MỘT MÌNH

“Một Mình” là một trong những ít nhạc phẩm của người nhạc sĩ tài ba Lam Phương viết riêng cho mình.  Lúc sáng tác, ông chỉ đơn giản trút nỗi niềm u uẩn qua những vần thơ nốt nhạc, có điều ông không ngờ bài hát “Một Mình” được nhiều người ưa thích và trở thành một lời tiên tri buồn cho chính bản thân mình.  Sớm mai thức giấc, nhìn quanh một mình, ngoài hiên nắng lóe, đàn chim giật mình… đây có thể là nỗi sợ không chỉ một mình Lam Phương.  Ai cũng sợ một mình, dù giàu hay nghèo, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, khỏe mạnh hay bịnh tật…  Dù là bất chợt một khoảng khắc một mình, một quãng đời tạm một mình, hay cả đời một mình…. thì cái một mình nào cũng đáng sợ.  Với người Á Đông, từ nhỏ đã quen sống chung đụng với anh chị em, cha mẹ, ông bà… thì cái một mình cô đơn mới đáng sợ hơn.  Vậy một mình có thật sự đáng sợ không?

Từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã mời gọi con người một mình đi vào sa mạc để trong cõi hoang tịch cô liêu đó con người có thể nghe được tiếng tỏ tình từ trời cao “Này ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.” (Hs 2,16).  Trong cõi một mình của Lam Phương phủ đầy những nỗi niềm u uất, những trằn trọc giãy giụa muốn thoát ra khỏi cái một mình cô đơn đang bủa vây xung quanh, đang một mình nhưng không muốn một mình, muốn bay vút ra khỏi “ngoài hiên nắng lóe” rực rỡ ngoài kia, muốn có ai đó ở bên kia hàng hiên nghe được tiếng lòng của mình“biết lời tỏ tình, đã có người nghe….?”  Còn trong sa mạc của Kinh Thánh là một sa mạc tĩnh lặng, ngọt ngào, ngập tràn những tiếng lòng thổn thức lãng mạn mà chỉ khi một mình bước chân vào đó mới nghe được “Vào ngày đó…. ngươi sẽ gọi Ta: “Mình ơi,” chứ không còn gọi “Ông chủ ơi” nữa.” (Hs 2,18).  Một sa mạc mở rộng vòng tay mời gọi con người một mình tự do tự tại bước vào để sống chậm lại, để cảm nhận “lời Ngài đã hứa, ngọt ngào hơn mật ong trong miệng” (TV 119, 103), để “nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy, hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (TV 34, 9).  Hàn Mạc Tử khi một mình cô đơn đau đớn vì bịnh tật thay vì oán hận số phận hẩm hiu lại tha thiết mời gọi thế nhân “Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo; để nghe tơ liễu run trong gió, và để xem trời giải nghĩa yêu… (Đà Lạt trăng mờ).  Vì chỉ khi một mình trong thanh vắng tôi mới nghe, mới xem, mới cảm và mới nếm được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đang muốn mạc khải cho.

Nắng xuyên qua lá, hạt sương lìa cành, đời mong manh quá, kể chi chuyện mình, nắng buồn cuộc tình, bỗng tắt bình minh…  Cõi một mình của Lam Phương giăng đầy những nỗi buồn da diết kể về cuộc đời mong manh, là những giọt nước mắt khóc cho tình yêu dễ tan, là những tiếc nuối con người dễ quên, là cái nhìn ảm đạm cho một tương lai tăm tối sầu lo.  Lam Phương không hận, chỉ là những lời trách nhẹ nhàng bâng quơ “đường xưa quen lối, tình dối người mang,” buồn cho phận mình long đong lận đận tình duyên trăm mối, một kiếp đa đoan,” những nỗi buồn kế tiếp nỗi buồn.  Một nỗi buồn không chia sẻ được với ai, buồn lại càng thêm buồn, may mà có những nốt nhạc vần thơ nói lên được cõi lòng đơn côi của ông.  Ngược lại, cõi một mình trong sa mạc với Thiên Chúa là những hoan ca rộn ràng của hai tâm hồn có dịp gặp gỡ trò chuyện hàn huyên, là những nức nở buồn vui, cũng có những giọt nước mắt nuối tiếc cho những lầm lỡ sa ngã đã qua, sau đó là những vỗ về ủi an tha thứ, là những khích lệ nâng đỡ, là những lời tỏ tình mật ngọt… “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3).  Và đoạn kết của một chuyện tình đẹp là một kết thúc có hậu với “một hôn ước vĩnh cửu.  Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương.” (Hs 2,21).

Nghe rồi mới hiểu tại sao phải đi vào sa mạc cô tịch, tại sao phải là một mình, phải lắng đọng, phải thinh lặng mới nghe được những lời tỏ tình mật ngọt rất nhỏ kia.  Nếu Lam Phương không buồn, không một mình, không cô đơn thì chắc chắn sẽ không có nhạc phẩm bất hủ “Một Mình.”  Nếu tôi không chọn một mình, không đi vào sa mạc, không rũ áo với những tiếng ồn tất bật xung quanh, biết tôi có nghe được gì chăng cho dù Chúa vẫn nói?  Một mình không phải để viết nhạc như Lam Phương,  làm thơ như Hàn Mạc Tử, nhưng một mình để mở lòng hướng về trời cao, trao ban cho Thiên Chúa cái tự do để Ngài muốn viết nên những vần thơ, điệu nhạc gì lên linh hồn tôi thì tùy ý Ngài.  Khi một mình là lúc trở về với chính mình, tôi mới nhận ra có một niềm khắc khoải trong hồn muốn tìm về cội nguồn Chân Thiện Mỹ, mới nghe được những khao khát sâu kín trong trái tim mình.

Trong Tân Ước, Chúa Giêsu trước khi bắt đầu cuộc đời công khai, Ngài đã lui vào sa mạc để ở một mình 40 ngày.  Trước khi chọn 12 tông đồ, Ngài cũng đi vào cõi một mình và “Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6,12).  Sau những phép lạ, những lúc rao giảng mệt mỏi, Ngài lánh riêng ra một mình, khi thì “sáng sớm, lúc trời còn tối mịt,” hoặc “chiều đến.”  Trước khi bước vào cuộc tử nạn, Giêsu cũng đi vào cõi một mình trong vườn Cây Dầu cầu nguyện suốt đêm cho tới khi binh lính đến bắt Ngài.  Trong ba năm rao giảng và huấn luyện các tông đồ, Giêsu cũng buộc các ông sau những ngày bận rộn với đám đông, rao giảng, chữa lành… thì lánh riêng ra một chỗ nghỉ ngơi, cầu nguyện, tránh xa thế gian ồn ào… Đôi khi, Thầy Giêsu cũng phải dùng tới biện pháp mạnh là “đem các ông đi riêng với mình…” (Lc 9,10).

Như vậy một điều dễ nhận thấy là Giêsu thích ở một mình!  Khi tôi một mình ở với Giêsu Một Mình thì không còn là một mình nữa.  Hai cái một mình thì là hai rồi, không còn là một nữa.  Một mình ở với Giêsu không phải là cái một mình của cô đơn, lo lắng, tiếc nuối như cái một mình của Lam Phương, mà đó là cái một mình đáng yêu của Hàn Mạc Tử, trong đau đớn thể xác vẫn rung động với cảnh vật, vẫn nghe được Trời giải nghĩa yêu…

Một chiều thứ Sáu trên đồi Canvê năm xưa, có ba người tử tội bị hành hình trên ba cây thập tự giữa một đám đông ồn ào huyên náo, la hét, người cười kẻ khóc, người đau khổ tiếc thương, kẻ hả hê đắc chí….

Tử tội thứ nhất, tên cướp không ăn năn, khi sống hắn đã chọn con đường gian ác cô độc lẻ loi, ai ai cũng sợ hãi kinh khiếp tránh xa.  Đến gần với sự chết, hắn vẫn tiếp tục ngoan cố một mình giãy giụa trong sự dữ luôn miệng nguyền rủa và một mình đi vào cõi chết trong giận dữ, oán hận…  Cái một mình kinh hoàng của bóng đêm sự dữ, thiếu vắng bóng dáng tình yêu mặc dù Thiên Chúa Tình Yêu đang ở ngay cạnh bên.

Tử tội thứ hai, tên trộm lành, cũng như bạn mình đã sống cuộc đời của một tên cướp ác ôn.  Nhưng khi đối diện với thần chết, hắn lại mở lòng để nhìn ra những lầm lỡ sai trái của mình, mở mắt để nhìn thấy người tử tội bên cạnh là người vô tội bị án oan, dám mở miệng để mắng tên đồng bọn ngu ngốc, và khiêm nhường để xin sự tha thứ…  Và hắn đã được mãn nguyện!  Hắn không cô đơn một mình đi vào cõi chết!  Người bạn mới tử tù Giêsu đã nắm tay cùng đồng hành với hắn đi về một nơi mà hắn chỉ biết lơ mơ “Nước của ông,” với một lời hứa bao người mơ ước: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23, 43b).

Tử tội cuối cùng, Giêsu thành Nazaret, trong ba năm rao giảng làm bao nhiêu phép lạ cả thể, xung quanh lúc nào cũng có đám đông lớn nhỏ tung hô vạn tuế, với 12 tông đồ, 72 môn đệ, đến khi hấp hối chỉ còn một mẹ, một trò và vài người đàn bà khác dưới cây thập giá.  Lúc này đây có lẽ tử tội Giêsu mới thấm thía hai chữ một mình.  Một mình không nhất thiết là khi chỉ có một mình.  Một mình giữa đám đông với những tiếng la hét, nguyền rủa…  Một mình đang bị nhấn chìm từ từ với những cánh tay giơ lên “Đóng đinh nó vào thập giá!”  Một mình mới thấm thía cảm giác bị đệ tử thân tín phản bội, bị trò yêu chối bỏ, bị cả thế gian lên án.  Và cái đáng sợ nhất là cảm giác bị Người Cha yêu dấu bỏ rơi, để rồi trong hơi tàn sức kiệt trước khi chết, Giêsu đã phải thốt lên “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15:34b).  Cái một mình này mới thật đáng sợ!  Chúa Giêsu trên cây thập giá đã đi đến tận cùng của một mình cô đơn, bị kết án, bỏ rơi, nguyền rủa…  Có ai hiểu cảm giác một mình lẻ loi bị bỏ rơi cho bằng Giêsu?

Sống là chuẩn bị cho chuyến đi cuối cùng!  Trong chuyến đi đó dù muốn hay không ai rồi cũng phải một mình ra đi.  Cho dù có vạn người khóc, triệu người thương, nhà nhà tiễn đưa… nhưng không ai có thể cùng đồng hành với tôi trong chuyến đi đó.  Chỉ một mình tôi sẽ độc hành trong chuyến đi cuối cùng này.  Chỉ một mình tôi sẽ ra trước tòa phán xét của Đấng Tối Cao.  Chỉ một mình tôi thôi!  Một mình lúc đó mới thật đáng sợ!  Vậy sao ngay bây giờ tôi không tập sống một mình với Giêsu để Ngài sẽ cùng đồng hành với tôi trong chuyến đi cuối cùng như Ngài đã từng đồng hành với tên trộm lành trong chuyến đi cuối cùng của hắn.  Và tôi sẽ không bơ vơ một mình trước tòa phán xét vì đã có Giêsu bênh đỡ cho tôi.

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã yêu thích một mình, xin cho con biết sắp xếp thời gian bận rộn của mình để bước vào cõi tĩnh lặng với Chúa mỗi ngày, để làm bạn với Ngài ngay từ bây giờ để rồi con không phải một mình cô đơn trong cuộc sống này, không một mình trong chuyến đi cuối cùng, và chắc chắn sẽ không một mình lạc lõng trước tòa phán xét Chúa trong ngày sau hết.  Amen!

Lang Thang Chiều Tím

CON ĐƯỜNG XƯA EM ĐI (có Youtube)

Con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngõ hồn dâng tái tê

Anh làm thơ vu quy, khách qua đường lắng nghe chuyện tình ta đã ghi
Những mùa trăng vu quy, vì mưa gió không về
Chiến trường anh bước đi
Có nàng hoen đôi mi, ngóng theo đường vắng hoe …Hỏi còn ai cố tri

Em ơi! nhìn gió lên khơi, lòng có trông vời một người xa cuối trời?
Nơi đây phiên gác canh dài, e ấp đôi lời mình còn nhớ thương hoài

Em ơi! màu áo phong sương, mình ước huy hoàng được bàn tay chính nàng
Dâng hoa, dâng hết ân tình, tình đến bao giờ
Hỏi đường xưa mà nhớ con đường xưa em đi thời gian có quên gì
Đá mòn kia vẫn ghi, ghi một đêm trăng thanh quán bên đường vắng tênh
Chỉ còn em với anh.

Châu Kỳ

****************************

Anh lính chiến của nhạc sĩ Châu Kỳ nơi “canh gác phiên dài” trong tiếng súng đại bác đì đùng mập mù khói súng, đang thả hồn về “đường xưa mà nhớ, con đường xưa em đi.”  Mắt ngắm ánh trăng của giây phút hiện tại, mà hồn anh tản mạn về “một đêm trăng thanh” quá khứ, ngày đó “quán bên đường vắng tênh, chỉ còn em với anh.”  Nếu không có khoảnh khắc nhìn lại “con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngõ hồn dâng tái tê” thì làm sao anh có thể “làm thơ vu quy, khách qua đường lắng nghe chuyện tình ta đã ghi?”

Là bước chân mạnh mẽ của tuổi trẻ cuồng nhiệt, hay bước chân vững chãi của tuổi trung niên chín chắn nhiều suy tư, hoặc bước chân run rẩy của tuổi già mệt mỏi thương về quá khứ…. ít nhiều ai cũng có những con đường đã đi qua trong đời.  Ai cũng có một thời để yêu, một thời để nhớ, những kỷ niệm đẹp, những ký ức buồn, những bóng hình yêu ghét khắc ghi trong tim.  Một giây phút rung động trước ai đó, một khoảnh khắc bàng hoàng sững sờ trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, một tích tắc thanh bình ru mình trong tiếng chim hót…. tất cả đã trôi theo dòng thời gian, và nay đã chìm vào dĩ vãng. “Thời gian có quên gì, đá mòn kia vẫn ghi,” vầng trăng vẫn chờ, quán bên đường vẫn đợi, chỉ hỏi anh có thời giờ để nhìn lại quãng đường đã qua?  Có chăng những người như nhạc sĩ Châu Kỳ biết dành ra trong đời một khoảnh khắc để nhìn lại giây phút đã qua, để hỏi đường xưa mà nhớ, hỏi lòng mình còn thương, hỏi còn ai cố tri…. mới có thể dệt nên bài thơ vu quy dâng tặng cho đời.

Thánh I-nhã Loyola mời gọi mỗi người dành một vài giây phút lắng đọng trong ngày để nhìn lại “con đường xưa ta đi,” mà thánh nhân gọi là Phút Hồi Tâm.  Con đường xưa đó có thể là một đời, một thời, một ngày, hoặc một vài tiếng đã trôi qua kể từ Phút Hồi Tâm trước.  Nhìn lại con đường đã qua, giờ thành quá khứ để xem đường xưa lối cũ với những bước chân đi như thế nào, tâm tình vui buồn ra sao? Những bước chân nào đang cùng đồng hành với tôi trong cuộc sống hôm nay?  Tôi có vô tình đạp lên chân ai đó để lại cho họ vết thương khó quên trong đời?  Tôi có thể tha thứ cho những bước chân dù vô tình hay hữu ý dẫm nát chân tôi?  Khúc quanh nào đã làm tôi vấp té?  Đâu là những niềm vui chợt đến, những nỗi buồn khó quên?  Thái độ đáp trả của tôi với cuộc đời, với tha nhân ra sao?  Chúa ở đâu, tôi ở đâu trên đường xưa lối cũ đó?

Nhìn lại “con đường xưa ta đi” để không thấy mình độc hành lẻ loi trên đời, mà còn thấy những bước đi trong ân sủng.  Để thấy Chúa đang cùng tôi sánh bước mà đôi lúc tôi không cảm nghiệm được sự hiện diện thánh thiêng đó.  Nhìn lại quãng thời gian đã qua để nhận định những khúc quanh đã làm bước chân kẻ lữ hành vấp ngã, những lầm lỡ trong lựa chọn, những dang dở trong quyết định.  Nhớ rồi cái ổ gà ẩn mình dưới xác lá thu vàng tại góc quanh cuối đường, biết rồi những cám dỗ êm dịu ngất ngây làm tôi xa Chúa.  Những phút giây nhìn lại đó sẽ giúp bước chân ngày mai kiên định hơn, tránh xa những vấp ngã hôm qua, tỉnh thức hơn trước những cơn cám dỗ.  Trái tim sẽ dễ dàng rung động hơn trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trước nỗi đau của tha nhân, và linh hồn sẽ nhạy cảm hơn với sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời.  Tôi sẽ dễ dàng nhìn ra những thiếu sót của mình trong cuộc sống, những đáp trả chưa trọn vẹn với Thiên Chúa và với tha nhân trong những tháng ngày qua.

Cái giây phút tích tắc nơi chiến trường khói lửa nhớ về người con gái “hoen đôi mi, ngóng theo đường vắng hoe” của người lính, làm cho anh cảm thấy gần gũi hơn với người yêu phương xa, tuy còn “e ấp đôi lời” nhưng thấy lòng “mình còn nhớ thương hoài,” thì một vài giây Phút Hồi Tâm cũng sẽ giúp tôi cảm thấy tuy xa mặt, nhưng không cách lòng với một Thiên Chúa huyền bí vô hình, sẽ làm cho hai lòng nên một, và vấn vương nhớ thương hoài.  Qua Phút Hồi Tâm, một Thiên Chúa xa vời vợi sẽ trở nên sống động gần gũi hơn trong đời sống hiện tại, sẽ giúp cuộc sống tôi luôn quy hướng về một đích điểm duy nhất, nơi tôi đã khởi đầu sự sống.  Anh lính thả hồn thoát ra cái hiện tại nghiệt ngã, một cuộc sống kề bên cái chết để hồn mộng mơ nhớ về “con đường xưa em đi” để ước mơ anh được chắp cánh bay xa, một mơ “ước huy hoàng, được bàn tay chính nàng dâng hoa, dâng hết ân tình…” thì giây Phút Hồi Tâm cũng giúp hồn tôi thoát ra khỏi thực trạng khó khăn của giây phút hiện tại để chắp cánh bay xa… bay cao mãi đến tận trời xanh…. để những lo lắng vất vả trần tục không kéo ghì hồn tôi xuống đất đen.  Như ước mơ của anh lính chiến khi mọi sự đã qua “chỉ còn em với anh” thì tôi cũng mơ về ngày đoàn viên, khi những khốn khó lao đao vất vả của đời này qua đi, ngày đó chỉ còn Cha với Con.

Nhớ về “con đường xưa em đi,” nơi “có nàng hoen đôi mi, ngóng theo đường vắng hoe…” anh chợt nhận ra mình là một người hạnh phúc vì đang yêu và được yêu.  Cuộc sống dù cam go hiểm nguy nơi chiến trường gian khổ, với những “phiên gác canh dài,” ngày tháng buồn phương xa với “những mùa trăng vu quy, vì mưa gió không về” nhưng anh nhận ra cuộc sống có giá trị, cuộc đời vẫn đáng yêu và đáng sống.  Phút Hồi Tâm là nhìn lại “con đường xưa ta đi” để nhận dạng tình yêu trong cuộc sống, để thấy tôi đang được yêu và đáng được yêu mến.  Chính vì tình yêu đó, có Đấng đã từ bỏ ngôi vị Thiên Chúa chết cho tôi được sống.  Còn bao nhiêu khuôn mặt tình yêu khác trong cuộc sống này, bao nhịp đập trái tim đang hướng về tôi: chồng, vợ, con cái, cha mẹ, người yêu, anh em, bạn hữu…. tha nhân.  Tôi có đáp trả lại tình yêu đó hay không, tôi có đang yêu mến họ như họ mến yêu tôi hay không, giây phút Hồi Tâm sẽ giúp tôi trả lời câu hỏi đó.  Đời chỉ đẹp khi có tình yêu, cuộc sống chỉ có giá trị khi tôi tìm thấy giá trị của mình trong trái tim người khác, đặc biệt là trong trái tim của Chúa Tể muôn loài muôn vật.  Nếu không dừng lại vài phút mỗi ngày trong cuộc sống, thì làm sao tôi có thể nhận diện được ân sủng từ trời cao tuôn đổ xuống trên cuộc đời tôi từ những con đường xưa cũ đó, cho đến con đường hôm nay?

Phút Hồi Tâm không chỉ dành riêng cho các linh mục tu sĩ dòng Tên hay những ai đang theo linh đạo I-Nhã mà dành cho tất cả mọi người, mọi giới, mọi nơi… những người đang mong mỏi có Chúa đi bên đời với mình.  Chỉ vài phút mỗi ngày nhìn lại con đường đã qua để giúp tôi ý thức sự hiện diện của Chúa qua những biến cố lớn nhỏ buồn vui trong cuộc sống, để lòng với lòng gắn bó gần gũi với nhau hơn.  Nhẹ nhàng là thế, quyến rũ là thế sao tôi không liều mình vài phút để thử???

****************************

Lạy Chúa, trong cuộc sống tốc độ của thế kỷ 21 này, người ta thà nhắm mắt chạy liều về tương lai mà không biết chạy đi đâu, còn hơn mất một vài giây phút để ngồi nhìn lại quãng đường đã qua.  Xin cho con biết dành ra vài phút mỗi ngày làm Phút Hồi Tâm để bước chân ngày mai bớt lầm lạc, để biết tạ ơn Trời, cám ơn tha nhân đã cùng đồng hành với con.  Chúa ơi, xin chữa lành những vết thương, những dang dở thiếu sót của tháng ngày qua, xin nhận lấy những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống chưa trọn vẹn hôm nay.  Hôm nay đã xong, mọi sự đã thành quá khứ, con không thể thay đổi được gì nữa nhưng ngày mai… tương lai… thời gian trước mặt… xin Chúa thánh hoá và giúp con sống trọn vẹn hơn, thánh thiện hơn như Cha trên trời là Đấng Thánh.

Lang Thang Chiều Tím
April 2008

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

NỖI NIỀM SIMON MIỀN KYRENE (có Youtube)

(Mc 15:21-22)

Ông rón rén bước từng bước chân thô kệch lên kinh thành Giêrusalem tráng lệ trong một buổi sáng đẹp trời đầu Xuân.  Trong khuôn mặt chất phát rạm nắng là một cặp mặt ngơ ngác của người miền quê mới lên tỉnh, dáo dác hết nhìn ngang rồi nhìn dọc cảnh phố phường nhộn nhịp, tấp nập người qua kẻ lại trong những bộ cánh nhiều màu sắc.  Còn ông, với bộ quần áo thơm tho mới tinh hằn nhiều nếp gấp, không đủ để che giấu dáng bộ cục mịch vạm vỡ của một người nông dân chân lấm tay bùn khỏe mạnh.  Simon cảm thấy vui vẻ hân hoan như đứa con nít tung tăng trong bộ đồ mới dạo chơi phố phường.  Âm thanh của những người bán hàng rong rao hàng, tiếng chuông lắc, tiếng động vật bị nhốt trong chuồng bị mang bán, tiếng gọi nhau í ới của người mua kẻ bán…. tạo thành một thứ âm thanh hỗn loạn vui tai với ông.  Vậy mới là thành phố chứ!  Khác xa hẳn thôn làng bình yên của ông.  Đường phố Giêrusalem hôm nay tấp nập lạ thường, cũng như ông, thiên hạ đang nhộn nhịp đi mua sắm, đổi chác hàng hóa để chuẩn bị cho ngày đại lễ Vượt Qua ở Do Thái.

Bỗng Simon nghe những tiếng gào thét ở cuối con đường dắt ra ngoại ô Giêrusalem.  Tò mò ông tiến về phía những tiếng hò la đó, rồi len lỏi luồn mình lách vô giữa đám đông, để xem chuyện gì đang xảy ra mà thiên hạ phấn khích la thét rầm vang cả một góc trời đến thế.  Ở giữa hai hàng người hiếu kỳ là một người đàn ông mình mẩy bầm dập đầy thương tích, máu me be bét nhỏ giọt trên con đường đá sỏi, quần áo tả tơi, bê bết dính đầy máu và bùn đất.  Trên khuôn mặt hiền lành là những lằn roi chằng chịt ngang dọc, không còn chỗ trống nào lành lặn nữa.  Đôi mắt bầm đen sưng húp to như hai trái trứng gà như không thể mở ra được.  Đầu ông đội một mão gai thô kệch với những miếng gai dài, nhọn hoắc cắm sâu vào đầu, làm cho máu từ những lỗ gai nhọn đó chảy ri rỉ xuống mặt, xuống cổ, và xuống thân thể người đàn ông tội nghiệp.  Hỏi thăm những người xung quanh, Simon mới biết vì người này tự xưng là vua dân Do Thái, nên ông bị quân lính La Mã chế giễu đội cho một vòng mão gai trên đầu thay cho vương miện Đức Vua.  Trên vai ông ta là một cây gỗ xần xùi, thô ráp được đóng chéo vào nhau thành hình thập tự.  Lưng ông khòm hẳn xuống dưới sức nặng của cây gỗ, bước chân ông loạng choạng ngả về bên phải, rồi đổ về bên trái, kéo lê cây thập tự trên cát thành đường mòn zích zắc.

Tìm hiểu thêm Simon được biết người đàn ông tội nghiệp kia tên Giêsu, người miền Nazaret, có thể là Đấng Messiah hay tiên tri gì đó, bị kết án tử hình, giờ đang phải vác cây thập giá của chính mình lên núi Sọ để bị đóng đinh ở đó.  Simon nghe những người phụ nữ rỉ tai nhau về những phép lạ ông Giêsu làm, mà phép lạ gần nhất là làm cho một người đã chết bốn ngày được sống lại, về huấn chương Nước Trời mà ông Giêsu rao giảng…  Simon nhíu mày bối rối, nếu thế thì có liên hệ gì đến tội chính trị đâu nhỉ?  Có thật ông ta xưng mình là Vua dân Do Thái không, hay bị chụp mũ vì những lý do nào khác?  Có thật ông ta nguy hiểm đến nỗi cần phải khai trừ khỏi xã hội loài người bằng án tử không?  Simon chăm chăm nhìn vào khuôn mặt người tử tù mong tìm ra dấu vết hung ác của một tên cướp, hay một nét tinh khôn sắc sảo của người làm chính trị.  Không, qua những lọn tóc dài be bét trộn lẫn với những giọt máu đóng cục, ông chỉ thấy một khuôn mặt hiền lành cam chịu, không một tiếng khóc, không tiếng rên la hay trách móc.  Cặp môi nứt nẻ sưng mọng đỏ bầm đang bặm vào nhau, như cố ghìm lại tiếng nấc nghẹn ngào trong tim, không cho thoát ra ngoài.

Thỉnh thoảng Giêsu lại ngước cặp mắt lờ đờ ngơ ngác ngước nhìn lên đám đông, như muốn hỏi họ tại sao ông lại bị kết án thế này?  Chẳng ai đủ can đảm hay buồn trả lời người tử tội đáng thương đó.  Đám đông vẫn điên cuồng gào thét xung quanh, ngày càng hăng máu hơn, kẻ hả hê, người đấm ngực than khóc, con nít sợ hãi khóc rú lên quay mặt đi khi nhìn thấy cảnh tàn bạo này.  Những cặp mắt mãn nguyện ẩn trong những khuôn mặt đạo đức, những chòm râu bạc phơ không che nổi nụ cười đắc chí của các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái.  Đó đây túm tụm vài người phụ nữ vây quanh lấy Giêsu mà khóc lóc cho số phận nghiệt ngã của kẻ bại trận.  Trái tim một người dân quê hiền lành chân phác thổn thức trước cảnh người hành hạ người.  Ừ, nếu thật ông Giêsu này có tội thì cứ mang đi tử hình, nhưng hà cớ gì mà phải hành hạ, nhục mạ, phỉ nhổ người ta đến thế!  Ông không hiểu được khi nhìn thấy nét mặt hân hoan, thoả mãn của các các vị bô lão Do Thái, người Pharisêu trước cảnh quân lính ngoại quốc đánh đập dã man người cùng chung một giòng máu với mình như thế.

Bỗng người tử tội đáng thương như không chịu đựng nổi sức nặng của cây thập giá nữa té sấp mặt xuống đất, lăn quay mấy vòng rồi chổng vó lên trời, máu chảy chan hòa, cây thập giá văng ra ngay dưới chân Simon đang đứng.  Ông há hốc miệng kinh ngạc, đôi mắt mở to nhìn Giêsu đang lăn tròn trên con đường đá sỏi.  Những làn roi cá sấu của binh lính La Mã tới tấp vụt xuống lên thân thể Giêsu để giục ông mau mau đứng dậy đi tiếp.  Không ai dám tiến đến, đỡ ông đứng lên.  Người tử tội co rúm người lại trước làn mưa roi lồm cồm bò dậy, nhưng rồi lại loạng choạng khụy xuống lần nữa.

Trong lúc Simon đang đăm đăm hút hồn nhìn thảm cảnh trước mắt, bỗng một bàn tay thô bạo túm lấy cổ áo ông, giọng nói một tên lính La Mã quát bên tai: “Đi, mau ra khiêng cây thập tự phụ nó!”  Theo phản ứng tự nhiên, Simon ghì người, lùi lại một bước lui vào đám đông để chống lại sức kéo của tên lính.  Không, dù có cảm thương cho số phận hẩm hiu của vị ngôn sứ này, nhưng Simon không muốn dính vào chuyện tai bay vạ gió bên đường.  Ông không liên quan gì đến ông Giêsu này cả, ông chỉ là người qua đường.  Ông còn vợ dại và hai đứa con trai bé bỏng ở nhà!  Tên lính dí dí mũi giáo sáng chói vào mặt Simon, trợn mắt gầm lên: “Có đi không, hay muốn chết?”  Nhìn khuôn mặt dữ dằn với binh khí trên tay của tên lính, ông thở dài sợ hãi, biết mình không thể không tuân lệnh.

Simon buông xuôi hai tay lững thững bước ra giữa đám đông.  Tự dưng ông cảm thấy ghét người tử tội đang nằm bất động trong đống máu giữa đường này.  Mới trước đây vài giây Simon còn cảm thấy tội nghiệp cho ông ta, vậy mà bây giờ.  Hừm, vì hắn mà ông bị vạ lây.  Dù bản chất là người nông dân chất phác, nhưng Simon cũng lanh trí để tính đường binh cho mình.  Lỡ rồi, không thoát được cây thập giá này thì thôi, cứ vác cho có vậy, cho đủ bổn phận thôi, đủ để qua mặt đám lính ác ôn này.  Lên tới đỉnh đồi rồi thì lo mà chuồn lẹ.  Nghĩ thế, Simon tiến lại dìu người tử tội đứng lên, rồi ông nâng cây thập tự đặt lên vai Giêsu.  Xong ông nhẹ nhàng bước ra phía sau khiêng phụ khúc đuôi.  Simon để ý tránh né, để cây thập giá sần sùi đen đủi không làm dơ, và rách bộ quần áo mới của mình.

Lẽo đẽo đi theo phía sau nhưng Simon cứ ngó chăm chăm vào người tử tội phía trước.  Ông ta nhìn càng lúc càng kiệt sức hơn, bước chân chậm dần, lảo đảo xiêu vẹo như người say.  Mỗi lần người tù dừng bước để thở, thì những làn roi lại tới tấp tuôn xuống người Giêsu như mưa.  Cũng may mà Simon đứng phía sau, nên ông không bị dính nhiều cây roi lên người.  Dù đã có người phụ khiêng, nhưng chỉ là khiêng khúc đuôi của cây thập tự, phần nhẹ nhất, còn bao nhiêu sức nặng của cây gỗ vẫn đổ dồn về phía trước.  Simon chặc lưỡi, lòng thương xót khi nãy lại quay trở về với trái tim đa cảm của ông.  Ông cảm thấy nghèn nghẹn nơi cuống họng, tim như có ai bóp chặt.

Ông Giêsu này trông thảm thương quá, nhìn không còn giống hình hài con người nữa, da thịt rách nát tả tơi, dính nhầy nhụa lên bộ quần áo, mà giờ chỉ còn là những tua vải quấn quanh người đang phất phơ trong gió.  Là Đấng Messiah mà dân Do Thái trông chờ đây ư?  Simon không biết gì về Đấng Messiah cả, ông cũng chẳng trông chờ Đấng nào đến trong cuộc đời ông.  Nhìn ông Giêsu như thế này, Simon không tin ông ta là Đấng Messiah.  Mà cho dù có là Đấng Messiah đi nữa thì cũng chẳng liên quan gì đến ông.  Thật khó xử!   Simon thở dài cúi đầu suy nghĩ, nên sống theo lý trí khôn ngoan, hay nghe theo tiếng mách bảo của con tim?

Giêsu bỗng quay lại nhìn người phụ khiêng cây thập tự với mình, bốn ánh mắt chạm nhau nghẹn ngào trong hoàn cảnh ngang trái.  Cặp mắt sưng húp bầm đen nhìn Simon như muốn nói lời cám ơn, trong khi Simon ngại ngùng xấu hổ, né tránh tia nhìn dịu dàng đó.  Simon đỏ mặt bối rối:“Mình có làm gì to tát đâu mà ông ta lại cám ơn mình như thế nhỉ?  Ông có biết là mình đã né tránh phần nặng nhất của cây thập tự kia không?”  Simon nghĩ thầm như thế.  Nhưng cái nhìn tha thiết tri ân của người tử tù đáng thương, đã ban thêm sức mạnh cho ông.  Simon biết mình phải nên làm gì lúc này, phải nghe theo tiếng nói của con tim thôi, không thể khôn lỏi như vậy được.  Đang miên man suy nghĩ thì Simon lại bị kéo nhào về phía trước, ông Giêsu té kéo theo cả người bạn đồng hành phía sau, cả hai té chồng lên nhau, rồi cùng lăn quay ra trên những cục sỏi đá vô tình bên đường.  Lần này Simon nhanh chân đứng dậy, ông biết đứng dậy càng sớm, thì càng đỡ những roi đòn của quân lính.  Simon cúi xuống nâng cây thập tự rồi để lên chính đôi vai vạm vỡ của mình, sau khi xốc lại cây thập tự cho ngay ngắn trên vai, ông cúi xuống đưa cánh tay còn lại cho Giêsu dựa vào mình, rồi từ từ dìu Giêsu đứng lên đi tiếp đoạn đường còn lại.

Mặt trời lên cao ánh nắng gay gắt hơn, đường lên đồi Sọ ngắn dần nhưng lại cao dần, đường đi khúc khuỷu gập ghềnh hơn.  Máu ra ngày càng nhiều, sức lực của Giêsu ngày càng yếu đi, hơi thở dồn dập nặng nhọc vì thiếu nước, Giêsu như muốn gục xuống lết đi không nổi nữa.  Khi thấy bước chân người tử tù chậm lại, những làn roi lại tới tấp tuôn xuống rào rào như mưa.  Lần này vì đứng gần với người bạn đồng hành, nên những ngọn roi vô tình không buông tha cho Simon.  Chiếc áo mới của ông bắt đầu rách teng beng, máu me lấm lem, tay chân bẩn thỉu.  Simon liếm môi thấy mặn chát nơi đầu lưỡi, những giọt máu lăn dài trên khuôn mặt sạm nắng.  Simon cắn môi chịu đựng, không than thân trách phận mình tò mò, không tiếc chiếc áo mới tinh, không còn trách người tử tù đáng thương nữa.  Simon cũng chả biết mình đã học được đức tính đó từ người bạn đồng hành khi nào?  Ông im lặng nhẫn nhục chịu đựng như Giêsu.  Simon chỉ cầu xin sao cho lên đến đỉnh đồi càng sớm càng tốt, cho Giêsu đỡ bị hành hạ nhục mạ, và ông cũng đỡ gánh nặng dọc đường.

Rồi cả hai cũng từ từ lếch thếch leo lên đến đỉnh đồi, đám đông vẫn đi theo xung quanh, reo hò la hét ngày càng to hơn, như bị kích động bởi màn kịch đang tới hồi gây cấn nhất.  Simon thả cây thập tự xuống đất, thở phào nhẹ nhõm.  Thế là xong, ông đã hoàn tất phận sự của mình rồi, ông chỉ muốn về cho nhanh, ra khỏi Đồi Sọ đầy mùi tử khí này càng sớm càng tốt.  Ông không muốn nghe thêm những tiếng hò hét khoái chí, tiếng khóc than của những người phụ nữ, cũng chẳng muốn nhìn cảnh người bạn đồng hành của mình bị đóng đinh.  Nhưng lạ thay bước chân của ông lại không nỡ cất bước ra đi.  Chân ông không còn nghe theo sự điều khiển của lý trí nữa rồi.

Simon tần ngần đứng lại, lòng ông xao xuyến bồi hồi cảm thương, dù chỉ một vài phút gặp gỡ ngắn ngủi trong hoàn cảnh bi đát, nhưng đong đầy bao nghĩa tình.  Dù chỉ vài phút bên nhau, dù chẳng biết gì về ông Giêsu đó có thật là Đấng Messiah hay tiên tri nào khác, nhưng con tim mách bảo cho ông biết người tử tù kia vô tội, và hơn nữa không phải là một người bình thường như những người khác.  Ông tin vào cảm nghiệm chân thật của mình.

Nghĩa tử là nghĩa tận, Simon đứng nán lại trên đồi Golgotha chờ cho đến khi Giêsu trút hơi thở cuối cùng, như tiễn đưa người thân trong gia đình.  Ông cúi đầu lặng yên, nước mắt lăn dài lên khuôn mặt sần sùi đầy vết roi oan nghiệt.  Simon không khóc khi bị những nhát roi chí tử vô tình của binh lính La Mã, không khóc khi bị nhục lây với cái nhục của người tử tội mà ông phải vác thập giá dùm, nhưng ông lại khóc cho thân phận người bạn mới quen đã chết trong tức tưởi ô nhục, chết trong sợ hãi cô đơn.

Bóng tối bao trùm cả bầu trời, đất rung đá vỡ, đất trời rung chuyển, ai ai cũng sợ hãi trước cảnh tượng đó.  Đám đông giải tán dần, Simon lững thững thả bộ xuống đồi như người mất hồn, bên tai ông còn văng vẳng tiếng nói của viên đại đội trưởng La Mã: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa!”  Ông thẫn thờ lẩm bẩm:  “Là Con Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa ư?  Mình được vác thập tự phụ với Con Thiên Chúa.”  Rồi ông lại ngạc nhiên lòng hỏi lòng:  “Là Con Thiên Chúa mà cần người nông dân ngu dốt, nghèo hèn như mình giúp đỡ sao?  Là Con Thiên Chúa mà cần một người không biết gì về Thiên Chúa như mình giúp sao?”  Ông lắc đầu không hiểu.  Điều đó dường như quá cao siêu với đầu óc đơn sơ giản dị của ông.

Người tử tội Giêsu chẳng nói riêng với Simon một lời nào, nhưng cái nhìn tri ân trong khuôn mặt máu me cam chịu, bước chân siêu vẹo ngả nghiêng trên cát dưới làn mưa roi, đã từng bước chầm chậm đi vào trái tim ông.  Buổi sáng định mệnh hôm ấy đã để lại một dấu ấn không bao giờ phai nhạt trong đời ông.  Cuộc gặp gỡ đó có là tình cờ không?  Sao không phải là ai khác mà lại chính là ông?  Giêsu miền Nazarét, ông là ai?  Là Đấng Messiah mà dân Do Thái đang trông chờ?  Là Con Thiên Chúa?  Là vị tiên tri?  Là một phàm nhân bình thường?  Hay chỉ là một tên cướp không gặp thời?  Simon bắt đầu lần mò từng bước tìm hiểu về Giêsu thành Nazarét.  Người ấy giờ đây đã trở nên quá gần gũi thân thương với ông.  Cuộc đời Simon giờ đã sang trang.  Ông bỗng thấy trân qúy cuộc sống.  Cảnh sống nghèo nàn ở thôn quê với người vợ dại, hai đứa con thơ, người mẹ già ốm đau rề rề, trước đây là một gánh nặng của ông thì giờ đây lại trở thành mái ấm được chúc phúc.  Là ông đã giúp Giêsu mang cây thập giá hay chính Giêsu đã đến trong cuộc đời ông, giúp ông tìm ra một ý nghĩa mới cho cuộc sống?  Lạ thay với Simon, người tử tội Giêsu đã không chết, nhưng lại bắt đầu bước vào cuộc sống mới của ông, thánh hóa cuộc đời ông.  Simon cúi đầu thầm tạ ơn cho một ngày hồng phúc đã thay đổi đời ông từ đó.

Lang Thang Chiều Tím
Tuần Thánh 2017

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

CHUYỆN THÀNH NA-IN

zzLc 7:11-17

Một buổi sáng khi mặt trời đã vắt vẻo trên đỉnh đồi cao, nắng bình minh chiếu chan hòa xuyên qua những kẽ lá đầu cổng thành Na-in, một thành nhỏ miền Galilê nước Do thái, tiếng chim hót ríu rít chào mừng một ngày mới bắt đầu.  Trời trong veo lững lờ vài đám mây xanh biếc hứa hẹn một ngày đẹp.  Quyện trong tiếng chim hót là tiếng lao xao của một đám đông đang theo chân một cỗ quan tài.  À, một đám tang buồn!  Thật ra có đám tang nào mà không buồn?  Có cuộc tiễn biệt nào mà không nước mắt, đau thương?  Có mất mát nào mà không gây đau lòng cho kẻ còn sót lại?  Nhưng đám tang này lại buồn hơn mọi đám tang khác bởi lẽ người nhắm mắt xuôi tay còn quá trẻ.  Anh chưa làm nên công danh sự nghiệp, chưa có gì để lại cho đời ngoài một bà mẹ goá nghèo xơ xác.  Gia tài duy nhất của mẹ anh cũng chính là anh. Vậy mà anh nỡ lòng ra đi mang theo bao niềm hy vọng cậy trông của người mẹ tuổi đã về chiều.  Người chết xong phận mình nhưng người còn ở lại thì sao?

Đám tang nghèo quá, tiêu điều quá!  Đám tang đi trong thinh lặng buồn tênh: không kèn, không trống, không vành khăn tang, chỉ có tiếng khóc nỉ non của bà mẹ già thay cho tiếng kèn đưa tiễn người đi.  Giọt lệ buồn chảy dài trên đôi má nhăn nheo hốc hác đang khóc thương cho người con bạc phận hay khóc than cho chính thân mình?  Ôi, số phận sao khắc nghiệt thế!  Sao người nằm đó lại là con tôi?  Hai bàn tay khốn khổ xưa đã chôn chồng, nay lại chôn con, đến phiên mẹ ra đi thì bàn tay nào sẽ chôn mẹ?  Con ơi…..!  Tiếng lá vàng khóc lá xanh rơi nghe não nề mủi lòng làm sao!  Hòa theo tiếng kể lể của người mẹ già là những tiếng sụt sùi cảm thông của bà con láng giềng.  Người ta tới để tiễn biệt chàng thanh niên về nơi chín suối, đến để chia sẻ số phận hẩm hiu của người mẹ già góa bụa từ nay bơ vơ không nơi nương tựa ủi an.

Đám tang lặng lẽ u buồn ra đi đến gần cửa thành gặp một đám đông khác đông hơn, ồn ào hơn, náo nhiệt hơn đang ùn ùn kéo vô thành.  Đám đông đang hăm hở theo chân một người mang tên Giêsu, là người nổi tiếng thời bấy giờ, một ngôn sứ đầy uy thế trong lời nói cũng như việc làm trước mặt Thiên Chúa và toàn dân.  Một đám đông buồn gặp đám đông vui!  Đám đông ồn ào vui nhộn dạt ra để dành chỗ cho đám tang đi qua với những cặp mắt tò mò hiếu kỳ.  Đám tang à?  Vài người nhún vai:

–  Có gì lạ đâu!

Đám tang của một thanh niên trẻ ư?  Vài cái chép miệng xót thương:

–  Ừ, đáng thương thiệt, nhưng mà… phận bạc vắn số thì chịu thôi, rồi ai cũng phải chết, không sớm thì muộn!

Để lại một bà mẹ già goá bụa không nơi tựa nương sao?  Thêm đôi ba cái lắc đầu tội nghiệp:

–  Ừ, tội quá, nhưng chắc có lẽ tại tội của bà ta hay tội của cha mẹ bà ta nên bây giờ bà phải lâm cảnh đáng thương như thế!

Những người khiêng xác kẻ chết lặng im tiếp tục cuộc hành trình.  Người mẹ khổ đau không màng gì đến thế giới bên ngoài, không để ý gì đến những lời nói vô tình độc địa bên tai, thân già như cành lá liễu trong gió thu chiều, cứ rũ xuống đất mà không sao đứng thẳng lên được.  Những người làng xóm tốt bụng đi xung quanh xốc vào hai bên nách đỡ cho bà khỏi té quỵ xuống đường và dìu bà kéo lê trên cát đằng sau cỗ quan tài cho đến nơi chôn cất người con thân yêu!

Cảnh đau lòng ai oán đó đập vào mắt vị ngôn sứ, Ngài bàng hoàng đứng sững lại người như chết trân, khuôn mặt đầy xúc động với cặp mắt nhắm nghiền như không dám chứng kiến thêm cảnh mẹ khóc con.  Với đôi môi cắn chặt vào nhau tím ngắt như cố nén tiếng thở dài não ruột đang xiết chặt trái tim tan nát, Ngài loạng choạng tiến lại gần người mẹ khổ đau.  Mọi người tò mò ngạc nhiên không hiểu vì sao vị ngôn sứ lại xúc động đến thế!  Ngài đã nhìn thấy trước cảnh gì rồi chăng?

–  Đứng lại!

Một giọng nói trầm ấm vang lên mang nhiều âm chất ra lịnh.  Cả hai đám đông cùng ngỡ ngàng nhìn nhau không hiểu chuyện gì xảy ra.  Ai đứng lại?  Người chết hay kẻ sống?  Những người khiêng quan tài như bị thôi miên tự động dừng chân.  Bước chân người đàn bà đau khổ cũng khựng lại, bà ngước khuôn mặt dại khờ với hai hàng lệ chưa khô nhìn lên.  Ánh mắt già nua chớp chớp.  Qua làn nước mắt nhạt nhoè bà nhìn thấy khuôn mặt hiền từ nhân hậu mập mờ trước mắt.  Ai thế?  Bà không hề quen biết người này!  Bà lắc đầu đưa tay dụi mắt.  Bạn của con trai bà ư?  Không thể nào.  Bà biết mặt những đứa bạn của con trai dấu yêu.  Một vị kinh sư hay Pharisêu đại diện tôn giáo đến đây để chia buồn với bà ư?  Không đời nào. Có bao giờ họ đoái hoài đến nỗi đau của những người nghèo cùng đinh trong xã hội như mẹ con bà.

Mặt bà ngây ra, ánh mắt ngơ ngác.  Như đoán được tâm trạng của bà, đám đông lao nhao lên với những câu trả lời mà bà nghe tiếng được tiếng mất:

–  Giêsu!  Giêsu Nadarét!  Giêsu con vua Đavít!

À, bà nhớ ra rồi, cách đây không lâu trong dân chúng có đồn về một người mang tên Giêsu, người Nadarét xứ Galilê, Người đã trừ quỷ, chữa lành nhiều bệnh tật, đả phá những lề luật cứng ngắc trong xã hội, rao giảng về Tình Yêu, Nước Thiên Chúa và niềm hạnh phúc vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại khổ đau.  Bà nghe nói ông Giêsu đó có một trái tim nhân hậu, thương yêu trẻ thơ, những người nghèo và đặc biệt là những người bất hạnh cô nhi quả phụ như bà.  Bàn tay ông chạm đến ai là cuộc đời người đó đổi thay!  Ánh mắt ông đi liền với trái tim!  Là ông ta đây sao?  Tuy chưa hề được gặp mặt ông lần nào nhưng bà đã nghe về ông ta rất nhiều.  Bây giờ con người nổi tiếng đó đang đứng trước mặt bà đây, bằng xương bằng thịt.  Nhưng để làm gì cơ chứ?  Con bà đã chết rồi, chết thật rồi!  Bà đang đi chôn nó đây, còn gì nữa đâu để mà xin!  Còn gì nữa đâu để mà chữa lành!

Vị ngôn sứ tiến đến bên bà, ông đưa tay nhè nhẹ lau những giọt lệ trên khuôn mặt gầy guộc đầy những nếp nhăn.  Khuôn mặt Giêsu lộ đầy vẻ xúc cảm thương mến, đôi môi run run mấp máy như muốn thốt nên lời an ủi mà không sao thoát ra thành lời.  Rồi bất chợt Giêsu dang rộng hai cánh tay ôm choàng bà vào lòng bất kể tục lệ khắt khe thời đó không cho phép người đàn ông ôm hôn người đàn bà ngoài đường phố, bất kể quần áo bà tang thương rách nát dơ bẩn, bất kể đến thân phận hèn kém nghèo khó của bà.  Có lẽ Giêsu biết vết thương lòng bà sâu quá không lời nào có thể xoa dịu được.  Bà nhắm mắt lặng im bất động để cho Giêsu ôm mình vào lòng, vỗ về như người cha vỗ về đứa con thơ.  Rồi bà nấc lên thành tiếng, nước mắt trào ra, dòng lệ tưởng đã cạn khô sau khi khóc chồng và sau mấy ngày ngồi bên xác con nay có người khơi dậy, lại ào ào tuôn trào như hai dòng suối.  Bà gục đầu vào vai Giêsu oà khóc, khóc thật to như đứa con nít, khóc như chưa bao giờ được khóc, khóc cho vơi đi những sầu khổ chất chứa trong lòng, khóc như sợ từ nay sẽ không còn ai lau khô giọt nước mắt cho bà nữa.  Hai tay bà vòng ra sau ôm choàng lấy Giêsu chặt cứng như ôm đứa con trai thân yêu vào lòng, như sợ Giêsu sẽ vuột mất khỏi tầm tay bà.  Chưa ai ôm bà như thế bao giờ!  Chưa ai an ủi bà bằng cách này!  Chưa có ai rung cảm với nỗi đau bà đang thấu chịu như ông Giêsu này!  Bà nức nở thì thầm:

–  Giêsu ơi, ông có biết tôi đau khổ lắm không? Ngài có cảm nhận được nỗi đau của tôi không?

 Đáp trả lại lời bà là những tiếng nhịp tim đập thổn thức trong lòng Giêsu mà bà cảm nhận được qua cánh tay hùng mạnh đang xiết chặt lấy bà.   Nhịp tim đó đang hòa chung nhịp với trái tim tan nát của bà, hai con tim cùng chung một nhịp đập!  Ôi, sao mà ngọt ngào quá!  Đây là gì nếu không phải là tình thương?  Ông Giêsu này là ngôn sứ ư?  Nếu đúng thế thì ông ta quả là ngôn sứ của tình thương!

Rồi vẫn giọng nói trầm ấm đó nhẹ nhàng thì thầm bên tai bà những lời an ủi dịu ngọt:

zz–  Thôi, bà đừng khóc nữa! (Lc 7:13b)

Đợi vài phút cho những xúc cảm lắng xuống nơi cung lòng người mẹ đau khổ, Đức Giêsu buông bà ra, chậm rãi tiến về phía quan tài, sờ vào đó và nói:

–  Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! (Lc 7:14a)

Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.  Người mẹ kinh hãi trợn tròn đôi mắt giật lùi ra phía sau mấy bước.  Đám đông hoảng hốt ồn ào láo nháo:

–  Chuyện gì thế, chuyện gì thế? Người chết sống lại ư?  Ôi, Lạy Chúa tôi!

Và họ bắt đầu náo loạn xô đẩy chen lấn về phía trước để coi cho được khuôn mặt người chết, để chính mắt kiểm chứng phép lạ hi hữu trong đời: người chết chuẩn bị đem chôn nay được sống lại.

Đức Giêsu dìu anh thanh niên đứng dậy, gỡ anh ra khỏi những băng vải liệm quấn quanh người, cầm tay anh dắt về phía người mẹ, trao anh lại cho bà và nói:

–  Bà xem, con bà đang sống đây!

Bà ấp úng ngỡ ngàng trước một niềm vui bất ngờ ngoài sức tưởng tượng như thế, miệng bà ú a ú ớ trước món quà quá lớn lao được trao ban lần thứ hai từ tay Thượng Đế.  Tim bà như ngừng đập, lưỡi bà cứng đơ không thốt lên được một lời cám ơn!  Bà có xin đâu mà được nhận lãnh một phép lạ cả thể như thế!  Đúng hơn bà không dám xin, không dám mơ đến khi đối diện với Giêsu vì bà biết con bà chết đã được mấy ngày rồi.  Đó là điều “không thể được” khi xin cho một kẻ chết sống lại.  Trong nỗi đau, bà quên đi rằng đã có lần vị đại ngôn sứ Elia đã kêu xin cùng Thiên Chúa cho con trai một bà goá sống lại.  Đối với Thiên Chúa, không có gì là “không thể” làm được.

Thấy bà góa cứ đứng trân trân như hóa đá, Đức Giêsu dịu dàng cầm lấy tay người thanh niên đặt trong lòng bàn tay sần sùi nhăn nheo của người mẹ.  Ngài xiết chặt hai bàn tay một già một trẻ trong lòng bàn tay mình âu yếm đưa lên môi hôn, mắt Ngài thương mến nhìn hai mẹ con như chúc phúc cho cảnh vui vầy đoàn tụ của gia đình bà.  Hai mẹ con bà goá ôm chầm lấy nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc trào dâng!  Bà thầm thì bên tai con:

–  Quả thật, ông Giêsu này đích thực là Con Thiên Chúa.

 Quay về phía Giêsu và đám đông, bà đứng thẳng người mạnh mẽ tuyên xưng:

–  Vâng, bây giờ tôi biết ông chính là Giêsu, Con Thiên Chúa Hằng Sống, và lời Đức Chúa do miệng ông phán ra là đúng!

Đám đông và những người hàng xóm tốt bụng sau giây phút ban đầu kinh sợ giờ đây họ bu xung quanh hai mẹ con bà goá la hét mừng rỡ trước cảnh đoàn viên, họ nhẩy lên hò reo chúc tụng Thiên Chúa:

–  Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (Lc 7:16).

Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận thời đó.  Họ lại tiếp tục hò la lớn tiếng:

–  Chúc tụng Thiên Chúa của Tình Yêu, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, Đấng đã lau khô những giọt lệ chảy trong bóng đêm. Chúc tụng Thiên Chúa của Tình Yêu, Đấng đã luôn an ủi vỗ về những người đau khổ.  Chúc tụng Thiên Chúa Tình Yêu, Alleluia, Alleluia!

Những lời này về Đức Giêsu sau được loan truyền khắp tứ phương thiên hạ cho loài người được nhận biết chúng ta có một người Cha yêu thương ở trên trời, đó là Thiên Chúa Tình Yêu!  Alleluia, Alleluia!

 Lang Thang Chiều Tím

NỮ TỬ TỘI VÀ VỊ THẨM PHÁN BẤT ĐẮC DĨ

(Ga 8:1-11)

Ngày xửa ngày xưa… tại một đất nước Do thái xa xôi, nơi mà thân phận người phụ nữ bị đối xử rẻ mạt coi khinh, trong một xã hội với bao phong tục tập quán khắc nghiệt.  Trong vô số mớ luật lệ của Moses để lại, có một luật định dành cho những vụ án ngoại tình, người đàn ông và người đàn bà có chồng bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, thì cả hai sẽ bị ném đá cho đến chết (Lv 20:10; Ðnl 22:22).  Và theo sách Đệ Nhị Luật, những ai bắt được quả tang sẽ là người phải ném viên đá đầu tiên khai mào cuộc xử tử kẻ có tội.

Bình minh vừa ló dạng nơi Đền Thờ ở Giêrusalem, người ta thấy một đám đông đang vây quanh một vị kinh sư đến từ Galilee.  Họ đã nghe đồn thổi về tiếng tăm của vị này với bao phép lạ lẫy lừng, và những lời giảng dạy đầy quyền uy.  Vị kinh sư Giêsu ngồi xuống giữa đám đông và bắt đầu giảng dạy về Nước Trời, về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.  Dân chúng đổ xô kéo đến ngày càng đông hơn, họ im lặng chăm chú lắng nghe như muốn nuốt lấy từng lời, từng chữ đầy nghĩa yêu thương của Ngài.

Bỗng một đám đông khác ồn áo náo nhiệt, với những tiếng la hét ầm ĩ từ đâu ùn ùn kéo lại, phá tan bầu không khí thánh thiêng.  Chuyện gì thế?  Họ ngơ ngác nhìn nhau dò hỏi…  À, thì ra đám đông ồn ào đó bắt được quả tang một người phụ nữ đang ngoại tình, những kẻ chiến thắng hớn hở kéo lê nàng trên đất như kéo một chiến lợi phẩm, lăm lăm tiến về phía vị Ngôn sứ Giêsu.  Người thiếu phụ tội nghiệp ghì người lại như muốn dùng chút hơi tàn yếu đuối, chống lại sức mạnh của đám đông đang lôi mình đi sềnh sệch.  Nhưng sức nàng cự sao được với sức mạnh của bao thanh niên trai tráng.  Khi tới trước mặt Giêsu, họ thảy nàng ra lăn long lóc giữa đám đông nhờ Ngài xét xử.  Một vị Pharisêu đứng tuổi với chòm râu dài nghiêm nghị bước ra giữa đám đông, hất hàm cao giọng hỏi:

– “Thưa Thày, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Moses truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.  Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8:4-5).

Họ nói thế chỉ nhằm thử Người thôi, đám đông ai ai cũng biết số phận hẩm hiu của người phụ nữ kia đã được định đoạt rồi.  Chẳng phải đám đông đang háo hức hùa nhau đi xem thi hành án tử, như đi trẩy hội đó sao?  Chẳng phải ai ai cũng đang lăm le trên tay những hòn đá đó ư?  Họ lôi nàng về đây như một con mồi, để câu thêm một con nhạn sa lưới.  Biết đâu một mũi tên lại bắn được hai con chim.  Lại trừ khử được cái gai nhọn dưới con mắt của các vị kinh sư đạo hạnh, và những người Pharisêu đức độ.  Để coi, phen này một người nổi tiếng hay xót thương cho những mảnh đời bất hạnh như ông Giêsu này, có dám lên tiếng bênh vực cho người phụ nữ tội lỗi đó không?  Nếu tha cho nàng thì ông đã chà đạp và chống lại luật lệ của Moses, và họ sẽ dùng nó để tố cáo kẻ phản bội cha ông.  Còn nếu Giêsu đồng ý kết án nàng.  À…, ra thế… thiên hạ phen này sẽ sáng mắt ra để thấy ông ta cũng tầm thường như bao nhiêu người khác mà thôi.  Những lời giáo huấn của ông về lòng nhân từ xót thương chỉ là sáo rỗng, giả hình, và đầy mâu thuẫn.

Vị Ngôn sứ đang rao giảng về Nước Trời, bỗng dưng trở thành vị quan tòa bất đắc dĩ.   Ngài ngao ngán nhìn đám đông xung quanh như dò hỏi vì lý do nào mà mình lại được đặt vào vị trí này, rồi Ngài lại hướng tia nhìn về phía người nữ tử tội!  Trông nàng thật thê thảm, áo quần tang thương rách nát quấn vội quanh người, như chỉ vừa đủ để che những chỗ cần phải che.  Mái tóc dài xoã tung rũ rượi, chân tay, mặt mày lem luốc trầy trụa.  Nàng ngồi co rúm lại như một con chó con, mặt cúi gằm xuống đất, những sợi tóc dài lấm đầy cát, bê bết đầy nước mắt quyện lẫn mồ hôi.  Có lẽ nàng xấu hổ lắm!  Nhìn nàng sợ hãi, và cô đơn trước đám đông hung dữ, như muốn ăn tươi nuốt sống nàng, chẳng ai buồn thắc mắc người đàn ông cùng nàng phạm tội ngoại tình đâu?  Sao không thấy đám đông kéo người đàn ông đó ra đây để cùng xử luôn?  Luật định rằng phải xử tử cả hai mà?  Chẳng lẽ nàng phạm tội ngoại tình một mình sao?

Đám đông phấn khích hò la vang dội, như khán giả trước hai đội không cân sức đang thi đấu đến hồi gây cấn.  Một đội chỉ có một người với khuôn mặt bình thản, hơi thở đều đặn, ánh mắt vẫn không ngừng nhìn chăm chú xót thương người phụ nữ, đang cúi gằm mặt giữa đám đông.  Cũng là phận người mà!  Sao nỡ đày đọa nhau?  Có ai chưa từng bao giờ phạm tội trong kiếp người yếu đuối không?  Xen lẫn trong tiếng hò reo, người ta nghe ra một tiếng thở dài xót xa!  Đối đầu là một đội quân hùng hậu, phất phới những tà áo đen rộng thùng thình của các vị đạo sĩ, với những khuôn mặt dương dương tự đắc đang chờ câu trả lời.  Có vẻ như phen này, họ nắm chắc phần thắng trong tay rồi.

*************************************

Mời các bạn ngắm nhìn trong đám đông những khuôn mặt giận dữ đằng đằng sát khí, với những cặp mắt đỏ ngầu, miệng đang la hét hò reo, tay lăm lăm cầm viên đá đang chờ…., chờ gì?  Đợi gì?  Chờ một viên đá được ném ra khai mạc án tử, đợi một hiệu lệnh nổi lên là những hòn đá lớn bé sẽ được tung ra ào ào…

Tôi là ai trong đám đông đang la hét, reo hò ầm ĩ đó?  Là người đạo đức giữ đúng những luật lệ, luôn ăn ngay ở lành, ghét sự ác nên thấy sự phản bội, tôi muốn kết án?  Là người công chính, chưa bao giờ phạm tội, nên thấy sự tội lỗi xấu xa, tôi muốn diệt trừ?

Tôi là ai khi cùng đám đông gào thét hò la?  Là một người đàn ông từng theo đuổi và muốn chiếm đoạt nàng nhưng không được, nay thấy nàng ngoại tình với người khác, tôi giận dữ căm ghét, không ăn được thì đạp đổ, thương tiếc gì hạng người đàn bà đó?  Là một người phụ nữ từng ghen ghét vì sắc đẹp của nàng, từng hậm hực tức tối khi thấy ong bướm lả lơi quanh nàng, với tôi đây là cơ hội tốt nhất để diệt trừ hạng người đàn bà lẳng lơ như nàng?

Tôi là ai đang trong cơn cuồng nộ giận dữ?  Là một người chồng chung thủy bị phản bội, tôi căm hận người vợ lăng loàn, và muốn nàng phải trả giá cho tội lỗi của mình dù đám con sẽ bị mất mẹ?  Là một người cha gương mẫu, người chủ của một gia đình danh gia vọng tộc, tôi không thể chấp nhận đứa con gái hư hỏng mất nết làm nhục gia phong của gia đình, nó cần phải chết để danh dự gia đình được bảo toàn, sĩ diện của tôi vẫn được coi trọng?

Tôi là ai mà tay lăm lăm hòn đá chỉ chực chờ ném ra?  Là một người vợ hiền đảm đang của một gia đình tan nát chỉ vì những người thứ ba vô đạo đức như ả này, nên bây giờ tôi muốn nàng phải chết một cách đau thương nhục nhã cho hả cơn giận?  Hay tôi cũng giống như chị ta, từng ngoại tình, gian dâm… chỉ khác là chưa ai biết được, nên tôi phải la thật to, hét thật lớn, để đám đông tưởng rằng tôi vô tội, để bạn bè nghĩ tôi cũng ghét phường tội lỗi vô liêm sỉ đó.  Ồ, tôi phải hét lớn hơn nữa chứ nhỉ!

Tôi là ai mà đang hí hửng vui thích với hòn đá trong tay?  Ồ, không!  Tôi chỉ đi theo đám đông thôi, đám đông ném đá thì t314ôi ném đá, đám đông bỏ đá xuống, thì tôi cũng quăng cục đá đi.  Phải chăng tôi là một người không ý thức, chỉ a dua theo người khác, thiếu sự hiểu biết, và không có quan niệm sống đúng đắn.  Vậy tôi có phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình không?  Ồ, không! tôi không biết.  Có lẽ là đám đông phải chịu trách nhiệm, tôi chỉ làm theo thôi mà!

Tôi là ai trong vụ án xử tử hình lưu động này?  Phải chăng chỉ là khách qua đường thấy chuyện hay hay thì đứng lại xem, và khi vở kịch vãn tuồng thì tôi bỏ đi?  Không chút xót thương với người bị kết án, cũng chẳng buồn quan tâm đến vị quan toà bất đắc dĩ Giêsu là ai?  Sẽ xét xử bản án này ra sao?  Ai là đối tượng chính mà các nguyên cáo kinh sư và Pharisêu muốn khử trừ trong vụ án này?

Tôi là ai trong đám đông cuồng điên đó?  Tôi có phải chịu trách nhiệm cho hành động của tôi không?  Xin mời các bạn tự hỏi lòng mình, và tự tìm cho mình câu trả lời.

*************************************

Vị thẩm phán bất đắc dĩ Giêsu nhẹ lắc đầu thở dài lặng im cúi xuống, lấy ngón tay di di viết trên đất những dòng chữ ngoằn ngoèo khó hiểu.  Chẳng ai hiểu Ngài muốn viết gì?  Cũng chẳng ai đọc được những dòng chữ đó.  Và cũng chẳng ai hiểu Ngài đang muốn làm gì hay nói gì với đám đông?  Câu giờ chăng?  Đang ở thế bí không lối thoát chăng?  Các vị kinh sư và Pharisêu bắt đầu sốt ruột.  Một vị bô lão bước ra giữa, bắt đầu tằng hắng và gằn giọng lập lại câu hỏi lần nữa:

–  “Thưa Thày, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Moses truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.  Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8:4-5).

Đức Giêsu từ từ ngước mắt nhìn lên một vòng những khuôn mặt chung quanh.  Từ những khuôn mặt giận dữ mất bình tĩnh của đối phương, đến những khuôn mặt phấn khởi hí hửng chờ đợi màn kịch kết thúc của những kẻ vô tình, xen lẫn là những khuôn mặt căng thẳng lo âu sợ hãi của người thân, và bạn bè tội nhân.  Cả đám đông im phăng phắc nín thở chờ đợi.  Ngài nhắm mắt, nhẹ lắc đầu chán nản.  Họ muốn có một câu trả lời cụ thể.  Tha hay giết, thế thôi!  Bởi tha hay giết, đều là con đường chết của vị quan tòa bất đắc dĩ trong vụ án này.  Hít một hơi dài, Ngài từ tốn cất tiếng nói:

–  “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!” (Ga 8:7).

Cả đám đông bỗng đứng ngây ra như phỗng, lặng im phăng phắc.  Họ không chờ câu trả lời này.  Đó là tha hay giết?  Không rõ ràng!  Không dứt khoát!  Câu trả lời lại không nhắm vào tội nhân đang chờ bản án, mà lại nhắm vào họ, những người đang có quyền kết tội, nhắm vào trái tim chai đá của họ, như muốn khơi dậy lương tâm đã ngủ quên nhiều năm của họ.  Chẳng ai bảo ai tất cả đều cúi xuống đất né tránh cái nhìn của người mà họ đã trót dại đặt vào vị trí thẩm phán.  Chẳng ai có đủ can đảm để cất tiếng hoạnh họe nữa, bởi ai là người dám tự xưng mình là sạch tội?  Vị quan tòa bất đắc dĩ lẳng lặng cúi xuống, và tiếp tục ngón tay nguệch ngoạc trên đất những nét chữ ngoằn ngoèo.

Từng hòn đá, từng hòn đá rơi xuống đất, những bàn tay trước đây nắm chặt cục đá bao nhiêu, giờ từ từ thả lỏng ra, những viên đá vô hồn rơi loảng xoảng xuống nền đất, hết viên này… đến viên khác… tiếng đá chạm vào nhau lách cách… nghe như một khúc nhạc reo vui.  Những bước chân nặng nề, giằng co, lôi kéo trước kia, giờ đây nhẹ nhàng lặng lẽ rút lui… từng bước…, từng bước chân bỏ đi…  Những bước chân chậm chạp, và tiếng gậy lóc cóc của những vị cao niên bỏ đi trước, rồi đến bước đi chầm chậm vững chắc của tuổi trung niên, rồi bước chân thoăn thoắt của đám thanh niên, và sau cùng đến những bước chân chim của những em bé tò mò đi theo đám đông coi xử án cho vui.  Đám đông bỏ đi với những khuôn mặt, và những tâm sự ngổn ngang khác nhau trong tâm hồn mỗi người, kẻ buồn người vui, kẻ khóc người cười.  Họ bỏ đi mang theo những nỗi niềm ăn năn hay những tính toán khác cho bàn cờ sắp tới.  Không ai biết được họ đang suy nghĩ gì!

Trái tim người nữ tử tội bật lên khúc nhạc hoan ca khi bước chân cuối cùng bỏ đi…  Chỉ còn lại một đôi chân trần duy nhất trên nền đất đen sần sùi!  Nàng bò lết lại dưới đôi chân người cuối cùng đó!  Mạng sống nàng lệ thuộc vào người này!  Nàng sẽ được tha bổng hay lại là một bản án khác?  Trái tim nàng đập loạn xạ, căng thẳng chờ đợi.  Nàng luống cuống không biết phải làm gì, nói gì, hay xin gì.  Thời gian như kéo dài ra.  Bỗng một giọng nói trầm bổng cất lên trong không gian, đưa nàng về với thực tại:

“Này chị, họ đâu cả rồi?  Không ai lên án chị sao?” (Ga 8:10).

Với ánh mắt lo sợ hồi hộp người nữ tử tội từ từ nhìn lên.  Bốn mắt chạm nhau, hai tâm hồn khác biệt, một tội lỗi xấu hổ ăn năn, một thánh thiện rộng lượng nhìn nàng tha thứ, như khích lệ trấn an nàng đừng sợ.  Ánh mắt như muốn ôm nàng vào lòng để ủi an, để xoa dịu nỗi đau thể xác cũng như tâm hồn nàng!  Ánh mắt như xót xa cho thân phận con người yếu đuối, dễ sa ngã!  Ôi, ánh mắt nhân từ của vị quan tòa bất đắc dĩ!  Sao không một lời trách móc?  Ngài có quyền đó mà.  Nàng bối rối lắp bắp trả lời:

“Thưa…. ông, thưa….không có ai cả.” (Ga 8:11a).

Rồi nàng lại thổn thức xấu hổ cúi gằm mặt xuống đất.  Nàng không đủ can đảm để tiếp tục nhìn vào ánh mắt của vị thẩm phán nữa.  Không, đúng hơn là vị Ngôn sứ được dân chúng kính trọng.  Nàng không biết gì nhiều về con người ông Giêsu này.  Nàng nhớ loáng thoáng xóm giềng nói ông ta là một người nhân từ, chữa lành nhiều người, hay ăn uống chung với những người thu thuế, không hề kết án những người tội lỗi.  Nhưng có thể đó là tại ông chưa gặp trường hợp một người bị bắt quả tang phạm tội tày trời như nàng.  Nàng biết tội mình, chỉ vì một phút yếu lòng nhẹ dạ, bởi một lòng tin đặt không đúng chỗ, tại một tình yêu hoang tưởng ngây ngô nghe theo những lời đường mật, bởi chạy theo những phù phiếm xa hoa của thế gian.  Nàng không dám biện hộ, cũng chẳng dám xin ơn tha thứ, hay lòng cảm thông.  Nhưng lòng nàng khao khát nóng bỏng, muốn xin ơn tha thứ dù biết mình chẳng xứng đáng.  Nàng muốn có một cơ hội để làm lại cuộc đời, để chuộc lại lỗi lầm đã qua, liệu có quá muộn màng hay không?  Lòng thì đã mở ra, nhưng làm sao để có thể mở miệng xin ơn tha thứ được?  Khó quá Chúa ơi!

Người nữ tử tội ngại ngùng sợ hãi cúi mặt xuống đất thầm thì: “Giêsu ơi!  Con không xứng đáng với ánh mắt bao dung đó, con không đáng để được hưởng ơn tha thứ, nhưng… nhưng…. con rất cần sự thứ tha… để trở về với gia đình, trở về với chính con, trở về với cuộc đời mà con đã trót lỡ đánh mất!”

“Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11b).

Một phút bàng hoàng ngỡ ngàng, lời xin tha thứ vẫn chưa thoát ra khỏi cửa miệng mà!  Rồi niềm vui vỡ oà, nàng bật lên khóc nức nở, gục mặt xuống trên đôi chân vị thẩm phán đã cứu mạng mình!

Nước mắt xối xả tuôn rơi trên bàn chân vị ân nhân, len lỏi qua những ngón chân trần, chảy xuống trên nền đất.  Vui quá sao tôi lại khóc?  Nàng khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc.  Những giọt nước mắt bị cầm nín bấy lâu vì sợ hãi xấu hổ, vì lo lắng cho cái chết oan nghiệt của chính mình, vì sợ không có cơ hội gặp lại những người thân yêu giờ có dịp tuôn trào.  Nàng vội vàng lấy mái tóc lòa xòa lau đi những giọt nước mắt trên đôi chân trần ấy.  Giọt nước mắt của sám hối ăn năn, giọt nước mắt xót xa cho quá khứ tội lỗi, giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi khi được cứu sống.  Qua màn lệ nhòe nhoẹt, nàng thấp thoáng thấy cuộc đời mới đang mở ra trước mắt.  Vâng, lạy Thầy Chí Thánh Giêsu, con sẽ nhất quyết làm lại cuộc đời, sẽ từ bỏ cuộc đời tội lỗi để trở về với gia đình, về với đường ngay nẻo chánh.  Con không biết người ta gọi Ngài là ai, nhưng riêng con qua cuộc gặp gỡ này, con gọi Ngài là Thiên Chúa nhân từ, Thiên Chúa của lòng tha thứ xót thương, Thiên Chúa của Tình Yêu.

Vị thẩm phán nhân từ chậm rãi đứng lên cởi áo khoác ngoài của mình ra, Ngài nhẹ nhàng cúi mình xuống choàng lên tấm thân rách nát đang run lẩy bẩy, như choàng lên người nàng một tấm áo nhân phẩm mới.  Rồi Ngài dìu nàng đứng lên, nàng vịn vào đôi bàn tay đó, như một điểm tựa vững chắc để lấy thêm sức mạnh, rồi loạng choạng đứng lên, chới với như trong mơ với những gì xảy ra quá nhanh, ngoài sức tưởng tượng của nàng.   Đức Giêsu đưa tay nhẹ lau những giọt máu đang rỉ ra từ những vết trầy xước trên đôi tay gầy guộc.  Không nghe thấy tiếng trách móc, không tiếng hạch hỏi tại sao, cũng không một lời kết án!  Nàng lắc đầu, hoa mắt, đôi tai ù lên, lờ mờ nửa tin nửa ngờ.  Vị Ngôn sứ đưa tay vén những lọn tóc nhớp nhúa dính đầy cát, và nước mắt trên khuôn mặt xanh lè của nàng, như người cha vỗ về an ủi đứa con thơ trong cơn sợ hãi.  Ngài dìu nàng đi về hướng thôn xóm và ôn tồn lập lại:

–  “Con về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11b).

Dòng nước mắt lại xối xả lăn xuống như mưa, người nữ tử tội trẻ lại nức nở quỳ sụp xuống hôn lên đôi chân của vị ân nhân lần cuối như thay cho lời tạ ơn.  Bỗng nàng đưa tay bụm lấy miệng chặn tiếng nấc thoát ra từ đáy lòng, rồi chạy ù về phía cuối chân trời, không một lời giã biệt.  Nàng không đủ can đảm để nói lời xin lỗi, càng không đủ sức để nói hai chữ cám ơn.  Ngôn từ không đủ để diễn tả hết tâm tình tạ ơn, và lòng xấu hổ ăn năn vì tội lỗi nhơ nhuốc của nàng.  Nhưng nàng biết, vị ân nhân Giêsu nhìn xuyên thấu tâm hồn nàng.  Nàng chỉ biết tạ ơn trời đất đã cho nàng cơ hội sống sót để chuộc lại lỗi lầm của mình.  Cám ơn tấm lòng quảng đại đầy yêu thương của vị thẩm phán bất đắc dĩ Giêsu đã cho con một cơ hội để làm lại cuộc đời mình.  Cám ơn Đức Chúa Cha đã gởi Người Con Dấu Yêu xuống thế gian này để làm ấm lại tình người.  Cám ơn những người anh em đã không kết án con.  Cám ơn những bàn tay đã buông bỏ những viên đá vô tri xuống.  Xin cám ơn tất cả!  Con xin ghi khắc trong tim câu dặn dò đầy yêu thương của Chúa Giêsu Kitô:

“Con hãy về đi và đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11b).

– Vâng con sẽ về trong bình yên và sẽ cố gắng không bao giờ vấp phạm nữa!

Lang Thang Chiều Tím
Mùa Chay Năm Thánh Lòng Thương Xót 2016

BÍCH-VÂN-THIÊN (có Youtube)

“Bích-Vân-Thiên” là một trong những tiểu thuyết của nữ văn sĩ Quỳnh Dao.  Chuyện kể về mối tình tay ba giữa hai người phụ nữ Bích, Vân và một người chồng chung tên Thiên.  Vì người vợ không thể sinh con nối dõi tông đường cho chồng, nên nàng đành chấp nhận người em kết nghĩa như người vợ lẽ cho chồng.  Dù là tự nguyện, nhưng những ích kỷ ghen tương của kiếp nhân sinh đã khiến họ nhận ra rằng, cả ba không thể cùng hạnh phúc chung dưới một mái nhà.  Một người chấp nhận ra đi để hai người ở lại hạnh phúc hơn.

Những tưởng chuyện tình thơ mộng sầu muộn chỉ có trong tiểu thuyết, qua sự tưởng tượng phong phú của nhà văn.  Nhưng đâu ai biết rằng cuộc sống muôn màu sắc cũng đang dệt nên một chuyện tình tay ba đẹp lãng mạn như một bài thơ, trắc trở với những cảnh đời éo le, với phần kết vẫn còn dang dở.   “Bích-Vân-Thiên” của đời thực là một chuyện tình tay ba giữa Thu Bích, người con gái vô tư hồn nhiên, duyên dáng như viên ngọc xanh biếc giữa đời, và một Đình Vân thư sinh trắng trẻo nho nhã với cặp kiếng cận, như một áng mây lững lờ quyện lấy viên ngọc bích trong trời thu.  Hiện diện giữa họ là một Thiên Chúa vô hình lúc ẩn, lúc hiện, lúc hiền hòa yêu thương, lúc thinh thặng đến lạnh lùng.

Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình sùng tín đạo Phật có lòng thờ kính ông bà tổ tiên, Vân đến với Bích khi chẳng biết Thiên Chúa là ai.  Đúng rồi, Thiên là Trời, là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, dạy cho con người những điều hay lẽ phải.  Thiên Chúa của Đạo Công Giáo cũng là Ông Trời thân thiện gần gũi của dân tộc Việt Nam đấy mà, người quen cả chứ có phải ai xa lạ đâu.  Nhưng ngược với sự suy nghĩ đơn giản của Vân, người con gái mà anh đem lòng yêu mến ở đảo, trước biến cố 30 tháng Tư năm 1975 là một đệ tử đã từng được nuôi dưỡng bởi câu kinh ê a mỗi sáng chiều trong nhà dòng các Sơ.  Nàng mong muốn vợ chồng sẽ cùng chia sẻ và đồng hành bên nhau trong đời sống tự nhiên cũng như trong đời sống thiêng liêng.

Bản chất vốn dĩ hiền lành và chân thật, mang trong tâm hồn phần nào vẻ đẹp của Đấng Chân Thiện Mỹ, Vân tự ý tìm hiểu Thiên Chúa của Bích là ai.  Khởi đầu Vân cảm thấy khó hiểu, chuyện một Thiên Chúa từ bỏ vương quyền cao sang để sinh ra làm người trong máng cỏ nghèo nàn, rồi lại lang thang bồng bế nhau đi tị nạn xứ người.  Cũng là kiếp tị nạn cả thôi, nghe sao đồng cảm quá, giống như cảnh đời của Vân-Bích đang vất vưởng ở đảo chờ ngày định cư.  Lạ thay, càng tìm hiểu anh lại càng thấy mến thương một Thiên Chúa với tình yêu bao la dành cho con người hay phản bội chóng quên, một Thiên Chúa mặc lấy xác phàm để rồi cuối cùng bị chết thảm thương nhục nhã trên cây thập giá.

Sau những tháng ngày học hỏi tìm hiểu về Đạo Thiên Chúa, năm 1984 Vân cúi đầu nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội trong nỗi ưu phiền của người cha già ở phương xa, mà sau này khi đại gia đình được đoàn tụ, ông thường hay trách cứ: “Anh con theo Đạo để lấy vợ thì ba không buồn, nhưng con theo Đạo thì ba rất buồn vì con quá sùng tín.  Con là một đứa con bất hiếu, bỏ ông bà cha mẹ mà theo Đạo vợ.”  Trái tim Vân tan nát, anh chỉ biết cúi đầu im lặng mỗi khi nghe lời phiền trách của người cha yêu dấu.  Cha Vân đâu ngờ rằng đứa con trai này chịu phép rửa tội bằng con tim thổn thức của tuổi trẻ đi tìm chân lý, bằng nỗi khát khao nhiệt tình của người vừa tìm ra được lẽ sống đời mình, chứ không phải rửa tội chỉ để lấy vợ, như người đời thường nói: “Con quỳ lạy Chúa trên cao, con lấy được vợ con thôi nhà thờ.”

Từ đó Thiên Chúa luôn luôn hiện diện giữa Bích-Vân trong mọi biến cố buồn vui, thăng trầm của cuộc sống.  Cuộc tình nhẹ nhàng êm đềm như một bài thơ qua dòng thời gian lững lờ trôi.  Mối tình tay ba “Bích-Vân-Thiên” được triển nở khi Bích-Vân chính thức nên một trong Thiên Chúa qua bí tích Hôn Phối vào tháng 12 năm 1985.  Hạnh phúc gia đình thêm viên mãn với sự góp mặt của hai thiên thần nhỏ, một trai một gái.  Hơn 30 năm trôi dạt xứ người, phồn hoa phú quý nơi xứ sở giàu có văn minh chỉ làm Vân tăng thêm lời tạ ơn.  Đức tin của Vân ngày càng lớn dần theo thời gian cùng với tình yêu anh dành cho cả hai, Thiên Chúa và Bích.   Không chỉ giữ riêng đức tin cho mình, với tình yêu mãnh liệt mà anh cảm nhận được từ Thiên Chúa, anh mạnh dạn chia sẻ đức tin đó cho người cha và anh em trong gia đình mình.  Gương sống và hạt giống đức tin đã sinh hoa kết trái nơi người em gái mà lần này với sự đồng thuận của người cha: “Con đã quyết định theo Đạo Công Giáo thì theo cho đến nơi đến chốn.” Người anh kế và cậu em trai cũng một lòng tin kính Chúa mặc dầu chưa chính thức vào Đạo, nhưng bản thân họ đã tự nhận mình là Kitô hữu.  Vân không chỉ ngừng lại nơi đây, anh tích cực chia sẻ đức tin đó cho những người nghèo khó bệnh tật, cho những người già yếu trong viện dưỡng lão, cho ban Giáo Lý Dự Tòng, ban Tĩnh Tâm Linh Thao, phong trào Cursillo, cho các sinh hoạt mục vụ khác của giáo xứ, và là cánh chim đầu đàn cho phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Thung Lũng Hoa Vàng.  Với cây đàn guitar, với giọng hát sôi nổi trầm ấm, với những lời nguyện chân thành bộc phát từ trái tim cháy bỏng, đức tin mạnh mẽ của anh đã sưởi ấm bao cõi lòng băng giá vì vắng bóng niềm tin.  Trong bất cứ sinh hoạt mục vụ nào, Bích-Vân cùng sát cánh, chia sẻ và hỗ trợ cho nhau như hai người bạn thiêng liêng tâm đầu ý hợp.

Ấp ủ trong tim lời mời gọi thầm thì nhưng tha thiết yêu thương của Thiên Chúa, Bích-Vân mơ ước dành trọn cuộc đời còn lại để ra đi phục vụ tha nhân.  Nhưng cuộc đời không như là mơ, dẫu giấc mơ đó thật là cao quý!  Làm chứng cho đức tin của mình bằng cuộc sống tông đồ nhiệt thành hình như chưa đủ.  Thiên Chúa muốn đức tin của Bích-Vân và gia đình phải được thử thách tôi luyện, chứng nhân của Ngài phải đổ máu trong một bi kịch oan nghiệt trớ trêu.  Trong một buổi sáng định mệnh ngày 3 tháng 3 năm 2011, khi bệnh tình trở nặng vì những ảnh hưởng nguy hại của các thuốc an thần, anh cần phải được khẩn cấp nhập viện.  Tổng đài 911 đã nhận được thông báo để cấp cứu…  Xe cứu thương và xe cảnh sát đã tới.  Nhưng than ôi, trong khoảnh khắc tích tắc, một viên đạn oan nghiệt từ một người cảnh sát không quen biết, không thù oán đã kết thúc cuộc đời anh.  Anh ra đi đột ngột không hiểu tại sao mình lại bị giết ngay trong chính ngôi nhà của mình, nơi vừa được một vị linh mục làm phép nhà cách đó ba hôm, nơi mà hai vợ chồng mơ ước sẽ làm nhà tĩnh tâm, là nơi hội họp cầu nguyện cho anh chị em… Cuối cùng anh đã trở về bên Giêsu, Đấng mà anh được rước vào lòng mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể.  Anh đã vĩnh viễn trở về với Đấng Tạo Hóa, Đấng Chân Thiện Mỹ, Đấng mà suốt cả cuộc đời anh khát khao tìm kiếm, và cũng chính vì Ngài mà anh mang tội bất hiếu.

Từ khi bị bịnh, anh đã chuẩn bị sẵn sàng để ra đi, cho dù là cách nào, vào bất cứ lúc nào.  Nhưng thực tế cái chết tức tưởi oan ức của anh đã gây đau khổ, khó chấp nhận cho những người thân còn ở lại.  Đức tin của người vợ, hai con đang chập chững bước vào đời, hai bên cha mẹ già, anh em đạo cũ, đạo mới, chưa theo đạo bị thử thách dữ dội.  Trong giây phút mà sự dữ lên ngôi, thần chết tưởng như chiến thắng, cái ác cười ngạo nghễ trên sự thiện, người ta khó lòng mà giải thích được tại sao một người đạo đức, sống tốt lành thánh thiện như anh lại có một cái kết thúc bi thảm như vậy.  Người đời sẽ chẳng bao giờ giải thích được, trừ phi họ nhìn lên cây thập giá, nơi Chúa Giêsu Kitô chịu chết treo ô nhục trên đồi Canvê.  Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh bi ai trùm kín một màu tang tóc buồn bã, không phải là đích đến của những Kitô hữu.  Đàng sau ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Chúa Nhật Phục Sinh chiến thắng khải hoàn.  Nhưng trong cơn sầu khổ tuyệt vọng, lệ nhòa mi mắt thì bóng dáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh xa vời mờ nhạt quá.

Giữa những tiếng xì xầm của thế gian, tiếng cười đắc chí đắc thắng của thần dữ, người thiếu phụ gục xuống trước nỗi mất mát quá tang thương này.  Chị rút vào thanh vắng một thời gian dài, xa lánh phần lớn bạn bè người thân quen.  Chị tránh những ánh mắt thương hại tội nghiệp, né những câu hỏi han tò mò, ngại ngùng khi phải nghe những lời an ủi nhiệt tình nhưng vô duyên lạc điệu:  “Thôi đừng khóc, đừng buồn nữa, hãy chấp nhận thánh giá Chúa gởi đến, như thế Chúa và anh mới vui.”  Không, Bích không muốn che dấu nỗi buồn vô tận của mình.  Bích càng bối rối hơn khi nghe người ta đổ tội cho Thiên Chúa.  Vô lý quá, làm sao mà một “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”  (Ga 3,16), lại có thể gởi những sự dữ đến cho con cái của mình được.  Sự dữ đâu đến từ Thiên Chúa!  Ngài tôn trọng sự tự do chọn lựa của người cảnh sát vô cảm kia, cũng như Ngài đã từng tôn trọng sự tự do lựa chọn của Bích-Vân vậy.

Trong bóng tối cô đơn trước cây thánh giá, với cõi lòng tan nát, Bích muốn để những tiếng rên xiết quằn quại trong cõi lòng của mình được tự do òa vỡ.  Chị kiệt sức gục đầu lên vai Chúa để mặc cho dòng nước mắt thỏa sức tuôn rơi.  Chúa không bảo chị thôi đừng khóc, bớt buồn, mà chị lờ mờ thấy Chúa lau nước mắt cho mình, cùng buồn, cùng khóc với mình.  Chị để mặc cho Chúa vuốt ve, an ủi trái tim đang gào thét lên nỗi thương nhớ.  Chúa xót xa băng bó vết thương tâm hồn bê bết máu, xoa dịu nỗi buồn gặm nhấm tâm can.  Trong cõi một mình vắng lặng, Bích cố gắng tìm lại Lời Chúa, Ý Chúa, và hình ảnh Thiên Chúa ngày xưa của mình đang ở đâu trong biến cố này.  Bích cũng đang tập làm quen dần với cảnh đời mất chồng nơi xứ lạ.

Hơn hai năm sau, khi cơn đau vẫn chưa nguôi trong trái tim mới chớm lành của người goá phụ, Bích lại tiếp tục nhận được thất bại khác.  Chị đã thua trong vụ kiện người cảnh sát bắn chồng chị.  Bích kiện không phải vì tiền, vì chẳng có đồng tiền nào có thể đánh đổi được sinh mạng của anh.  Chị kiện để chân lý được sáng tỏ, để tránh cho người dân thấp cổ bé miệng sau này khỏi lâm vào hoàn cảnh oan ức như anh.  Kiện để những người cầm súng đại diện cho pháp luật ở một xứ sở tự do phải ý thức hơn về những gì họ đã làm, đang làm và sẽ làm.  Nhưng thương thay, tiếng nói yếu ớt của một sắc dân tị nạn thiểu số, tại một nơi mà đa phần là da trắng, tiếng bào chữa của một văn phòng luật sư bé nhỏ, làm sao có thể thắng được với một tập đoàn luật sư hùng hậu của thành phố, của quận hạt.  Chân lý một lần nữa lại đứng về phía kẻ mạnh.  Thần dữ lại một lần nữa vỗ tay cười hả hê, khoái trá chờ ngày người vợ và hai con đang tuổi nổi loạn từ bỏ đức tin, trút cơn giận lên Thiên Chúa chẳng chút nhân từ.  Chuyện tình ba người “Bích-Vân-Thiên” chắc rằng sẽ tan rã từ đây….

Dù không còn cảm giác với tình yêu ngọt ngào của Thiên Chúa, nhưng Bích cũng ráng đến nhà thờ mỗi ngày theo thói quen, đến nhóm cầu nguyện hàng tuần dù không cảm nhận được gì.  Sự thinh lặng của Ngài trong những giây phút cầu nguyện, trong các khóa tĩnh tâm dài ngày càng làm cho chị thêm khó hiểu.  Mỗi lần nhìn lên cây thánh giá, Bích không bao giờ dám hỏi Chúa tại sao những sự dữ lại xảy đến với gia đình mình.  Người Con Một của Ngài cũng có tội tình gì đâu sao phải chết treo trên thập giá?  Nhìn vào quan tòa xét xử Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, nhìn vào đôi tay Người Con Một Thiên Chúa đang bị trói chặt lại trước những tiếng la hét đòi xử tử, như chân lý và tình yêu bị trói buộc trước sự dữ, chị không muốn tiếp tục vụ kiện nữa.  Chúa Giêsu có thắng đâu trước quan tòa ngày hôm ấy!  Ngài đã thua thảm bại trước một tên tướng cướp giết người khét tiếng, đã thất bại chua cay trước những vị kinh sư Pharisêu đại diện cho tôn giáo của dân tộc mình.  Cũng như viên đạn bắn anh không phải xuất phát từ một tên cướp, mà là từ một nòng súng của người thi hành pháp luật dành cho một người dân vô tội.  Cay đắng quá!  Trò mà làm sao hơn được thầy!  Chén đắng đã hai lần nhấp thử, chị phần nào cảm nhận được nỗi thống khổ tột cùng của Chúa Giêsu trong vườn Gethsemane.  Cũng như Giêsu ngày xưa, Bích xuôi tay chấp nhận mình thua để khép lại vụ kiện, chị không muốn kháng án lên toà trên, không muốn vết thương lòng lại bị khơi ra khuấy động lên, chị muốn sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn, thấm thía mầu nhiệm thập giá… Từng ngày, từng ngày, trong tâm hồn chị vẫn vang lên lời nguyện xin tha thiết: “Chúa ơi, xin cứu con!  Chúa cho phép sự việc xảy ra như thế này thì sinh ích gì cho con?  Con xin tạ ơn Chúa mặc dù giờ này con chưa hiểu, nhưng con tin vào Ý Muốn Tốt Lành của Chúa vì Chúa đã nói mọi đau khổ đều sinh ích cho những ai yêu mến Chúa.”

Qua những tháng ngày đau khổ đến tê dại không còn cảm giác, qua những lúc ngã lên gục xuống, thầm khóc đến không còn nước mắt, qua những cay đắng khi nhận được tin thất bại của vụ kiện, người goá phụ từ từ cảm nhận được những nâng đỡ ủi an kín đáo của Người Cha Nhân Từ đang ẩn mặt đâu đó trong lúc này.   Gia đình, bạn bè, cộng đoàn Đức Tin, các Bí tích, Lời Chúa, Thánh Vịnh, và những bài Thánh Ca đong đầy yêu thương là những điểm tựa nương của Bích trong lúc sầu khổ lao đao: “Lạy Chúa, khi con nói: “Này chân con lảo đảo”, tình thương Ngài đã đỡ nâng con” (TV 94, 18), “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành” (TV 147, 3), “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta… Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53:4-5).  Bích không trách Thiên Chúa đã cất anh về sớm, trong cõi lòng sâu thẳm chị chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chị một người chồng tốt lành, một người cha gương mẫu cho các con, một người bạn thiêng liêng thánh thiện đã cùng đồng hành với chị trong suốt hai mươi lăm năm hôn phối, mà anh chị vừa long trọng lập lại lời thề hứa ba tháng trước ngày anh đi về cõi vĩnh hằng.  Bích tạ ơn cho những gì đã có, chứ không trách móc về những gì đã mất.  Chị biết, anh vui khi được ở bên chị và anh cũng hạnh phúc khi được xum vầy cùng Thiên Chúa, Đấng mà anh hằng khát khao được bvtdiện kiến.  Chị tin rằng hình ảnh của chị và hai con luôn ở trong tim anh, và anh sẽ tiếp tục cầu khẩn cùng Thiên Chúa cho ba mẹ con.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, thế mà đã năm năm trôi qua kể từ ngày Vân về với Thiên Chúa.  Trên bia mộ đá nơi anh an nghỉ, có hình của cả ba “Bích-Vân-Thiên”, với một bên còn trống để dành chỗ cho Bích, với lời ca Hallelujah của ngày Chúa Nhật Phục Sinh khải hoàn trong vinh quang.  Thiên Chúa chưa bao giờ vắng bóng trong cuộc tình của Bích-Vân.  Trong những tháng năm đầu, trên mộ Vân không lúc nào thiếu vắng hoa tươi do Bích mang lại.  Bạn bè kẻ khen người chê trước hành động lãng mạn không thiết thực đó, lãng phí cả thời gian và tiền bạc.  Nhưng Bích có cần gì đâu, chị làm theo tiếng nói con tim.  Sự chết không chia rẽ được tình yêu của anh chị.  Mỗi lần viếng nghĩa trang nơi anh an nghỉ, chị cảm nhận được tình yêu ba người “Bích-Vân-Thiên” quyện lẫn vào nhau trong gió, trong mây để chỉ còn là một.  Chẳng còn thế giới vô hình hay hữu hình nữa, cũng chẳng còn ranh giới sự sống hay sự chết.  Bích đến không để khóc than, chị đến để trái tim chị được sưởi ấm, đến để cảm nhận tình yêu chung thủy của ba người được thăng hoa.  Bó hoa tươi trên mộ anh là ngôn ngữ tình yêu nói thay cho con tim chị.  Anh yêu nhạc, chị thích hoa, cả hai cùng say mê vẻ đẹp chân thiện mỹ, Bích-Vân đang cùng hát lên bản Tình Ca Tạ Ơn bên Thiên Chúa – Hallelujah!

Năm năm với biết bao ân sủng tuôn đổ từ trời cao đủ để làm sống dậy tin yêu hy vọng trong Bích.  Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự mất mát và thất bại đã làm tươi mới lại con người Bích, chị trở lại với con người hồn nhiên yêu đời như những ngày trước có anh đi bên cạnh.  Nụ cười rạng rỡ lại trở về trên khuôn mặt nhân hậu duyên dáng của chị.  Không những thế, chị được mời gọi để làm chứng cho những mảnh đời bất hạnh, những tâm tư giận hờn Thiên Chúa vì những khổ đau bịnh tật, hay những mất mát chia lìa đớn đau, những con chiên tự tách mình ra khỏi đàn vì mải mê oán than…. Chị đến để mang câu trả lời cho những câu hỏi không lối đáp, tại sao Thiên Chúa lại để sự này xảy đến với tôi, với gia đình tôi?  Tại sao Ngài không nhận lời?  Tại sao Ngài không ngăn cản sự dữ xảy ra?  Tại sao Ngài không cất đi căn bịnh hiểm nghèo cho tôi, cho người thân của tôi?  Tại sao và tại sao?  Chị đến không để nói, để thuyết phục hay hùng biện, chị chỉ nhẹ nhàng kể về câu chuyện tình của đời chị… và Thiên Chúa sẽ làm việc với những tâm hồn tan nát đó.

Tác phẩm “Bích-Vân-Thiên” của nữ văn sĩ Quỳnh Dao được khép lại khi trang sách cuối cùng được lật qua.  Trong đầu người đọc chỉ còn lưu lại thoang thoáng vài nét về một cốt chuyện hay, một tình yêu lai láng sầu muộn chỉ có trên tiểu thuyết.  Còn “Bích-Vân-Thiên” trong đời thường, không chỉ là tên của ba người trong một cuộc tình ghép lại, mà còn là tựa đề của cuốn sách mang niềm hy vọng – cuốn sách chứng nhân đức tin – đang được tiếp tục lật từng trang mỗi ngày.  Ba nhân vật chính “Bích-Vân-Thiên” vẫn luôn nắm tay cùng đồng hành với nhau.  Đình Vân đã đi xong quãng đường của mình.  Chặng đường của Thu Bích vẫn còn dài đăng đẳng trước mắt nhưng Bích không đi lẻ loi một mình.  “Vân-Thiên” vẫn luôn cùng đồng hành với Bích và chờ ngày đoàn tụ để đóng lại cuốn sách chứng nhân đức tin “Bích-Vân-Thiên”.

Nguyện xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành cho thiên tình sử tay ba “Bích-Vân-Thiên” được đẹp mãi đến trang sách cuối cùng.  Mong rằng trong ngày sau hết cả ba sẽ được tái ngộ để cùng nhau kết hợp nên một mối tình tuy ba nhưng chỉ là một.

Lang Thang Chiều Tím
Kỷ niệm năm năm ngày giỗ anh Phêrô Lê Đình Vân, 03/03/2011 – 03/03/2016

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

ĐÊM HUYỀN NHIỆM

(Lc 2:1-20)

Đêm nay thành phố Bê-lem nhộn nhịp khác thường.  Đèn đuốc bập bùng sáng rực một góc trời, tiếng người huyên náo gọi nhau í ới, tiếng trẻ khóc, tiếng bước chân dồn dập vội vã đi tìm nhà trọ, tiếng rao bán hàng rong náo động cả một góc trời, không khí giống như ngày trẩy hội vậy.  Mà đúng là ngày hội thật.  “Hoàng đế Augustus ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.  Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinius làm tổng trấn xứ Syria” (Lc 2:1-2).

Phía bên kia đồi ngoài thành Bê-lem, đêm nay chỉ là một đêm bình thường như bao đêm khác.  Đám mục đồng mồ côi tụ lại với nhau sau một ngày chăn chiên vất vả.  Chúng nằm lăn trên bãi cỏ trò chuyện, rồi chia ra đứa ngủ đứa thức để luân phiên canh gác đàn chiên.  Thằng bé ngồi canh cho đám bạn đang say ngủ.  Nó nghe ngóng những âm thanh ồn ào náo nhiệt từ thành phố bên kia vọng sang, mà cảm thấy tủi cho phận mình.  Trong khi “ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi” (Lc 2:3), còn Nó thì lặng lẽ ngồi đây.  Không nguyên quán, không quê nội, quê ngoại, không tên tuổi, không cha mẹ anh em, thế là chẳng cần đi đâu để khai báo.  Không có tên trong sổ kê khai dân số, không phạm luật nhưng sống ngoài vòng pháp luật, có sống cũng như chết, như chưa từng có mặt trên đời này.  Đó là số phận của Nó và bạn bè Nó, “những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật” (Lc 2:8).

Thằng bé ngủ gà ngủ gật.  Nó nhắm mắt mơ về một mái ấm gia đình.  Nó hình dung cảnh Nó đi tung tăng bên cha, tay nắm dây con lừa, mẹ bế em đi bên cạnh.  Gia đình Nó đang bồng bế nhau hướng về thành phố Bê-lem để kê khai tên tuổi.  Đang mơ màng, bỗng một luồng ánh sáng rực chói lòa từ trời cao xẹt xuống vụt qua tầm mắt.  Bầu trời mở ra như hai cánh màn sân khấu được vén lên.  Nó choàng tỉnh mở mắt nhưng vội nhắm lại vì chói quá!  Tiếng nhạc ở đâu bỗng trỗi lên réo rắt du dương.  Nó hoảng sợ ngồi bật dậy, tay lay lay mấy đứa bạn đang ngủ:

ZZ–  Dậy, dậy mà xem!

Trước mặt tụi nó, hai vị thiên sứ sừng sững trong không trung giữa một vầng hào quang chói sáng rực rỡ.  Thiên sứ mỉm cười thân thiện như trấn an.  Tụi nó ngồi bật dậy, kinh hãi lùi lại run rẩy nép sát vào nhau, như muốn tìm thêm sức mạnh trước quang cảnh vĩ đại lạ lùng này.  Vị sứ thần đứng bên phải bỗng cất cao giọng lảnh lót: “Anh em đừng sợ.  Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân:  Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa.  Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người:  anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:10-12).  Vị thiên sứ vừa dứt lời, hàng vạn thiên thần bé xíu xinh xinh hiện ra đủ màu sắc, vỗ đôi cánh chập chờn lượn bay chung quanh hai vị thiên sứ.  Những đôi môi đỏ hồng chúm chím mấp máy mở ra, trong không gian vút lên lời ca thánh thót:  “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).   Lời ca bay vút lên cao như xuyên thủng chín tầng mây, cho triều thần thiên quốc trên trời cùng nghe.  Rồi lời ca lại lao xuống đồng cỏ, vang vọng trải dài đến tận chân trời góc biển.  Quyện trong lời ca cao vút là tiếng nhạc đệm du dương réo rắt, lúc trầm lúc bổng được hoà âm bởi muôn ngàn loại nhạc cụ khác nhau.  Các thiên thần chụm đầu lại với nhau thành một làn sóng nhấp nhô, rồi đong đưa qua lại theo tiếng nhạc trông thật đẹp và lạ mắt.

Thời gian như ngừng trôi, không gian như lắng đọng, rồi giọng ca từ từ nhỏ dần, những đôi cánh thiên thần đưa lên cao vẫy qua vẫy lại như muốn chào tạm biệt.  Hình ảnh các thiên thần mờ dần trong làn sương mỏng, rồi từ từ khuất lần sau đám mây.  Giọng hát, tiếng đàn nhỏ dần… nhỏ dần…, nhè nhẹ im ắng… rồi từ từ im bặt, trả không gian trở về với thinh lặng như trước.  Mặt trăng và các vì sao lại từ từ rõ nét trên bầu trời trong veo như không có chuyện gì xảy ra.

Đám mục đồng vẫn ngồi im như trời trồng, miệng há hốc chưa hết kinh ngạc, mắt hướng về cuối chân trời xa, nơi các thiên thần biến đi mà lòng ngẩn ngơ luyến tiếc.  Rồi đứa này đến đứa kia ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu chuyện quan trọng gì vừa xảy ra.  Nó ngạc nhiên lẩm nhẩm, “tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân,” một tin như thế mà lại không báo cho Hoàng Đế, cho các vị quan quyền trong cung, hay các vị chức sắc học giả trong Đền thờ, mà lại đi báo cho tụi nó, một đám người chăn chiên ngu dốt nghèo nàn biết?  Nó loáng thoáng nhớ lại bài giảng của các vị rabbi, rằng dân tộc nó đang mong chờ một Đấng Thiên Sai đến, qua lời hứa của Thiên Chúa với cha ông thời xưa.  Phải chăng lời hứa bắt đầu ứng nghiệm, và Đấng đó đang đến với dân tộc nó?  Mà chẳng lẽ Đấng đó lại là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”  Một đứa trẻ nghèo hèn cùng thân phận giống nó sao?  Lạ thật!

Phải làm gì bây giờ nhỉ?  Tụi nó thảo luận sôi nổi và cuối cùng bảo nhau:  “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15b).  Nó sắp đặt một đứa ở lại trông coi đàn chiên, còn tất cả hối hả đi qua bên kia đồi, vào thành phố Bê-lem là thành vua Đa-vít để xem thực hư ra sao.  Tụi nó vừa đi vừa bàn tán xôn xao về biến cố mới xảy ra, cứ như là mơ, một giấc mơ tuyệt đẹp trong kiếp nghèo lầm than.  Đứa thì nói thích đôi cánh thiên thần, đứa khác thì mê mẩn tiếng nhạc, và lời hát du dương.  Còn Nó thì thích hết khung cảnh thần tiên đó.  Đẹp biết bao so với cuộc sống cơ cực nghèo hèn của Nó trong hiện tại!  Bỗng bước chân tụi nó khựng lại khi nghe tiếng khóc oe oe giống tiếng khóc của một đứa trẻ sơ sinh.  Cả đám dừng theo, và vểnh tai nghe ngóng.  Đúng rồi, là tiếng khóc của trẻ thơ.  Nhưng tại sao lại ở ngoài đồng không mông quạnh thế này?  Chưa vô trong thành mà?  Tụi nó lần mò đi về hướng có tiếng khóc.

Thấp thoáng dưới ngọn lửa leo lét của cái chuồng bò bỏ hoang, một thiếu phụ dáng vẻ xanh xao mệt mỏi, đang nằm thiêm thiếp bên cạnh máng ăn cỏ của bò.  Bên trong máng cỏ, một trẻ sơ sinh bé tí xíu, người đỏ hon hỏn, da nhăn nheo được bọc trong lớp tã, hai chân đạp lung tung, tay quơ quơ, mắt nhắm mắt mở, miệng khóc oe oe như đòi bú.  Người đàn ông, có vẻ như là người cha, đang lui cui bên đống rơm thổi lửa cho ấm em bé, và người vợ mới sinh.

Người thiếu phụ ngửng mặt nhìn lên, ngạc nhiên khi nhìn thấy một đoàn khách lôi thôi lếch thếch trong bộ đồ chăn chiên hôi hám nhưng mặt mày sáng rực rạng rỡ chói lòa.  Không cần được mời, tụi nó tự nhiên xà xuống bên cạnh máng cỏ, tò mò nhìn vào bên trong và reo lên:

–  A, đây rồi tụi bay ơi!  Đúng là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ,” đúng y chang như lời sứ thần báo với tụi mình.

Thế là đứa vuốt má, đứa nựng cằm, đứa xoa tóc em bé.  Có đứa mạnh dạn cúi xuống hôn cái chụt lên đôi bàn chân bé bỏng.  Thấy con khóc quá, người thiếu phụ ngồi dậy, bế em lên lòng và ngạc nhiên hỏi thăm tụi nó tìm ai?  Thế là tụi nó tranh nhau kể lại biến cố kỳ diệu vừa xảy ra, những điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.  “Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.  Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:18-19).  Bà tin vào những điều tụi nó kể và cũng tin là tụi nó không dám thêm bớt, hay cắt xén chữ nào.

Nó ngồi nhìn em bé khóc oe oe trên tay người thiếu phụ trẻ, mà thèm được nâng niu bồng ẵm em bé.  Nó chưa bao giờ được bế em bé mới sinh cả, chẳng ai dám đưa đứa con nhỏ xíu của mình cho một đứa trẻ dơ dáy hôi hám như nó bồng.  Nó nuốt nước miếng rồi lấy hết can đảm xin được bồng em bé!  Chẳng chút ngại ngần, người mẹ trẻ giao con cho Nó bế!  Nó hồi hộp run run đưa đôi tay dơ bẩn chưa kịp rửa ra, để đón lấy món quà thiêng liêng.  Ôm Đấng Cứu Độ vào lòng mà người Nó trào dâng một niềm hạnh phúc khôn tả.  Sao đứa bé này giống… người thường quá đi!  Chẳng có gì ra dáng con vua chúa cả, mà chẳng có gì là giống Đức Chúa, hay Đấng Kitô gì… gì… đó, những từ ngữ to lớn mà các thiên thần vừa nói với Nó.  Nó có cảm giác như đang bế đứa em ruột thịt của mình vậy.  Không có khoảng cách nào giữa Nó, và đứa bé mới sinh này cả.  Từ cái tã quấn, tuy sạch sẽ nhưng cũng vá víu chằng chịt, giống chiếc áo nó đang mặc trên người.  Cái mùi cỏ khô, quyện với mùi phân bò trên người em bé, đâu có khác gì mùi cỏ non lẫn với mùi chiên bò trên người nó.  Cùng hôi như nhau, cùng nghèo giống nhau.  Nó lắc đầu không hiểu!

Nhưng Nó suy đi nghĩ lại thì thấy sứ thần cũng có lý!  Đấng Cứu Độ có sinh ra trong máng cỏ, giữa trời cao đất rộng như vậy, thì tụi nói mới tìm đến được.  Chứ nếu Đấng ấy sinh ra trong cái nhà trọ ZZto nhất, đẹp nhất ở Belem, thì làm sao mà tụi nó tìm được?  Rồi nếu cái nhà trọ to thật to đó lại có người đứng gác cửa, thì chắc gì người ta chịu mở cửa cho đám chăn chiên nghèo hèn hôi hám vào thăm?  Nếu Ngài được sinh ra từ một gia đình giàu có, người hầu kẻ hạ tấp nập xung quanh, thì ai mà dám cho đôi bàn tay dơ dáy của Nó rờ vào em bé?  Nó từ từ hiểu ra!  Ừ nhỉ, và Nó bắt đầu tin!

Người cha của baby thân thiện mở ra những gói lương thực khô mang theo đi đường, và mời đám nhóc ăn.  Chẳng đứa nào làm khách cả, tụi nó ùa vào ăn uống tự nhiên như đã quen biết nhau từ lâu lắm rồi.  Tiếng nhai ngồm ngoàm, tiếng cười nói râm ran, quyện với tiếng khóc oe oe của em bé, hoà chung với tiếng hát ngây ngô của một vài đứa lập lại lời ca của các thiên thần, tạo nên một khung cảnh ấm áp giữa bầu trời đầy sao.  Tiếng nổ lách tách của những que củi trong đám lửa chập chờn, sưởi ấm cõi lòng hiu quạnh của Nó.  Nó nhắm mắt tận hưởng một bầu không khí ấm áp hạnh phúc của một gia đình có cha mẹ, có anh em.  Cả một hố sâu tự ti mặc cảm, những khao khát mơ ước về một mái gia đình của đứa trẻ mồ côi, bỗng dưng được lấp đầy.  Đêm nay sao quá kỳ diệu!  Quả là một đêm huyền nhiệm!  Nó không biết đêm nay quan trọng như thế nào với dân tộc Nó, nhưng Nó biết đêm nay đã biến đổi cuộc đời Nó, đêm mà Nó được vinh dự là vị khách đầu tiên được bồng ẵm Đấng Cứu Thế, như ôm ấp đứa em ruột bé bỏng trên tay, đêm mà trái tim khô cằn của Nó rung lên vì cảm thấy yêu và được yêu.  Đêm nay, Nó cảm tưởng như thân phận thấp hèn của Nó được nâng lên hàng thần thánh, là đêm mà Nó trở thành một trong những khán giả hiếm hoi của dàn đồng ca thiên quốc, là một nhân chứng sống động về sự giáng sinh lịch sử của Đấng Cứu Thế.  Ôi, đêm huyền nhiệm!

Bình minh từ từ ló dạng nơi cuối chân đồi.  Đã đến giờ chia tay rồi, tụi nó phải trở về với công việc hàng ngày của kẻ chăn chiên thuê.  Nhìn đứa trẻ ngủ vùi trong vòng tay, Nó nhẹ nhàng và trân trọng đặt lên má em một nụ hôn yêu thương, rồi thầm thì vào tai em những ước nguyện đơn sơ:  “Ước gì con được ôm Ngài trên tay mãi mãi, ước gì lời ca tiếng hát của các thiên thần sẽ ở với con mỗi ngày, cho đến khi con được nghe lại khúc nhạc hoan ca đó trên thiên quốc.”  Nó lưu luyến giao em lại cho người mẹ, với lời cám ơn tấm lòng quảng đại của bà đã chia sẻ đứa con mới sinh cho Nó bế, cám ơn người cha hiền lành tốt bụng đã niềm nở đón tiếp, và thết đãi tụi nó một bữa tối no say.  “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vưa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20).

Một ngày mới bắt đầu và cuộc đời Nó đã sang trang.  Đôi tai diễm phúc của Nó làm sao quên được khúc nhạc huyền diệu của trời xanh, đôi bàn tay thô kệch hôi hám được bồng ẵm Đấng Cứu Thế, mắt phàm được nhìn thấy Ngài, được chiêm ngưỡng các thiên thần ca hát bay bổng chúc tụng Thiên Chúa, mũi Nó được ngửi mùi thơm da thịt non nớt của Ngài, và đôi môi Nó đã được hôn lên đôi má bụ bẫm đáng yêu ấy.  Tâm hồn Nó cảm nhận một niềm hạnh phúc hoan lạc vô biên, vì đã nếm trước được hương vị ngọt ngào của Thiên đàng, nơi mà Nó tin tưởng sẽ đến khi cuộc đời gian truân khổ ải này qua đi.  Nó không còn oán ghét, trách móc số phận hẩm hiu này nữa, mà coi đó như là một lời chúc phúc, một cơ duyên để Nó có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu đêm nay.  Giấc mơ của Nó đã trở thành sự thật ngay ở dương thế này rồi!  Những giây phút nhiệm mầu thánh thiêng của đêm huyền nhiệm này sẽ mãi mãi không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Nó.  Nó nhắm mắt ngây ngất, bước chân đi theo đám bạn mà hồn Nó bay bổng giữa chín tầng mây!  Văng vẳng đâu đây còn vọng lên tiếng hát của các thiên thần “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). 

Lang Thang Chiều Tím
Giáng Sinh 2012

CAFÉ MỘT MÌNH

Sáng nay café một mình, Sài gòn chợt mưa chợt mưa
Nhớ Cha bao nhiêu cho vừa, Cha ơi…. Cha ơi…!

Tôi lẩm nhẩm hát một mình bên ly café buổi sáng và thích thú với lời nhạc chế biến của mình, tự dưng lòng dâng lên một niềm vui thánh thoát bình an.  À mà trong lúc cầu nguyện có được uống café không nhỉ?  Chắc chắn là không rồi!  Ai lại bất kính đến thế!  Cầu nguyện theo nghĩa thông thường hình như phải là nghiêm trang, hai tay chắp lại, khuôn mặt đăm chiêu suy tư, mắt nhắm nghiền tư lự, miệng lẩm nhẩm thì thầm câu kinh gì đó…  Thôi, nếu vậy thì trong lúc uống café có được cầu nguyện không?  Dĩ nhiên là được rồi, tốt quá đi chứ!  Tôi tự hỏi và thích chí với câu trả lời của mình.  Vậy thì mời Cha đến ngồi cạZZnh con, bên xích đu đong đưa sau nhà, cùng nhâm nhi ly café buổi sáng và cùng ngắm những nụ hoa xuân trong vườn.

Chẳng phải làSài gòn chợt mưa chợt mưa,” mà là Cali buổi sáng mùa xuân với làn gió ban mai tinh khiết mát rượi mơn man bờ má.  Ngắm nhìn ly café sữa đá với những giọt nước long lanh đọng ngoài thành ly, con cảm nhận sự hiện diện nhẹ nhàng của Cha bên con.  Hai cha con mình cùng thinh lặng!  Cha vốn dĩ ít nói rồi, còn con cũng chẳng muốn nói gì thêm, chẳng muốn xin gì!  À, không phải con “chảnh” đến mức độ không có gì để xin đâu nhé!  Con lúc nào cũng có sẵn một “sớ táo quân” dài lướt thướt bên mình.  Nhưng giây phút thiêng liêng này dịu dàng và ngọt ngào quá, xin xỏ làm gì để phá hỏng không khí lãng mạn này, phải không Cha?  Có Cha là có tất cả rồi, xin gì hơn nữa bây giờ?  Cha có nghe không tiếng nước róc rách rất nhỏ từ một cái suối bé xíu mà phải im lặng lắm mới nghe được.  Những chú chim bay lạng qua lạng lại bên những nụ hoa đầy màu sắc trong vườn, như tôn trọng không khí cô tịch nên lịch sự cất tiếng hót rất khẽ mà phải lắng tai lắm mới nghe được.  Còn tiếng nhịp đập của trái tim con và trái tim Cha nữa chứ, Cha có nghe thấy không?  Ồ, còn nhiều thứ để nghe quá.  Thôi hãy thinh lặng cùng lắng nghe, Cha nhé!  Con không phàn nàn là Cha ít nói nữa đâu!

Sáng nay mây thấp trên đầu, từng giọt cà phê ngọt đắng
Biết Cha nơi đâu bây giờ, Cha ơi….. Cha ơi…..

Vừa nhâm nhi vài giọt café ngọt lịm ở đầu môi con vừa lẩm nhẩm theo câu hát.  Sao điệu nhạc thì buồn tan tác mà lòng con lại ngập tràn hạnh phúc?  Ai đã làm cho con vui bên ly café một mình?  Sao cùng là “Café Một Mình” mà hai tâm sự khác nhau quá Cha nhỉ?  Tại con bên ly café sữa đá và tác giả Ngọc Lễ bên ly café đen chăng?  Tại café, tại khung trời, tại lòng người hay tại cái gì khác nữa?  Con vui vì bất ngờ trong cõi một mình con lại gặp được Cha, tìm về một mình con bắt gặp nhiều ngạc nhiên thú vị.   Ngắm nhìn ly café con thấy Cha như “từng giọt café ngọt đắng” huyền bí, muôn màu sắc, nhiều hương vị!  Đâu phải lúc nào Cha cũng ngọt ngào mát lạnh như ly café sữa đá làm dịu lòng người.  Đâu phải lúc nào con cũng cảm nghiệm được sự hiện diện của Cha bên mình như sáng nay.  Có những lúc Cha như café đen không đường đắng ngắt, đầy vị chát.  Uống vào thì đắng, mà không uống thì lờ đờ không sức sống.  Không ai chối bỏ hương thơm vị ngọt của café đen, nhưng cũng không ai phủ nhận chất đắng của café nơi đầu lưỡi.  Nếu “từng giọt café ngọt đắng” mang đến sự tỉnh táo cho một ngày mới, thì những giây phút huyền nhiệm bên Cha mang đến cho đời sống tâm linh con một sức sống dồi dào phong phú.

“Từng giọt café ngọt đắng” trong chiếc phin pha café, không chảy ào ào xuống, mà là từng giọt…. từng giọt… lách tách rơi xuống ly, như những cay đắng nghiệt ngã của cuộc đời đến từ từ… chầm chậm….. từng biến cố, để không thánh giá nào quá sức chịu đựng của con người.  Sự hiện diện của Cha trong cuộc sống chẳng phải qua một phép lạ kinh thiên động địa, rung chuyển núi non, mà là một sự hiện diện nhẹ nhàng ẩn khuất, từng ngày…. từng phút…. trong từng ngọn gió hiu hiu… qua từng biến cố lớn nhỏ… qua từng giọt café tí tách… để thấm dần… thấm nhẹ vào lòng người.  Trong cõi một mình cô tịch, con thấy giọt café đen lạ lùng, nhiều ý nghĩa…

Sáng nay nghe mưa quanh mình, trời chợt lạnh như mùa Đông
Những cơn mưa rơi ơ hờ, rớt trên cuộc tình mong manh…..

Sáng nay quanh mình không tiếng mưa rơi, thế vào đó là tiếng nước róc rách ru hồn con trong vòng tay Cha.  Tiếng nước thánh thót nhẹ nhàng, quyện với tiếng nhạc da diết cho con cảm giác phận người mong manh dễ vỡ.  Làm sao để giữ lại những giây phút có Cha bên mình?  Làm sao để xác tín rằng con không một mình bên ly café cuộc đời?

“Sáng nay café một mình…”  À, có “Café Một Mình” thì mới gặp được Cha, chứ nếu café với “nhiều mình,” ồn ào huyên náo thì đã không có được cảm giác có Cha ngồi bên để cùng nhâm nhi ly café.  Có dành ra tí chút thì giờ để “Café Một Mình” trước khi đi làm thì mới bắt gặp được Cha, cũng đang dạo quanh tìm những “một mình” khác để quyện lại với nhau vẫn chỉ là một mình, nhưng không phải là một mình của cô đơn buồn bã, lo âu sợ hãi, nhưng là một mình của bình an hoan lạc, tin tưởng và cậy trông.  Chẳng phải lúc nào cũng dễ dàng bắt gặp được Cha bên ly café cuộc đời, nhưng có “Café Một Mình” thì dễ bắt gặp Cha hơn.  Chỉ có vậy thôi, “Sáng nay café một mình,” chẳng có gì đặc biệt cả, ly café vẫn như mọi ngày với đầy đủ hương vị ngọt đắng của nó, nhưng tâm tình của “một mình” hôm nay khác hẳn.

Cha ơi…. Cha ơi…!  Cám ơn Cha đã hào phóng cho con những giây phút không một mình bên ly café.  Xin cho con được ghiền Cha như ghiền café buổi sáng.  Xin cho con nhiều hơn những phút giây “Café Một Mình” bên Cha.

Lang Thang Chiều Tím
July 2012

 

 

LỜI TỎ TÌNH

Thế là họ chia tay nhau sau vài năm ngắn ngủi bước vào đời sống vợ chồng.  Gặp lại anh khi vừa mới li dị, tôi không nhận ra người xếp trẻ, đẹp trai, giỏi giang, và hoạt bát của mấy năm về trước.  Khuôn mặt anh già nhiều so với thời gian, cặp mắt chất chứa vẻ u buồn chán nản, và phảng phất nét bất cần đời của kẻ bị thất bại trên tình trường.  Cuộc ly dị chớp nhoáng của đôi vợ chồng son chưa kịp có con đã để lại nơi anh nhiều dấu ấn, nhiều điều lưu luyến chưa kịp nói ra, những giấc mơ đẹp đang dệt dở dang…  Mất nhà, mất tài sản… không đau bằng mất người vợ mà anh như vẫn còn nhiều vấn vương thương nhớ.  Địa vị vẫn còn đó, tài năng vẫn ở lại với anh, nhưng anh như hụt hẫng, xa lạ với cuộc sống, thiếu tự tin, và thiếu vắng một cái gì đó bên đời.  Vợ anh, một cô gái trẻ đẹp mắt xanh tóc vàng, như đa số các cặp vợ chồng người Mỹ khác, đã chia tay anh trong vui vẻ hòa bình.  Cô ta coi anh như bạn, nhưng anh thì lại tránh không muốn gặp mặt cố nhân.  Anh buồn nhưng không hận, chán đời ZZnhưng chưa chán “người,” giận “người” bỏ đi nhưng cũng giận mình ở lại, trách “người” cũng có, và không phải không có những điều để tự trách mình.

Trong khi trách ai “tham vàng bỏ nghĩa,” anh nhìn lại mình và xót xa nhận ra những thiếu sót trong đời sống hôn nhân.  Có một điều mà anh nuối tiếc nhất, trách mình nhiều nhất, và nếu có cơ hội để làm lại, anh sẽ làm tốt hơn.  Đó là anh sẽ bày tỏ tình yêu của người chồng với vợ qua những lời tỏ tình đơn giản trong cuộc sống trước khi quá muộn màng.  Ba chữ “anh yêu em,” hay “I love you” đơn giản vậy thôi, nhưng với anh sao mà khó nói quá, cho dù anh qua Mỹ từ lúc nhỏ, cho dù người anh chất Mỹ nhiều hơn Việt, cho dù anh cưới cô vợ Mỹ, cho dù anh đã nói lời tỏ tình nhiều lần trước khi cưới, cho dù…. thế này, thế kia… Thực tế phũ phàng là anh đã “quên” không nói lời tỏ tình từ sau khi người ta chịu qùy xuống bái lạy cha mẹ anh.

Đôi lúc anh tự biện hộ cho mình rằng, vợ anh phải “tự động” hiểu tình yêu anh dành cho vợ được biểu hiện qua nhiều cách khác nhau.  Những hành động cụ thể như cho vợ xài tiền thoải mái, nhường xe mới cho vợ chạy, đưa vợ đi nghỉ hè mỗi năm, v.v… và v.v… như thế chưa đủ nói lên tình yêu hay sao?  Tự biện hộ cho mình nhưng anh cũng tự phủ định tất cả những lý do anh đưa ra.  Nếu anh không thành thật với chính mình để rút ra bài học, anh sợ sẽ tiếp tục thất bại thêm lần nữa.  Anh không yêu một người điếc, và anh cũng chẳng phải là người câm, vậy cái gì đã ngăn cản anh không nói lên lời của con tim?  Đổ lỗi cho văn hóa Việt Nam ư?  Anh lấy Mỹ và đang ở Mỹ mà!  Anh chua chát nhận ra rằng, dù Mỹ hay Việt, Tình Yêu cần phải được nói ra bằng lời – nếu là yêu; cần phải lập đi lập lại nhiều lần – nếu còn yêu; cần phải nuôi dưỡng nó – nếu muốn nó sống sót; cần phải làm mới lại tình yêu mỗi ngày – nếu muốn nó phát triển.  Bài học cay đắng tuy trễ nhưng chưa quá muộn màng với anh.  Cuộc đời anh còn dài, hy vọng anh sẽ tránh được vết xe đổ trong đời sống hôn nhân sau này.  Tôi cầu chúc anh sớm tìm được tình yêu mới, với những thiếu sót trong hôn nhân đổ vỡ đã qua, anh sẽ biết khôn ngoan hơn để gìn giữ hạnh phúc dài lâu trong vòng tay.

******************************

Câu chuyện tình buồn với phần kết thúc không có hậu của người bạn, giúp tôi hiểu hơn về giá trị “Lời Tỏ Tình” trong đời sống hôn nhân ngày nay.  Cuộc sống lứa đôi bây giờ đã khác nhiều so với những thế hệ trước.  Hôn nhân không phải là đoạn kết của một cuộc tình, càng không phải là lúc kéo màn kết thúc những “Lời Tỏ Tình” lãng mạn hôm qua.  Hôn nhân là cánh cửa mở ra một chân trời mới.  Tình yêu lứa đôi giờ đây đã đi vào chiều kích sâu đậm hơn, chữ tình bị thử thách nhiều hơn, chữ nghĩa ngày càng chồng chất.  Những từ ngữ xa lạ như bổn phận, trách nhiệm từ đâu ập đến khiến cả hai nhìn nhau bỡ ngỡ.  Vậy mà ở nơi “chiến trường” khốc liệt đó, anh đã quên không nói lên tiếng nói của con tim, để “đối phương” ngỡ ngàng không hiểu sao họ lại bị ràng buộc bên nhau để cùng “chiến đấu?”  Tôi tự hỏi, nếu anh không quên nói lời tỏ tình mỗi ngày, nhất là trong những lúc sóng gió cuộc đời, thì hôn nhân của họ ZZcó đổ vỡ hay không?  Không chắc cho một câu trả lời, nhưng chắc hẳn anh sẽ không có gì để luyến tiếc ân hận, vì đã không nói lên tiếng nói của con tim tràn đầy yêu thương với người bạn đời.

“Lời Tỏ Tình” trong đời sống hôn nhân có giá trị là thế, vậy trong đời sống thiêng liêng “Lời Tỏ Tình” có cần thiết không?  Một Thiên Chúa thấu biết mọi sự, “biết cả khi con đứng con ngồi, con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa…” (TV 139) có cần đến “Lời Tỏ Tình” của tôi không?  Một Thiên Chúa mà khi “miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết,” có dư thừa không nếu tôi cứ phải nói tiếng yêu với Ngài mỗi ngày?  Ngược lại, tôi có nhất thiết phải được nghe “Lời Tỏ Tình” của Chúa với tôi không dù tôi đã thuộc nằm lòng câu “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một…?”  Chúa ơi, con biết rồi tình yêu của Chúa dành cho con, và Chúa cũng đã quá rõ tình yêu của con với Ngài, vậy mình có cần trao đổi “Lời Tỏ Tình” với nhau không?

“Lời Tỏ Tình” của tôi chẳng mang thêm vinh quang gì cho Chúa.  Không có “Lời Tỏ Tình” của tôi, Ngài vẫn trung thành với lời giao ước.  Tình yêu của Ngài chẳng bao giờ đổi thay.  Không cần tôi nói lời yêu, Ngài đã yêu, đang yêu và sẽ yêu cho đến cùng.  Chưa kịp nghe chữ yêu, Ngài đã gục đầu xuống tắt thở.  “Lời Tỏ Tình” của tôi với Thiên Chúa Tình Yêu là cho tôi chứ chẳng phải cho Ngài.  “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa” được lập đi lập lại nhiều lần sẽ nuôi dưỡng tình yêu của tôi lớn lên từng ngày.  Nó giúp tôi ý thức hơn về tình yêu của mình dành cho Chúa, là động lực khích lệ tôi cố gắng sống xứng đáng hơn với tình yêu mà tôi vừa thổ lộ.  Lời Tỏ Tình đó không chỉ giúp tôi cảm nhận được sự hiện diện gần gũi của người mà tôi đang nói lời yêu thương, mà còn giúp tôi chống trả với những cám dỗ trong cuộc sống.  Tình yêu của Chúa dành cho tôi không thể nhiều hơn, hay mặn nồng hơn khi nghe tôi nói Lời Tỏ Tình, vì tình yêu của Ngài đã là tận cùng, tột cùng, và “đến cùng” rồi (Ga 13:1b).  Nhưng chắc chắn tình yêu của tôi như được tưới thêm nước, có thêm ánh sáng, đất tốt để đơm bông kết trái.  Thiên Chúa có thể “tự động” hiểu tình yêu của tôi dành cho Ngài.  Nhưng tình yêu của tôi với Chúa không thể “tự động” lớn lên, nếu không được chăm bón từng ngày từng phút.  Trên Biển Hồ Ti-bê-ri-a ngày xưa, Chúa đã nghe rồi câu trả lời của Phêrô: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy,” vậy mà Chúa cứ hỏi đi hỏi lại đến ba lần cùng một câu hỏi “Con có yêu mến Thầy không?”  Phải chăng Chúa cũng vui và hạnh phúc khi được nghe tiếng tình yêu đáp trả tình yêu, nên Ngài muốn nghe, nghe nữa, nghe hoài những điệp khúc đó?  Phải chăng Ngài cũng từng mòn mỏi mong đợi đến ngày mà “ngươi sẽ gọi Ta: “Mình ơi”, chứ không còn gọi “Ông chủ ơi” nữa” (Hs 2, 18)?

Vâng, tôi cũng biết rất rõ là “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian (trong đó có tôi) đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho trần thế…,” nhưng đó là câu của thánh Gioan viết lại từ 2000 năm về trước trong cuốn Kinh Thánh dày cộm, chứ đâu phải lời tỏ tình trực tiếp của Chúa với tôi?  Tình Yêu đâu có chuyện nghe tỏ tình gián tiếp qua người này người nọ?  Tình yêu nghe trực tiếp còn chưa có đất sống, chứ đừng nói đến chuyện nghe qua người này người kia.  Tôi tin là Chúa yêu tôi đến nỗi chết cho tôi được sống.  Nhưng con tim của tôi cần phải được cảm nhận tình yêu đó.  Đôi tai tôi cần được nghe trực tiếp Lời Tỏ Tình của chính Chúa nói với tôi, chứ không phải qua thánh Gioan, hay qua bài giảng hùng hồn của một vị linh mục, hoặc qua bài suy niệm ướt át của người khác viết.  Vậy làm sao tôi có thể nghe được tiếng Chúa nói với tôi là Ngài yêu tôi, chính tôi chứ không phải ai khác?  Mà làm sao có thể nghe được tiếng nói của người yêu nếu không dành thì giờ cho nhau?

Lòng khao khát trong Tình Yêu sẽ chỉ cho mỗi người chúng ta biết mình cần phải làm gì để tiếp cận được với người mình yêu, để nghe được tiếng nói của người yêu, để tạo cơ hội cho người yêu nói, và để yêu nhau hơn, gần nhau hơn.  Chỉ cần tôi thành thật với chính mình, hãy hỏi lòng mình muốn gì, tìm gì trong cuộc tình này?  Tôi tin là Chúa cũng mong muốn nói lời yêu thương với tôi lắm, Ngài chỉ chờ có cơ hội thôi.  “Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.” (Hs 2:16).  Còn tôi, tôi có nghiêm túc trong cuộc tình này không, hay chỉ là theo chân đám đông à ơi dí dầu cho qua chuyện.

******************************

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho các cặp tình nhân trên thế gian này đều được mãn nguyện sống hạnh phúc bên nhau.  Khi họ đã chọn để cùng sống bên nhau, xin Chúa chúc lành, và ban thêm ơn sủng cho các đôi hôn phối, để họ có thể cùng đi với nhau đến trọn đời.  Xin cho mối tình giữa Ngài và con sẽ có một kết thúc đẹp tuyệt vời bên Ngài trong ngày sau hết, để lời cầu nguyện của Ngài được trở thành sự thật “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17:24a) Amen!

Lang Thang Chiều Tím
Valentine’s 2012

ĐẤT SÉT

(Gr 18:1-6)

Tôi là cục Đất Sét bị bỏ xó nằm buồn thiu bên cạnh những cái bình vỡ ở góc nhà của ông chủ lò gốm.  Cuộc đời tôi lưu lạc từ người thợ gốm trước của ông chủ.  Anh ta là một người thợ bất tài, không có lương tâm.  Đang lúc anh nặn tôi thành hình một chiếc bình, đôi tay vụng về đã làm hỏng chiếc bình trên tay anh.  Chuyện này cũng có lúc xảy ra khi thợ gốm nặn đất sét (Gr 18:4).  Thay vì làm lại một chiếc khác đúng như anh thấy cần phải làm, thì anh đã vo tròn miếng đất sét lại và thẳng tay ném tôi vào góc nhà một cách không thương tiếc.  Đầu tôi bị đập mạnh vô vách tường u lên một cục, thân tôi bị bầm dập, nứt nẻ đầy mình.  “Thế là xong đời,” tôi nhủ thầm và tủi thân khóc thương cho số phận hẩm hiu của cục Đất Sét trong tay người thợ gốm bất tài ác tâm.  Trong bóng tối của góc nhà giăng đầy màng nhện, tôi đã chẳng khóc một mình.  Xung quanh tôi, những đứa bạn cùng chung số phận, đứa thì sứt tai, gãy càng, rách mặt, u đầu… ngồi ôm nhau khóc thút thít mà chẳng biết kêu cùng ai.

Không may cho người thợ gốm vô lương tâm kia!  Khi ông chủ biết chuyện, ông đuổi hết những người thợ gốm gian ác đi.  Trong lò làm gốm giờ chẳng còn ai.  Chúng tôi hồi hộp lo sợ, không biết ông chủ tính làm gì với những mảnh Đất Sét tàn phế vô dụng này.  Ông sẽ mướn những người thợ gốm khác để làm lại ư?  Hay ông sẽ bán cơ ngơi lại cho người khác?  Cũng có thể ông sẽ giục hết đống Đất Sét vụn đi?  Không có câu trả lời!  Ông chủ nổi tiếng giàu có nhất vùng, lò gốm chỉ là một dấu phảy trong cơ ngơi ngút ngàn của ông.  Chẳng ai có thể đếm được khối tài sản của ông.  Bởi ông càng giàu nên chúng tôi càng lo sợ.  Cái thứ phế liệu như chúng tôi có là gì để ông chủ phải bận tâm chứ?  Chúng tôi chỉ còn chờ ngày người ta quẳng vô thùng rác đầu làng.ZZ

Không như chúng tôi dự đoán!  Ngày ngày ông chủ đi ra cái lò gốm bề bộn của đám thợ bất nhân để lại, ông cần mẫn dọn dẹp từng thứ cho gọn gàng ngăn nắp.  Ông làm việc ngày đêm, mang những sản phẩm hoàn chỉnh để riêng sang một bên, quét sạch những góc nhà tối tăm, lôi đám Đất Sét tàn phế ra ánh sáng để xem xét và quyết định số phận.  Rồi ông xách xô nước lạnh đến và nhẹ nhàng nhặt từng đứa một bỏ vào xô nước ngâm cho nhão ra.  Chúng tôi vui suớng ngập mình trong dòng nước mát rượi, và từ từ thân thể chúng tôi biến dạng dãn ra, nhão nhét và mềm mại.

Ngày hôm sau, khi trời vẫn còn tờ mờ sáng, ông chủ đã có mặt ở lò gốm.  Ông dừng lại bên chiếc bàn xoay có hai bánh, từ từ kéo chiếc ghế ra và ngồi xuống trước bàn.  Chúng tôi nhìn nhau kinh ngạc.  Hả, một ông chủ giàu có của lò gốm mà bây giờ tính ngồi vào chiếc ghế của người thợ gốm sao?  Hay tại ông tiếc tiền không muốn mướn thợ?  Vô lý, tiền bạc của ông đếm không xiết thì có xá gì một hai đồng để trả lương cho thợ.  Hay ông không tin vào cách làm ăn cẩu thả của đám thợ vô lương tâm?   Cũng không hợp lý nốt, thợ thì có người này người kia, tìm hoài thế nào mà chẳng có những người thợ làm ăn đàng hoàng chân chính.  Thật không hiểu được!

Ông chẳng thèm đoái hoài gì đến những thắc mắc của chúng tôi.  Ông cho tay vô xô nước và lôi tôi lên, miếng Đất sét nhão nhét chảy dài ra và nằm gọn lỏn trong lòng bàn tay người thợ gốm.  Ông vo vo miếng Đất sét trong tay rồi nheo mắt suy nghĩ, nên nặn tôi ra hình thù gì cho thích hợp đây.  Toàn thân tôi run rẩy trong lòng tay người thợ gốm mới.  Chẳng lẽ ông chủ giàu có lại tính tái chế miếng Đất Sét đã bị phế thải ư?  Dù có nghề thợ gốm cha truyền con nối, nhưng bỏ lâu không làm, biết ông có đủ tài để nặn lại tôi thành một đồ vật hữu ích không?  Rồi ông có đủ đức kiên nhẫn của người thợ gốm để nặn, để gò, để uốn, để nhồi, để nắn không, hay lại… nửa chừng thì quăng tôi ra góc nhà?  Nếu thế thì thật bất hạnh cho thân tôi quá!  Nhưng một cục Đất Sét trong tay người thợ gốm thì có quyền gì mà hạch hỏi người thợ chứ?  Ông làm chủ số phận tôi mà!

Đang mải miên suy nghĩ, bỗng….. reeeẹc…, Úi cha, đau quá!  Tôi rùng mình thét lên.  Thoáng cái đôi tay người thợ gốm đã đưa thân mình tôi xẹt qua xẹt lại giữa bàn xoay hai bánh.  Thân hình tôi từ từ biến dạng theo độ xoay của chiếc máy.  Đau đớn cộng với nỗi sợ hãi quá đáng, tôi co người lách ra ngoài vòng xoay của chiếc máy và những kẽ hở của đôi tay người thợ.  Tay ông mất đà cà xát mạnh vào bánh xoay.  Bàn xoay đã không phân biệt được đâu là đôi tay mềm mại của ông chủ giàu có, và đâu là miếng Đất Sét lì lợm, đã gọt dũa luôn bàn tay chủ tôi.  Máu văng đầy khắp bàn xoay chảy lênh láng, những mảnh thịt vụn li ti văng tung toé lên mình tôi.  Ông nhăn mặt đau đớn, vội bỏ tôi xuống và ôm bàn tay đầy máu đi vào trong.  Tôi sợ hãi hối hận oà lên khóc nức nở.  Vì không tin vào khả năng của chủ mình, vì nghi ngờ vào sự kiên nhẫn của ông, mà tôi đã vô tình làm ông bị thương.  Tôi thật đáng bị nguyền rủa và bị quăng vào thùng rác, tôi không xứng đáng để ông chủ nâng niu nặn hình nữa.  Ông chủ ơi!  Xin lỗi ông!

Hôm nay ông chủ không quay trở lại lò gốm.  Tôi nằm chơ vơ trên bàn máy, lòng buồn ngổn ngang trăm mối.  Tôi có thể làm gì để chuộc lại lỗi lầm của mình đây?

Lại thêm một ngày nữa trôi qua trong lo lắng khổ sở, tôi vò đầu bức tóc.  Mặt trời mọc rồi lặn nhường chỗ cho chị Hằng đến, vẫn không thấy bóng chủ tôi đâu!  Mặt trời ơi, mặt trăng ơi, bàn tay chủ tôi ra sao rồi?  Trong dằn vặt nhung nhớ, tôi không còn thấy người thợ gốm như ông chủ mình nữa.  Tôi thấy ông như một phần thân thể của mình, vì thịt và máu của ông vẫn còn dính đầy trên người tôi đây.  Và ngược lại tôi cũng thấy mình như một phần chi thể không thể thiếu của ông.  Chẳng phải bàn tay ông dính đầy Đất Sét hay sao?  Lòng tôi bâng khuâng lo lắng!  Nếu ông không trở lại thì số phận tôi sẽ ra sao nhỉ?  Lại trở về với thân phận bụi đất vô dụng chăng?  Tôi gục đầu buồn bã ăn năn!

Sáng tinh sương ngàZZy thứ ba, tôi giật mình mở mắt khi có bàn tay ấm áp đặt lên mình.  Tôi mừng rỡ reo lên:  “A, ông chủ!”  Ông mỉm cười âu yếm nhìn tôi.  Lạ thay bàn tay ông đã lành, chỉ còn lại vết thẹo to chạy dài theo lòng bàn tay.  Ông ngồi xuống và nâng tôi lên.  Ông nhẹ tay lau những mảnh máu khô và những vết dơ trên thân thể tôi.  Rồi không một lời trách mắng, không một hành động thô bạo với miếng Đất Sét lì lợm khó ưa, ông bắt đầu lại cuộc hành trình mới với tôi.  Tôi nhắm mắt thả lỏng thân mình trong lòng bàn tay với vết thẹo mới của ông.  Tiếng máy chạy xè xè… thân tôi bắt đầu bị gọt dũa… cắt tỉa… tôi quằn quại đau đớn nhưng ráng cố gắng chịu đựng.  Mỗi khi thân tôi chạy xẹt qua máy, tim tôi thắt lại, đau xé ruột gan.  Trong không gian im ắng, thỉnh thoảng tôi nghe tiếng từng giọt nước thánh thót chảy trên thân mình.  Hé mắt ra nhìn, đó là những giọt mồ hôi nhễ nhãi trên khuôn mặt ông chủ, đang nhiễu nhão chảy dài lên sản phẩm trên đôi tay.  À, ra thế!  Cuộc hành trình từ một cục Đất Sét phế thải đến một sản phẩm hoàn mỹ, không chỉ có mình tôi chịu đựng sự gian truân khốn khổ, mà còn là những giọt mồ hôi công lao khó nhọc của người thợ gốm nữa.  Lặng người đi vì cảm động, tôi không dám nhúc nhích, cố gắng nằm im… phó thác, tin tưởng!

Thời gian như ngừng trôi, sau những khoảng khắc lặng im không nghe tiếng máy chạy nữa, tôi mở mắt ra.  Đã xong giai đoạn đầu và người thợ gốm đứng lên chuẩn bị đưa tôi vào giai đoạn cuối để hoàn tất sản phẩm của mình.  Đó là giai đoạn mà tôi sợ nhất khi thân tôi sẽ bị đặt vào lò nung, với nhiệt độ thật cao trong một thời gian dài.  Nóng khủng khiếp!  Đau đớn đến tận ngõ ngách của xương tủy!  Nhức nhối xuyên suốt con tim khối óc!  Đó là lúc mà cục Đất Sét sẽ chết đi để hoá thân trở thành một sản phẩm mới.  Tôi phân vân!  Dù chỉ là Đất Sét, nhưng tôi vẫn có sự chọn lựa của mình.  Tôi có thể nằm ì ra, hay lăn xuống đất để chống lại đôi tay người thợ gốm đang từ từ đưa tôi vào lò nung.  Hoặc tôi có thể hợp tác với chủ mình, bằng cách ngoan ngoãn nằm im chấp nhận giai đoạn nung nóng này.  Tôi muốn gì?  Trở thành một bình bông tuyệt đẹp, hay mãi mãi chỉ là cục Đất Sét vô dụng?

Nhìn lên đôi tay vẫn còn dấu ấn của vết thương ngày nào, lòng tôi xao xuyến bồi hồi!  Làm sao tôi có thể chống lại đôi tay đã từng vì tôi mà mang thương tích?  Nhìn xuống phận mình, tôi chỉ là một miếng Đất Sét tàn phế, bị quẳng đi ở góc nhà.  Ngước mắt lên nhìn người thợ gốm, tôi bắt gặp đôi mắt long lanh, đang say sưa nhìn sản phẩm trên tay với ánh mắt trìu mến tràn đầy tình yêu thương.  Ánh mắt khích lệ như bảo tôi đừng sợ, có ông ở bên cạnh mà!  Ông sẽ chẳng để lửa thử thách, khốn khó gian truân quá sức chịu đựng của tôi đâu.  Tôi cần phải bước qua ngưỡng cửa của lò nung, thì mới hoá thân trở thành một sản phẩm mới được.  Đó là quy luật!  Không có sự chọn lựa nào khác cả.

Tôi nhắm mắt buông xuôi hai tay, nằm im chấp nhận sự thanh tẩy cuối cùng.

Tôi đau đớn lịm đi trong lò nung chẳng biết là bao lâu.  Làm sao tôi có thể đo được thời gian khi đang ở trong đau khổ?  Thế mà thời gian rồi cũng qua đi, cánh cửa lò xịch mở!  Tôi được mang ra ngoài khi toàn thân tê tái nằm im không cử động được.  Trong mơ màng, tôi cảm nhận một nụ hôn nhẹ đặt lên thân mình.  Tôi tê dại khẽ mở mắt ra nhìn.  Ông chủ!  Bốn mắt nhìn nhau long lanh ngấn lệ, yêu thương dâng tràn!  Tôi từ từ đưa mắt nhìn xuống thân mình.  Ồ, cái gì thế này?  Ngạc nhiên quá đến quên cả đau đớn, tôi ngồi phắt dậy tròn xoe đôi mắt ra nhìn.  Trên tay ông chủ là một bình bông rực rỡ tuyệt đẹp.  Là tôi đấy ư?  Tôi mà đẹp đến thế sao?  Tôi ngạc nhiên hết nhìn mình rồi lại nhìn ông chủ với ánh mắt ngạc nhiên thán phục.  Ông hãnh diện vuốt ve chiếc bình trên tay nở nụ cười mãn nguyện.

Giờ đây tôi không còn là một cục Đất Sét xấu xí, bị bỏ xó ở góc nhà nữa.  Nếu bạn có dịp vào nhà ông chủ lò gốm chơi, bạn sẽ thấy một bình bông tuyệt đẹp đặt trên chiếc bàn salon giữa nhà.  Điểm thêm vào đấy là mấy cánh hoa sặc sỡ, đầy sắc màu của vùng nhiệt đới quê tôi, càng làm tăng thêm vẻ kiêu sa lộng lẫy của chiếc bình hoa.  Là tôi đó!  Khách đến nhà chơi, ai cũng phải dừng chân để chiêm ngắm vẻ đẹp thanh tao đài các của tôi.  Họ xuýt xoa trầm trồ khen ngợi tài năng người thợ gốm.  Họ chúc mừng ông đã làm ra một sản phẩm tuyệt mỹ.  Họ đâu biết quãng đường gian khổ mà ông và tôi đã trải qua!  Vâng, hành trình từ một miếng Đất Sét vô dụng đến một sản phẩm hữu ích xinh đẹp, không phải là chuyện đơn giản dễ dàng.  Nó đòi hỏi tình yêu của người thợ với sản phẩm, những giọt máu văng tung toé trên bàn xoay của người thợ tận tâm nhân ái, bàn tay với vết sẹo dài vẫn tiếp tục làm việc, những giọt mồ hôi thánh thót chảy xuống trong trưa hè nóng bỏng, sự kiên nhẫn làm việc qua tháng năm dài, bao công lao khó nhọc đã đổ ra… Tài năng, công đức trộn với tình yêu của người thợ gốm mới ra tôi hôm nay.  À, đừng quên nói đến sự hợp tác nhỏ bé của tôi nữa chứ!  Nếu ngày đó, tôi không ngoan ngoãn để người thợ gọt dũa cắt tỉa, hoặc tôi nhảy xuống đất khi bị mang vào lò nung… thì đâu có ngày hôm nay bạn nhỉ?

Tôi muốn gởi đến bạn bè tôi, những mảnh Đất Sét cùng chung số phận hẩm hiu, ngồi ôm nhau khóc tỉ tê ở góc nhà năm xưa.  Hãy cố gắng chịu đựng gian khổ khi bị gọt dũa cắt tỉa, bạn nhé!  Hãy tin tưởng vào tình yêu và tài năng của người thợ gốm khi bị mang vào lò nung.  Đó là cánh cửa mà tất cả phận Đất Sét chúng ta phải bước qua.  Ông chủ sẽ chẳng để cho lửa thiêu đốt bạn đến chết đâu.  Rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau, nơi trưng bày những sản phẩm tuyệt mỹ của người thợ gốm tài đức.  Lúc đó chúng ta sẽ cùng nhau ca hát nhảy múa.  Hẹn gặp lại tất cả!

Lang Thang Chiều Tím
July 2011