?  Ông không biết rằng những thắc mắc đó chẳng phải là của riêng ông mà còn là những thắc mắc của bao thế hệ sau này.  “Phép lạ là gì?  Lòng tin là gì mà có thể cứu chữa được con người?”  Chẳng ai có thể hiểu được nó chỉ trừ phi họ sống đức tin của mình trước, như người đàn bà bị bịnh băng huyết.  Cho nên dù là một tay đạo chích, bà quả đáng mặt nữ lưu anh hùng của niềm tin để con cháu đời sau noi theo.

Lang Thang Chiều Tím
October 2010

SUY NIỆM HÀNG NGÀY – MƯỜI NĂM NHÌN LẠI

ZZVào những ngày cuối Thu năm 2001, một nhóm bạn trẻ ở Thung Lũng Hoa Vàng đã nhận được những bài suy niệm ngắn gọn được chuyền tay nhau qua email từ người này sang người kia.  Sau đó, vài người bạn bàn nhau thành lập một email-group để chia sẻ kinh nghiệm trong đời sống thiêng liêng và những bài Suy Niệm Hàng Ngày (SNHN) được gởi đến độc giả qua email group này.  Đó là v-sharing@yahoogroup.com.  Lang Thang Chiều Tím, một bút hiệu nhuốm đầy bụi trần, ra đời từ đó để gởi đi các bài SNHN với mục đích không để ai biết tung tích người gởi.

Mục đích ban đầu của SNHN thật rõ ràng, là “… chia sẻ các bài suy niệm, và cầu nguyện cho các anh chị em Vùng Bay.”  Nhưng Chúa Thánh Thần lại có cách làm việc riêng, Ngài không chỉ làm việc “online” với các tâm hồn ở Vùng Vịnh, mà còn thổi luồng gió mới đến các vùng đất khác.  Khi được đánh động, người đọc đã chuyển SNHN cho bạn bè và người thân để cùng chia sẻ một tâm tư, một rung cảm nào đó mà họ đã cảm nhận được.  Người được nhận cảm thấy cùng chung một nhịp đập, lại tiếp tục chuyển thông điệp đi cho người khác, và cứ như thế!  Rồi những e-mail gởi về xin nhận SNHN như những cánh bướm mang mùa Xuân tới cho chương trình.  SNHN bây giờ không còn là của riêng Vùng Vịnh San Jose nữa, mà cũng chẳng thuộc giáo xứ, hay hội đoàn nào.  Và đâu ai biết rằng trong những e-mail xin nhận bài suy niệm, có cả những Phật tử, những anh em ngoài Công Giáo.  Đúng thật Thiên Chúa chẳng là của riêng ai!

Mười năm nhìn lại, số người nhận bài Suy Niệm từ 100 trong buổi ban đầu, nay đã tăng lên gần 3000 với đủ mọi thành phần: Giám Mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, Phật tử, Tin Lành, bổn đạo mới, già trẻ, lớn bé, người Việt trong nước, Việt kiều khắp năm châu bốn bể…  Để đáp ứng với sức sống mới, SNHN đã trải qua ba lần thay đổi email-groups, và đã có nhà riêng ở địa chỉ suyniemhangngay.org

Mười năm nhìn lại, mục đích ban đầu đã được Thiên Chúa biến đổi từ từ.  SNHN bây giờ là tâm tình chia sẻ những cảm nghiệm thiêng liêng trong đời sống đức tin của mọi người, mọi giới, và mọi nơi….  Là những bài ngắn gọn dễ đọc, dễ hiểu, có thể đọc vội vàng hay từ từ suy gẫm bên tách cà phê buổi sáng.  Là những bài sưu tầm lượm lặt đó đây…, là những lời nguyện ngắn gọn, đơn sơ giúp bạn đọc có vài phút lắng đọng hướng tâm tình lên với Chúa trong một ngày làm việc bận rộn.

Mười năm nhìn lại, SNHN cũng trải qua bao thăng trầm như một phận người.  Có những lúc muốn về hưu non vì không đủ sức đi tiếp.  Ban Biên Tập, nghe thật oai nhưng chỉ là hai người, một người tìm và gởi bài một tuần ba lần, còn một người đưa bài lên web, thâu âm mix nhạc, và làm các bài đọc audio file mp3.  Lao đao qua bao tháng ngày vật lộn tìm ý Chúa, tìm người hợp tác… cuối cùng SNHN cũng có lối thoát!  Người thì không có thêm, nhưng công việc được san sẻ, và ơn Chúa lại xối xả tuôn đổ xuống cho những kẻ đang đi giữa phong ba bão táp cuộc đời!

Mười năm nhìn lại, SNHN không chỉ là các bài viết mà còn là các bài đọc dưới dạng audio file mp3.  Từ những bước đầu chập chững của năm 2004 với một giọng đọc nữ, rồi thay kỹ thuật, đổi software, nâng cấp microphone, chuyển cách mix nhạc, chọn bài hát sao cho phù hợp, tìm thêm các giọng đọc nam nữ, v.v…, tất cả là sự cố gắng của những “amateurs” để tạo thêm cơ hội cho Chúa Thánh Thần làm việc.  Cộng tác viên của SNHN dần dần tăng lên con số 6.

Mười năm nhìn lại, biết bao niềm vui khi nhận những e-mail khích lệ, cám ơn, những lời cầu nguyện, và lời chúc tốt đẹp, xin sử dụng bài đọc MP3, xin được chuyển ngữ bài viết qua tiếng Hoa, xin được dùng bài viết trong trường Việt Ngữ, xin được đăng bài viết lên các tờ thông tin của giáo xứ, và các trang web khác…  Là niềm an ủi thiêng liêng khi độc giả chia sẻ đã nghe đi nghe lại các bài đọc audio file đến thuộc lòng.  Là tâm tình bất lực khi nhận những e-mail xin bài bằng tiếng Anh, tiếng Pháp để bạn bè ngoại quốc, hoặc con cháu không rành tiếng Việt có thể đọc được SNHN.  Là tâm trạng áy náy khi nhận những e-mail với lời lẽ quá trang trọng như “trọng kính cha…,” “thưa ngài…,” “chào qúy cha, qúy thầy…,” “kính gởi LTCT…”  Biết nói sao bây giờ nhỉ?  Giải thích thế nào cho suông sẻ?  Thôi thì đành lặng im vậy!  Chúa ơi, giờ nào là giờ của Chúa, xin giải thích dùm chúng con, những kẻ phàm nhân mang nhiều bụi trần đang lang thang vật lộn giữa dòng đời!

Mười năm nhìn lại là chuỗi ngày hồng ân cho những giáo dân tầm thường được kêu mời vào công việc mục vụ online một cách bất ngờ.  Những kẻ không có chuyên môn về giáo lý thần học, chưa từng viết bài suy niệm, không rành cách làm web, không biết việc thu âm làm audio file, chẳng hiểu cách mix nhạc…  Nếu Chúa muốn sử dụng thì Ngài phải ban thêm ơn, và ơn mưa móc từ trời cao đã không ngừng tuôn đổ trong suốt 10 năm ròng rã.

Mười năm là một chặng đường dài với một đời người, và càng dài hơn với một công việc mục vụ, một việc đòi hỏi sự trung thành bền bỉ, dù vui hay buồn, dù rảnh hay bận, dù khoẻ hay ốm.  SNHN sẽ còn được bao nhiêu năm trước mắt nữa?  Sẽ có ngày kỷ niệm 20, 25 năm không?  Chẳng ai biết được!  Ngày nào được kêu gọi thì kẻ gieo giống cứ tiếp tục đi, đi trên những cánh đồng online mênh mông vô hình.  Ngày nào tiếng gọi trong lòng bảo dừng, thì xin được dừng lại để người khác tiếp tục nối bước.

Mười năm nhìn lại là lời Tạ ơn nối tiếp lời Tạ ơn.  Lời Tạ ơn đầu dâng lên Thiên Chúa Chí Thánh đã cho chúng con có cơ hội phục vụ trong thế giới online huyền bí.  Tạ ơn Chúa Giêsu Kitô vì cái chết của Ngài đã là nguồn cảm hứng cho tất cả chúng con.  Tạ ơn Chúa Thánh Thần đã thổi chúng con đi quá xa cái dự định ban đầu.  Tạ ơn Mẹ Maria đã luôn đồng hành, an ủi và nâng đỡ những khi đoàn con gặp khó khăn xuống tinh thần.  Cám ơn tất cả qúy bạn đọc đã mở lòng đón nhận SNHN dù bài hay hoặc dở, dù ngắn hay dài, dù gởi sớm hay trễ….  Cám ơn qúy cha và những cộng sự viên đã gởi bài cho chương trình.  Cám ơn anh chị em ban Tĩnh Tâm Linh Thao đã, và đang cưu mang SNHN trên trang web.  Cám ơn anh chị em trong nhóm đã, đang, và sẽ tiếp tục cộng tác trong mục vụ truyền giáo online âm thầm bé nhỏ này.  Tất cả chỉ để Danh Thánh Chúa được vinh quang hơn, và Lời Chúa được rao truyền đến nhiều người hơn.

Tạ ơn Chúa và cám ơn người!  Xin tri ân tất cả!

Thay mặt Ban Biên Tập,
Lang Thang Chiều Tím
November 2011

LỜI TẠ ƠN KHÓ NÓI (Thơ)

Lời cám ơn nhiều khi không dễ nói
Vì con đây lòng kiêu ngạo ngất trời
Vì con đây tình yêu mến nửa vời
Lời Chúa dạy như là mây sương khói.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa dâng lời tạ ơn khi bẻ bánh
Giúp đời con biết nói câu tạ ơn
Tạ ơn Chúa hồng ân Ngài khôn sánh
Xuống trên con thân xác với linh hồn.

Tạ ơn Chúa bao điều Ngài ban tặng      ZZ
Tạ ơn Ngài đau khổ Ngài trao cho
Để con biết phải nếm mùi chén đắng
Thập tự Ngài con không được đắn đo.

Tạ ơn Chúa những lần con bịnh hoạn
Dạy cho con cuộc sống vốn bất toàn
Để con biết tịnh tâm và tính toán
Con chọn Ngài hay cuộc sống du hoang.

Tạ ơn Chúa những lần con thất vọng
Vì kêu xin như Chúa không nhậm lời
Để con biết những gì con trông ngóng
Không chắc là lợi ích của hồn con.

Tạ ơn Chúa bao người thân đã khuất
Khi tuổi đời còn chưa được bao nhiêu
Để con biết đời nay còn mai mất
Con chọn Ngài hay cuộc sống hoang liêu.

Xin Chúa giúp dù đời con nghịch cảnh
Lời tạ ơn khó nói đến bao nhiêu
Con vẫn nói lòng không hề kiêu hãnh
Tạ ơn người tạ ơn Chúa thật nhiều.

Lời tạ ơn với kẻ thù đối nghịch
Lời tạ ơn trong ngang trái cuộc đời
Lời tạ ơn trong đêm khuya tĩnh mịch
Lời tạ ơn trên phố xá rong chơi.

Lễ Tạ Ơn hết nhưng cho con biết
Tạ ơn hoài trong năm tháng cuộc đời
Lòng khiêm nhường chân tình và tha thiết
Tạ ơn người tạ ơn Chúa muôn nơi.

(cảm hứng từ bài viết Lễ Tạ Ơn 2010  “Lời Tạ Ơn Khó Nói” do Lang Thang Chìều Tím đăng trên trang website suyniemhangngay.net)

Nguyễn Thanh Trúc
San Jose, Lễ Tạ Ơn 2012

BIỆT LY THÁNH

Ngày xửa ngày xưa… tại một đất nước Do Thái xa thật xa, có một làng Nazarét nhỏ bé….  Tôi nhắm mắt thả hồn mơ màng theo tiếng mời gọi của Giêsu đến ăn tối với gia đình Ngài, trước khi Ngài khăn gói lên đường bước chân vào cuộc đời rao giảng.  Gió hiu hiu thổi nhẹ, đưa hồn tôi vào cõi xa xăm thân thương của ngày xưa đó…

Nắng chiều ngả dần sau những rặng cây cao cuối làng, tiếng chó sủa oăng oẳng khi nghe tiếng bước chân lạ dẫm xào xạc trên cành lá khô.  Tôi mon men nhẹ bước tiến về căn nhà quen thuộc nơi cuối thôn Nazarét, một ngôi làng nhỏ xíu chỉ vài ba chục mái ngói túm tụm với nhau trên vùng đồi núi khá hẻo lánh của xứ Galilê.  Giêsu, người bạn thân cùng xóm, sáng nay rủ tôi đến nhà chơi, để cùng với Ngài chia tay người Mẹ hiền trước khi lên đường.  Tôi lưỡng lự, đâu ai muốn mình ở trong cảnh biệt ly bịn rịn bao giờ.  Nhưng trước ánh mắt chờ đợi của Giêsu, tôi không nỡ chối từ.  Đang đứng ngập ngừng trước cửa ngôi nhà tranh vách đất xiêu vẹo cũ kỹ, chưa kịp lên tiếng thì cánh cửa đã bật mở.  Với khuôn mặt mừng rỡ, Mẹ niềm nở đón tôi vào nhà chơi.  Đã thường đến đây nhiều lần, ăn dầm nằm dề ở nhà Mẹ đến mòn đũa mòn bát, nhưng lần này, không hiểu sao tôi cứ lúng ta lúng túng, vụng về lấp bấp không nên lời.  Mẹ mời tôi cùng ăn bữa tối với gia đình.  Bữa cơm được dọn ra dưới ánh trăng trong vườn, đơn sơ và đạm bạc, cả ba ăn uống hàn huyên vui vẻ.

ZZSau khi dùng bữa, Giêsu hít một hơi dài đằng hắng rồi ngập ngừng lên tiếng:

–     Mẹ ơi, con có chuyện quan trọng muốn thưa với Mẹ. Nhưng trước khi nói, con muốn hỏi Mẹ một điều.  Con năm nay đã ba mươi tuổi rồi, có bao giờ Mẹ thắc mắc tại sao con không lấy vợ, rồi sinh con đẻ cái cho Mẹ có cháu bồng, cho nhà mình có tiếng cười nói của trẻ thơ để bớt đi không khí quạnh hiu, đơn chiếc của cảnh mẹ goá con côi không?

Mẹ nhìn sâu vào ánh mắt Giêsu như cố đoán một vấn đề gì đó đằng sau câu hỏi giản đơn kia, nhấp một miếng trà, Mẹ nhẹ nhàng đáp:

–     Mẹ cũng từng nghĩ đến vấn đề đó, nhưng Mẹ không muốn hỏi con.  Mẹ thấy con yêu mến hết tất cả mọi người trong làng, nhưng không dừng lại một cách đặc biệt nơi cô gái nào cả.  Con ẵm bế chơi đùa với mọi đứa trẻ nhỏ trong xóm, nhưng không quyến luyến bịn rịn riêng đứa nào.  Mẹ thấy tình yêu của con rộng lớn trải đều cho tất cả không phân biệt ai.  Mẹ nhớ lúc con 12 tuổi, khi Mẹ Cha tìm được con trong đền thờ Giêrusalem, con có nói với Mẹ là con còn có bổn phận ở nhà của Cha con nữa.  Mẹ không hiểu hết ý con nhưng Mẹ giữ và luôn suy gẫm những sự ấy trong lòng.  Chắc con còn có một hoài bão to lớn muốn làm cho đời.  Hay còn có một bổn phận thiêng liêng với “Cha con” mà con cần phải thi hành nên không muốn vướng bận chuyện vợ con gia đình.

Giêsu nắm lấy bàn tay gân guốc nhăn nheo vì đời sống lam lũ của Mẹ đưa lên ngực ôm hôn:

–     Mẹ nói đúng lắm, con không thể ở mãi với Mẹ đến suốt đời được. Con còn có những bổn phận, những việc riêng của Cha con mà con cần phải làm.  Đêm nay, con muốn nói lời tạm biệt với Mẹ để lên đường thi hành sứ vụ của mình, mà chính vì những sứ vụ đó con đã đến với thế gian này.  Con biết nhà mình neo đơn, ba chết, con là con một, là niềm an ủi, là chỗ dựa duy nhất của Mẹ trong lúc tuổi già bóng xế.  Dưới con mắt thế gian, ra đi để lại Mẹ già lủi thủi không người chăm sóc là một việc làm bất hiếu.  Nhưng với Thiên Chúa, mọi sự lại khác Mẹ à!  Con mong Mẹ hiểu cho con.

Mẹ nghiêm khắc nhìn thẳng vào ánh mắt của Giêsu rồi nhíu mày hỏi lại:

–     Con nghĩ rằng Mẹ cưu mang con 9 tháng 10 ngày trong lòng để rồi giữ con cho riêng mình đến suốt đời ư?  Hay Mẹ kể công nuôi con khôn lớn rồi giữ con ở nhà, bắt con phải sống theo ý của Mẹ sao?  Không, con ơi!  Mẹ đã sống cuộc đời của mẹ rồi, Mẹ đã có cơ hội để nói lời “xin vâng” hay “chối từ.”  Bây giờ đến phiên con sống cuộc đời của con, đến lúc để con tự do gật đầu hay lắc đầu với tiếng gọi thiêng liêng trong lòng.  Như Mẹ đã trả lời “xin vâng” khi xưa thế nào, thì Mẹ cũng muốn con xin vâng như vậy, cho dù có là chén đắng của con, là nỗi đau thấu suốt tim gan của Mẹ, Mẹ vẫn vui vẻ chấp nhận.

Ngước nhìn bầu trời đầy ánh sao, đôi mắt Mẹ khẽ nhắm lại như nén chặt những giọt lệ sầu muộn vào lòng, Mẹ thầm thĩ nói tiếp như nói với chính mình:

–     Nếu nói không buồn là Mẹ dối lòng mình. Có cuộc chia tay nào mà không lưu luyến sầu đau hả con?  Có chữ “xin vâng” nào mà không có cái giá phải trả?  Nhưng trong nỗi đau có niềm vui của kẻ được chọn, trong nỗi buồn biệt ly có xen lẫn niềm hạnh phúc được hợp tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu độ của Ngài.  Con cứ đi, đừng lo cho Mẹ!  Ở nhà đã có láng giềng, bà con thân thuộc xa gần rồi.  Con đi từ Bắc chí Nam, đường xa gian khổ, Mẹ không theo con được.  Nếu con đi rao giảng ngang qua làng mình, Mẹ sẽ đi thăm con, sẽ lo cơm nước cho con, cho các môn đệ và bạn bè của con, Mẹ sẽ làm những gì sức Mẹ có thể làm được.  Con đi giữ gìn sức khoẻ, làm tròn bổn phận với Cha con trên trời là Mẹ vui rồi.

Mẹ đưa hai tay lên vuốt nhẹ mái tóc rối bù của Giêsu, rồi lại vuốt má đứa con trai yêu dấu như sợ sẽ chẳng còn có cơ hội nữa.  Tự nhiên thái độ Mẹ đổi qua vui tươi rộn ràng, nhìn đứa con nay đã trưởng thành, mắt Mẹ long lanh mơ màng nhớ về chuyện xưa, một kỷ niệm đẹp trong đời Mẹ:

–     Con biết không, hồi xưa, khi Sứ Thần hiện ra báo tin cho Mẹ biết sẽ mang thai con, lúc đó Mẹ chỉ mới 15-16 tuổi.  Sau những phút giây đầu ngạc nhiên sợ hãi, Mẹ đã mạnh dạn nói lời xin vâng mà không buồn hỏi ý ông bà ngoại, cũng chẳng màng hỏi ý ba Giuse của con.  Mẹ vui vì được diễm phúc Thiên Chúa chọn lựa làm Mẹ con.  Bây giờ làm sao Mẹ lại dám ngăn con nói lời xin vâng với Thiên Chúa được hả con?  Con ơi, sống cho Chúa đi rồi mình sẽ nhận lãnh những niềm vui thiêng liêng, những hạnh phúc ngọt ngào mà thế gian không thể ban tặng.  Hạnh phúc của đời người là sống theo thánh ý Chúa, là đáp trả lời mời gọi của Ngài để sống trọn vẹn với ơn gọi của mình.

Giêsu như vui lây trước thái độ vui tươi của người Mẹ.  Ngài hân hoan xoa tới xoa lui bàn tay mang nhiều dấu ấn vất vả của một phụ nữ nghèo miền quê, giọng nói đầy vẻ biết ơn:

–     Cám ơn Mẹ đã khích lệ con lên đường làm tròn sứ vụ của mình. Con tưởng rằng Mẹ sẽ đau khổ vật vã khóc than, sẽ âu sầu sợ hãi cho những tháng ngày dài quạnh hiu của tuổi già đơn bóng, sẽ năn nỉ xin con ở lại bên Mẹ.  Mẹ can đảm lắm, Mẹ ơi!  Mẹ ở nhà nhớ giữ gìn sức khoẻ, đừng quên đọc Thánh Vịnh và cầu nguyện cho con, cho các linh hồn bơ vơ không người chăn dắt.  Cám ơn Mẹ đã nói lời xin vâng khi xưa để có con ngày nay.  Cám ơn Mẹ ba mươi năm nuôi con khôn lớn, dạy dỗ con nên người mà không đòi sự báo đáp.  Cám ơn Mẹ đã cho con tự do sống đời của mình.  Nếu có cơ hội đi rao giảng gần nhà, con sẽ về thăm Mẹ, thăm bà con láng giềng.  Mẹ con mình sẽ có ngày đoàn tụ.  Con hứa với Mẹ như vậy.

Buổi Biệt ly tưởng sẽ diễn ra trong nước mắt sầu đau của chia lìa mất mát.  Nhưng rốt cuộc lại biến thành cuộc hàn huyên chia sẻ của những tâm hồn khát khao đáp trả.  Người ở khích lệ người đi.  Người thưa hai tiếng xin vâng lúc trước, giờ mạnh dạn nâng đỡ tinh thần người đi sau, để cùng nhau nói tiếng xin vâng với Thiên Chúa Chí Thánh.

Tôi ngồi đó, hai dòng lệ nóng lăn dài xuống má.  Trong cảnh biệt ly của mẹ góa con côi, người trong cuộc không khóc, nhưng kẻ ngoài cuộc lại sụt sùi giọt ngắn giọt dài, đua nhau tuôn rơi.  Tôi thấy mình yếu đuối bé nhỏ trước người bạn Giêsu vĩ đại.  Tôi thấy thèm có một người mẹ cao cả yêu thương vô điều kiện như Mẹ của Giêsu.  Cho đi mà chẳng đòi hỏi nhận lãnh, nuôi con khôn lớn mà không hề giữ con cho riêng mình, nâng niu dạy dỗ con, nhưng không bắt con sống theo ý mình.

Tôi bước tới ôm chầm lấy tấm thân gầy guộc, gục vào bờ vai mảnh mai của Mẹ mà sụt sùi:

–     Mẹ ơi, con xin lỗi Mẹ vì đã đoán lầm tấm lòng của Mẹ. Con cứ ngỡ rằng Mẹ sẽ đau khổ, sẽ  khóc lóc, rồi sẽ năn nỉ Giêsu suy nghĩ lại để ở nhà với Mẹ.  Con sợ chứng kiến cảnh biệt ly ai oán đó nên đã tính từ chối lời mời của Giêsu.  Không ngờ con lại được diễm phúc chứng kiến cảnh “Biệt Ly Thánh” của hai tâm hồn thánh thiện.  Mẹ đã dạy con một bài học về tình yêu không điều kiện, về lòng can đảm sống Thánh ý Chúa.  Lời “xin vâng” của Mẹ với sứ thần ngày xưa, hòa với lời “xin vâng” của Mẹ hôm nay với người con Giêsu đã dệt nên một lời nguyện tuyệt đẹp hoàn hảo của nhân loại dâng lên Thiên Chúa tối cao.  Cám ơn Mẹ đã cho những đứa con có cơ hội sống cuộc đời mình, được tự do để đáp trả tiếng gọi trong lòng.  Khi Mẹ để Giêsu đi rao giảng, Mẹ không mất đứa con nào cả, trái lại Mẹ còn có thêm nhiều đứa con khác nữa.  Xin cho con được diễm phúc làm con Mẹ, Mẹ nhé!

Mẹ nhẹ vuốt mái tóc bờm xờm của tôi rồi đưa tay lau nhẹ những giọt lệ đọng trên má tôi:

–     Mẹ già rồi, không thể theo các con trên từng nẻo đường được. Mẹ gởi gấm Giêsu cho con đó.  Hãy thay Mẹ săn sóc Giêsu từng miếng ăn giấc ngủ nghe con.  Đường đời nhiều cạm bẫy chông gai, thế gian, ma qủy, xác thịt, hai anh em hãy cố gắng giữ mình, đừng bao giờ làm điều gì mất lòng Thiên Chúa!  Mẹ sẽ ăn chay cầu nguyện mỗi ngày cho hai con.

Rồi tất cả rơi vào thinh lặng.  Mỗi người thả hồn theo đuổi một suy nghĩ của riêng mình, về một ngày mai xa lạ khi không còn có nhau bên đời.  Tiếng côn trùng rả rích trong đêm như đệm nhạc cho buổi nói chuyện không lời của chúng tôi.  Ánh trăng lung linh xuyên qua kẽ lá chiếu xuống chan hòa khu vườn làm cho cảnh vật trở nên thánh thiêng hơn.  Tôi muốn ngồi đó mãi, bên người Mẹ hiền thánh thiện, và bên người bạn Giêsu cao cả mang đầy khát vọng đáp trả, cho dù có phải dâng hiến mạng sống.  Mặt trăng đã lên cao, sương khuya lành lạnh giăng đầy cảnh vật.  Dù không muốn nhưng cũng đã đến lúc phải chia tay để ngày mai chúng tôi còn lên đường sớm.  Ôm hôn Mẹ ra về mà lòng tôi nao nao bùi ngùi.  Tôi không dám nhìn vào mắt Mẹ vì sợ không cầm được nước mắt, nhưng Mẹ lại bắt tôi nhìn thẳng vào mắt Mẹ để hứa với Mẹ một điều.  “Cho dù có thế nào, không bao giờ được rời bỏ Giêsu, dù chỉ nửa bước!”  Tôi ngạc nhiên nhìn Mẹ.  Mẹ hiểu thấu tôi hơn chính tôi hiểu tôi.  Mẹ hiểu tấm lòng của tôi, hăng hái nhiệt thành đó nhưng chỉ là hời hợt a dua.  Đi với người xấu thì tôi trở thành người xấu, mà kết bạn với người tốt thì tôi trở thành người tốt.  Và Mẹ cũng hiểu rõ Giêsu con Mẹ là ai, Người sẽ dắt tôi đi đâu nếu tôi trung thành đi bên Người mãi.  Trong giây phút bịn rịn chia ly, dặn dò thì nhiều nhưng quy lại chỉ có một lời hứa duy nhất.

Nhìn lên những ngọn núi lởm chởm đen ngòm nhấp nhô dưới ánh trăng như hứa hẹn một ngày mai đầy sóng gió trong cuộc đời phiêu bạt.  Tôi lưỡng lự tự hỏi lòng mình không biết có thể giữ được lời hứa đó không?  Tôi có thể trung thành với người bạn nối khố Giêsu mãi cho dù gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo không?  Không, tôi không đủ can đảm để hứa.  Hôm qua, tôi chỉ nói với Giêsu là đi theo Ngài chơi cho vui thôi, không có gì ràng buộc cả.  Sao bây giờ Mẹ lại muốn tôi hứa với Mẹ.  Tôi thấy tay mình nhói đau, bàn tay Mẹ đang xiết chặt tay tôi như ban thêm cho tôi lòng can đảm, như truyền thêm sinh lực cho đứa con nhút nhát còn nhiều sợ hãi.  Lấy hết can đảm tôi nhìn vào mắt Mẹ rồi ấp úng ngập ngừng:

–     Con hứa với mẹ, con sẽ không bao giờ rời bỏ Giêsu… nếu Mẹ hứa… Mẹ hứa rằng… Mẹ sẽ không bao giờ quên cầu nguyện cho con.

Mẹ mừng rỡ ôm chặt lấy tôi, đôi môi khô đặt lên mái tóc rối bù một nụ hôn nồng ấm.  Tôi di di bàn chân trên cát, xấu hổ nhìn gằm xuống đất đen trước nụ hôn nồng nàn đầy yêu thương của mẹ.  Lời hứa của tôi là một lời hứa có điều kiện, tình yêu của tôi cũng là một tình yêu có điều kiện.  Tôi không theo không người bạn Giêsu của mình.  Tôi nhận lời cùng đi rao giảng với Giêsu với điều kiện, mai này Giêsu có thành danh thì tôi cũng được ké, có thành đạt thì tôi cũng được hưởng lây.  Thôi kệ đi, bây giờ cứ như vậy đã, ngày mai đi cùng với Giêsu trên quãng đường dài, biết đâu tôi sẽ khá hơn.  Giêsu và Mẹ người tiễn tôi ra về tới tận đầu thôn.  Tôi ngậm ngùi đưa tay lên vẫy chào Mẹ lần cuối, người Mẹ hiền đã dạy cho tôi nhiều bài học qúy ở đời.  Mẹ ơi, hẹn gặp lại Mẹ một ngày gần đây.  Bóng Giêsu và Mẹ Ngài ngả dài dưới ánh trăng khuất dần trong làn sương mỏng.

Cám ơn mối tình thâm mà Giêsu đã dành cho tôi như một người thân trong gia đình, đã cho tôi cơ hội có mặt trong cuộc chia tay thánh thiện giữa hai Mẹ con Ngài, một Biệt Ly Thánh mà không bao giờ tôi quên được.  Cám ơn Mẹ Maria đã nhận tôi làm con và ràng buộc tôi với một lời hứa qúy giá nhất trong đời!

Lang Thang Chiều Tím
Kỷ niệm Linh Thao 8 ngày, September 2010

THƯ GỞI CHA YÊU

Nhà Cha, ngày…. tháng…. năm……

Cha yêu thương,

Giờ này chắc Cha đang say trong giấc ngủ bình an – con hy vọng như vậy!  Không gian chung quanh nhà mình yên tĩnh quá, chỉ có tiếng kêu của mấy con ễnh ương, và côn trùng đang hòa điệu vào bản nhạc giao hưởng về đêm của thiên nhiên.  Ánh trăng tròn ngày rằm xuyên qua khung cửa sổ, rọi vào bàn viết nơi con đang ngồi, chiếu sáng lên trang giấy trắng nhòe nhoẹt những giọt nước mắt của đứa con hoang đàng.  Ánh sáng dìu dịu của mặt trăng, một thứ ánh sáng nhẹ nhàng, tỏa lan nhưng không chói chang – như khuyến khích con viết ra nỗi lòng của mình, như ban thêm cho con can đảm để bắt đầu những bước chân chập chững trong ánh sáng!

Sau mấy ngày trở về lại trong ngôi nhà thân thương.  Bao tử đã được lấp đầy bởi con bê vỗ béo và những món ăn thịnh soạn, những vết ghẻ lở đã được chăm sóc chu đáo giờ đang đâm da non, người ngợm đã được tắm rửa sạch sẽ cho ra hình thù con người.  Giờ đây con đã tỉnh táo hẳn, cả về thể chất lẫn tinh thần, để nhìn thẳng vào lòng mình.  Và con cảm thấy muốn tâm sự với Cha!  Con cần một lời thú tội thành thật, không phải cho Cha mà cho chính con.  Với Cha, con trở về, điều đó là quá đủ!  Cha chỉ muốn ôm con vào lòng.  Cha không cần biết đến lý do con trở về!  Cha không muốn nghe bài diễn văn con đã công phu soạn sẵn.  Cha không một tiếng hạch hỏi nửa phần gia tài kếch sù kia đi đâu.  Tình ZZyêu sâu thẳm và thái độ khoan dung nhân hậu của Cha càng làm xao xuyến hồn con.  Hối hận ngập tràn tim con, Cha ơi!  Hôm nay, dưới ánh sáng tinh khiết của ánh trăng rằm, con sẽ kể Cha nghe.

Con trở về không phải vì thương nhớ Cha già ốm yếu đang tuổi gần đất xa trời, cũng chẳng phải hối tiếc những lỗi lầm của mình khi xưa.  Con trở về, đơn giản chỉ vì cái bao tử!  Một cái bao tử rỗng tuếch hết ngày này qua tháng nọ, đang gào thét dãy dụa để được lấp đầy.  Cái bao tử dù đã chịu xuống nước, xin được ăn cám heo, và đậu muồng của heo nhưng cũng không xong.  Về, để không muốn nghe thêm những tiếng chửi nhục nhã ề chề của chủ, tiếng cười nhạo báng của người đời.  Về, vì không muốn sống kiếp người mà không bằng kiếp heo.  Con trở về, đơn giản chỉ vì những ghẻ lở mụn nhọt đầy mình, đang cấu xé hành hạ thân thể quắt queo.  Những vết thương ngoài da chỉ dám xin những loại thuốc xoàng xĩnh rẻ tiền đắp lên, nhưng cũng chẳng ai cho.  Giờ đây nó đang từ từ tấn công vào lớp mỡ bên trong, đau thấu ruột gan!  Con trở về, đơn giản chỉ vì không chịu được cái lạnh buốt xương về đêm khi ngủ ngoài đường, cái nắng gay gắt giữa trưa hè khi chăn heo ngoài đồng.  Về, chỉ vì không muốn chết đường chết chợ như một con chó đói đi hoang!  Dưới tận đáy địa ngục trần gian đó, con chợt nhớ ra mình còn một mái nhà, một người cha già…

…..Và con quyết định trở về!  Vì chưa dám tin vào lòng bao dung của Cha, nên con đã soạn sẵn một bài diễn văn thật lâm li bi đát để khơi dậy lòng thương xót của Cha.  Vì chưa dám tin vào lòng nhân hậu của Cha, nên con đã tính toán kỹ thời điểm để về, con thấy rằng không lúc nào thích hợp hơn buổi hoàng hôn.  Trong hoàng hôn của đời người, quyện với ráng chiều heo hắt ảm đạm của giao điểm ngày và đêm, người già sẽ cảm thấy lẻ loi cô độc hơn, và dễ dàng tha thứ hơn.  Nắng chiều nhạt nhòa tranh tối tranh sáng, chỉ vừa đủ để Cha nhìn ra mặt thằng con đi hoang.  Nếu cánh cửa gỗ lim có đóng sập trước mắt con, nếu bọn gia nhân có xua chó ra cắn, sẽ không ai nhìn thấy con chạy đi trong bóng ngả chiều hôm.  Vì chưa dám tin vào sự khoan dung rộng lượng của Cha, nên con đã tập khóc nhiều lần trước khi gặp Cha, khóc thật to để đánh động trái tim Cha.  Thú thật, với cái bao tử trống rỗng nhiều tháng ngày, con không còn đủ sức để khóc nữa.  Nước mắt đã cạn kiệt khi người yêu quay lưng, đứa bạn thân cuối cùng phản bội.  Tất cả đã được tính toán kỹ từng chi tiết rồi Cha ạ!  Chỉ chờ con bước ra sân khấu.

….. Nhưng rồi kịch bản đã không được sử dụng.

Con ngạc nhiên bối rối khi thấy bóng Cha thấp thoáng đầu ngõ.  Dù đã chuẩn bị, nhưng đôi chân đi hoang giờ đây lại ngập ngừng không biết nên tiến tới hay bỏ chạy.  Sao Cha không ở trong nhà mà ra đứng đầu ngõ?  Sao Cha biết hôm nay con sẽ trở về mà ra đây đứng đợi?  Trong khoảnh khắc lưỡng lự đó, đâu ngờ Cha đã nhận ra con, ánh mắt tẻm nhẻm của một người già sao mà tinh anh đến thế?  Bóng dáng Cha già quăng gậy lụ khụ chạy về phía mình làm con ngỡ ngàng hoa mắt.  Con như chết trân tại chỗ, đôi chân chôn cứng xuống đất.  Con chẳng chạy đi mà cũng không thể tiến tới!  Con chỉ bừng tỉnh khi đôi tay gầy guộc của Cha ôm choàng lấy người con, và hôn lấy hôn để, những giọt nước mắt xối xả tuôn xuống tấm thân gầy guộc nhơ nhuốc như muốn gột rửa hết bụi nhơ cho thằng con Út.

Gục xuống chân Cha mà khóc, vì con chẳng mong đợi để được đón nhận vòng tay ôm, và nụ hôn thắm thiết.  Con khóc, chẳng rõ đó là những giọt nước mắt đã được chuẩn bị từ trước, hay là những giọt lệ chân thành từ trái tim chai đá cằn cỗi?  Cánh tay già gầy guộc run rẩy sờ soạng khắp người con như kiểm tra thân thể con còn nguyên vẹn hay không.  Con muốn ngăn Cha đừng hôn lên những vết mụn lở loét trên người con, nhưng không kịp nữa rồi!  Môi Cha đã đặt lên nơi mà con chó ghẻ mới liếm tối qua.  Con cúi đầu nghẹn ngào không dám nhìn lên!  Bất xứng quá, Cha ơi!  Ánh mắt đỏ hoe nhoè nhoẹt của Cha dừng lại ở những cọng lông chó rải rác trên người con.  Một thoáng nhíu mày, rồi dường như Cha như đã hiểu ra hết sự thật, ánh mắt đau xót nhìn con!  Không chút đắn đo, Cha lại tiếp tục cúi xuống, hôn lấy hôn để trên những vết thương đó bất chấp mùi tanh tưởi, bất chấp thân con rách nát bầm dập, bất chấp tất cả…

Cha thương!  Con đang ngồi trong ngôi nhà mình mà cứ ngỡ như mơ.  Ánh trăng rọi qua rèm cửa chiếu lên chiếc áo choàng đẹp nhất mà Cha đã khoác cho con ngày con về!  Chiếc áo dài tượng trưng cho một con người được tôn trọng trong xã hội.  Lóng lánh trên tay con là chiếc nhẫn uy quyền của cậu chủ mà Cha đã trân trọng đeo vào tay con, ngón tay cáu ghét dơ bẩn của ngày về.  Chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, quyền làm con Cha, quyền của cậu Út trong nhà mà con đã không thèm đoái hoài khi trước.  Dưới chân là đôi dép mà chính Cha đã ngồi xuống mang vào đôi chân ghẻ lở bám đầy bụi đường, để phục hồi lại phẩm giá của một người con trong gia đình.  Con không dám mơ để đón nhận những bảo vật này.  Con về chỉ để xin một bát cơm thừa canh cặn.  Về chỉ để xin như một người làm công thôi mà!  Một cuộc trở về không trọn vẹn lại được đón nhận sự tha thứ trọn vẹn làm bàng hoàng tim con.  Tội lỗi con ngập tràn nhưng tình yêu của Cha còn bao la hơn tội lỗi đó!  Con phải làm gì để chuộc lại những lỗi lầm đã qua của mình?  Con không biết mình phải làm gì, Cha ơi!  Chỉ biết nhìn lên Cha, và con giật mình khám phá ra nhiều điều.

Cha đã già đi quá nhiều so với ngày con mới ra đi!  Thân hình phương phi cường tráng của người đàn ông trung niên năm nào, giờ chỉ là một cụ già ốm yếu lụ khụ, như một bóng đèn leo lét trước gió có thể tắt bất cứ lúc nào.  Tạ ơn Trời đất đã cho con có đủ thời gian để kịp trở về!  Mái tóc bạc trắng thay thế mái tóc muối tiêu khi xưa.  Chiếc lưng còng như sụm hẳn xuống vì mòn mỏi chờ đợi.  Cặp mắt đỏ hoe sưng mọng, xưa khóc con Út, nay tiếp tục khóc đứa con Cả.  Con biết anh Cả đang giận Cha, anh ấy không vui vì cách Cha đối xử khoan hồng với con.  Cha già tội nghiệp!  Ngày xưa ra vào đầu ngõ ngong ngóng chờ đợi thằng con Út, ngày nay lại ra vô năn nỉ lạy lục đứa con lớn.  Ngày nào Cha mới được an vui hạnh phúc bên hai thằng con trai?

Sáng nay đi ra thăm đồng với Cha, Cha chỉ cho con những cánh đồng lúa xanh rì thẳng cánh cò bay, nó sẽ tiếp tục là của anh Cả và của con.  Con ngạc nhiên thấy lòng mình dửng dưng trước phần gia tài đồ sộ còn lại của gia đình mình.  Lạ lùng khi nhìn ra niềm hạnh phúc là lúc con đang đứng cạnh Cha, nghe Cha nói chuyện chỉ dạy con cách sống ở đời.  Hạnh phúc là đây mà sao con cứ mãi đi tìm nơi nao?

Tối qua ngồi bên cha uống trà, con thấy mắt cha sáng long lanh niềm vui sau bếp lửa hồng.  Con ngạc nhiên tự hỏi điều gì đã làm cho cha vui?  Chẳng lẽ sự hiện diện của con trong căn nhà này, ngồi bên con hàn huyên mỗi tối, lại mang đến cho Cha niềm vui lớn lao đến thế sao?  Niềm vui và hạnh phúc của Cha chỉ có vậy thôi ư?  Chẳng lẽ Cha không chút tiếc nuối nửa phần gia tài mà con đã phá tan hoang?  Đâu ngờ trong ánh mắt Cha, giá trị của con lớn lao đến thế!  Vậy mà con cứ đi tìm giá trị của mình ngoài chân trời kia.

Và tối nay, ngồi viết cho Cha những dòng chữ này, tâm hồn con trào dâng một niềm vui thánh thoát, niềm hạnh phúc ngọt ngào mà con chưa từng cảm nếm trước đây.  Cặp mắt con đã mở ra để nhìn thấy được giá trị làm con Cha mà con đã đánh mất thưở nào.  Giá trị đó lớn lao biết bao, hơn hẳn mọi thứ giá trị khác ở đời!

Con sẽ nói chuyện với anh Cả sau.  Hy vọng hai anh em sẽ hiểu được nhau, sẽ làm cho Cha vui hơn trong những tháng ngày còn lại.  Con sẽ cố gắng sống cho trọn vẹn với tình yêu rộng lượng của Cha.  Cái trọn vẹn mà con đã thiếu sót khi trở về, nhưng Cha đã chấp nhận cái dang dở, thiếu sót đó.  Cám ơn tấm lòng độ lượng của Cha.  Cám ơn Thiên Chúa đã ban cho con một người Cha nhân hậu!  Cám ơn Trời đất đã cho Cha còn sống để chờ ngày con về.  Cám ơn một lần đi hoang để biết giá trị đích thực của tình yêu, của đồng tiền, của những cuộc vui phù phiếm vô bổ.  Cám ơn Trời cao đã cho con có đủ can đảm cất bước trở về để lãnh nhận ơn tha thứ.  Xin cho tất cả những người con đi hoang có đủ can đảm và sức mạnh để cất bước trở về trong vòng tay Cha mình.  Xin cho những cuộc trở về còn bắt kịp thời gian.

Đứa con hoang đàng của cha!

Lang Thang Chiều Tím
Mùa Sám Hối 2010

Thằng bé âm thầm đi vào ngõ nhỏ
Tuổi ấu thơ đã mang nhiều âu lo
Ngày nó sống kiếp lang thang
Ngẩn ngơ như chim xa đàn
Nghĩ mình tủi thân muôn vàn
 
Mẹ nó qua đời khi còn tấm nhỏ
Một chén cơm chiều nhưng lòng chưa noZZ
Cuộc sống đói rách bơ vơ
Hỏi ai ai cho nương nhờ
Chuỗi ngày tăm tối bơ vơ
 
Đêm đêm nó ngủ một manh chiếu rách co ro
Một thân côi cút không nhà
Thân em lá cỏ bạn quen ai có đâu xa
Thằng Tư con Tám hôm qua trên phố lê la
 
Miền Bắc điêu tàn nên đời nó khổ
Một chén cơm chiều nên lòng chưa no
Nhiều lúc nó khóc trong mơ
Mẹ ơi ! Con yêu mong chờ
Bao giờ cho đến bao giờ

Lê Minh Bằng

*****************************************

Nhạc phẩm “Nó” của nhạc sĩ Lê Minh Bằng được sáng tác vào thuở đất nước còn chinh chiến điêu linh, cái thưở “miền Bắc điêu tàn” đã một thời đánh động trái tim bao người.  Mấy mươi năm cuộc nội chiến đẫm máu đã qua đi, những “thằng bé âm thầm đi vào ngõ nhỏ” ngày xưa trong thời chiến ấy, nay đã trưởng thành trong xứ sở hòa bình, cuộc sống chắc không đến nỗi “đói rách bơ vơ,” hay phải “sống kiếp lang thang” nữa.  “Nó” đã đi vào quên lãng theo dòng thời gian.  Chắc đã hết rồi những “Nó” đói khát côi cút bơ vơ của thời chiến tranh loạn lạc phân ly.  Khi nghe lại nhạc phẩm “Nó” trong hoàn cảnh đất nước thời kinh tế thị trường, hội nhập với WTO, với chính sách “vươn ra biển lớn,” tôi muốn hỏi thăm số phận “Nó” ngày nay ra sao?  “Nó” đang sống cuộc đời như thế nào trong hoàn cảnh mới?  “Nó” ngày nay có khá hơn “Nó” ngày xưa không?

… và “Nó” thì thầm kể cho tôi nghe về những khuôn mặt của “Nó” trong xã hội mới.

Nhiều con hẻm, “ngõ nhỏ” ngày xưa bây giờ không còn nhỏ nữa, nhưng “Nó” vẫn còn đó, những mảnh đời bất hạnh vẫn ngày đêm tiếp tục “sống kiếp lang thang” trên những đường phố rộng lớn hơn.  Bộ mặt xã hội ngày nay đã khác xưa nhiều, những tòa nhà cao ốc mọc lên như nấm, nhà hàng, vũ trường nhiều hơn, dòng xe cộ bóng loáng tấp nập hơn xưa… xã hội xuất hiện nhiều người giàu hơn.  Nhưng riêng “Nó” thì vẫn thế, vẫn “cuộc sống đói rách bơ vơ,” với “một manh chiếu rách co ro.”  Tuổi thơ của “Nó” vẫn là những tháng ngày dài “mang nhiều âu lo,” làm bạn với những “chuỗi ngày tăm tối bơ vơ.” “Nó” không còn “âm thầm đi vào ngõ nhỏ” côi cút một mình như xưa, bên cạnh “Nó” là cả một đám bạn bụi đời, ban ngày túa nhau đi ăn xin, nhặt rác, đánh giầy, bán vé số, lượm bao nylon… đêm xuống từng đàn, từng lớp, ùn ùn kéo về tụ bên những lều tranh rách nát, hoặc bên lề đường, góc chợ, xó cầu… để lây lất sống qua ngày đoạn tháng.

Bước chân bé nhỏ của “Nó” ngày nay không chỉ dừng lại ở hình chữ S quê Mẹ, mà còn lưu lạc sang nước láng giềng Campuchia.  Để làm gì thì nào “Nó” có biết, “Nó” chỉ biết rằng “Nó” khờ dại tin người.  Và mở mắt ra “Nó” đã thấy cuộc đời mình đổi thay, người lớn thay phiên nhau chà đạp tấm thân bé nhỏ còm cõi chưa kịp phát triển của “Nó,” “Nó” chẳng hiểu họ đang làm trò đồi bại gì. “Nó” chỉ biết rằng “Nó” đau lắm, cuộc sống sao giống một con thú bị nhốt mà “Nó” không biết làm sao để thoát ra.  Ngày xưa có “nhiều lúc nó khóc trong mơ,” giờ những tiếng “khóc trong mơ” đã bật thành những tiếng thét hãi hùng giữa thanh thiên bạch nhật!  Ngày xưa đời “Nó” khổ, “Nó” có thể kêu cứu bằng tiếng Việt.  Ở xứ người, “Nó” có thể kêu cứu với ai?  Ai nghe được tiếng kêu của “Nó”?

Ngày xưa “Nó” “một thân côi cút không nhà,” “như chim xa đàn” nên đã quen rồi cái cảnh “một chén cơm chiều nên lòng chưa no,” nhưng bây giờ “Nó” có cha mẹ anh em, nhưng cảnh “một chén cơm chiều nên lòng chưa no” là cảnh đời quen thuộc của anh chị em nó.  Quê “Nó” nghèo, hết bão đến lụt, hết hạn hán đến mất mùa, hết chiến tranh đến bị chèn ép.  Thanh niên thiếu nữ ùn ùn bỏ xứ ra đi, đi đâu và làm gì thì “Nó” nào có biết. “Nó” cũng chẳng biết “bao giờ cho đến bao giờ” “Nó” và gia đình mới thoát khỏi cảnh nghèo truyền kiếp này?

“Nó” ngày nay lạ quá!  Lại chấp nhận bán thân đi làm dâu xứ người để giúp gia đình thoát khỏi bịnh nghèo kinh niên.  Nơi đất khách quê người, “Nó” ngỡ ngàng nhìn ra cảnh đời nô lệ cho cả gia đình chồng không cùng dòng giống và ngôn ngữ.  Chồng “Nó” là những bô lão bị sứt mẻ, những bậc cha chú sồn sồn mất tính người, là những chàng trai quá lứa cộc cằn, ít học không đủ khả năng cưới vợ ở nước họ.  Bạn bè đồng cảnh với “Nó” đã có đứa tự tử, đứa bị giết, còn “Nó” thì không biết đến bao giờ?  Bỏ trốn ư?  “Hỏi ai ai cho nương nhờ, chuỗi ngày tăm tối bơ vơ,” “Nó” hát lại điệp khúc năm xưa mà không có câu trả lời.  “Nó” cứ ngỡ làm cuộc đổi đời, đâu ngờ lại tiếp tục một giấc mơ hãi hùng khác nơi xứ lạ.  Ôi, một giấc mơ hão huyền của Con Rồng Cháu Tiên.

“Nó” ngày nay biến hình đổi dạng nhiều quá!  Ôm trong mình căn bịnh oái ăm của thế kỷ, tấm thân “Nó” nằm quắt queo bên ống cống đầu đường chờ ngày người ta xúc đi.  “Nó” biết trách ai bây giờ?  Tại chồng “Nó” trăng hoa, tại chính “Nó” một phút ham vui, tại cha mẹ “Nó” ăn chơi, hay tại “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen?”  Trách ai thì cũng thế thôi, án tử “Nó” đã mang, thôi thì nằm đó chờ đợi thần chết, chờ đợi lòng xót thương của gia đình và xã hội. “Nó” chỉ xin người ta đừng xa lánh khinh bỉ “Nó,” xin cho được chết như một con người.

Thưở đó “Nó” khổ, “thằng Tư, con Tám” khổ, thì ai ai cũng có thể hiểu, và lý giải được tại sao chúng nó khổ.  Bởi vì “miền Bắc điêu tàn nên đời nó khổ,” “mẹ nó ra đi khi còn tấm nhỏ, vì sinh nhầm thế kỷ ở một đất nước loạn lạc mới có những “thân côi cút không nhà.”   Những “Nó” ngày nay khổ mà chẳng hiểu vì sao mình khổ!  Miền Bắc đã hết điêu tàn, đất nước đã thanh bình rồi, thế sao đời “Nó” vẫn khổ?  Ba mẹ “Nó” vẫn còn đó nhưng sao lại bán “Nó” đi để kiếm tiền nuôi đàn em nhóc nheo?  Sao ba mẹ nó lại quá nghèo để “Nó” không thể đặt chân chân tới trường?  Làng quê Việt Nam đẹp đẽ là thế, sao bước chân “Nó” lại lưu lạc qua tận xứ người để làm nô lệ tình dục?  Quê cha đất tổ thân thương là thế, sao “Nó” lại liều mình bán thân đi làm dâu xứ người?  Sao người đồng loại lại quay lưng với “Nó”?  Sao Đấng Tối Cao lại không nghe được tiếng kêu tuyệt vọng của “Nó”?

“Nó” thôi không kể tiếp cho tôi nghe câu chuyện của “Nó” nữa, những câu chuyện “Nó” kể trong bóng đêm thanh tịnh khi tôi ngồi đối diện với Đấng Tối Cao khiến tôi giật mình tỉnh giấc.  Thì ra “Nó” vẫn còn đó cho dù đất nước có hết chinh chiến.  Nhưng sao “Nó” lại nhiều và đa dạng đến thế?  Tại sao “Nó” lại kể cho tôi nghe những câu chuyện phiêu bạt đời “Nó” khiến tôi phải bối rối?

Tôi có thể làm được gì cho “Nó” đây?  Những mảnh đời bất hạnh ngày càng nhiều hơn trên quê hương tôi, và bàn tay tôi thì bé nhỏ, sức tôi hạn hẹp.  Trong đêm khuya, Lời của Chúa Giêsu vang lên trong ký ức: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40).  “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”  (Mt 25:35-36).  Chúa Giêsu đã không nói rõ cho ăn cái gì: cao lương mỹ vị, hay một chén cơm thừa.  Ngài cũng chẳng nói rõ cho uống loại nào mới được tính điểm: sâm hảo hạng, hay một ly nước lạnh.  Một chén nước lã cũng là thức uống, một bộ quần áo cũ mèm để quên trong tủ lâu ngày cũng là cho mặc, một lời thăm hỏi không tốn tiền mua cũng là hỏi han, vài phút dừng chân nơi nhà người bịnh cũng là thăm viếng…  Giữa những câu chuyện buồn của “Nó,” phải chăng đây là Tin Mừng cho tôi, và những kẻ đi theo Ngài, vì những cái Chúa Giêsu đòi hỏi không nằm ngoài vòng tay có thể cho đi của tôi?

Người nghèo thời nào cũng có, “Nó” thời nào cũng còn đó cho dù xã hội có đổi thay, chiến tranh hay hòa bình, nhưng làm sao để nhìn ra “Nó” muôn màu muôn sắc trong xã hội hiện đại hôm nay?  Làm sao để nhìn ra hình ảnh Thiên Chúa nơi “Nó?”  Quả thực, nếu không có cái nhìn của Giêsu chắc chắn tôi sẽ không thể nhìn ra “Nó” vẫn đang âm thầm đi bên cạnh tôi mỗi ngày.  Nếu không có trái tim của Giêsu, chắc hẳn trái tim tôi không thể rung động nổi với “thằng Tư, con Tám trên phố lê la” đang bán vé số, hay đang thất thểu ăn xin bên lề đường, mà tôi nghĩ đó có thể là cảnh gạt gẫm của bọn lưu manh.  Nếu không kết hợp với Con Một Thiên Chúa thì một chén cơm thừa, một ly nước lã, một cánh tay mở rộng của tôi chẳng làm nên tích sự gì trong xã hội hiện kim này.

Thiên Chúa quyền năng có thể làm “Nó” biến mất khỏi cuộc đời mà không cần đến sự trăn trở của tôi, nhưng Chúa vẫn để “Nó” tồn tại, phải chăng để tôi có cơ hội sống yêu thương như Ngài đã sống?  Hay vì “Nó” là biểu tượng của Nước Thiên Chúa?  Ba năm cuộc đời rao giảng, Giêsu chẳng có gì để cho “Nó,” Ngài chỉ cho “Nó” một vòng tay ôm và lời chúc phúc.  Vâng, Chúa Giêsu đã yêu thương ôm “Nó,” từng đứa trẻ vào lòng, và “đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10:16).  Chỉ thế thôi!

****************************************

Chúa ơi, con biết con không thể yêu được nếu không có ơn Chúa, xin ban cho con một trái tim mới và thần khí mới để con có thể yêu thương hết những đứa trẻ với “tuổi ấu thơ đã mang nhiều âu lo.”  Xin cho con là cánh tay nối dài của Chúa để có thể ôm hết những “Nó,” những “thằng Tư, con Tám trên phố lê la,” và những đứa trẻ đang “khóc trong mơ” vào lòng mình.  Xin cho con cái nhìn của Chúa để có thể nhìn ra hết những thằng bé/con bé thời đại bất hạnh đang “âm thầm đi vào ngõ nhỏ,” ở những ngóc nghách khác nhau trong cuộc đời này.  Amen!

Lang Thang Chiều Tím
October 2009