NHÀ

Nhà không chỉ là một ngôi nhà hay một nơi chốn trên bản đồ.  Nó là một nơi trong lòng người, nơi mà đến tận cùng chúng ta muốn tìm về nhất.  Ý niệm ẩn dụ về nhà có thể giúp chúng ta giải quyết nhiều điều, thậm chí cả cách mà tình dục liên hệ với tình yêu.

Tình dục không bao giờ đơn giản là chuyện qua đường, chỉ phục vụ cho mục đích giải trí, một thứ không liên quan đến linh hồn.  Tình dục luôn chạm đến linh hồn, dù tốt hay xấu.  Hoặc tốt đẹp hoặc gây hại.  Hoặc củng cố hoặc phá nát linh hồn.  Khi đúng đắn, nó làm chúng ta tốt đẹp lên, và khi sai trái, nó làm chúng ta bớt nhân cách.  Nói một cách ẩn dụ, khi đúng đắn, nó đưa chúng ta về nhà, khi không đúng đắn, nó đẩy chúng ta xa cách nhà.  Tình dục do Thiên Chúa tạo nên và theo lẽ tự nhiên là để đưa chúng ta về nhà.  Thật sự là, nó được định để làm nhà cho chúng ta.  Nếu chúng ta về nhà sau khi làm tình, thì có một cái gì đó sai trái rồi.  Trước hết, tôi nói thế không phải là để phán xét về đạo đức, nhưng đây là một nhận định nhân học thay mặt linh hồn.

Như chúng ta biết, linh hồn không phải là một vài tế bào tâm linh vô hình trôi nổi trong cơ thể chúng ta.  Không thể họa nên linh hồn theo tưởng tượng, nhưng có thể hiểu được nó như một nguyên tắc.  Khi nhìn vào những diễn tả thấu suốt của các triết gia như Aristotle và Tôma Aquinô, linh hồn là một nguyên tắc kép trong chúng ta.  Nó là nguyên tắc của sự sống (của mọi sinh lực trong chúng ta) và là nguyên tắc của sự tích hợp (những gì giữ chúng ta trọn vẹn).  Điều này có vẻ mơ hồ, nhưng không phải thế.  Nếu bạn từng ở bên người hấp hối, bạn biết chính xác lúc nào hồn lìa khỏi xác.  Không phải vì bạn thấy một linh hồn bay khỏi thể xác, nhưng vì mới đây cơ thể còn sống, còn là một tổ chức, ngay sau đó nó trơ ra, vô hồn, đã chết và bắt đầu phân rữa.  Linh hồn giữ chúng ta sống và linh hồn giữ chúng ta cố kết với nhau.

Nếu đúng là thế, và là thế thật, thì bất kỳ việc làm có ý nghĩa nào của chúng ta, bất kỳ điều gì chạm đến tâm can chúng ta, tác động trên linh hồn chúng ta, động đến cả chất lửa và chất keo của linh hồn, thì nó sẽ làm suy yếu hoặc tăng cường.  Tình dục cũng vậy.  Thật sự, đó là một ví dụ rõ nhất.  Tình dục rất mạnh và chính vì thế nó không bao giờ là chuyện vặt vãnh.  Nó xây dựng hoặc phá nát linh hồn.

Ba mươi năm trước, khi dạy một lớp đêm ở đại học, tôi đã đưa cho lớp đọc quyển nghị luận của Christopher de Vinck, Chỉ Những Trái Tim Mới Biết Cách Tìm Ra Nhau – Ký Ức Quý Báu Về Thời Gian Không Có Đức Tin (Only the Heart Knows How to Find Them – Precious Memories for a Faithless Time).  Những bài luận này là các suy ngẫm của tác giả về cuộc đời của mình trong tư cách người chồng, người cha.  Những câu chuyện ấm áp, không lãng mạn vô cớ, đầy tính nghệ thuật và không có chỗ cho những thứ đa cảm.  Chúng là tiếng nói ủng hộ cho hôn nhân, không phải bằng những lập luận biện giải, mà đơn giản bằng cách chia sẻ làm thế nào mà hôn nhân có thể đem lại một nhà, một nơi thanh bình của sự cô tịch chung, có thể đưa chúng ta vượt lên những cuộc tìm kiếm miệt mài bủa vây chúng ta ở tuổi dậy thì, và đẩy chúng ta ra khỏi nhà cha mẹ để đi tìm nhà của mình.  Hôn nhân và chiếc giường hôn nhân có thể đưa chúng ta về lại nhà.

Đến cuối học kỳ, một nữ sinh viên gần 30 tuổi, đến văn phòng tôi nộp bài.  Cô cầm theo quyển sách của Vinck và chia sẻ thế này: “Đây là quyển sách hay nhất em từng đọc.  Em lớn lên mà không có nhiều hướng dẫn về tôn giáo hay đạo đức, và em đã ngủ lang khắp nửa nước Canada, nhưng bây giờ em biết mình thật sự muốn gì rồi.  Em muốn cái mà tác giả này có!  Em muốn chiếc giường hôn nhân.  Em muốn tình dục đưa em về nhà, trở nên ngôi nhà của em.”  Thấu suốt của cô xứng đáng được nhắc lại, không phải chỉ vì trong văn hóa thời nay, tình dục thường bị tách biệt khỏi hôn nhân và nhà.

Khi đi dạy và làm mục vụ, có những thời gian tôi làm việc nhiều với thanh niên, những người đang cố xác định ý nghĩa của tình yêu, quyết định kết hôn với ai và cố sống cả đời với ai, có một câu hỏi thường xuất hiện trong đầu tôi: Làm sao để nhận ra loại tình yêu nào có thể làm nền tảng để xây dựng hôn nhân?  Đây là câu hỏi tối quan trọng, vì tình yêu không phải là thứ dễ hiểu hay dễ đánh giá.  Chúng ta có thể phải lòng với đủ loại người, thường là nhầm người, những người chúng ta có thể tán tỉnh hoặc có thời gian mặn nồng ngắn ngủi nhưng lại không thể sống đến trọn đời.

Loại tình yêu nào có thể làm nền tảng để xây dựng hôn nhân?  Cần có loại tình yêu đưa chúng ta về nhà.  Chúng ta cần nhận thức rõ ràng, chẳng hạn với người này, chúng ta được ở trong nhà, vì hôn nhân rất khác với trăng mật.  Đi trăng mật xong, là chúng ta về nhà.  Trong hôn nhân, chúng ta ở trong chính căn nhà của mình.

Cả tình dục cũng thế.  Nó phải là thứ đưa chúng ta về nhà và là nhà của chúng ta, chứ không phải một thứ mà khi xong việc, chúng ta lại đi về nhà.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

NGUỒN TRỢ LỰC SIÊU NHIÊN

Lời Chúa trong sách Các Vua kể với chúng ta việc ông Êlia chạy trốn vua Akáp.  Là người thực thi sứ mạng Chúa trao, ngôn sứ Êlia đã nhiệt thành can đảm, dám đương đầu với 450 tiên tri của thần Baal.  Kết quả là 450 tiên tri này đã bị giết chết.  Sự thua cuộc bẽ bàng đã khiến cho hoàng hậu Zerabel nổi giận và thề giết cho được Êlia.  Nghe tin dữ đó, Êlia đã chạy trốn.  Trong tâm trạng buồn chán, ông xin Chúa cho mình được chết đi.  Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai dấn thân phụng sự Ngài.  Chính vào lúc Êlia đang buồn chán thì Chúa can thiệp.  Ngài đã sai sứ thần đem đến cho Êlia bánh và nước.  Nhờ bánh và nước này mà vị ngôn sứ của chúng ta có đủ sức trong 40 ngày trên đường tiến về núi Horeb.  Bánh và nước đã cho ông sức mạnh để tìm về núi Hôreb, là núi của Thiên Chúa, để tìm ở đó nguồn sức mạnh siêu nhiên.

Nếu ngôn sứ Êlia được Chúa nuôi dưỡng trên đường lên núi Horeb ngày xưa, thì hôm nay Chúa cũng đang nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình trần thế.  Cuộc sống của con người, theo nhãn quan Kitô giáo, cũng là một hành trình vượt sa mạc để lên núi của Thiên Chúa.  Cuộc hành trình và lên núi này đòi hỏi chúng ta phải có đủ sức mạnh thể lý và tinh thần, vì đây là hành trình đầy gian nan và cám dỗ.  Lương thực mà Chúa ban cho chúng ta chính là Thánh Thể và Lời Chúa.  Nhờ nguồn trợ lực siêu nhiên này mà chúng ta có thể tiến bước trong bình an và hạnh phúc.

Tin Mừng trong Phụng vụ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh trường sinh.  Chúa Giêsu nhấn mạnh tới khía cạnh thần linh của bánh mà Người sẽ ban.  Người Do Thái chỉ nhận ra nơi Chúa Giêsu là con ông Giuse thợ mộc, nên họ khó nhận ra bánh mà Đức Giêsu nói tới.  Đây là bánh từ trời, cũng như Đức Giêsu từ trời xuống, vì thế, bánh này là lương thực thiêng liêng Chúa ban.  Nếu ngày xưa, Thiên Chúa nuôi dân trong hành trình sa mạc bằng Manna, thì nay, Chúa Giêsu là Manna từ trời xuống.  Cũng như bánh cần thiết cho sự sống thân xác, bánh thiêng liêng là chính Chúa Giêsu cần thiết cho sự sống thần linh nơi chúng ta.  “Bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”  Nếu chúng ta có mặt lúc bấy giờ, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên như những người Do Thái, khi nghe Chúa Giêsu nói về thịt của Người.  Nếu mầu nhiệm nhập thể dẫn tới việc “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (Ga 1,14), thì nay, “xác thịt đã trở thành Bánh” (Ga 6,51).  Khi nghe Chúa Giêsu nói, Người sẽ lấy thịt mình cho họ ăn, người Do Thái coi đây là sự mạo phạm.  Liên hệ với cuộc khổ nạn và được soi sáng bởi mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu, người Kitô hữu nhận ra nơi Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Giêsu, Đấng Cứu nhân độ thế.  Đây là lương thực thiêng liêng, là lương thực giúp chúng ta được tăng trưởng mỗi ngày trong hành trình lên núi của Thiên Chúa về quê trời.

Cơn đói bánh là nỗi lo của con người mọi thời đại.  Những xung đột và chiến tranh xảy ra cũng nhằm để giải quyết cơn đói này.  Đâu là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nhắn gửi nhân loại, khi hiến trao thân mình Người cho chúng ta?  Đó là sứ điệp của sự sẻ chia, dấn thân phục vụ.  Thánh Thể là bài học yêu thương.  Như Đức Giêsu đã trao ban chính bản thân mình, người tín hữu được mời gọi bắt chước Chúa, dấn thân phục vụ, để trở nên những cánh tay nối dài của Người giữa trần gian.  Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự và trao phó cho con người quản lý.  Nếu biết phân phối công bằng, thì của cải trên thế giới đủ để nuôi sống tất cả mọi người.  Nghèo đói, bất công là con người ích kỷ, chỉ biết chiếm hữu cho mình mà quên tha nhân.  Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Sự phân phối bất công của cải vẫn tồn tại, tạo nên tình trạng tội lỗi mang tính xã hội, tình trạng ấy kêu thấu trời xanh và làm cho quá nhiều anh chị em chúng ta không có khả năng đạt được một cuộc sống đầy đủ hơn.”  Nghĩa cử quảng đại chia sẻ sẽ đem cho chúng ta hạnh phúc, vì “Chỉ khi nào biết xả thân cho người khác, chúng ta mới thành công trong đời sống và mới cảm nghiệm được nỗi vui mừng của Thiên Chúa (Michel Quoist).

Được nuôi dưỡng nhờ Thánh Thể, cuộc đời người Kitô hữu phải được canh tân.  Thánh Phaolô nói với giáo dân Êphêsô: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác.  Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô.”  Vị Tông đồ dân ngoại cũng khuyên các tín hữu hãy chia sẻ quảng đại theo gương Đức Giêsu: “Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.” (Bài đọc II).

Trong những ngày này, qua các phương tiện thông tin, chúng ta được biết có hàng ngàn hàng vạn người dân nghèo vội vã rời bỏ các đô thị có dịch để trở về quê, tránh đại dịch Covid-19.  Nhiều cảnh đời rất đáng thương, vạ vật bên đường.  Không chỉ những người trên đường về quê, có nhiều nơi đang phải cách ly, phong toả và giãn cách.  Họ đang cần lắm những “sứ thần” mang đến cho họ sự giúp đỡ.  Nếu không có khả năng giúp đỡ vật chất, chúng ta đều có thể cầu nguyện cho họ, xin Chúa cho những người nghèo khó và đau khổ được ơn nâng đỡ nhờ nguồn trợ lực siêu nhiên.  Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng, Chúa có thể làm những điều kỳ diệu để nâng đỡ chúng ta.  Ngài chính là nghuồn trợ lực siêu nhiên đối với những ai tin tưởng trông cậy nơi Ngài, như tác giả Thánh vịnh chia sẻ với chúng ta: “Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người.  Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ.”

TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: https://www.tonggiaophanhanoi.org

THÁNH GIOAN MARIA VIANNEY VÀ TÒA GIẢI TỘI

Có thể nói rằng: phép lạ vĩ đại của cha Thánh Gioan Maria Vianney là tòa giải tội, nơi tội nhân được ơn hoán cải.  Mỗi ngày, ngài ngồi giải tội từ 11 giờ đến 12 giờ vào mùa Đông, và thậm chí là 16 đến 18 giờ vào mùa Hè.  Khi hành hương đến xứ Ars, trước tiên tôi tìm đến tòa giải tội nơi thánh nhân ngồi mấy mươi năm, quỳ gối cầu nguyện và xin ngài chúc lành cho sứ vụ hòa giải trong đời linh mục của mình.

Công việc mục vụ ngồi tòa, giải tội là sứ vụ đức ái mục tử đẹp nhất trong cuộc đời của cha thánh, là hoạt động sáng chói nhất trong nhiệm vụ của một mục tử.

Thời trẻ, Gioan có một tâm nguyện: “Nếu một ngày nào đó tôi được làm Linh mục, tôi sẽ đưa nhiều linh hồn về cho Chúa.”  Khi làm Linh mục, ngài đã thực hiện tâm nguyện ấy.  Tòa giải tội là nơi ngài đưa các linh hồn về cho Chúa nhiều nhất.  Tòa giải tội đã thu hút biết bao hối nhân tìm đến với xứ Ars.  Tòa giải tội là phép lạ lớn nhất trong cuộc đời của thánh nhân.  Đức Giáo Hoàng Piô XII viết về cha thánh Gioan Maria Vianney một câu thật ngắn gọn: “Một chuyên viên thành thạo nhất về các tội nhân.”

1. Thời gian ở tòa giải tội

 Một phần lớn cuộc đời Linh mục của cha Vianney trôi qua trong tòa giải tội.  Trong 30 năm dài, một làn sóng người hành hương không ngừng đổ về ngôi nhà thờ cũ kỹ của họ Ars.  Mùa đông rét buốt, số người đến đây không ít hơn các mùa ấm áp.

Tứ tháng 11 đến tháng 3, cha sở phải ngồi tòa trung bình không dưới 12-13 giờ mỗi ngày.  Người ta đứng thành hàng dài, từ trong nhà thờ ra bên ngoài, nối đuôi nhau không ngớt chờ đợi tới phiên mình.  Trong năm 1845, có ngày số người hành hương đến Ars lên tới ba hay bốn trăm.  Tại nhà ga lớn nhất của Lyon, người ta mở một văn phòng hoạt động 24/24 để bán vé tàu cho khách đi Ars, vé có giá trị tám ngày, đó là thời gian trung bình người ta phải đợi cho đến phiên mình vào tòa xưng tội với vị Linh mục thánh thiện nổi tiếng.

Vào mười năm cuối đời, thánh Vianney phải giải tội từ mười sáu đến mười tám tiếng một ngày!  Còn khách hành hương nói chung phải đợi ba mươi, năm mươi, bảy mươi giờ trước khi được lãnh nhận bí tích hòa giải.  Cũng có khi người ta mua lại chỗ đứng của người nghèo.  Ai muốn đi ra ngoài phải thỏa thuận với người bên cạnh hoặc với người bảo vệ nhà thờ.  Đêm thì sao?  Khi cửa nhà thờ đóng lại, người ta đánh số chỗ của mình. (x. Linh mục, người loan báo Tin Mừng, Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).

2. Ai đến với tòa giải tội?

Họ gồm đủ mọi thành phần và lứa tuổi: có giáo dân, tu sĩ, linh mục và đôi khi cả giám mục nữa; họ là quý tộc và bình dân, kẻ vô chủ nghĩa và người học thức, người thành thị và người thôn quê…  Có khi nguyên một gia đình ngồi trên xe ngựa đến từ những tỉnh xa xôi.  Từ những vùng lân cận, người ta tuôn về đây bằng đôi chân hay bằng xe, theo đường bộ hay đường thủy.  Năm cuối cùng của cuộc đời cha Vianney (1858-1859), số khách hành hương lên tới tám mươi ngàn, chỉ tính riêng số người dùng các phương tiện chuyên chở công cộng; còn tính chung có lẽ là khoảng một trăm ngàn đến một trăm hai mươi ngàn.

Đám đông này rất trật tự và nghiêm trang.  Họ đến là để nhìn một vị thánh, để xưng tội, để cầu nguyện hay để hoàn thành một lời khấn với thánh nữ Philomêna.  Có những người vào làng Ars như vào một đền thánh; vừa nhìn thấy tháp chuông nhà thờ, họ liền cất nón mũ xuống và làm dấu thánh giá.  Một nhân chứng kể lại quang cảnh họ nhìn thấy vào tháng ba năm 1859: đông đảo những người ngoài họ Ars đứng trong nghĩa trang cũ, và đến tận trong những con đường nhỏ kế cận chờ đến phiên vào tòa giải tội.

Buổi sáng vào khoảng chín giờ, cha Vianney dành một số thời gian cho các tu sĩ và linh mục.  Ngài giải tội cho họ ở một tòa đặt sau bàn thờ chính.  Có lần Đức Giám mục địa phận nhà cũng ngồi chờ phiên mình.  Cha giải tội cũng dành một số ngoại lệ cho giáo dân con chiên cha, người bệnh, người tàn tật, và những hối nhân không thể chờ đợi.  Đối với trường hợp cuối cùng này, ngài thường dùng ơn “nhìn thấy trong tâm hồn” để nhận ra từ trong dòng người chờ đợi, rồi ưu tiên cho họ.  (sđd, trang 62-63).

3. Cha Vianney khuyên bảo các hối nhân như thế nào?

Nói chung, ngài mạnh mẽ thẳng thắn, nhân từ nhưng không yếu đuối.  Ngài biết cần phải “đánh” điểm nào cho trúng đích.  Đọc một số lời khuyên còn ghi lại, tôi thấy ngài thường ngắn gọn, đầy tâm tình chứ không máy móc lạnh lùng.

Để lay tỉnh những “đại tội nhân”, khá nhiều khi ngài tung ra một câu đanh thép: “này con, con bị luận phạt đời đời.”  Phát ra từ môi miệng một vị thánh mà người ta tin là ngài đọc được tương lai, câu đó giống như một lời phán quyết khủng khiếp.  Nhưng thật ra ngài chỉ muốn nói: “nếu con không xa lánh dịp tội ấy, nếu con cứ duy trì cái thói quen tội lỗi ấy, nếu con không nghe theo lời khuyên dạy thì con sẽ bị luận phạt.”

Đối với những người đạo đức, ngài không cần nhiều lời.  Nhưng ngay cả với trường hợp này, vẫn là những mũi tên nóng bỏng đâm thấu tận con tim: “xin Đức Cha yêu thương các Linh mục của ngài!”  Đó là lời duy nhất ngài nói với Đức cha De Langalerie, Giám mục địa phận Belly đang quỳ gối trước mặt ngài.  Một cộng sự viên gần gũi của ngài xưng thú: “con đã lười biếng làm điều này nhưng tận đáy lòng, con vẫn thiện chí,” cha giải tội đáp lại duy nhất một câu “Ồ! thiện chí, thiện chí… hỏa ngục cũng lót toàn thiện chí.”  Linh mục Monnin kể: “tôi đã xưng tội với ngài hai lần.  Lần nào cũng thế, sau mỗi tội tôi xưng ra dù là tội nhẹ nhất, ngài đều nói: ‘đáng tiếc quá.’  Từ một người khác, đó có thể là một cách nói thông thường, nhưng từ môi miệng của Cha Sở họ Ars, linh mục Monnin coi như là tiếng kêu của lòng tin, lòng thương xót và sự ghê tởm đối với tội lỗi; ngài thêm: “Nhất là giọng nói đầy âu yếm đã đánh động tôi” (sđd, trang 64).

4. Cha Vianney yêu thương tội nhân

Cha Vianney ghê tởm tội lỗi bao nhiêu thì yêu mến người tội lỗi bấy nhiêu.  Ngài có một lòng cảm thương vô bờ đối với hối nhân.  Tình yêu ấy được biểu lộ qua những nhân đức sau đây.

a. Cầu nguyện cho tội nhân

 Xen lẫn với kinh nguyện hằng ngày, ngài thường khóc lóc mà thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa không muốn kẻ có tội phải chết…  Những người có tội thật đáng thương.  Ước gì con có thể thú tội thay cho họ.”  Một người thân tín nói với ngài: “Cha cầu nguyện cho họ ít đi một tí được không?  Thấy cha vất vả đau khổ quá!  Ngài trả lời: “Biết sao được.  Cha đã hứa cầu nguyện cho họ, cha không thể bỏ…”  Lần khác ngài tâm sự: “Tôi chỉ thực sự là tôi khi tôi cầu nguyện cho những người tội lỗi.”

b. Đền tội thay cho họ

 Ngài ăn chay hãm mình để đền bù tội lỗi và mong cho tội nhân hối cải.  Trong những năm cuối đời, ngài thường ra việc đền tội nhẹ cho hối nhân.  Ngài nói: “Tôi ra việc đền tội nhẹ cho họ, phần đền tội còn lại, tôi sẽ làm thay.”  Và ngài làm thay bằng chính sự khổ chế của mình.  Tất nhiên, không phải lúc nào cũng vậy.  Đối với những lỗi nặng mà cứ tái phạm mãi, ngài bắt hối nhân phải làm những việc đền tội nặng, để họ chứng tỏ sự chân thành và quyết tâm sửa đổi, hầu đem lại lợi ích cho chính họ.  Cha Vianney nhiều khi còn khóc trong tòa giải tội nữa.  Ngài khóc vì người ta xúc phạm tới Chúa, ngài cũng khóc vì thương các linh hồn…  Chính sự thánh thiện của ngài mang lại cho lời khuyên răn và nước mắt của ngài có sức mạnh và hiệu lực.  Có người hỏi: “sao cha khóc thế?” ngài đáp ngắn gọn: “tôi khóc vì các ông các bà không khóc cho đủ.”

c. Yêu thương tội nhân

Đối với những tội nhân cứng lòng, ngài tìm hết cách giúp họ thống hối như gặp gỡ, khuyên nhủ, khi nặng khi nhẹ, và ngay cả bằng nước mắt.  Nước mắt và Thánh giá, nhờ ngài, có thể làm cho một trái tim chai đá trở thành trái tim thịt mềm.  Có người lúc trước đã trả lời thẳng thừng: “Tôi không muốn xưng tội”, hoặc: “Tôi không đến đây để làm cái chuyện đạo đức của mấy bà.”  Mặc kệ.  Cuối cùng tất cả đều quỳ xuống dưới chân ngài và xưng thú.  Chúa đã ban cho ngài một trực giác lạ lùng để nhận ra giữa đám đông hoặc giữa những người đi qua, ai là kẻ cần được đưa về với Chúa nhất để giúp họ, trước sự ngạc nhiên của chính họ.  Do đó mà khi có người buột miệng hỏi: “Mỗi năm cha bắt được bao nhiêu cá lớn?” ngài trả lời ngay, không lưỡng lự: “Hơn 700.”  Không nhớ con số sao được đối với những con cá như thế!

d. Luôn nhẫn nại

 Một dù vất vả ngồi tòa và có những chuyện dễ làm người ta bực mình, nhưng ngài thì không.  Ngược lại, ngài tỏ ra đặc biệt nhẫn nại.  Đây là một trong những đức tính nổi bật nhất nơi ngài.  Một linh mục đã nhận xét: Tôi đã từng quan sát kỹ xem ngài có tỏ ra bất nhẫn bực tức lúc nào không, mà không thấy.  Đem chuyện này hỏi ngài thì được ngài trả lời: “Phải nhẫn nại mới có thể cho cái người ta cần chứ!  Bất nhẫn thì được cái gì?” Ngài cũng nói với một cha bạn: “Hãy học tập sự nhẫn nại của Chúa.”

e. Hiền hòa, kính trọng hối nhân

Vào thời kỳ cao điểm, bình quân mỗi ngày có từ 300 đến 400 người xếp hàng xưng tội.  Công việc vất vả và liên tục trong 30 năm này đã làm cho ngài kiệt lực, đến nỗi có lần ngài tự thú: “Khi tôi rời tòa giải tội, tôi phải lấy tay sờ vào đùi xem nó có còn ở đấy không.  Đôi khi ra khỏi nhà thờ, tôi phải vịn vào tường mà đi cho khỏi ngã.  Đầu tôi nặng trĩu.  Thực sự tôi đã không biết mình chống lại như thế nào.”

Suốt ngày bị công việc mục vụ dồn ép như thế, ngồi nghe hối nhân hàng giờ như thế mà ngài vẫn không mất kiên nhẫn, không la lối nạt nộ ai bao giờ, thật là lạ lùng.

Ngài luôn hiền hòa, tế nhị, kính trọng đối với hối nhân, bất kể là ai.  Có Linh mục sa ngã nặng đến xưng tội vẫn được ngài yêu mến, kính trọng.  Lời khuyên dành cho Đức Giám Mục Giáo Phận đến xưng tội với ngài là: xin Đức cha hãy yêu thương các Linh mục của Đức cha.

Dù có đông người xếp hàng bên tòa giải tội, ngài vẫn dành cho mỗi người một thời gian cần thiết, bởi người nào cũng có vấn đề riêng của mình.  Ngài không khuyên dài, nhiều khi chỉ một lời thôi, nhưng là lời làm cho hối nhân phải động tâm suy nghĩ, một lời tác động mạnh trên họ có khi cả đời.  Chính sự thánh thiện và yêu thương đem lại sức mạnh và hiệu năng cho lời đó.  (x. Thánh Gioan Maria Vianney, bổn mạng các Linh mục, Lm Micae Trần Đình Quảng; simonhoadalat.com).

Nhân ngày lễ kính thánh Gioan Maria Vianney (ngày 4 tháng 8), đọc lại nét tiêu biểu cuộc đời thánh nhân nơi tòa giải tội.  Như người ta đã nói: phép lạ lớn nhất của cha Vianney thánh thiện là tòa giải tội của ngài bị bao vây suốt ngày đêm.  Cũng có thể nói cách khác: phép lạ tiêu biểu của ngài là sự hoán cải của những người tội lỗi.  Các linh mục noi gương cha thánh thực thi sứ vụ khó khăn và cao đẹp này.  Mỗi lần ban ơn xá giải là linh mục thấy mình được cộng hưởng trên đường nên thánh.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

THÁNH INHAXIO, TỔ PHỤ DÒNG TÊN, LÀ AI?

Thánh Inhaxio, tổ phụ dòng Tên, tên thật là Inigo Lopez de Loyola, sinh năm 1491 tại xứ Basque, Tây Ban Nha.  Vốn tính tình ương bướng và đầy tham vọng, ngay từ nhỏ, Inigo đã không từ khước bất cứ một thủ đoạn nào để mong sao có được một chỗ đứng vững chắc trong xã hội và trong triều đình.  Thế nhưng, ngài luôn phải nhận lấy những thất bại dù ngài rất tài năng.

Trong một trận chiến diễn ra tại Pamplona năm 1521, ngài đã bị một viên đại bác bắn vào chân.  Ngài được đưa về Loyola để dưỡng thương.  Để bảo toàn tính mạng cho ngài, người ta đã phải thực hiện những cuộc phẫu thuật ở chân.  Những cuộc phẫu thuật ấy diễn ra hết sức đau đớn đến độ anh của ngài khi chứng kiến cũng phải thừa nhận là bản thân không thể chịu được cơn đau như thế.  Vậy mà chẳng ai nghe Inigo kêu la hay rên rỉ một lần nào.  Ngay trên giường bệnh, đối diện với sự thất bại tràn trề, Inigo vẫn không từ bỏ tham vọng theo đuổi những vinh hoa thế gian của mình.  Khi thấy vết thương đã làm cho chân mình trở nên xấu xí, hai đôi chân không còn bằng nhau, Inigo đã nhất quyết xin bác sĩ phẫu thuật “thẩm mỹ” lần nữa, vì ngài không thể chấp nhận một thân hình khập khiễng như thế này.  Trước sự cương quyết của ngài, cả gia đình và các bác sĩ đành ưng thuận.  Tuy nhiên, đôi chân ngài cũng không thể lành lặn như xưa.  Do di chứng của vết thương này mà cả cuộc đời, ngài phải đi “cà nhắc.”

Inigo vẫn còn mơ tưởng rất nhiều đến một cuộc sống quyền lực và xa hoa.  Trong thời gian dưỡng thương ở nhà, do quá buồn chán, ngài đã xin chị dâu cho mình vài cuốn tiểu thuyết lãng mạn đọc để giết thời gian.  Nhưng chẳng có cuốn sách nào trong toà lâu đài ngoại trừ cuốn Hạnh Các Thánh và Cuộc Đời Đức Giêsu.  Bất đắc dĩ, ngài mới chịu cầm lấy.  Đôi mắt Inigo như chợt bừng sáng vì ngài khám phá ra được những điều mà bấy lâu nay ngài không biết.  Ngài tự hỏi về ý nghĩa cuộc đời mình, về những gì mình đang theo đuổi.  Thế rồi, ngài quyết tâm từ bỏ con người cũ, sống theo một lý tưởng mới.  Vào một đêm nọ, ngài đã thấy Đức Mẹ bồng Chúa Hài Nhi hiện ra với mình.  Thị kiến này hệt như một cuộc xác chuẩn cho đời sống mới mà Thiên Chúa dành cho Ngài.

Khi bình phục, bất chấp những phản đối của gia đình, ngài đã âm thầm trốn đi, mang trong mình ý hướng sẽ đi hành hương đất thánh, và tìm một lý tưởng mới cho mình.  Để khỏi bị phát hiện, ngài đã đổi quần áo sang trọng của mình với một người ăn xin.  Ở Monserat, ngài đã thực hiện một cuộc canh thức thâu đêm rồi dâng thanh kiếm của mình trước ảnh Đức Mẹ ở đây để thể hiện ý muốn quyết tâm từ bỏ mọi sự.

Inhaxio đã trải qua thời kỳ thanh luyện rất gian khổ ở Mansera.  Tại đây, do không có kinh nghiệm gì về đời sống thiêng liêng, ngài đã phải tự mày mò để tìm cho mình một lối sống.  Ngài đã cầu nguyện rất nhiều giờ, ăn chay, nhiệm nhặt, đánh tội.  Cứ tưởng rằng những điều này sẽ mang đến cho ngài niềm hạnh phúc.  Nhưng càng lúc ngài càng cảm thấy cuộc sống mình thật bế tắc.  Những cơn cám dỗ bảo ngài hãy bỏ cuộc lần lượt kéo tới.  Ngài đã cầu nguyện, đi lễ, xưng tội, gặp các cha linh hướng nhiều lần để xin lời khuyên nhưng tất cả đều vô nghĩa.  Ngài buồn bực đến độ đã có lúc nghĩ đến chuyện tự tử vì thấy mình mất đi hướng sống.

Chính trong cơn túng quẫn ấy, Thiên Chúa lại đến với ngài qua những thị kiến và dạy dỗ ngài như thầy giáo dạy một học trò nhỏ.  Một trong những ơn nổi tiếng nhất xảy ra tại bờ sông Cardoner.  Mọi sự diễn ra chỉ trong chớp nhoáng nhưng những gì mà ngài nhận được lúc ấy còn hơn tất cả những gì ngài đã học được trong suốt quãng đời còn lại.

Ngài bắt đầu thay đổi đời sống, từ bên ngoài đến bên trong.  Ngài ăn uống đàng hoàng, để râu tóc gọn gàng, tắm rửa sạch sẽ và bắt đầu thực thi những công việc tông đồ.  Ngài đến Giêresalem và muốn ở lại đây nhưng không được, buộc ngài phải về lại châu Âu.  Ngài muốn giúp đỡ người khác nhưng vì không có bằng cấp gì nên việc giảng dạy giáo lý của ngài gặp phải sự chống đối của giáo quyền.  Toà dị giáo sợ rằng ngài đang truyền bá những tư tưởng lạc đạo, và dù họ không tìm thấy một sai phạm nào trong những lời dạy của ngài, họ vẫn bắt và bỏ tù ngài đến hai lần.  Nhận thấy rằng việc tông đồ của mình sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không có bằng cấp được Giáo Hội công nhận, ngài đã quyết tâm sang Paris để học.  Tại đây, ngài đã gặp và kết bạn với Phêrô Favre, và Phanxico Savie.  Hai sinh viên trẻ này đã sớm có ấn tượng về đời sống thiêng liêng của Inhaxio.  Ba người giúp nhau trong học tập và nhanh chóng trở nên thân thiết với nhau.

Sau đó, cũng có một số người khác được đời sống của Inhaxio cảm hoá.  Họ trở thành một nhóm bạn thân thiết, có chung với nhau một lý tưởng là phục vụ Chúa bằng cả cuộc đời mình.  Tại Montmartre, họ đã tuyên khấn khiết tịnh và khó nghèo để sống cho lý tưởng này.  Tất cả đều muốn đến Giêrusalem để sống và chết cho Chúa.  Nhưng vì lý do khách quan, họ đã không đi được.  Họ không biết làm gì nên đành quay về Roma, với ý định sẽ đặt mình dưới quyền sai khiến của Đức Thánh Cha.  Họ chia ra thành những nhóm nhỏ để về.

Inhaxio đi cùng với hai người nữa.  Đến một nhà nguyện nhỏ ở La Storta, đang lúc cả ba đang cầu nguyện thì Inhaxio được ban cho một thị kiến nữa.  Ngài thấy Chúa Cha, tay chỉ vào ngài, mắt nhìn Chúa Con đang vác thập giá và nói rằng: “Ta muốn con nhận người này là người phục vụ.”  Chúa Con đã nhìn Inhaxio và nói rằng: “Ta muốn con phục vụ Chúng Ta.”  Đối với Inhaxio, thị kiến này chính là một sự xác chuẩn cho ý muốn phục vụ Chúa và Giáo Hội của ngài.

Về tới Roma, nhóm bạn đã nhanh chóng gặp Đức Giáo Hoàng và trình bày ước nguyện.  Đức Giáo Hoàng đã rất vui khi có một nhóm người vừa tri thức, vừa thiêng liêng đồng tâm hiệp lực giúp đỡ mình.  Thế rồi, Giáo Hoàng đã trao cho họ những sứ mạng quan trọng ở khắp nơi trên thế giới.

Trước nguy cơ nhóm có thể tan rã vì mỗi người một phương, chẳng biết có còn gặp lại nhau nữa không.  Họ đã nảy sinh một ý tưởng: thành lập một dòng tu.  Trước đây, họ đã khấn hai lời khấn khiết tịnh và khó nghèo rồi.  Giờ đây, chỉ cần chọn một người và khấn lời khấn vâng phục người đó nữa thôi là được.  Qua hai lần bỏ phiếu, tất cả đều chọn Inhaxio làm bề trên.  Inhaxio, dù không muốn, nhưng nhận thấy đó là ý Chúa nên cũng chấp nhận.  Với sự chuẩn nhận của Giáo Hoàng Phaolo III, một dòng tu mới ra đời vào năm 1540, ở Việt Nam gọi là dòng Tên.  Inhaxio đã sống tại Roma từ đó cho đến cuối đời.  Ngài viết thư điều hành dòng, nâng đỡ anh em, soạn thảo Hiến Pháp.  Ngài qua đời tại căn phòng nhỏ của mình vào năm 1556 và được phong thánh năm 1622.  Hội dòng mang tên Giêsu (dòng Tên) không ngừng lớn mạnh từ đó và luôn theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa, và các linh hồn mà Đấng Tổ Phụ đã khơi lên.  Cho đến nay, dòng Tên là một trong số những dòng nam có số lượng tu sĩ lớn nhất trong Giáo Hội.  Các cộng đoàn dòng Tên phân bố ở rất nhiều vùng miền trên thế giới, và đảm nhận hầu hết các sứ mạng mà Giáo Hội trao phó, không trừ một mảng nào: từ truyền giáo đến giảng dạy, nghiên cứu, chăm sóc bệnh nhân, di dân, tị nạn, hoạt động mục vụ, xã hội…

Mỗi người sinh ra đều có một lịch sử, một câu chuyện và một sứ mạng.  Câu chuyện cuộc đời của mỗi người không ai giống ai nhưng tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.  Ai có thể ngờ rằng một chàng thanh niên ham quyền lực và đầy tham vọng, bất chấp mọi thủ đoạn như Inigo lại có ngày trở thành một vị thánh, Đấng Sáng Lập một dòng tu nổi tiếng, và có sức ảnh hưởng lớn như hiện nay?  Tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội một vị thánh, một bậc thầy thiêng liêng, một mẫu gương cho chuyến hành hương tiến về Nhà Chúa.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
Nguồn: https://dongten.net

CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH BỞI TRỜI

Tôi có dịp hành hương sang Ai Cập, đi qua sa mạc mênh mông, lên đỉnh núi Sinai cao vời vợi và đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái.”

Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái?  Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do.  Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê.  Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3). 

Dân Do thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon.  Nhiều lần dân đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: “Bên Ai Cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai Cập! Thà làm nô lệ Ai Cập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 14,11-12)“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3)“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì?  Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai Cập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong!  Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt?  Chúng tôi trở về Ai Cập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).

Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nỗi nhớ “thịt béo, củ hành, củ tỏi Ai Cập.”  Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa.  Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá.  Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương.  Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.

1. Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân

 Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân.  Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân.  Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông.  Dân đối xử tệ bạc với Môsê.  Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy.  Thật bất công!

Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân: “Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”

Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.

Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.

a. Môsê, người của Thiên Chúa

Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19).  Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharon và con cái Aharon để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46).  Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).

Môsê có những lúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30).  Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11).  Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11).  Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17).  Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).  Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người…  Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).

b. Môsê, người liên đới với dân Chúa

Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).  Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động!  Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.

Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37).  Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ.  Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab.  Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng…  Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc.  Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!

Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân!  Môsê đã chết với dân và cho dân!  Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.

Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).

Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân.  Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.

2. Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô

 Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân.  Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.  Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15).  Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22).  Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).

Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn.  Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức.  Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai.  Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ.  Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.

Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).

Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai Cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa.  Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.

Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa.  Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17).  Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5, 9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8).  Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê?  Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x. Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).

3. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời

Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến,” các môn đệ xuống thuyền đi sang “bên kia Biển hồ;” còn Chúa Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông.  Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người.  Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều.  Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.

Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê.  Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự.  Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực trường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.  Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa.  Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa.  Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống.  Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.

Chính Tôi là Bánh Hằng Sống.”  Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ.  Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không.  Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu.  Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.

Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống.  Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể.  Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể, và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.

Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống” như mana trong sa mạc.  Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát.  Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng.  Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống.  Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại.  Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời.  Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.

Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Bài đọc 2).

Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương.  Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.

“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả.  Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.

Mỗi lần rước lấy Thánh Thể, Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

ĐÓN NGƯỜI VÀO NHÀ

Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia.  Có một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà.  Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.  Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ.  Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”  Chúa đáp: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!  Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.  Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Lc 10:38-42

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khuôn mặt Maria khá nổi bật.
Chúng ta dễ thấy là Thầy Giêsu nghiêng về cô em hơn.  Mácta đón Thầy vào nhà trong tư cách là chị. Còn Maria sau đó là người tiếp Đức Giêsu. Maria thanh thản, lặng lẽ ngồi bên chân Thầy để lắng nghe.
Còn chị Mácta thì ngược lại. Hẳn là chị phải xuống bếp ngay để lo bữa ăn. Cuộc viếng thăm của Thầy Giêsu và các môn đệ là khá bất ngờ. Làm sao để đãi một số vị khách như thế? Đó là mối lo chính đáng của chị Mácta. Mácta là người đảm đang, thạo việc, nhanh nhẹn. Nhưng trong tình thế này, chị thấy rất cần sự giúp đỡ của cô em. Rõ ràng là Mácta bị cuống lên vì thấy mình có nhiều việc phải làm gấp. Chị không muốn khách phải chờ đợi lâu, và chị cũng muốn đãi khách một bữa ăn tương đối thịnh soạn.

“Xin Thầy bảo em giúp con một tay!”

Đó là ước mơ của Mácta, rất đỗi bình thường. Tiếc thay, Thầy Giêsu lại đang kể chuyện cho Maria, và cô này đang lắng nghe một cách thích thú (c. 39). Nhờ Thầy kêu em xuống bếp là phá vỡ câu chuyện còn dang dở của Thầy. Mácta bị mối lo về bữa ăn chi phối khiến chị quên cả lịch sự cần có. Chị quên rằng Thầy Giêsu không chỉ cần bữa ăn, mà còn cần tình bạn. Và tiếp khách cũng là một cách phục vụ không kém giá trị.

Thầy Giêsu nhìn thấy sự căng thẳng, lúng túng của Mácta. và nhận ra lòng tốt của chị, khi chị muốn dọn một bữa ăn xứng đáng. Thầy gọi tên chị hai lần cách trìu mến: Mácta, Mácta.
Ngài nhẹ nhàng trách chị vì đã lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá.

“Chỉ cần một chuyện thôi.  Maria đã chọn phần tốt hơn” (c. 42).

Thầy Giêsu không bảo rằng điều Mácta làm là điều không tốt.  Chắc chắn Thầy và trò đều cần bữa ăn ngon sau những ngày rong ruổi.  Nhưng ngồi nghe Thầy vẫn là điều tốt hơn, cần hơn. Vì thế Thầy sẽ không kêu cô em xuống bếp để phụ giúp cô chị.  Điều mà Maria đã chọn, chẳng ai có thể lấy đi.

Chị Mácta là thánh nữ được tôn kính trong Giáo Hội.  Chúng ta phải bắt chước chị qua công việc tận tụy và đầy trách nhiệm.  Nhưng chúng ta phải làm một cách an bình, khiêm tốn, vui tươi,  không coi việc mình làm là quan trọng hơn việc người khác.  Cuộc sống hôm nay dễ làm ta trở nên Mácta, bị đè nặng bởi công việc.  Nhưng phải cố dành giờ để làm Maria mỗi ngày.  Phải thu xếp để khỏi phải ở dưới bếp quá lâu, để có người thay mình.  Đời sống của người Kitô hữu là kết hợp của Mácta và Maria.  Vừa đón, vừa tiếp; vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa;  nhưng dù hoạt động hay cầu nguyện, lúc nào cũng hướng về Chúa.

******************************

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa. 

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu S.J.

THÁNH GIOAKIM (JOACHIM) VÀ THÁNH ANNA (ANNE)

Thánh Gioakim và Thánh Anna là song thân của Đức Mẹ, tức là Ông Bà Ngoại của Chúa Cứu Thế Giêsu.  (Xin được mở ngoặc: Có một số người thường viết lộn hoặc đọc sai là Gioan-kim).

Tên Gioakim được tạo bởi chữ YHWH (tiếng Do thái: יְהוֹיָקִים Yəhôyāqîm, tiếng Hy Lạp: Ἰωακείμ Iōākeím), nghĩa là “sự chuẩn bị của Gia-vê”.

Thánh Gioakim là Phu quân của Thánh Anna và là Thân phụ của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ của Chúa Giêsu, theo truyền thống Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, và Anh giáo.  Câu chuyện về Thánh Gioakim và Anna xuất hiện lần đầu tiên ở ngụy thư Phúc Âm thánh Giacôbê.  Thánh Gioakim và Thánh Anna không được nhắc tới trong Kinh Thánh.

Hai Ông Bà được Giáo hội kính nhớ vào ngày 26 tháng Bảy hằng năm.  Đây là ngày lễ của những người đã làm ông bà (nội hay ngoại).  Lễ này nhắc nhớ quý ông bà nội ngoại về trách nhiệm xây dựng các thế hệ tương lai, phải tạo truyền thống gia phong lễ giáo như phần di sản đạo đức làm của hồi môn cho cháu chắt.  Tuy nhiên, lễ này cũng là lời nhắn nhủ dành cho thế hệ trẻ: Phải tôn kính người lớn hơn mình, nhất là những người già, phải biết trải nghiệm, đánh giá cao cuộc sống chứ không được coi nhẹ hoặc làm ngơ.

Gia phả của Chúa Giêsu trong Phúc Âm thánh Matthêu và Luca không nói rõ tên cha mẹ của Đức Maria, nhưng có liệt kê tên người cha của thánh Giuse, nhiều học giả trong nhóm của John ở Damascus (thế kỷ 8), và đặc biệt là các học giả Tin Lành, tranh luận rằng gia phả trong Phúc Âm theo thánh Luca mới đúng là phả hệ của Đức Mẹ, và Heli là cha.  Để giải quyết vấn đề thánh Giuse có hai người cha – một thuộc dòng dõi Vua Salomom, hậu duệ của Nathan, con Vua Đa-vít, truyền thống từ thế kỷ 7 xác định rằng Heli là anh em họ đầu tiên của Thánh Gioakim.

Theo truyền thống, Bà Anna sinh tại Belem, kết hôn với Ông Gioakim người Nadaret, cả hai đều là dòng dõi thánh vương Đa-vít.  Trong Protoevanggelium của thánh Giacôbê, thánh Gioakim được mô tả là người giàu có và đạo đức, thường giúp đỡ người nghèo và tới Đền thờ tại Sepporis.  Truyền thống nói rằng cha mẹ của Đức Maria mới đầu sống ở Galilê, sau đó định cư ở Giêrusalem.  Tuy nhiên, Bà Anna là phụ nữ son sẻ, ông Gioakim bị các thầy thượng tế sa thải và từ chối lễ vật hy sinh của ông, vì việc Bà Anna không có con được hiểu là việc không đẹp lòng Chúa.  Ông Gioakim rút vào hoang địa để ăn chay và đền tội 40 ngày.  Lúc đó các thiên thần hiện ra hứa với Ông Bà Gioakim và Anna là sẽ có con nối dõi.  Sau đó, ông Gioakim trở lại Giêrusalem và đón bà Anna tại cổng thành.  Có niềm tin cổ cho rằng đứa con sinh bởi người mẹ già là đã được tiền định về điều gì đó kỳ lạ.  Trong Cựu ước có trường hợp của Bà Hannah, Thân mẫu của Ngôn sứ Samuel.

Truyền thuyết liên quan Ông Bà Gioakim và Anna có trong “Cổ Tích Vàng” (Golden Legend) và vẫn phổ biến trong nghệ thuật Kitô giáo cho tới khi Công đồng Trentô xác nhận đó là các sự kiện ngụy tạo.

Phụng vụ theo lịch Tridentine không có lễ Thánh Gioakim.  Lễ này được thêm vào Công Lịch Rôma từ năm 1584, mừng vào ngày 20-3, ngay sau lễ Đức Thánh Giuse Phu quân Đức Mẹ.  Năm 1738, lễ này được chuyển sang Chúa nhật sau tuần bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu.  Với nỗ lực để Phụng vụ các Chúa nhật được cử hành, Đức Giáo Hoàng Piô X đã chuyển lễ này sang ngày 16 tháng Tám, sau lễ Đức Mẹ Mông Triệu, để Thánh Gioakim được kính nhớ trong khi cử hành cuộc khải hoàn của Đức Mẹ.  Trong lịch các thánh của Giáo hội Công giáo Rôma (năm 1969), lễ Thánh Gioakim được mừng chung với Thánh Anna vào ngày 26 tháng Bảy.

Giáo hội Chính thống Đông phương và Công giáo Hy Lạp kính nhớ thánh Gioakim và thánh Anna vào ngày 9 tháng Chín.  Thánh Gioakim và thánh Anna là thánh bổn mạng của các cha mẹ, các ông bà nội ngoại, những người kết hôn, những người đóng tủ và những người buôn vải.  Có một số biểu tượng gắn liền với thánh Gioakim: Cuốn sách hoặc cuộn giấy tượng trưng người dệt vải, chiếc gậy chăn chiên tượng trưng chữ nghĩa của Kitô giáo, và cái rổ đựng đôi chim bồ câu tượng trưng sự hòa bình.  Thánh Gioakim thường có trang phục màu xanh lá cây, màu của niềm hy vọng.

Trong Kinh thánh, hai thánh sử Matthêu và Luca cung cấp gia phả của Chúa Giêsu, cho thấy rằng Chúa Giêsu là đỉnh cao của Giao ước (những lời hứa).  Chúng ta không biết gì nhiều, ngay cả ông bà ngoại Gioakim và Anna cũng chỉ được nhắc tới sau khi Chúa Giêsu chịu chết được hơn 100 năm.

Đức tính anh hùng và sự thánh thiện của các ngài được suy ra từ bầu khí gia đình liên quan Đức Maria trong Kinh thánh.  Dựa vào truyền thuyết thời thơ ấu của Đức Maria hoặc suy đoán từ thông tin trong Kinh thánh, chúng ta thấy sự viên mãn của nhiều thế hệ của những con người cầu nguyện, chính Đức Mẹ đã say đắm cầu nguyện theo truyền thống tôn giáo.

Tính cách mạnh mẽ của Đức Maria thể hiện khi quyết định “xin vâng” (Lc 1:38), liên lỉ cầu nguyện, tuân thủ luật đức tin, sự vững vàng khi gặp khủng hoảng, và tận tụy với những người thân (Lc 1:39-45) – cho thấy gia đình gắn bó yêu thương, trông mong thế hệ kế tiếp duy trì những điều tốt đẹp nhất của quá khứ.

Ông Bà Gioakim và Anna biểu hiện các thế hệ khá lặng lẽ khi trung thành thực hiện trách nhiệm, sống đức tin và thiết lập môi trường tốt lành cho Đấng Thiên Sai tới.

Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con. Amen.

 Nguồn: https://ditimchanly.org

ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI

Thiên Chúa là tình yêu.  Con người là họa ảnh của Thiên Chúa.  Con người cũng phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa thế gian.  Thế gian cần có tình yêu để tồn tại.  Không có tình yêu, thế gian sẽ là một kiếp đọa đầy.

Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời.  Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ.  Tình yêu là lẽ sống còn của con người.  Con người không có tình yêu sẽ đầy đọa mình và làm khổ anh em.

Tình yêu sẽ giúp cho con người nhớ đến nhau, quan tâm đến nhau và hy sinh cho nhau.  Tình yêu sẽ khiến người ta chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh chung quanh.  Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau.  Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.

Em bé trong Tin Mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp người.  Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn.  Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói.  Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn.  Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình.  Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.

Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người.  Đôi khi chúng ta cũng áy náy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ.  Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua.  Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.

Người ta kể rằng: vào một đêm đông gió tuyết lạnh lùng.  Một ông lão đến gõ cửa nhà phú hộ.  Người phú hộ trông thấy ông lão đang co ro trong chiếc áo rách tả tơi.  Ông biết ông lão rất lạnh, nhưng ông nghĩ để ông ấy đi thì hơn.  Vì nhà mình sạch, ông lão thì bẩn và hôi hám, chi bằng cho ít tiền để ông lão ra đi.  Người phú hộ đã quyết định như thế và đã cho ông lão vài đồng xu để ra đi.

 Mấy ngày sau, một thi thể đã được phát hiện ở đầu làng, bị chôn vùi dưới tuyết.  Người bị chết cóng chính là ông lão ăn xin trong làng.  Người phú hộ nghe tin cảm thấy tiếc nuối vì mình bỏ lỡ cơ hội cứu sống một mạng người.

Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta.  Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời.  Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh.  Có thể là những cơ hội cứu sống người khác.  Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân.  Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình.  Thiên Chúa muốn chúng ta vào được nước trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân.  Tha nhân là hiện thân của Chúa.  Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa.  Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình.  Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.

Thế nhưng, chúng ta vẫn đang bỏ đi biết bao cơ hội giúp người.  Biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi.  Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau.  Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta.  Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương.

Chúa Giêsu Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh.  Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người.  Từ mọi thành phần.  Từ mọi tầng lớp.  Ngài đều thi ân giáng phúc.  Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn.”  Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm.”  Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu.  Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé.  Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu.  Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng.  Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài.  Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người.  Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen!

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

MẢNH ĐẤT GIÀU

“Ai có tai để nghe, thì hãy nghe!”

Một nghệ sĩ vĩ cầm bất ngờ khám phá tiếng đàn của mình có tác dụng thôi miên người nghe; anh cũng thấy tác động này trên các vật cưng trong nhà.  Và anh tự hỏi, điều ấy sẽ thế nào đối với những thú hoang?  Và ngày kia, đến một bìa rừng, anh cất tiếng đàn.  Điều kỳ diệu đã xảy ra!  Một con sư tử cái, một con voi và một con khỉ lao vào chỗ anh, chúng say mê lắng nghe.  Chẳng mấy chốc, động vật các loại đến chật ních.  Đột nhiên, một con sư tử khác lao ra khỏi rừng, vồ lấy người nghệ sĩ.  Sư tử cái hét lên, “Sao ông làm thế?”  Sư tử đực khum hai chân sau đôi tai đáp, “Cái gì?”

Kính thưa Anh Chị em,

Con sư tử đực kia xem ra không có một ‘đôi tai nội tâm’ và một ‘mảnh đất giàu’ bên trong như các con thú khác.  Tin Mừng hôm nay cũng nói đến một ‘đôi tai’ và một ‘mảnh đất giàu’; nhưng ‘đôi tai’ Chúa Giêsu nói đến có nhiều điều hơn đôi tai thể lý.  Ngài nói đến một ‘đôi tai’, qua đó, chúng ta có thể nghe, hiểu, lựa chọn và chấp nhận thánh ý Thiên Chúa từ một ‘mảnh đất giàu’ của linh hồn.

Bằng nhiều cách, Chúa Giêsu nói Lời Thiên Chúa cho chúng ta, nhưng chúng ta có lắng nghe và sẵn sàng để Lời Ngài thấm nhuần hay không, điều này tuỳ thuộc nội tâm mỗi người.  Chỉ khi chăm chú vào Lời Ngài, chúng ta mới có thể nắm bắt ý muốn của Thiên Chúa; cùng lúc, tâm hồn chúng ta phải là một ‘mảnh đất giàu.’  Để có được ‘mảnh đất giàu’ màu mỡ trong tâm hồn, quả không dễ!  Vì sẽ dễ hơn rất nhiều để đất khô cằn, gai gốc, sỏi đá và không đón nhận.  Vậy, làm sao để nuôi dưỡng một tâm hồn hầu nó có thể trở nên một ‘mảnh đất giàu?’

Để bắt đầu công việc này, một trong những nơi quan trọng nhất là chúng ta phải đi xuống ‘vùng trũng’ khiêm tốn.  Khiêm tốn, cuối cùng, là nhìn nhận sự thật về con người mình; và đặc biệt, nhận thức được sự cần thiết của ân sủng Thiên Chúa trong đời.  Việc khiêm tốn thừa nhận chúng ta bất lực nếu không có ân sủng là một điều cần thiết trước tiên để tạo ra một ‘mảnh đất giàu’ nội tâm; từ đó, chúng ta hoàn toàn cậy trông vào Chúa.  Lần đầu tiên, khi hạ mình xuống tận ‘vùng trũng’ lòng mình, tựa nương vào Đấng Quyền Năng, chúng ta bắt đầu ở trong tư thế sẵn sàng lắng nghe khi Thiên Chúa nói; và lúc Ngài mở lời, qua ‘đôi tai nội tâm’, chúng ta vui mừng lắng nghe, hiểu, lựa chọn và chấp nhận thánh ý; tức là vâng lời.  Chỉ khi đó, hoa trái tốt lành của lòng thương xót Chúa mới có thể đổ vào cuộc sống chúng ta và qua chúng ta, đổ vào cuộc đời những người khác.

Bài đọc Xuất Hành hôm nay là một minh họa cho thấy thái độ lắng nghe với ‘đôi tai nội tâm’ của Môisen và Aaron, những con người có những ‘mảnh đất giàu.’  Bị dân ta oán giữa sa mạc với những lời lẽ khó nghe nhất, “Thà chúng tôi chết trong đất Ai Cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn bánh no nê!”, Môisen và Aaron vẫn không một lời phàn nàn hay khiển trách, một chỉ khiêm tốn lặng thinh, chờ đợi để lắng nghe Thiên Chúa.  Và Thiên Chúa đã phán cùng Môisen để ông nói lại cho dân, “Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê!”   Quả đúng như vậy!  Thú vị thay, ở sách Dân Số, Môisen sẽ nói với dân, “Anh em sẽ ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày, nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi!”  Thánh Vịnh đáp ca hôm nay xác nhận điều đó, “Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ!” khi Ngài cho chim cút và sương mai rơi rợp trại!

Anh Chị em,

Không ai đã bước xuống ‘vùng trũng’ khiêm tốn bằng Thiên Chúa.  Bằng chứng là dân, miệng vừa, “Vang lên muôn lời ca, ta ca ngợi Chúa!”, lại vừa ta oán Ngài.  Vậy mà, Thiên Chúa vẫn chịu đựng, Ngài kiên nhẫn lắng nghe họ.  Ngày nay, vẫn vị Thiên Chúa đó, đang bước xuống trong Chúa Giêsu Kitô.  Ngài đã bước xuống thật thấp, thấp đến nỗi hiến mình treo cao trên nhục hình thập giá; thấp đến nỗi hiến mình lấy Máu Thịt nuôi dưỡng nhân loại trên các bàn thờ.  Ôi, một nhân loại vĩ đại, cao quý!  Chúng ta có nhận ra điều đó không, hay suốt ngày chỉ kiếm tìm những gì thỏa mãn cơn đói vật chất và để cho ‘đôi tai tâm hồn’ mình điếc đặc.  Chớ gì mỗi ngày, chúng ta biết cần mẫn khiêm tốn cúi xuống mảnh đất tâm hồn để nhặt đi những hòn sỏi ích kỷ, nhổ đi những cọng cỏ kiêu căng, hầu hạt giống Lời Chúa có thể mọc lên từ một ‘mảnh đất giàu’ màu mỡ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin đừng để hạt giống Lời Chúa chết nghẹt nơi con; nhưng cho con biết cộng tác với ân sủng, từ việc đón nhận với ‘đôi tai nội tâm’ nhạy bén đến việc ra sức vun xới cho tâm hồn trở nên ‘mảnh đất giàu’; nhờ đó, Lời Chúa có thể sinh hoa trái cho linh hồn con và anh em con.  Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

ĐẤU TRANH VỚI TỰ ĐẠI

Chúng ta sống trong một thế giới nơi mọi thứ quá kích động sự tự đại của chúng ta, trong khi đó lại ngày càng ít công cụ để đương cự với nó.

Vài năm về trước, Robert L. Moore đã viết một quyển sách rất ý nghĩa, với tựa đề Đối diện Con Rồng (Facing the Dragon).  Moore tin rằng con rồng đe dọa chúng ta nhất, chính là con rồng của sự tự đại trong chúng ta, nó khuấy động nội tâm chúng ta khiến chúng ta tin rằng mình đặc biệt phi thường và mang số mệnh cao cả.  Tình trạng này bủa vây tất cả chúng ta.  Nói đơn giản, mỗi người chúng ta, mỗi một trong bảy tỷ người trên trái đất, không thể nào không cảm thấy mình là trung tâm của vũ trụ.  Và bởi điều này gần như vô thức, đồng thời chúng ta lại thiếu khí cụ để giải quyết nó, nên nó gây ra một tình trạng đáng lo sợ.  Tự đại không phải là công thức cho hòa bình và hòa hợp, mà là cho ghen tương và xung đột.

Mà tình trạng này không phải lỗi của chúng ta, và tự nó cũng không phải là một khiếm khuyết đạo đức trong bản tính của chúng ta.  Sự tự đại của chúng ta phát xuất từ cách Thiên Chúa tạo thành chúng ta.  Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa.  Đây là chân lý giáo điều căn bản nhất trong nhận thức Do Thái – Kitô giáo về nhân thể.  Tuy nhiên, không thể hiểu nó theo kiểu đơn giản hóa, như kiểu một biểu tượng đẹp đẽ được đóng dấu vào linh hồn chúng ta.  Đúng hơn, cần phải hiểu thế này: Thiên Chúa là lửa, lửa bất diệt, một sinh lực không ngừng tìm kiếm để ôm trọn và thổi bùng mọi tạo vật.  Và ngọn lửa đó có trong chúng ta, khơi lên trong chúng ta những cảm thức thần linh, một trực giác rằng chúng ta cũng có sinh lực thần thiêng, và cũng là một áp lực muốn trở nên đặc biệt phi thường và đạt được một sự cao cả nào đó.

Có thể nói, được tạo thành theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa, nghĩa là có một con chíp thần thiêng bên trong chúng ta.  Nó thiết lập cho chúng ta phẩm giá cao cả nhất nhưng cũng tạo nên những vấn đề lớn lao nhất.  Sự vô hạn không nằm yên trong cái hữu hạn.  Bởi có sinh lực thần thiêng bên trong, nên chúng ta không dễ bình yên trong thế giới này, những khao khát và mong mỏi của chúng ta quá vĩ đại.  Chúng ta không chỉ sống trong sự bất an triền miên mà thánh Augustino đã nêu bật trong châm ngôn lừng danh: Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, lạy Chúa, và lòng chúng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.”  Mà sự tự đại bẩm tại này còn khiến chúng ta không ngừng nuôi dưỡng một niềm tin rằng chúng ta đặc biệt, có định mệnh độc nhất vô nhị, và được sinh ra để nổi trội, được công nhận, được biết đến với những sự phi thường của mình.

Và do đó tất cả chúng ta đều được một mã gene thần thiêng điều hướng để, có thể nói là tạo lập một tuyên bố trong đời, tạo lập sự bất tử cho riêng mình, và tạo lập một giả tượng phi thường mà thế giới phải để mắt đến.  Đây không phải là một khái niệm trừu tượng, nó tuyệt đối thực tế.  Chúng ta có thể thấy bằng chứng cho chuyện này trên mọi bản tin, trong mọi vụ đánh bom, trong mọi mưu đồ xấu xa táo tợn, và trong mọi tình huống khi ai đó muốn mình nổi trội.  Chúng ta cũng thấy nó trong sự đói khát danh vọng, trong khát khao được nổi tiếng, và trong nhu cầu muốn được nhìn nhận là độc nhất vô nhị và đặc biệt.

Nhưng sự tự đại này, tự nó không phải là lỗi lầm của chúng ta, và cũng không nhất thiết là một khiếm khuyết đạo đức.  Nó đến từ cách chúng ta chúng ta được tạo thành, thật nghịch lý thay, nó đến từ những gì cao cả và tốt đẹp nhất trong chúng ta.  Vấn đề là, ngày nay, chúng ta thường không có khí cụ để vận dụng nó sao cho sinh sôi những điều tốt đẹp.  Vì nhiều lý do, chúng ta ngày càng sống trong một thế giới kích động quá đáng sự tự đại của mình, ngay cả khi chúng ta không nhận ra tình trạng này và nhất là khi chúng ta ngày càng ít công cụ tôn giáo và tâm lý để xử lý nó.  Những công cụ này là gì?

Về tâm lý, chúng ta cần những hình ảnh con người cho phép mình hiểu bản thân một cách lành mạnh, nhưng cũng bao gồm cả việc chấp nhận những giới hạn, những nản lòng, sự vô danh của chúng ta, và cả việc cuộc sống chúng ta phải dành không gian cho cuộc sống người khác nữa.  Về mặt tâm lý, chúng ta phải có những công cụ để hiểu cuộc đời mình, thừa nhận rằng mình đặc biệt và độc nhất vô nhị, nhưng vẫn là một trong số hàng tỷ cuộc đời đặc biệt và độc nhất vô nhị khác.  Về mặt tâm lý, chúng ta cần những công cụ tốt hơn để vận dụng sự tự đại của mình.

Về tôn giáo, đức tin và giáo hội chúng ta cần phải đem lại một nhận thức về nhân thể sao cho chúng ta có thấu suốt và khuôn khổ để có thể sống sự độc nhất vô nhị và đặc biệt của mình, trong khi biết bình an với tinh thần, những giới hạn, những thất bại, sự vô danh, và dành không gian cho sự độc nhất vô nhị và đặc biệt của cuộc đời người khác.  Về căn bản, tôn giáo phải cho chúng ta những công cụ để nắm bắt cách lành mạnh ngọn lửa thiêng bên trong bản thân mình, và hành động lành mạnh với những tài năng và thiên tư mà Chúa ban cho chúng ta, nhưng là trong khuôn khổ đi kèm để nhận thức khiêm nhượng rằng những thiên tư này không phải của chúng ta, mà là của Chúa, và tất cả những gì chúng ta là, và những gì chúng ta đạt được đều là ơn Chúa.  Chỉ khi đó, chúng ta mới không gục ngã vì thất bại và tự đắc vì thành công

Robert Lax cho rằng, bổn phận trong đời không phải là tìm được lối mòn trong khu rừng, cho bằng tìm một nhịp điệu để bước đi.

Ron Rolheiser | Struggling with Grandiosity

J.B. Thái Hòa (phanxicoVN) chuyển dịch