HAI SẮC HOA TI GÔN

T.T.Kh

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người ấy với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng “Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng thế thôi.”

Thuở đó nào tôi có hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy.”

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi, thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
“Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhung hồng tựa trái tim tan vỡZZ
Và đỏ như màu máu thắm phai

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu cũ rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu…
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng  

********************************

Huyền thoại thi ca tiền chiến Việt Nam những năm 1937-1938 bỗng nổi cơn ba đào với bốn bài thơ ký tên T.T.Kh, rồi sau đó lặng lẽ tan vào cõi hư không, mặc cho dư luận ồn ào xôn xao.  Chất hưng phấn làm hoa ti gôn nở rộ một thời, được khai hoa nở nhụy bằng một câu chuyện “Hoa Ti Gôn” của ký giả Thanh Châu, đăng trên báo “Tiểu Thuyết Thứ Bảy,” xuất bản tại Hà Nội.  Là một truyện ngắn không có gì đặc sắc, nhưng nhẹ nhàng và bay bổng, “Hoa Ti Gôn” kể về một chuyện tình buồn giữa một chàng họa sĩ và một thiếu nữ gia đình thượng lưu.

Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được một bài thơ “Hai Sắc Hoa Ti Gôn,” ký tên T.T.Kh do một thiếu phụ trạc hai mươi, dáng bé nhỏ thùy mị, nét mặt u buồn mang đến.  Đó là lần đầu, và cũng là lần cuối người thiếu phụ nầy xuất hiện.  Câu chuyện “Hoa Ti Gôn” đã khơi lại mối tình xưa của người thiếu phụ (T.T.Kh.) với một chàng nghệ sĩ, cả hai đã qua một thời yêu thương hẹn hò dưới giàn hoa ti gôn.  Rồi chàng ra đi biền biệt không hẹn ngày về.  Nàng ở lại vâng lời mẹ cha, gạt nước mắt nên duyên cùng người khác – một người chồng luống tuổi – để rồi tan nát tâm tư, mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của thời quá khứ.  Bài thơ Hai Sắc Hoa Ti Gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ, bởi những câu thơ quá da diết.  Sau bài thơ nầy, tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại nhận được bằng đường bưu điện ba tác phẩm khác cũng mang tên T.T.Kh.  Đó là các bài “Bài Thơ Thứ Nhất,” “Bài Thơ Đan Áo” (riêng đăng ở Phụ Nữ Thời Đàm), và “Bài Thơ Cuối Cùng.”

Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T.T.Kh nữa.  Không ai hiểu tại sao bài “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” lại xuất hiện trước “Bài Thơ Thứ Nhất,” và cũng không hiểu tại sao tác giả lại lặng lẽ rời bỏ văn đàn không lời từ biệt, để lại trong lòng người yêu thơ bao nỗi niềm thương nhớ luyến tiếc.

********************************

Bảy mươi năm trôi qua, nhân gian tốn bao giấy mực để tìm hiểu T.T.Kh là ai.  Người thì đoán Trần Thị Khánh, một nữ sinh Hà nội, người yêu của Thâm Tâm, một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với bài Tống Biệt Hành.  Kẻ lại bảo là Nguyễn Bính, rồi em gái họ nhà thơ Tế Hanh.  Người khác đoan chắc đó là Trần Thị Vân Chung, người yêu nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa Ti Gôn.  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi tác giả tiếp tục thinh lặng “sống hờ hết kiếp, trong duyên trái đời.”

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình buồn nếu chỉ có một người?  Thế là dư luận đổ xô đi tìm “người ấy” của T.T.Kh để hỏi xem “người ấy có buồn không, có còn nghĩ tới loài hoa vỡ.”  Kẻ xầm xì nói đó là nhà thơ Thâm Tâm, người lại bảo là nhà văn Thanh Châu.  Nguyễn Bính, J. Leiba và bao nhiêu anh hùng thiên hạ khác nữa, cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của mình!  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi loài hoa ti gôn chỉ nở một lần, hoa rụng mang theo niềm bí mật của người yêu hoa.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình ngang trái nếu không có người thứ ba, là kẻ có nợ nhưng không duyên, có nghĩa nhưng không tình?  Thế mà thiên hạ chẳng ai buồn tìm hiểu người chồng “nghiêm luống tuổi” là ai?  Báo chí chẳng tốn một giọt mực, không một lời phân ưu.  Chẳng ai buồn thắc mắc đến danh tính của kẻ chiến thắng, nhưng lại là chiến bại, kẻ “được” nhưng là “mất.”  Cũng như vợ mình, chân dung của ông vẫn là một ẩn số, nhưng là một ẩn số phụ bé nhỏ, không lối đáp trong nghi án văn học T.T.Kh.

ZZZBài thơ tình lãng mạn thời tiền chiến này đã đi sâu vào lòng tôi một thời.  Ngắm hoa ti gôn “sắc hồng tựa trái tim tan vỡ, và đỏ như màu máu thắm pha,” tôi ngậm ngùi xót thương người con gái bạc phận ôm mối tình dang dở lên xe hoa, theo lời mẹ cha nhắm mắt đưa chân sống “quang cảnh lạ, tháng năm dài, đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.”  Tôi cảm thông tâm tình cay đắng người thiếu phụ buồn, ngồi bên song cửa sổ miễn cưỡng “đan đi đan lại áo len cho chồng,” mà mắt cứ dõi nhìn phương xa.  Tôi thầm trách “người ấy” đã làm tan nát thêm cõi lòng người yêu khi mang “Bài Thơ Đan Áo nay rao bán, cho khắp người đời thóc mách xem.”  Xót xa, tiếc nuối… là những tình cảm lưu luyến dành cho hai nhân vật trai thanh gái tú, có duyên gặp gỡ nhưng không phận phu thê, đã dệt nên những áng thơ tình bất hủ cho nền văn chương Việt Nam!

Cũng như người đời, tôi chưa một lần thắc mắc tâm tư người chồng đi bên lề cuộc đời vợ mình ra sao.  Ông buồn hay vui khi đêm đêm nằm ôm cái xác không hồn, với cặp mắt ngơ ngác thất thần?  Ông nghĩ gì khi môi đụng làn môi băng giá?  Ông cảm thấy gì khi được vợ, nhưng không được trái tim của nàng?  Cho đến một ngày tình cờ đọc Kinh Thánh, tôi ngờ ngợ như đọc được nỗi niềm cay đắng của ông, một người đứng bên lề cuộc đời người yêu qua những dòng chữ chua chát “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b).  Ôi, Thiên Chúa của tôi, Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, giàu sang và uy quyền, lại chia sẻ chung số phận hẩm hiu với người chồng già bạc phận trong “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” hay sao?  Tôi đã sống ra sao để Ngài phải thốt lên những lời ai oán ấy.

Từ “ngày vui pháo nhuộm đường” đó, cuộc sống tuy nhiều sầu muộn, tháng ngày đong đầy những chua cay, nhưng T.T.Kh. không hề có ý định chạy trốn cuộc sống, cũng chẳng dự định trốn theo người yêu.  Nàng “vẫn đi bên cạnh cuộc đời,” trong sự “ái ân lạt lẽo” của chồng, với một thái độ lạnh lùng, dửng dưng chấp nhận sự thật dù phũ phàng.  Tôi cũng thế, vẫn đi bên Thiên Chúa, vẫn thờ phượng Ngài, không có ý định bỏ đạo, càng không muốn chống đối Ngài.  Chỉ là một thái độ lạnh nhạt chấp nhận sự việc có Chúa bên đời như một tình cờ, như một sự ép đặt của mẹ cha.  Còn lòng tôi ư? Người thiếu phụ có chồng “vẫn giấu trong tim bóng một người,” chỉ một người thôi!  Còn tôi, thờ phượng Ngài đó nhưng che giấu trong tim biết bao bóng hình, những mộng mơ với thế gian phù phiếm, những toan tính cho tương lai, dù tương lai không thuộc về tôi, và bao dự định dang dở…  Những bóng hình đó không ngừng đeo đuổi tôi đến nhà thờ những ngày Chúa nhật dù chỉ một tiếng, vẫn hiện diện trong những lời kinh ro ro thuộc lòng dù chỉ vài phút.  Như một thiếu phụ đoan trang khép mình trong lễ giáo, tôi tuân giữ những luật buộc một cách máy móc, dâng Ngài những của lễ dư thừa trong nhăn nhó.  Nhưng linh hồn tôi, trái tim tôi, tâm trí tôi… dật dờ đâu rồi trong một cõi xa xăm nào đó!

Đi bên chồng nhưng lại hỏi “người ấy” có buồn không, đó là tâm trạng của người xưa.  Còn tôi hôm nay đi bên Ngài đó, nhưng vất vả lo toan cho những việc ở trần gian.  Miệng nói tôn kính Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự.  Nhưng bao sức lực, trí lực, tài năng, máu huyết của tuổi thanh xuân… tôi đã dâng hiến cho thế gian hết rồi, để mong tìm một chỗ đứng trong xã hội, một cuộc sống tiện nghi…  Còn chăng chỉ là cái xác mệt mỏi vô hồn trong lòng nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật buồn.  Xa thật hai cõi lòng của tôi và Ngài!  Phải chăng những lời trách móc “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b) là để chỉ tôi sao?

“Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời…, vẫn giấu trong tim…,” “vẫn đi” “vẫn giấu,” một sự ngoan cố đến lạ lùng của một phụ nữ yếu đuối.  Không có ý định từ chối cuộc sống và gia đình, nhưng cũng không có ý định chôn hình ảnh xưa cố quên để sống.  Nàng đã cố bám víu lấy nó như một thứ lương thực nuôi sống hiện tại.  Tôi thấy thấp thoáng hình ảnh mình trong sự cố chấp, bám dính quá khứ của người thiếu phụ.  Vẫn biết một ngày nào đó tôi sẽ phải rũ áo ra đi, không mang theo được gì, nhưng tôi vẫn ngoan cố xây đắp cho thật nhiều.  Vẫn biết đời sau mới là thiên thu vĩnh cửu, nhưng tôi chỉ chăm lo hạnh phúc hời hợt của vài thu chóng qua.  Phải chăng đó là oan trái của kiếp người?  Phải chăng con rắn ngày xưa vẫn tiếp tục cám dỗ trong lòng mỗi người mãi không thôi?  Người thiếu phụ đã bám lấy cả hai, và nàng đã phản bội cả hai: người yêu và chồng mà cuộc sống chỉ là “từng thu chết, từng thu chết.”  Kết quả cuộc sống của tôi có khá hơn không khi tôi cùng bám vào cả hai: Thiên Chúa và thế gian?

Còn gì xót xa não nùng cho bằng khi nghe những lời thở than của người vợ hiền “Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời, ái ân lạt lẽo của chồng tôi.”  Phải chăng đó cũng là những tiếng trách móc của tôi về sự “ái ân lạt lẽo” của Thiên Chúa?  Như một ông chồng già giàu có nhưng keo kiệt, uy quyền nhưng bủn xỉn, Ngài quay mặt làm ngơ trước những lời van xin thống thiết của tôi: cái xin không được, cái không xin lại cho, cái muốn được thì mất, cái mất lại được.  Ngài đã bỏ tôi chới với một mình trong khổ đau, mặc tôi ngụp lặn trong cô quạnh không lời ủi an.  Trong nỗi đau không tình cờ đó, Ngài tiếp tục thinh lặng, bí mật và khó hiểu… không một lời đáp trả.  Quả là lạt lẽo và vô tình làm sao!

Dù lời thơ ai oán, hồn thơ chất chứa niềm trách móc cam chịu của người vợ bị chồng “lạt lẽo, hờ hững,” nhưng tôi vẫn bắt gặp đâu đó một sự quảng đại nơi người chồng “nghiêm luống tuổi” môn đăng hộ đối.  “Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ, “người ấy” cho nên vẫn hững hờ.”  Chỉ là hững hờ thôi sao?  “Vẫn biết,” một sự khẳng định chắc chắn đến thế, nhưng không có cảnh đòi ly dị, không đuổi về nhà người vợ ngày qua đêm lại chỉ “thờ thẫn hồn eo hẹp” nhớ người xưa, không cưới năm thê bảy thiếp, không đánh đập hành hạ, mà cũng chẳng có chuyện “ông ăn chả bà ăn nem,”… không một hành động cụ thể nào cho sự trả thù.  Chỉ là một thái độ “hững hờ” của người quân tử!  Thái độ “hững hờ” hay nồng nàn, “lạt lẽo” hay sốt mến còn do thái độ cảm nhận của đối tượng nữa.  Tôi không thể nhìn thấy cuộc đời màu hồng khi đeo cặp kiếng đen.  Làm sao có thể tìm thấy một sự yêu đương nồng cháy khi “từ đấy thu rồi, thu lại thu, lòng tôi còn giá đến bao giờ?”  Ai có thể làm tan tảng băng nếu lối vô bị bít kín?  Ly nước đã đầy làm sao có thể rót thêm?  Làm sao có thể tìm được lòng sốt sắng yêu mến khi tôi đến với Thiên Chúa với tấm lòng giá băng, qua những nghi thức thờ phượng hời hợt bên ngoài, với trái tim đầy ắp những tham vọng thế gian, và cái đầu tính toán đầy những thành kiến.

Có đúng chăng sự “hững hờ” “lạt lẽo” của người chồng trong “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” là kết quả cách sống thờ ơ của người vợ?  Có sai không thái độ giận dữ của Thiên Chúa “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!  Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16) là kết quả cách sống dở dở ương ương của tôi?  Tôi còn có sự tự do lựa chọn cho mình một lối sống, nhưng người con gái đất Việt bảy mươi năm về trước thì không.  Vậy tôi và nàng ai đáng thương, và đáng trách hơn?

Xuyên suốt bốn bài thơ của T.T.Kh, ngoài thái độ “hững hờ” “lạt lẽo” của người chồng, còn một thái độ tế nhị khác nữa, đó là sự chờ đợi!  Ông đã âm thầm đi bên cạnh cuộc đời vợ mình, để chờ đợi sự quay về của người vợ hiền, nếu không quay về vì yêu thương thì cũng xin vì bổn phận.  Qua ông, tôi bắt gặp hình ảnh chờ đợi của Thiên Chúa, Ngài đã kiên nhẫn đứng bên lề cuộc đời của những người đã chọn Ngài là Chúa, nhưng chỉ là môi miệng, để ngày qua tháng lại tiếp tục mòn mỏi trông chờ.  Một Thiên Chúa đầy quyền uy nhưng thật tội nghiệp vẫn lặng lẽ đứng đó, không một lời giải thích cho thái độ tưởng như hờ hững, lạt lẽo của mình, với đôi cánh tay giang rộng để chờ đợi không chỉ thân xác, không chỉ hình thức, không chỉ môi miệng, nhưng là một tình yêu đích thực từ trái tim, từ một cái xác có hồn, một sự dâng hiến trọn vẹn tuyệt vời của người yêu.

Ngược lại với sự quảng đại chờ đợi trong âm thầm nhẫn nhục của người chồng, là một sự phản bội tế nhị của “người ấy”:

“Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài Thơ Đan Áo của chồng em
Bài Thơ Đan Áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.”
Là giết đời nhau đấy biết không? (Bài Thơ Cuối Cùng)

Bây giờ thì nàng đã rõ rồi tấm lòng yêu thương của người mà nàng hằng ấp ủ trong tim.  Trong khi người con gái “vườn Thanh” lo lắng “nếu biết ngày mai tôi lấy chồng, trời ơi, người ấy có buồn không,” với một niềm tin mạnh mẽ vào người yêu “nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ, người ấy ghi lòng vẫn nhớ em,” và nỗi khắc khoải mong chờ được tái ngộ dù chỉ trong mơ “tiếng lá thu khô xiết mặt hè, như tiếng chân người len lén đến.”  Thế mà người ấy lại nhẹ nhàng đem tình nàng “rao bán” trên mặt báo. “Bài Thơ Đan Áo” chỉ viết riêng cho chị, chia sẻ nỗi lòng u uất của người con gái lấy chồng phương xa, giờ còn đâu nữa những tâm tư thầm kín của người thiếu phụ khuê các.  Người ta đã quên rồi lời hẹn xưa “cố quên đi nhé câm mà nín, đừng thở than bằng những giọng thơ.”  Người ta thương gì “một mảnh lòng tan vỡ,” xót xa gì “một tâm hồn héo,” tiếc gì một đóa “hoa tàn dấu xác xơ.”  Không ăn được thì đạp đổ!  Hạnh phúc của người yêu nào có nghĩa lý gì!  Thẳng tay, phũ phàng, và dứt khoát “lại chính là anh, anh của em” đó!  Đâu rồi một tâm hồn nghệ sĩ cao thượng?  Đâu rồi nét quân tử của người yêu hoa?  Chả trách nào tiếng chim trong lồng tắt lịm từ đó!

Hình ảnh “người ấy” phải chăng là hình ảnh của thế gian: đẹp đẽ, lãng mạn, nên thơ… khi tình đang mặn nồng, thưở “nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn.”  Nhưng khi lòng tôi thao thức với lời mời gọi thiêng liêng từ trong đáy tim, thì thế gian cố níu kéo bằng những dụ dỗ ngon ngọt, những hình ảnh phù phiếm, sự hưởng thụ thân xác.  Và khi tôi nhất quyết quay gót trở về với Thiên Chúa, thì bộ mặt thế gian biến đổi, với những gian trá mưu mô xảo quyệt, với hành động trả thù bỉ ổi, nhằm phơi bày tội lỗi thầm kín của tôi, cho dù làm thế “là giết đời nhau.” “Đời chỉ đẹp khi tình còn dang dở!”  Tình đã dang dở rồi đây, nhưng người trong cuộc có thấy đẹp hơn, thơ mộng hơn không, hay chỉ toàn cay đắng phũ phàng?

Thế gian là thế đấy!  Người tình là thế đó!  Mặc dù “oán hờn anh mỗi phút giây” nhưng lòng thì “giận anh không nỡ nhớ không thôi!”  Thiên Chúa có lẽ quá thấu hiểu sự yếu đuối mù quáng của con người, nên hai chữ TỈNH THỨC được lập đi lập lại nhiều lần trong giáo huấn của Ngài, và ân sủng từ trời cao không ngừng tuôn đổ, để giúp con người biết lựa chọn, và sống với sự chọn lựa của mình một cách sáng suốt.

Chuyện tình nào rồi cũng có đoạn kết, mối tình tay ba nào cũng phải kết thúc bằng sự lựa chọn.  Như “Người chồng Người tình” không thể cùng song hành với nhau trong cuộc sống “Người vợ,” thì Thiên Chúa cũng không thể cùng đồng hành với thế gian trong trái tim, và linh hồn một người.  Tôi đang ở đâu trong mối tình tay ba giữa “Thiên Chúa – Thế gian – và Tôi?”  Tôi sẽ chọn lựa ai, chỉ một trong hai?  Và sẽ sống với thái độ nào trong sự tự do lựa chọn đó?

Lang Thang Chiều Tím
August 2007

 

GIA TÀI

Người ta kể rằng ở miền rừng núi, dân Thượng có một lối bẫy khỉ rất đơn giản.  Họ làm một cái lồng có nhiều lỗ nhỏ vừa tay con khỉ.  Rồi họ buộc lồng vào một gốc cây và bỏ vào đó ít hạt bắp rang.  Các chú khỉ ngửi mùi bắp thơm thì thò cả hai tay vào bốc.  Lúc đó người bẫy khỉ ngồi xa xa cứ việc tiến lại bắt chú khỉ.  Con khỉ cuống cuồng muốn thoát chạy nhưng không rút tay ra được.  Lý do đơn giản là hai tay còn nắm chặt hai nắm hạt bắp.

ZZZTác giả sách Giảng Viên đã suy gẫm sự đời một cách rất sâu lắng.  Phản ánh một triết lý sống. Thực ra cuộc sống con người rất phức tạp và đa diện.  Chúng ta nên quan sát và suy gẫm rất cẩn thận để tìm một hướng đi thích hợp.  Trước khi chúng ta được mở mắt chào đời, vũ trụ và muôn loài đã có đó.  Khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, muôn sự vẫn cứ tiếp tục hiện hữu.  Cuộc đời của mỗi người xuất hiện đó, rồi biến mất.  Không có gì tồn tại mãi ở trần gian này.  Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không và mọi sự đều hư không (Gv 1:2).  Hư không diễn tả một khía cạnh vô thường của cuộc sống này.  Có nghĩa là mọi sự hiện hữu như gió thoảng mây bay.  Giảng Viên chia sẻ kinh nghiệm sinh hoạt cuộc sống hằng ngày và gẫm suy: Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao (Gv 2:21).

Chúng ta không nhìn cuộc sống một cách bi quan hay tiêu cực.  Vì sự sống là một hồng ân. Chuỗi ngày sống là một chuỗi ân sủng nối tiếp.  Sống là hiện hữu.  Mọi sự hiện hữu đều hữu ích.  Sự sống cần được sinh hoa kết trái.  Thể xác con người cần được lớn lên và phát triển mỗi ngày.  Đời sống tâm linh cũng được bồi dưỡng để tiến tới sự hoàn hảo hơn.  Sinh ra là khởi đầu.  Bắt đầu bước vào một cuộc lữ hành trần thế.  Cuộc lữ hành cần có hướng đi và cùng đích.  Trong các loài thụ tạo, sứ mệnh của con người thật cao quí.  Vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa.  Thiên Chúa trao ban cho con người có ý chí, lý trí và tự do.  Với những khả năng ưu việt, con người có bổn phận và trách nhiệm xây dựng một xã hội giầu mạnh, thịnh đạt và an bình.  Với khối óc và bàn tay lao động, con người góp phần làm cho thế giới ngày tốt đẹp hơn.

Con người được trao quyền làm chủ trái đất và cai quản mọi loài.  Làm chủ chứ không làm nô lệ cho của cải vật chất.  Của cải trần thế là phương tiện thiết yếu giúp con người đạt tới cứu cánh.  Con người dùng những sản phẩm do mình tạo ra để phục vụ đời sống.  Con người không thể lệ thuộc làm tôi tớ cho của cải vật chất.  Chúng ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền của.  Chúa Giêsu nhắc nhở: “Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu” (Lc 12:15). Tất cả vũ trụ đều đang thay đổi, nay còn mai mất.  Của cải không thể bảo đảm kéo dài đời sống hạnh phúc.  Các phương tiện vật chất chỉ giúp cho cuộc sống con người được thanh thản, thoải mái và tiện lợi hơn.  Biết rằng ai cũng cần có tiền bạc của cải để nâng cao mức sống và đáp ứng những nhu cầu cần thiết.

Câu truyện Phúc âm, Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận rõ về giá trị về việc tìm kiếm và sử dụng của cải trần đời.  Cần có thái độ chọn lựa đối với vật chất phù vân.  Chúng ta còn có gia sản tinh thần quí báu hơn.  Hãy dùng của cải hay hư nát để mua Nước Trời.  Hãy dùng tiền bạc thế gian để đổi lấy bạn hữu.  Hãy dùng của giả để đổi lấy của thật.  Hãy tráo đổi giá trị trần thế để mua gia sản nước trời.  Đổi tiền giả ra tiền thật.  Đó là dùng tiền bạc hay của cải để bố thí hoặc làm việc bác ái, chúng ta sẽ tích trữ được khó báu trên trời.  Chúa Giêsu đã dậy: Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16:9).

Điều quan trọng là chúng ta phải đặt đúng giá trị của sự việc.  Tiền bạc của cải không thể trở thành chủ nhân ông.  Đừng qúa tham lam thu tích của cải phù hoa thế trần, nhưng luôn ý thức hướng tới mục đích sau cùng.  Chúa Giêsu cảnh báo: “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? (Lc 12:20).  Người đời nghĩ rằng phải cố gắng làm việc để trở nên giầu có và có của ăn của để, phòng khi hữu sự.  Điều này thật phải lẽ!  Đối với các tín hữu, chúng ta được mời gọi không chỉ làm giầu gia sản vật chất nhưng quan trọng hơn là làm giầu trước mặt Chúa.  Chúa Giêsu nói tiếp: Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy” (Lc 12:21).  Khi lao động làm việc hay kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt, các thành quả đều có giá trị giúp thăng hoa cuộc sống.  Chúng ta không chỉ tích trữ gom góp tiền bạc để thụ hưởng riêng mình, nhưng sử dụng của cải để sinh hoa quả cho tha nhân và xã hội.  Biến đổi giá trị vật chất phàm hèn tới giá trị tinh thần cao siêu trước mặt Chúa.

Những lời huấn dụ trong Kinh Thánh xem ra khó áp dụng cuộc sống đời thường.  Vì chúng ta thấy ai ai cũng đang mải mê lao động kiếm kế sinh nhai và vun đắp gia sản vật chất.  Chúng ta nêu đủ lý do để biện minh cho sự tham lam và tích trữ của cải.  Nói rằng nếu không cực lực lao động, lấy gì mà trả bills và các món nợ chồng chất.  Chúng ta đầu tư mọi vốn liếng và khả năng để lo làm giầu mỗi ngày.  Lòng tham vô đáy.  Chúng ta chắt chiu từng đồng và thấy vẫn cần thiếu một xu.  Chúng ta dần bị chìm đắm trong sự ham mê của cải vật chất.  Thế là cuộc sống lôi kéo vào sự kiếm tìm không ngừng nghỉ.  Biết rằng lao động kiếm sống là tốt.  Dành dụm tiền bạc để tiêu xài cũng tốt.  Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta hãy biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa qua việc sử dụng tiền bạc của cải đúng cách để sinh hoa kết trái đời này và đời sau.

Truyện kể có người giầu có kia chết, chôn chưa được ba ngày, một tên đạo tặc giữa đêm lén đào mả lên, lột hết vàng bạc trong mình kẻ chết, rồi lại vác búa đập bể đầu, bể miệng.  Sao lại thù hằn dữ vậy?  Không, chỉ vì khi chôn, người ta cho ông ngậm viên ngọc quí đó thôi.  Giầu có sống không yên, chết cũng chẳng yên.

Lợi lộc gì chứ khi chúng ta chỉ biết cắm đầu lo làm giầu sở hữu của cải vật chất.  Hãy ngước nhìn lên và nhắm hướng về cùng đích.  Cuộc đời của chúng ta có những gia trị cao quí hơn nhiều.  Vì sự sống của chúng ta được chuộc lại bởi giá Máu châu báu của Chúa Giêsu.  Thánh Phaolô diễn tả: Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa (Col 3:1).  Quê hương đích thực của chúng ta là trời cao.  Tại sao chúng ta xả thân miệt mài thu tích của cải dưới đất nơi mối mọt rúc rỉa?  Hãy tìm kiếm những sự cao siêu hơn: Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất (Col 3:2).

Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa.  Ngài đã trở thành con người mới hoàn toàn.  Sống phó thác và tin tưởng vào Đấng tạo thành vũ trụ.  Phaolô lên tiếng: Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Đấng đã tạo thành nó (Col 3:9-10).  Theo gương thánh Phaolô, tuy chúng ta còn khoảng cách rất xa trên con đường trọn lành.  Mỗi người chúng ta có thể khởi đầu từ hôm nay để chọn lựa một thái độ và thực hành sống lời Chúa cách tích cực hơn.

Lạy Chúa, chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp đời chúng con.  Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự Chúa sẽ ban thêm.  Có Chúa, chúng con sẽ có tất cả.

 LM Giuse Trần Việt Hùng

TÍCH LŨY CỦA CẢI

Một cách khác thường, Chúa Giêsu đã gọi người đàn ông trong dụ ngôn nầy là “người dại dột” (Lc 12, 20), không phải vì ông ta giàu có – giàu có không phải là một cái tội – nhưng vì thái độ sai lầm của ông đối với của cải.

Một phi công đang bay trên không trung với ba hành khách trong máy bay: Một hướng đạo sinh, một vị linh mục và một khoa học gia về không gian.  Viên phi công quay về phía ba hành khách và đưa tin buồn một cách nhẫn tâm: “Máy bay đang rơi xuống!  Chúng ta có bốn người nhưng chỉ có ba cái dù.  Tôi có vợ và ba con đang cần đến tôi.”  Anh ta chộp lấy một cái dù và nhảy ra khỏi máy bay.  Nhà khoa học nói lớn tiếng: “Tôi là người khôn lanh nhất trần gian.  Thật là một đại họa cho nhân loại nếu tôi phải chết.”  Ông liền chộp lấy chiếc dù thứ hai và nhảy ra khỏi máy bay.

Còn lại vị linh mục và em hướng đạo sinh.  Vị linh mục quay sang em đó và nói: “Con ơi, cha không có gia đình.  Cha đã sống một cuộc sống lâu dài và hạnh phúc rồi, nay cha sẵn sàng trực diện với Đấng Tạo Hóa.  Con đang còn trẻ.  Cả một cuộc sống dài lâu đang trải ra trước mặt con.  Con hãy cầm lấy chiếc dù nầy đi.”  Thật là một linh mục đáng khâm phục.  (Bạn có thể tin tưởng tôi khi tôi tuyên dương vị linh mục đó là anh hùng!)

Em hướng đạo sinh trả lời: “Xin cám ơn Cha, nhưng điều đó không cần thiết.  Cả cha và con đều có dù hết.  Cha có biết không, cái ông khôn lanh nhất trên đời đó đã nhảy ra khỏi máy bay, mang theo cái ba-lô của con!  Ông ta không khôn lanh như ông ta tưởng.”

Tôi thiết tưởng đó là phần chính của sứ điệp Tin Mừng hôm nay.

Linh đạo phá sản

ZZZChúng ta không luôn luôn khôn lanh như chúng ta thường nghĩ tưởng.  Phần nhiều những gì chúng ta làm, quyết định hay chọn lựa không có ý nghĩa thật sự, sau khi chúng ta xem xét kỹ càng.  Chúng ta cảm thấy mình ngu đần.  Người đàn ông giàu có trong đoạn Phúc Âm nầy là một trường hợp điển hình.

Không có chỗ nào trong đoạn Phúc Âm nầy cho thấy ông là một con người xấu xa.  Có thể ông là một người tốt, một người tao nhã nữa.  Chắc chắn ông là một người làm việc đầu tắt mặt tối.  Đúng thế, những người làm việc khó nhọc đôi khi có những quyết định tồi tệ.  Người đàn ông trong đoạn Phúc Âm nầy đã lập kế hoạch đời mình căn cứ trên cuộc sống ở trần gian nầy mà thôi.

Cụm từ duy nhất mà ông biết đến là phải “có nhiều hơn nữa.”  Ông ta bị thôi miên bởi cụm từ “thêm nữa” mà không bao giờ có thể nắm bắt được.  Ông không bao giờ đi quá xa hơn cụm từ đó.  Ông càng có thêm, ông càng muốn thêm hơn.  Một người tham lam không bao giờ được thỏa mãn.  Đủ không bao giờ là đủ hết.

Bỗng chốc quả bong bóng nổ tung.  Chúa gọi ông ta và ông phải ra đi, để lại đằng sau tất cả của cải cho một người khác.  Ông không thể mang theo một thứ gì với mình.  Ông đứng trước mặt Chúa với tay không và trần trụi.  Ông không có một lời nào để thốt lên.  Sự trống rỗng của ông đã nói lên tất cả.  Cả Chúa cũng không có một lời nào để ngỏ với ông.

Tới lúc đó, ông mới biết mình chưa bao giờ làm gì hết.  Đám tang của ông cũng rầm rộ như đám tang của một tên trùm Mafia, với khối bông hoa và mộ bia bóng nhoáng.  Cuối cùng, tên trùm Mafia là người giàu có nhất trong nghĩa địa, nhưng được công bố là bị phá sản về mặt tinh thần.

Như vậy, những ưu tiên của chúng ta là gì?  Chúng ta đã sống cho lý tưởng nào?  Tất cả cuộc sống chúng ta dùng để làm gì?  Con tim chúng ta hướng về đâu?  Điều gì chúng ta đã mong muốn nhiều nhất?  Đó là những vấn nạn lớn lao.  Tất cả đều tùy thuộc vào câu trả lời.

Sự sống sau khi chết

Số phận của người đàn ông trong dụ ngôn nầy đưa chúng ta đến một câu hỏi sâu xa hơn nữa: Điều gì xảy ra sau khi chết?  Có phải chúng ta sẽ được kết thúc dưới ba tấc đất hay trong lò hỏa thiêu? Có phải chỉ thế thôi sao?

Thánh Augustinô đã la lên: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con cho Chúa và con tim chúng con bồi hồi xao xuyến cho tới khi được nghỉ an trong Chúa!”  Chúng ta có kinh nghiệm về sự bồi hồi thổn thức đó ở trong chúng ta hay không?  Có một khoảng trống trong con tim và một sự nhức nhối trong tâm hồn mà chỉ Thiên Chúa mới khoả lấp được không?  Lại một lần nữa, đó chính là những vấn đề quan trọng trong cuộc sống.

Sự sống trước khi chết

Có một vấn nạn khác chúng ta cần phải nêu lên: “Có một cuộc sống trước khi chết không?” Điều đó xem ra là một câu hỏi quái đản đang đập vào đầu óc bạn.  Eric Fromm là một tâm lý học gia nổi tiếng đã viết: “Điều đáng thương hại trong cuộc sống ngày nay là phần đông chúng ta chết trước khi sống trọn vẹn.”  Nhà tâm lý học nầy đã quan tâm đến những người chỉ “hiện hữu” chứ không “sống” thật sự.

Tối chắc chắn nếu nhà tâm lý học Fromm có mặt ở Waterford vào ngày hội gọi là “Spraoi” vào thượng tuần tháng tám, ông ta sẽ lấy làm sung sướng thấy rất đông người đang vui hưởng cuộc sống mà không chút ngượng ngùng.  Thiết tưởng ngay cả Chúa nữa cũng sẽ hết lòng tán thưởng.  Tôi tưởng tượng Chúa đang nhìn xuống, mỉm cười và nói: “Cuộc thí nghiệm lớn lao của Ta với sự sống đã được chứng minh.”  

Tôi đã đọc đâu đó một câu chuyện nói về những người khóc than lớn tiếng trên giường bệnh, sắp chết, là những người chưa bao giờ biết sống.  Họ chỉ là những quan sát viên đối với cuộc sống, những người ngoại cuộc, những khán giả thụ động.  Thần học lớn lao của Kitô giáo cho biết vinh quang của Thiên Chúa chính là con người biết sống một cách trọn vẹn.

Giả thiết

Thử tưởng tượng một chút là Chúa hiện ra và nói đôi điều với chúng ta cũng như Ngài đã nói với người đàn ông giàu có trong đoạn Phúc Âm nầy: “Thời giờ của con đã điểm.  Bây giờ là lúc con phải ra đi.  Con còn sống vài giờ nữa thôi để sắp đặt cuộc sống cho ổn định.  Bây giờ quá trễ để thay đổi được gì, ngoại trừ việc con nói lời giã biệt.  Không cần phải sửa soạn hành lý.  Tất cả những gì con mang theo với mình là những kỷ niệm của con.”

Những kỷ niệm gì bạn sẽ mang theo?  Những kỷ niệm gì sẽ khiến bạn nói lên: “Tôi sung sướng vì đã biết sống.  Tôi sung sướng vì đã cưới người phối ngẫu của tôi.  Tôi đã được lớn lên trong gia đình tôi, yêu thương cha mẹ tôi, đối xử với mọi người với lòng kính trọng và đầy nhân phẩm, làm cho nhiều người cười thay vì khóc, làm cho nhiều người cảm thấy được thoải mái, biến cuộc sống trở thành hòa nhã hơn, ân cần hơn và chan chứa nhiều kinh nghiệm tốt đối với kẻ khác?”

Những ưu tiên

Nếu bạn chỉ còn sống thêm ít giờ nữa thôi, bạn có còn quan tâm đến sự thành công, đến trương mục ngân hàng, danh thơm tiếng tốt, chơi gôn thật giỏi hoặc bất cứ điều gì mà bạn thích thú trong cuộc sống?  Tôi thiết tưởng tôi biết điều bạn muốn làm trong những giờ còn lại của bạn.  Tôi ức đoán ra ngay bây giờ đây!

Bạn sẽ nói với càng nhiều người càng tốt về một trong ba điều sau đây – có thể hai điều hay cả ba điều.  Có người bạn sẽ nói: “Tôi rất lấy làm buồn!”  Với người khác, bạn lại nói: “Tôi tha thứ!”  Và người khác nữa, bạn sẽ nói: “Tôi rất yêu thương!”  Đó là những gì bạn sẽ nói, bởi vì rõ ràng cuộc sống là như thế đó.

Cuối cùng, cuộc sống có tương quan đến Thiên Chúa và đến tha nhân.  Và như thế, người giàu có trong dụ ngôn nầy đã đánh mất điều đó ở đâu?  Những ưu tiên của ông ta đã sai lầm.  Ông đã săn đuổi hũ vàng cho tới khi cầu vồng biến mất và khi đến cuối cuộc đời, ông bàng hoàng khám phá ra rằng đó chỉ là ảo ảnh.

Phúc Âm đưa chúng ta về với thực tại.  Sống là sống trong thực tại, chứ không phải bằng trí tưởng tượng.  Trí tưởng tượng cũng tốt, bao lâu không làm cho thực tại trở nên nhầm lẫn.  Phúc Âm đưa chúng ta trở về với những gì là quan trọng và những gì không quan trọng.

Lòng hào hiệp và sự chiếm hữu

Trong vài giờ ngắn ngủi sau cùng đó, sự kiện trở nên giàu có hay nổi tiếng, trở thành vĩ đại và quyền thế, kho lẫm đầy thóc hay bất cứ chiến công, chiến tích nào mà chúng ta đã tích luỹ… không có điều gì trong những thứ đó sẽ trang trí cho khung ảnh cuộc đời.

Điều quan trọng ở đây là lòng hào hiệp ở bên trong, chứ không phải sự chiếm hữu ở bên ngoài. Và nếu chúng ta chân nhận như thế, chúng ta sẽ không ngớ ngẩn sai phạm khi chộp lấy cái ba-lô mà tưởng là cái dù.  Mong bạn hiểu điều tôi muốn nói!

Phúc Âm đã dạy: “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời.  Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình.  Quả vậy, những sự vật hữu hình thì tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn.” (2 Cr, 4 17-18)

Nguyên Tác In Step With God – LM Vincent Travers, OP

Hương Vĩnh chuyển ngữ

 

 

SỐNG KINH LẠY CHA

ZZCon không thể đọc “Lạy Cha
nếu không chứng tỏ được, bằng cuộc sống của mình,
là con có một mối liên hệ Cha con với Cha.

Không thể đọc “Chúng con
nếu con cứ sống trong một tinh thần hẹp hòi khép kín,
và nghĩ rằng trên trời chỉ có một chỗ đặc biệt dành riêng cho Giáo Hội của con mà thôi.

Không thể đọc “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng
nếu con, một người kêu cầu Danh Cha, nhưng chính con lại không nên Thánh.

Không thể đọc “Nước Cha trị đến
nếu con không dùng hết năng lực của mình để xúc tiến nhanh ngày lại đến của Cha.

Không thể đọc “Ý Cha thể hiện
nếu con không đồng ý nhưng còn nổi loạn chống lại ý ấy.

Không thể đọc “dưới đất cũng như trên trời
nếu con không sẵn sàng tận hiến cuộc đời của con dưới thế nầy để phục vụ Cha.

Không thể đọc “xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày
nếu con không thay đổi lối sống chỉ dựa trên sự lợi dụng người khác.

Không thể đọc “và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”
nếu con vẫn giữ mối hiềm khích, lòng thù hận và nỗi tức giận chống lại anh em con hoặc ganh tị với họ.

Không thể đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ
nếu con cương quyết đặt mình hoặc cứ ở lại trong một hoàn cảnh mà con có thể dễ dàng rơi vào chước cám dỗ.

Không thể đọc “nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ
nếu con không sẵn sàng chiến đấu trong tinh thần, với một vũ khí là lời cầu nguyện.

Không thể đọc “Amen
nếu con không thêm rằng: “bằng bất cứ giá nào.”
Vì con phải trả giá rất nhiều mới đọc được lời kinh ấy một cách hết sức khiêm cung.

 M.W.Grass, bản dịch của M.Stein – Thái Văn Hiến trích dịch

********************

Lạy Chúa Giêsu, qua các tông đồ, Chúa đã dạy con cách cầu nguyện qua câu Kinh Lạy Cha, xin cho con ý thức từng lời từng chữ mà con đọc.  Xin cho con biết sống với Lời Kinh mà Chúa đã dạy cho con.  Amen!

XIN THÌ SẼ ĐƯỢC

Lời Chúa hôm nay cho thấy lời cầu nguyện có giá trị như thế nào!  Và không chỉ thế, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần cho tất cả những ai cầu xin Ngài.

Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần

Đức Yêsu dạy các tông đồ cầu nguyện.  Qua đó Ngài cũng dạy tất cả chúng ta.

ZZ“Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến.”  Danh Thiên Chúa cả sáng khi con người tin Thiên Chúa, và để Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn mình.  Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu.  Khi con người sống yêu thương nhau, Nước Thiên Chúa đang hiện diện.

“Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” không phải là chuyện con người có thể làm được.  Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho con người tin nhận Ngài và sống theo luật tình yêu.  Đó là lý do tại sao chúng ta nài xin.

“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày.”  Cơm bánh hằng ngày, là những điều rất bình thường nơi người ta no đầy sung túc, và người ta tưởng đó là những điều tự nhiên, và không cần tạ ơn Chúa; nhưng ở những nơi đói kém, con người dễ nhận ra “cơm bánh” mình ăn hằng ngày, là những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban.  Nếu không nhận biết “cơm bánh” hằng ngày là ơn, con người đã hành xử như người vô ơn.

“Xin tha tội chúng con, để chúng con cũng tha lỗi cho những người xúc phạm đến chúng con.”  Xin cho chúng con cảm nhận lòng từ bi nhân hậu của Chúa, để chúng con cũng giúp người khác cảm nhận tình yêu tha thứ của Chúa, qua việc chúng con tha thứ lỗi lầm cho họ.

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.” Con người mỏng dòn, mong manh, dễ vỡ!  Ai dám nói mình không bao giờ sa ngã?  Bây giờ tôi rất mạnh, nhưng lúc khác có thể tôi rất yếu.  Không sa ngã phạm tội, đó là hồng ân vô cùng lớn mà nhiều lần tôi đã không ý thức để tạ ơn Thiên Chúa.  Ở trong tình nghĩa với Chúa, là một ơn mà mỗi tối khi xét mình, chúng ta cần nhận ra để tạ ơn Chúa.

Người đời, những con người bất toàn và ích kỷ, mà còn không thể dửng dưng trước những lời van xin của đồng loại, huống chi Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng.  Nếu con người còn biết cho con cái mình những điều tốt, huống chi là Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài không ban điều tốt cho con người sao?  Quả thực, Thiên Chúa đã ban “Thánh Thần” cho con người.  Thánh Thần là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa và Đức Yêsu ban cho con người.  Khi người ta tặng quà ai, món quà càng giá trị càng diễn tả tình yêu . Món quà quý nhất mà Thiên Chúa trao tặng con người, là chính Thiên Chúa, Chúa Con và Thánh Thần.

Được Thiên Chúa, được Thánh Thần, chúng ta được tất cả những điều khác.

Thiên Chúa nhân từ hơn con người tưởng

Cuộc “trao đổi” giữa Abraham và Thiên Chúa, làm người ta lầm tưởng Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa.  Thực ra đoạn Lời Chúa cho thấy Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, và Ngài sẵn sàng làm tất cả những gì Abraham nài xin.  Abraham xin gì, Thiên Chúa cũng ban.  Ngài sẵn sàng bớt từ 50, đến 40, 30, 20 và 10.  Tại sao Abraham không rút xuống nữa?  Có lẽ vì lòng nhân từ của con người “có hạn”, hay tại Abrahm chưa đủ lòng tin rằng Thiên Chúa nhân từ, chứ nếu Abraham có đủ can đảm và lòng tin xin rút xuống nữa, chắc chắn Thiên Chúa cũng ban cho.

Sôđôma, là mẫu gương để con người xa tránh tội lỗi.  Thật không đúng nếu nói Thiên Chúa không thương những người ở Sodoma.  Đức Yêsu nói: Sodoma còn được xét xử khoan dung hơn nhiều thành ở Israel (x. Mt.10, 15).

Hình ảnh của Abraham trong St.18, 20-32 rất đẹp.  Lòng nhân từ và thương xót, làm con người trở nên xinh đẹp, vì điều đó làm con người giống Thiên Chúa hơn.

Chỉ cần mười người công chính, đủ để cứu cả thành.  Chỉ cần là người công chính, là đã làm được bao nhiêu điều mà những người tài giỏi, quyền thế, giầu sang, không thể làm được.  Ước gì mỗi người chúng ta đều có khao khát trở nên người công chính.  Để với sự công chính Thiên Chúa ban, chúng ta có thể cứu được những người khác, chẳng hạn qua gương sáng đời sống đạo đức, chúng ta có thể giúp người khác trở lại, hoặc cố gắng vươn lên.

Thái độ của con người trước Thiên Chúa

Abraham xin với Thiên Chúa như một người “ăn xin”, ý thức những điều mình xin tuỳ thuộc Thiên Chúa đồng ý hay không.  Con người tuy dù được Thiên Chúa yêu những tự bản chất chỉ là tạo vật, là hư không đối với Thiên Chúa.  Con người đâu phải ngang bằng với Thiên Chúa mà đòi hỏi điều này điều kia.  Thái độ khiêm tốn, chấp nhận những gì được ban như hiện tại, cảm tạ Thiên Chúa, là thái độ cần thiết của tạo vật trước Thiên Chúa.

Thiên Chúa không cần chúng ta nài xin, Ngài cũng ban những điều cần thiết cho chúng ta.  Khi chúng ta thấy những gì cần cho chúng ta và nài xin Ngài, Ngài sẵn sàng ban để chúng ta nhận biết “Ngài là tình yêu” hơn nữa.  Thiên Chúa đã ban Đức Yêsu cho chúng ta, nhờ Ngài chúng ta là tạo vật mới, và chúng ta được tất cả nhờ Đức Yêsu Kitô.

Đức Yêsu vì yêu thương đã coi chúng ta là bạn hữu với Ngài.  Tuy dù được yêu thương, nhưng khi ngỏ lời với Thiên Chúa, Abraham rất kính cẩn.  Đây cũng là bài học cho chúng ta, để mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải có thái độ như thế nào đối với Thiên Chúa.

LM Jos. Phạm Thanh Liêm

MARIA MAĐALÊNA, BÀ LÀ AI?

ZZMaria Mađalêna có một ảnh hưởng bền bỉ lâu dài, gợi hứng cho nhiều nghệ sĩ, tội nhân lẫn các thánh và cả những môn đệ của Đức Kitô qua nhiều thời đại.  Tiếng tăm này không thể dễ dàng giải thích dựa vào các thông tin về bà trong Kinh Thánh.  Điều Tân Ước nói về bà thật ít ỏi và gây thất vọng, đơn giản chỉ gọi bà là Maria Mađalêna hay Maria thành Magđala, nhưng có một chi tiết nhỏ thật có ý nghĩa và thách đố.  Cả bốn Tin Mừng đều khẳng định bà là môn đệ gương mẫu cho mọi thời đại.

Có điều gì đó bí ẩn và hấp dẫn về người phụ nữ này trong các Tin Mừng.  Một người phụ nữ mà tên riêng không đi kèm với tên một người đàn ông nào khác ngay trong Tân Ước thì đó là điều thật có ý nghĩa.  Khi xếp bà riêng ra thì hoặc bà là một nhân vật ngoại thường hoặc có vấn đề gì ở đây.  Có lẽ chính vì thế mà óc tưởng tượng bình dân đã “điền vào chỗ trống” và gán ghép bà với những phụ nữ khác trong Tân Ước, tạo nên một khối tù mù.  Trước khi xem các Tin Mừng nói gì thì chúng ta hãy xem thử những gì mà các Tin Mừng không hề nói.

 Bà không phải là ai

Thỉnh thoảng Maria Mađalêna bị đồng hóa cách sai lầm với người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa Giêsu.  Sự đồng hóa này lại càng thêm phức tạp bởi vì người ta thường nhầm lẫn câu chuyện xức dầu với một người phụ nữ tội lỗi, một cô điếm.  Và góp phần khiến vấn đề trở nên tệ hại hơn là hình ảnh của Maria Mađalêna và một người phụ nữ bị cáo buộc ngoại tình trong Tin Mừng Thánh Gioan lại nhập nhằng với nhau.

Trong câu chuyện Khổ Nạn, dầu mục đích sử dụng câu chuyện khác nhau, cả bốn Tin Mừng đều nói về một phụ nữ xức dầu thơm chân Chúa Giêsu (Mc 14, 3-9; Mt 26, 6-13), Thánh Marcô và Matthêu đưa trình thuật nói về một phụ nữ vô danh xức dầu cho Chúa Giêsu có ý nói về cuộc mai táng của Ngài.  Lúc ấy Chúa Giêsu đang ở nhà của ông Simon người phung hủi, ở Bêthania gần Giêrusalem.  Thánh Gioan cũng thuật lại câu chuyện xức dầu chân Chúa Giêsu không lâu trước cái chết của Ngài, xác định người phụ nữ là Maria thành Bêthania, bà làm thế để tỏ lòng biết ơn Chúa Giêsu đã làm cho em bà là Lazarô sống lại.  Maria là một tên gọi rất thông dụng và có lẽ chính vì thế mà hai bà tên Maria đã bị hòa lẫn vào nhau trong truyền thống Kitô giáo sau đó.

Thánh Luca kể về một phụ nữ vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu khi Ngài đang ngồi bàn ăn trong khi đang thực hiện sứ vụ (Lc 7, 36-50) chứ không phải lúc cuối đời.  Lúc ấy Chúa Giêsu đang dùng bữa tối tại nhà ông Simon người Pharisiêu.  Có lẽ Maria Mađalêna đã bị nhầm lẫn với người phụ nữ này bởi vì Maria Mađalêna lần đầu tiên được gọi đích danh trong câu chuyện tiếp liền ngay sau trình thuật xức dầu của Thánh Luca (Lc 8, 2).  Góp phần để tạo thêm nhầm lẫn là người phụ nữ này đôi khi được miêu tả là người tội lỗi công khai (một cái tên thanh tao để gọi nghề làm điếm), người đã đổ nước mắt vì thống hối và hành động vì lòng hối hận.  Thế nhưng người phụ nữ xức dầu chân Chúa Giêsu là một phụ nữ vô danh trong Tin Mừng Thánh Luca, và nếu bà được ghi nhớ chỉ vì “tội lỗi” của mình hơn là tình yêu đưa dẫn đến hành động xức dầu chân Chúa, thì điều đó vừa trái với ý nghĩa của dụ ngôn mà Chúa Giêsu vừa mới nói đến trong dịp này lại vừa không phải là mục đích của Thánh Luca khi kể lại câu chuyện.

Vấn đề càng thêm phức tạp khi có một vài thủ bản Tin Mừng Thánh Gioan (7, 53 – 8, 11) nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và gán ghép chị này với Maria Mađalêna.  Một truyền thống lâu đời trong văn chương và nghệ thuật Kitô giáo đã vẽ nên một Maria Mađalêna là người tội lỗi ăn năn, sau khi gặp được Chúa Giêsu thì bà đã trải hết phần đời còn lại để khóc than tội lỗi mình.  Thế nhưng các Tin Mừng không hề gán ghép Maria Mađalêna với người phụ nữ tội lỗi, hoặc tệ hơn nữa là một cô điếm.

Các Tin Mừng nói gì

Trong các Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca, bà được gọi là Maria Mađalêna hay “Maria Magđala” (xem Mt 27, 56.61; 28, 1; Mc 15, 40.47; 16, 1,9; Lc 8, 2; 24, 10).  Thánh Gioan gọi bà là “Maria thành Magđala”, một thành phố vô danh trong Kinh Thánh (xem Ga 19, 25; 20, 1.18).  Vài người cho rằng đó là thành phố Magađan (xem Mt 15, 39; Mc 8, 10), một thành phố nằm bên bờ Tây của Biển hồ Galilê, giữa Tiberia và Capharnaum.

Maria thành Magđala được ghép với một địa danh chứ không phải với tên của bất kỳ người đàn ông nào bên cạnh Chúa Giêsu.  Trong thế giới Tân Ước, người phụ nữ thường gắn liền với chồng, cha, con trai hoặc anh em của họ.  Như vậy, người phụ nữ vô danh đã theo Chúa Giêsu và hiện diện dưới thập giá đơn giản chỉ được gọi là “bà mẹ của các con trai ông Zêbêđê.”  Tên gọi Zêbêđê xuất hiện ở đây không phải vì ông hiện diện dưới chân thập giá cùng với vợ con ông, những người đã theo Chúa Giêsu từ Galilê cho đến Giêrusalem.  Song chính ông được nêu tên chứ không phải bà vợ đầy lòng tin của ông.

Maria thành Nazareth, Maria và Martha thành Bêthania được gắn liền với thành phố quê hương của họ nhưng đồng thời cũng được gắn liền với người đàn ông:  Maria với Giuse, Maria và Martha với Lazarô.  Còn Maria Mađalêna chính là môn đệ và tông đồ của Chúa Giêsu.  Không có hàng chữ nào nói lên vai trò này của bà trong Tân Ước.  Đúng ra, các Tin Mừng chỉ phác họa Chúa Giêsu là người thâu nhận “những người học việc” (“môn đệ”).  Sau thời gian học tập với vị Tôn Sư, các môn đệ này được “sai đi” (ý nghĩa của từ “tông đồ”) để rao giảng và hành động với thẩm quyền của Chúa Giêsu.  Từ các Tin Mừng, chúng ta biết rằng các môn đệ được kêu gọi. Chúa Giêsu dạy các môn đệ rằng họ phải làm nhân chứng, tiếp tục sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã khởi đầu.  Các môn đệ được đòi hỏi phải theo Chúa Giêsu và kiên trì cho đến chết.  Họ đã tin và rao giảng sự phục sinh.

Ơn gọi của Maria

Có vài môn đệ được kêu gọi từ bỏ cuộc sống đang đà thuận lợi.  Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan đã “bỏ mọi sự” mà theo Chúa Giêsu (Mc 1, 18).  Lêvi (hay Matthêu) là người thu thuế đã lập tức đứng dậy đi theo Chúa Giêsu (Mc 2, 13-14; Mt 9, 9).  Những người khác đã bỏ lại bệnh tật và khiếm khuyết của mình và “ơn gọi” của họ thật sự là một phép lạ đúng nghĩa.  Người mù gặp được Chúa Giêsu và được chữa lành.  Kể từ đấy ông đã “đi theo Người trên con đường người đi” (xem Mc 10, 52).  Tương tự như vậy, Maria Mađalêna sau khi được trừ “bảy quỷ,” đã đi theo Chúa Giêsu (xem Lc 8, 2; Mc 16, 9).  Thánh Luca kê tên bà trong số mấy phụ nữ được trừ quỷ và chữa lành bệnh tật đã đi theo Chúa Giêsu từ Galilê đến Giêrusalem, chăm sóc cho Ngài.

Các chứng nhân làm chứng cho điều họ thấy và nghe.  Các môn đệ được kêu gọi làm chứng cho Nước Trời đã đến trong lời nói và hành động của Chúa Giêsu.  Họ được trao ban nhiệm vụ (xem Mt 10; Lc 9 – 10) và được sai đi để làm điều Chúa Giêsu đã làm (Lc 10, 1.3.9).  Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải trở nên đất tốt để “khi nghe Lời Chúa với tấm lòng cao thượng và quảng đại, họ nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8, 15).  Lời dạy này phù hợp với những miêu tả về Maria Mađalêna, sau khi được trừ quỷ, đã kiên trì và trung thành theo Chúa Giêsu cho đến khi Ngài chết trên thập giá, ngoài ra còn lấy nguồn lợi tức của riêng mình để chăm sóc cho Ngài và các môn đệ khác với tình chân thật và lòng quảng đại.

Theo Thánh Marcô, lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước cuộc Khổ Nạn là “Hãy tỉnh thức!” (Mc 13, 36).  Họ đã chứng kiến sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu và cuối cùng là sự phục sinh của Ngài.  Thế nhưng các tác giả Tin Mừng nhìn nhận rằng các đấng môn đệ nam nhi đã không thể “tỉnh thức” với Chúa Giêsu dầu chỉ một thời gian ngắn ngủi trong Vườn Cây Dầu.  Vậy mà bà Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã “tỉnh thức” để trông xem cuộc đóng đinh và rồi nán lại để “nhìn xem” xác Ngài được đặt ở đâu.  Thánh Matthêu nói rằng Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã ra mộ từ sáng sớm ngày Phục Sinh để “trông chừng” ở đấy (xem Mt 27, 55-56.61; 28, 1.8-10).  Họ đã “xem thấy” ngôi mộ trống.  Cuối cùng, theo ba Tin Mừng Nhất Lãm, những phụ nữ này đã nghe sứ điệp phục sinh và về thuật lại cho những người khác.  Họ đã được “sai đi” làm sứ giả hay tông đồ cho các môn đệ khác.

Chứng nhân và sứ giả

Marcô đã xếp đặt bà Maria Mađalêna và những phụ nữ khác đứng dưới chân thập (Mc 15, 40-41).  Sử dụng Tin Mừng Marcô, Thánh Luca đã đặt ngay tâm điểm sứ vụ của Chúa Giêsu đoạn văn nói về những phụ nữ đi theo Ngài từ Galilê cho đến Giêrusalem để nói lên đức tin và sự kiên trì của họ (Lc 8, 1-3).  Còn theo Thánh Luca, tại Bữa Ăn Tối Cuối Cùng, Chúa Giêsu nhắc đến các môn đệ như là những người cùng đứng với Ngài trong cơn thử thách, “một lòng gắn bó với Thầy giữa lúc gian nan” (Lc 22, 28).  Maria Mađalêna chắc chắn là một trong số người đó.

Bất kỳ khi nào được nêu tên (ngoại trừ Ga 19, 25-27), Maria Mađalêna đứng đầu danh sách những phụ nữ đi theo và hầu hạ Chúa Giêsu.  Trong Tin Mừng Thánh Gioan, các phụ nữ này đã rời bỏ tuyến hậu phương để xuất hiện dưới chân thập giá.  Chỉ trong Tin Mừng Thánh Gioan thì nhóm phụ nữ này gồm có cả “thân mẫu Chúa Giêsu,” cùng với chị của thân mẫu Chúa Giêsu là bà Maria vợ ông Clopas, và Maria Magđala” (Ga 19, 25).  Được sự ttháp tùng của các phụ nữ này cũng như người Môn đệ Chúa yêu (theo chứng từ của Tin Mừng thứ tư), “thân mẫu Chúa Giêsu” đến sát cây thập giá đủ gần để nghe Chúa Giêsu trăn trối mình cho người môn đệ ấy chăm sóc.  Maria Mađalêna cũng đứng gần đấy, chứng kiến cái chết và lắng nghe Ngài như bà đã từng làm trong suốt cuộc đời mình.

Trái hẳn với các môn đệ nam nhi đã bỏ Chúa Giêsu mà chạy trốn, Maria Mađalêna cùng những người đồng hành phụ nữ không chỉ chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu mà còn nán lại để xác minh nơi chôn cất.  Và các bà đã quay trở lại ngôi mộ để xức dầu thơm xác Ngài vào lúc sáng sớm sau ngày Sabbath.  Sau khi được Chúa Giêsu hiện ra, Tin Mừng Nhất Lãm nói rằng bà Maria Mađalêna đã đi và nói cho các môn đệ khác biết sự việc đã xảy ra thế nhưng họ không tin phụ nữ (Mc 16, 20; Lc 23, 49).  Dường như các môn đệ không tin vì họ xưa nay vốn chẳng tin chuyện phụ nữ.

Trong Tin Mừng Gioan, Maria Magđala đi ra mồ “từ lúc sáng sớm khi trời còn tối.”  Thấy tảng đá che cửa mồ đã lăn sang một bên, bà chạy đi báo cho Simon Phêrô và Người môn đệ Chúa yêu (Ga 20, 1-2).  Cả ba chạy trở lại ngôi mộ rồi các môn đệ trở về (Ga 20, 9).  Maria vẫn ở lại, khóc lóc (Ga 20, 11).  Cuối cùng, Chúa Giêsu hiện ra và nói chuyện với bà (20, 11-18).  Bà đã về và báo cho các môn đệ rằng: “Tôi đã thấy Chúa” và kể lại những gì Ngài nói với bà (Ga 20, 18).  Trong Tin Mừng Thánh Gioan, không thấy có ám chỉ nào nói rằng Phêrô và những môn đệ khác không tin Maria hoặc bà là một chứng nhân không đáng tin vì là phụ nữ.  Gioan chỉ nói rằng Phêrô và Môn đệ Chúa yêu đã chạy ra mộ để nhìn tận mắt, và người môn đệ Chúa yêu đã tin.  Gioan dường như bóng gió rằng Phêrô không tin ngay lập tức.  Maria Mađalên đã thấy chính Chúa Giêsu và lòng tin của bà được khẳng định trong nhiệm vụ được giao là nói cho những người khác biết về sự phục sinh của Chúa.

Vài kết luận

Các Tin Mừng đã phản ảnh một tranh luận trong xã hội ở thế kỷ đầu tiên về giá trị chứng từ của những người phụ nữ.  Sự chắc chắn và nhất quán của các Tin Mừng về tính đáng tin cậy của những phụ nữ và đặc biệt của Maria Mađalêna cho thấy rằng các cộng đoàn tín hữu của Chúa Giêsu đã có một nhãn quan mới về phụ nữ và chỗ đứng của họ trong một xã hội mới và trong Giáo Hội.  Một cách rất có ý nghĩa, các Tin Mừng đã ghi lại sự thất bại thảm hại của các đấng môn đệ nam nhi trong “giờ khắc” gay cấn nhất, rồi tiếp theo đó là họ đã không tin Maria Mađalêna cùng những phụ nữ khác đã vội vã chạy về loan tin Chúa Giêsu phục sinh cho họ.

Kinh Thánh thoát thai trong một nền văn hóa gia trưởng phụ quyền.  Trong nền văn hóa như vậy, người ta nói về phụ nữ không mấy tích cực. Để vượt qua bối cảnh này, cần phải thẳng thắn khi nói về các đấng môn đệ nam nhi cư xử như thế nào vào thời khắc cao điểm trong cuộc tự hiến của Đức Giêsu và giải thích vai trò cần thiết của các phụ nữ cũng trong thời điểm ấy. Trong suốt Tân Ước, đặc biệt là các Tin Mừng, hình ảnh tích cực của các phụ nữ vẫn còn là một tiếng nói muốn được giải thích và trả lại tính xác thực.

Maria Mađalêna đã bị đánh giá sai thậm chí bị khinh khi, qua nhiều thế kỷ chúng ta đã đánh mất hoặc bỏ qua vai trò của bà như là người tông đồ đầu tiên.  Mặc dầu các bình luận về bà vẫn còn dè dặt để chỉ nói điều ít nhất, cả bốn Tin Mừng đều đồng ý rằng bà Maria Mađalêna đã ở dưới chân thập giá, nơi ngôi mộ trống và là một trong những chứng nhân đầu tiên về sự phục sinh của Chúa Giêsu.  Bà đã trở thành người mà phụng vụ mùa Phục Sinh gọi là “Apostola Apostolorum” (Tông đồ của các Tông đồ).

Mary Ann Getty

LM Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ

 

PHẢI CHĂNG LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG TÔI ĐÃ CHẾT?

Triết gia J.P. Sartre đã khẳng định: “Tha nhân là hỏa ngục.”  Dường như lời phát biểu này được thốt ra trên môi miệng của một người đang trong cơn bấn loạn và mất bình an.  Ông đã phóng chiếu cái nhìn nội tâm lên ánh mắt của tha nhân để rồi ông chỉ nhận ra tha nhân coi mình như một sự vật chẳng hơn chẳng kém.  Có thể nói, tư ZZtưởng này phần nào đã dẫn lối cho những chủ trương sống phóng túng và bất cần sự hiện hữu của tha nhân.  Và như thế, tha nhân đang phải đối diện trong tình trạng dở sống dở chết chẳng làm tôi mủi lòng.  Phải chăng lòng thương xót trong tôi đã chết?

Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao duy vật hưởng thụ, “chân lý bằng với chân giò”, “nhân phẩm chỉ ngang giá thực phẩm” thì đâu là bậc thang giá trị để định hướng con người thăng tiến?  Gặp một người bị nạn giữa đường, tôi dừng lại và cúi xuống ra tay thi thố lòng thương xót, nào ngờ lại bị chính nạn nhân trở mặt cướp của giữa ban ngày, hay đứng trước một cuộc ẩu đả, người này vô tay, người khác lấy máy quay phim chụp hình, mặc cho nạn nhân bị đe dọa đến tính mạng…  Đứng trước những tình cảnh bi đát đại loại như thế, Đức Phanxicô phải kêu gào nhân loại: Hãy tránh tình trạng toàn cầu hóa sự dửng dưng.  Phải chăng lòng thương xót trong tôi đã chết?

Tôi đã rảo quanh trên khắp nẻo đường dương thế để tìm những tâm hồn có lòng thương xót.  Tôi đã thấy một gã xe ôm gầy nhom đang chở một ả mua hương bán phấn trên đường X.  Bỗng thình lình gặp một chàng thiếu niên bị tai nạn dọc đường, họ quyết định cứu giúp nạn nhân.  Họ cho lên xe chở vào bệnh viện gần đó để cấp cứu.  Vì máu ra quá nhiều, người phụ nữ này đã cởi áo mình ra để băng bó vết thương nạn nhân.  Nàng đã cứu người bất chấp thân thể lõa lồ của mình.  Đến bệnh viện, y tá nghi ngờ đây là một ca “có vấn đề”, cô chần chừ và e ngại.  Một lát sau, cô đòi tiền tạm ứng để nhập viện, cả ông xe ôm và cô điếm móc tiền trong túi ra nhưng không đủ, buộc ông này phải đi cầm chiếc xe cũ kỹ tại một tiệm cầm đồ.  Ông đã cứu người bất chấp sự an toàn là chiếc xe làm phương tiện nuôi sống bản thân và gia đình.  Cả hai đang chờ tin tức mới thì được báo tin: Nạn nhân cần tiếp máu trực tiếp vì máu ra quá nhiều.  Một lần nữa cả hai lại xung phong xét nghiệm máu để có thể cứu sống nạn nhân.  Họ bất chấp mọi nguy hiểm bản thân để cứu sống người khác…  Tôi đã tìm thấy lòng cảm thương giữa một xã hội đua chen đi tìm thú vui hưởng thụ.  Phải chăng chỉ có những con người bị xã hội coi thường vì làm những việc tay chân thấp kém, hay bị xã hội sỉ nhục vì bán thân nuôi mình, những con người bị tổn thương ấy lại có một tấm lòng quảng đại?  Họ là niềm hy vọng cho những người thiện chí vì họ đã bất chấp thân thể, bất chấp sự nguy hiểm bản thân để thực thi lòng thương xót.

Thật vậy, lòng thương xót là hoa trái của tình yêu mà Thiên Chúa đặt để trong lòng con người, không thể chết.  Nó như một lớp than hồng đang tạm thời bị bao phủ bởi một lớp tro nào đó; lớp tro của nền văn hóa hưởng thụ, văn hóa sự chết hay một ý thức hệ nào đó…

Lòng thương xót là mầm thiện mà Thiên Chúa đã gieo vào lòng người; nó chỉ chết khi nào con người không còn tồn tại trên thế gian này.  Tất cả chúng ta đều được mời gọi làm cho mầm sống ấy đơm hoa kết trái trong cuộc đời để nỗi đau được vơi đi và niềm vui tăng trưởng mãi.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: Sống trong đời sống cần có một tấm lòng để làm gì em biết không? – để gió cuốn đi…  Chúng ta cần để gió cuốn đi những lớp tro vị kỷ và để cho lòng thương xót như lớp than hồng sưởi ấm tấm lòng con người.  Nhờ đó, sự lạnh lùng băng giá, sự thờ ơ lãnh đạm, toàn cầu hóa sự dửng dưng… không còn cản bước tiến của chúng ta trên đường hành thiện, thực thi lòng thương xót.

Nếu đã xác quyết: tư tưởng dẫn đến hành động, chúng ta sẽ không để cho tư tưởng: tha nhân là hỏa ngục tồn tại trong tâm trí mình.  Mặc dù, có đôi khi nó là tiếng nói nội tâm của ta trong một quãng đời đen tối nào đó; nó cũng không được quyền làm ta ngã quỵ mà thỏa hiệp với những chủ trương thế tục.  Con người sẽ sống ra sao nếu không còn lòng thương xót?  Tha nhân không là hỏa ngục nhưng một thế giới vắng bóng lòng thương xót là hỏa ngục trần gian.  Đúng thế, Tha nhân là nạn nhân đang chờ ta thi thố lòng xót thương.

Cục than hồng của lòng thương xót có thể sưởi ấm một con tim giá lạnh và thắp sáng một cõi lòng u mê. Nhưng nó cũng có thể làm tổn thương cho ai đụng chạm vào nó.  Lòng thương xót khả dĩ chữa lành nhiều vết thương, đồng thời, có nguy cơ làm tổn thương hơn những tâm hồn tế nhị.

Lòng thương xót là quà tặng mà Thiên Chúa đã trao cho mỗi người, đòi buộc ta phải trao ban.  Tuy nhiên, trao ban cách nào là cả một nghệ thuật nếu không, chúng ta dễ ảo tưởng mình là một kẻ trên cao có quyền ban phát: đó là lòng thương hại.  Có thể nói, thi thố lòng thương xót là một nghệ thuật phát xuất từ con tim, nghĩa là nó không những đòi hỏi một thái độ thấu cảm mà còn phải hiểu lý lẽ của con tim mình mà đến với tha nhân; một người đã từng bị tổn thương dễ dàng tìm cách để băng bó những tấm lòng tan nát.  Người ấy đáng được Chúa chúc phúc: Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist.

 

NHỮNG MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI

Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau: Abraham, Maria và Phaolô.

Chọn điều tốt nhất

Đức Giêsu trên đường rao giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến Ngài.  Đó là gia đình của Martha, Maria và Lazarô.  Cô Martha lo làm đồ ăn đãi khách.  Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với Đức Giêsu, vì thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn.  Với gia đình này, Đức Giêsu và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa tiệc.  Biết bao việc phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe Ngài giảng dạy.  Chắc Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng Maria vẫn giữ lập trường: Ngồi tiếp chuyện Đức Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy.  Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức Giêsu can thiệp: “Em con để một mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay.”

ZZTheo nhiều người, Martha hoàn toàn có lý.  Cả Maria lẫn Đức Giêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để ý đến vất vả của Martha.

“Martha, chị lo lắng về nhiều chuyện quá.  Chỉ cần một điều thôi.  Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai cướp đi được.”  Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều nào quan trọng và cần thiết để làm.  Trong trường hợp này, không cần phải làm nhiều món để đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài.  Không cần phải vất vả như vậy.  Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối với Đức Giêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người khác.  Maria đã chọn nghe Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm chê trách, như thể là người lười, như thể là người không tế nhị và không biết giúp đỡ chị nữa.

Không có một bản lĩnh và một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử như Maria được.  Trong cuộc sống, tôi đã chọn điều gì là quan trọng?

Niềm nở ân cần tiếp đón tha nhân

“Đang ngồi hóng mát, nhìn lên Abraham thấy “ba vị” đang đứng gần.  Abraham chạy lại, cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi trường nóng bức, và dùng bữa.”  Với Abraham, đây không phải là những người quen thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế.  Thái độ hiếu khách của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các vị khách đã “tỏ mình” cho Abraham.

Thái độ hiếu khách của Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay.  Thái độ sống của tôi đối với những người tôi gặp gỡ như thế nào?  Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa.  Đức Giêsu cũng đã đồng hóa mình với những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt).  Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.

Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô

Cả cuộc sống của Phaolô sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng.  Ngài được gọi để được sai đi rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm.  Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa vị và thế lực.  Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn “hoàn tất” những gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội.  Với Phaolô, Ngài “học no học đói,” Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.

Với Phaolô, Đức Giêsu là Tin Mừng.  Đức Giêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải cho con người.  Đức Giêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả để được Đức Giêsu Kitô.

Phaolô trở thành con người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng.  Ước gì mỗi người không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng.  Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà mỗi người Kitô hữu trở thành người tuyệt vời.

LM Phạm Thanh Liêm

 

RIÊNG MỘT KHOẢNG CHIỀU

ZZKhi đã trưởng thành tâm lý, chắc hẳn ai cũng đã từng hơn một lần suy tư về thân phận con người để khả dĩ nhận ra nó nhỏ nhoi và bọt bèo.  Theo quy luật, ai cũng có một ngày hóa thành cát bụi, trở về nơi mình xuất xứ.

Buổi chiều, sau cơn mưa, tôi lặng đứng nhìn dòng người qua lại trên phố, chợt nghe lòng mình thánh thót những giọt ưu tư rỉ ra từ vết trầm bâng khuâng không tên.  Rất lạ.  Thứ cảm giác khó tả như những sợi nhỏ, dài, đan quyện nhau, chằng chịt như mạng nhện trong căn nhà bỏ hoang.

Con tim mặc vẻ bí ẩn.  Con người đôi khi trở nên mâu thuẫn, một loại mâu-thuẫn-hợp-lý.  Thật vậy, đôi khi ta không hiểu hết chính mình.  Những câu hỏi tưởng chừng đơn giản mà thành như vấn nạn.  Miệt mài đi tìm mình mà vẫn không gặp, chênh vênh một cõi về.  Đam mê và hoài bão cứ giằng co đêm ngày.

Những năm gần đây, việc hiến xác cho khoa học trở nên phổ biến hơn, nhiều người đã tình nguyện làm việc này.  Từ tháng 10-1997, tôi là người mang số thẻ 119.  Tôi là một trong những người đầu tiên được trường Đại Học Y Dược TP HCM “cúng sống” ba lần.  Sau đó không còn tổ chức lễ Macabê để tri ân những người hiến xác vì số người tăng lên nhanh quá đông.  Từ khi thực hiện ý định này, tôi thấy mình có chút gì đó hữu ích hơn, giảm bớt ích kỷ đáng kể, cái TÔI trong tôi bớt “hung hãn” hơn xưa.

Đời người một khoảng trăm năm
Tưởng dài mà ngắn – Nhiều buồn, ít vui!

Khi đã trưởng thành tâm lý, chắc hẳn ai cũng đã từng hơn một lần suy tư về thân phận con người để khả dĩ nhận ra nó nhỏ nhoi và bọt bèo.  Theo quy luật, ai cũng có một ngày hóa thành cát bụi, trở về nơi mình xuất xứ.

Nói vậy không có ý bi quan yếm thế, nhưng để nhận diện mà cố vươn lên và sống hữu ích hơn, không chỉ cho chính mình mà còn cho mọi người.  Sống trong thời đại bùng nổ thông tin, không ai lại không biết ít nhiều về thế giới.  Một trong những điều khiến chúng ta quan tâm chắc phải là sự bất công giữa con người với nhau, sự bạc đãi và lạm dụng trẻ em, chiến tranh, coi thường nhân phẩm…  Tất nhiên, đó chỉ vì thiếu tình yêu thương đích thực.

Các nhà lãnh đạo đã và đang tìm mọi biện pháp hữu ích khả thi nhất để vãn hồi hòa bình, tìm hạnh phúc cho con người, xoa dịu vết thương cuộc đời vốn dĩ không ít đau khổ.  Vì đời người ngắn ngủi nên cần phải làm “cái gì đó” cho đáng sống.  Cần chau chuốt và nuôi dưỡng những tư tưởng vĩ đại, và chỉ cần một bề ngoài giản dị mà không quê mùa.

Những đám mây làm buổi chiều xuống thấp.  Thấp dần. Đang chạm vào đêm.  Khoảng chiều thật kỳ lạ.  Ngôn từ chiều cao siêu như thầm nhắc tôi lời của Pithagore: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại.”

Khi tư tưởng chín muồi thì thân xác bắt đầu rã rời, chuẩn bị tan rữa để hóa thành cát bụi!  Một nghịch-lý-thuận.  Thế nhưng con người rất dễ “lên mặt”, nhất là khi có chút gì đó hơn người khác về một phương diện nào đó.  Thánh Phalô nói: “Ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, thì là lừa gạt chính mình” (Gl 6:2-3).  Con người luôn bị giằng co, đôi khi mâu thuẫn: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19).

Cuộc sống luôn phức tạp và có nhiều điều khiến người ta hoang mang, lo lắng, thậm chí là sợ hãi – nhất là trong thế giới ngày nay.  Tuy nhiên, Chúa biết rõ mười mươi, biết rõ chúng ta hơn chính chúng ta biết mình, thế nên rất nhiều lần Ngài đã trấn an: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10).  Thật vậy, “dù cha mẹ có bỏ con thì vẫn còn Thiên Chúa đón nhận” (Tv 26:10), và “Đấng đã gọi tôi, Ngài đang ở với tôi, Ngài không để tôi cô đơn một mình” (Ga 8:29).

Tình yêu Thiên Chúa quá tuyệt vời, quá kỳ diệu, Lòng Chúa Thương Xót quá bao la, con người chúng ta không thể hiểu nổi. Chưa thể dò được khoảng cách giữa trời và đất thì chúng ta không bao giờ đủ trình độ hiểu hết Ý Chúa!

Con đã từng cảm thấy bất xứng và cầu xin như Giáo Hoàng tiên khởi Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5:8).  Nhưng con vẫn tin cậy Ngài: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội” (Lc 18:9-14).  Và con đầu hàng vô điều kiện để Ngài điều khiển: “Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10:7 & 9).  Xin Chúa thương thánh hóa và nâng đỡ hạt-bụi-con luôn mãi.  Amen!

Kha Đông Anh

 

THẦY ƠI, CỨU CON!

Câu truyện xưa kể rằng có một người đi du hành bị lạc trong bãi cát cuốn.  Thầy Khổng Tử đi ngang qua thấy sự nguy hiểm của người khách lạ, Thầy nói: Rõ thật người ta nên tránh xa những chỗ như thế này.  Kế đó, Đức Phật đi qua thấy trạng thái nguy hiểm này và nói: Hãy để cho tình trạng con người như thế mà nêu gương bài học cho cả thế giới.  Rồi Đức Mohammed cũng đi ngang qua đó và nói với người đang bị chìm sâu vào lòng cát: Alas, đây là ý của Chúa.  Cuối cùng, Chúa Giêsu xuất hiện trong hoàn cảnh nguy cơ này và nói: Này anh, hãy cầm lấy tay của Thầy, Thầy sẽ cứu con.

Có nhiều tôn giáo trên thế giới.  Các tôn giáo có rất nhiều giáo điều rất đáng khâm phục và ngưỡng mộ.  Nhưng chỉ có một Đấng có thể ban ơn cứu độ cho con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi.  Chúa Giêsu phán: Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.  Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6).  Không có một vị sáng lập tôn giáo nào đã dám công bố như Chúa Giêsu, bởi vì họ không thể làm được.  Chỉ có Chúa Giêsu có uy lực và quyền năng để tha thứ tội lỗi và ban cho chúng ta sự sống muôn đời.  Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16).

ZZÔng Phêrô chìm trong nước, hoảng sợ chỉ kịp la lên: Lạy Thầy, xin cứu con!  Nghe lời kêu cứu thân thương, chắc chắn Chúa sẽ cứu.  Ông Phêrô là dân chài, sợ gì nước chứ.  Vậy mà khi bị ngụp xuống nước ông vẫn hoảng.  Ông hoảng vì thấy Chúa đi và đứng trên nước.  Ông sợ vì ông đang ở cạnh Đấng có quyền năng trên hết mọi sự.  Câu truyện ông Phêrô được đi trên nước và chìm xuống giúp chúng ta nhiều bài học suy tư trong cuộc đời.  Bài học của niềm tin.  Phêrô thưa lại rằng: “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy” (Mt 14, 28).  Phêrô đã tin vào Thầy có quyền đi trên mặt nước.  Ông đã xin một điều quá sức mình.  Vì một vật nặng xuống nước ắt sẽ chìm.  Ông tin và ông bước xuống nước.  Ông đi trên mặt nước nhưng nhìn sóng biển và gió mạnh, ông sợ hãi và quên nhìn vào Chúa.  Ông bị chìm.

Lần đầu tiên tôi có kinh nghiệm đi vượt biên trên biển bằng ghe đánh cá.  Thật tình mà nói trước khi ra đi, tôi chẳng biết gì về biển cả và không lo sợ chi.  Tôi cũng không tưởng tượng sự bao la và sức mạnh của biển khơi và những cơn giông bão, sóng ngầm, sóng bạc đầu.  Quyết định ra đi là đi thôi.  Chúng tôi khởi hành trong đêm tối, từng tốp vài ba người cập bến và lên ghe.  Ra đi giữa đêm tối phải đối diện với nhiều khó khăn.  Làm sao qua mặt được những chòi gác canh.  Tôi chỉ có một niềm tin phó thác trong Chúa.  Niềm hy vọng sự tự do và sự sống còn chỉ lờ mờ.  Hành trình vượt biển đó chính là bài học của hành trình trên sóng nước mỗi ngày.  Cho dù lo sợ và hồi hộp, chúng ta hãy cầu nguyện, cậy trông và phó thác.  Lạy Thầy, xin cứu con!  Đó là tất cả những tâm tình mang theo trên biển.

Có những khúc quanh cuộc đời làm cho chúng ta phải chùn bước, phải lo sợ và chán nản.  Chúng ta làm việc lành phúc đức, ăn ở hiền lành và sống đạo đức tốt lành.  Chúng ta nghĩ sống tốt sẽ được an hưởng sự bình an hạnh phúc.  Thế rồi một ngày đi khám bác sĩ, phát giác ra rằng mình đang bị ung thư, bị tiểu đường, bị xơ gan, sạn mật… hoặc là nghe tin buồn một người thân bị tai nạn, một thành viên trong gia đình mới qua đời, một đứa con bỏ nhà ra đi, một đứa chửa hoang, một đứa rơi vào nghiện ngập hút sách, đứa thì vào băng đảng, đứa bị đi tù, và gia đình ly dị phá tán, con cái truỵ lạc…  Hỡi ôi, đời là bể khổ!  Tất cả những tai ương, thảm cảnh và khổ đau có thể xảy ra cho mỗi người trong cuộc lữ hành.  Người ở trong cuộc cảm thấy choáng váng mặt mày và giống như bị chìm xuống nước chới với. Bao nhiêu mộng ước bỏ dở.  Lo lắng trách nhiệm gia đình còn nặng nề.  Bao nhiêu công việc dở dang đang đợi chờ.  Biết cậy dựa vào ai?  Tâm trạng rơi vào sự hoảng sợ và lo lắng.  Biết rằng sự lo lắng không làm thay đổi được hiện trạng đang xảy ra.  Những ai có niềm tin thì chạy đến cầu trời khấn phật, chạy thầy chạy thuốc và cầu vái tứ phương mong sao thoát nạn.  Môn đệ của Chúa thì kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con!

Có những lúc chúng ta bị tuột dốc trong chán nản, đơn côi, thất bại, đau buồn và có khi tuyệt vọng.  Tin theo Thầy Giêsu, dù trong trạng huống nào chúng ta vẫn phải có niềm hy vọng và cậy trông. Chúng ta hãy kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con!  Chúa sẽ giơ tay cứu chúng ta theo cách của Chúa.  Các thứ bệnh tật cả phần hồn lẫn phần xác đều có thể được chữa lành.  Niềm tin tưởng và lòng cậy trông kiên vững vào quyền năng của Chúa sẽ giúp chúng ta tìm được sự bình an.  Biết đâu sự rủi ro và bệnh tật sẽ sinh hoa kết trái trong đời sống đạo.  Sức mạnh đời sống tâm linh rất cần thiết để nâng đỡ khi yếu đuối bất hạnh.  Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28).

Trong bất cứ bậc sống nào, độc thân, tu trì hay gia đình, mỗi người đều có những đêm tối sóng cuộn gió cuồng.  Khi còn non trẻ cũng như khi đã luống tuổi, chúng ta luôn phải đối diện với những cạm bẫy ở đời.  Người ta thường nói: Khôn ba năm dại một giờ.  Sa ngã cũng là chuyện thường tình trong cuộc đời, nhưng hậu quả có thể tai hại ghê gớm.  Có nhiều người đã mất cả chức vị, danh dự và lý tưởng. Đối với xã hội, có khi người ta trở thành trắng tay và bị tù đày.  Nhưng trong tâm tình của một Kitô hữu, chúng ta phải nhìn vào khía cạnh tâm linh để vượt thắng.  Rơi xuống, chìm xuống hay sa ngã, mỗi người đều có cơ hội trỗi dậy.  Ông Saolô khi bị luồng sáng đánh ngã ngựa, ông đã trỗi dậy và đổi đời trở thành môn đệ trung thành của Chúa.  Maria, người phụ nữ bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình và bị thiên hạ tố cáo để ném đá cho chết, Chúa Giêsu đã lên tiếng cứu vớt nàng và nói rằng: Con về và đừng phạm tội nữa.

Ông Phêrô tuy nóng nảy và vội vàng nhưng ông đã chứng thực niềm tin vào Thầy của mình.  Ông dám đi trên mặt nước.  Khi ông nhìn xuống và chú ý đến sóng gió, ông đã bị chìm.  Hãy ngước nhìn lên Chúa và cậy trông nguồn ân sủng từ trên ban cho.  Chúng ta ra khơi vào đời là phải đối diện với muôn thử thách chông gai.  Chúng ta không thể lượng định được cái gì sẽ xảy đến.  Hành trình đức tin là một cuộc mạo hiểm trong đêm tối.  Có những vị tu sĩ đầu tư cả cuộc đời để phục vụ tha nhân nơi vùng sâu nước độc.  Có những vị đã lăn xả phục vụ cho những người tàn tật, mồ côi và phong cùi.  Họ đã phải phấn đấu và vươn lên không ngừng.  Nhưng trong Giáo Hội, trải qua các thời đại, đã có những gương mù, gương xấu làm cho con thuyền Giáo Hội vì sóng gió và nghiêng ngả.  Những lạm dụng tính dục, những tham lam danh lợi, quyền lực và những sa ngã tục luỵ của các thành viên đã làm cho Giáo Hội tự lặng chìm.  Chúng ta luôn tỉnh thức cầu nguyện cho Giáo Hội.

Chúa Giêsu có uy quyền biến đổi, cứu vớt và chữa lành.  Chúng ta hãy chạy đến bên Chúa xin ơn tha thứ để chúng ta có thể khởi lại từ đầu.  Chúng ta biết rằng không có khi nào trễ, nếu chúng ta biết làm lại từ đầu.  Thánh Phêrô đã sa phạm nhiều lần nhưng Phêrô không ngại an năn khóc lóc trở về cùng Chúa.  Chúa đã cứu Phêrô và trao cho ông quyền cai quản Hội Thánh của Ngài.  Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi (Mt 16,18).  Lạy Chúa, xin giơ tay cứu giúp chúng con trong mọi cơn gian nan, sầu khổ.  Chúng con hoàn toàn đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Lord Jesus, I trust in you and Lord Jesus, save me. 

LM Giuse Trần Việt Hùng