ĐÔI MẮT

“Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em”

(Lưu Trọng Lư)

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ.  Nhạc sĩ cũng viết thành cung đàn.  Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc.  Có người nhìn đôi mắt như mùa thu.  Có người nhìn đôi mắt như dòng sông.  Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.

Trái lại, khi Phúc Âm nói về mắt lại nói đôi mắt mù!

Mắt nhìn được ngoại vật, nhưng nó không nhìn được chính nó.  Có phải đấy là điều để nhắc nhở tôi:  Tôi có thể nhìn thấy nhiều thứ, nhưng sự hiểu biết quan trọng nhất là biết chính mình thì tôi lại u mê?

Mắt là để nhìn.  Đấy là bản tính của mắt.  Cũng như ánh sáng là để soi tan bóng tối.  Mắt không cần trang điểm, mắt vẫn nhìn thấy.  Mắt không cần tô hồng, mắt vẫn là mắt.  Khi người ta trang điểm cho mắt, lúc đó, mục đích không phải là để nhìn mà là để mắt được nhìn.  Có khi người ta chỉ vì quá muốn mắt được nhìn, nên mắt đã không nhìn được.

Mắt là để nhìn.  Nhưng cái nhìn của mắt không như chiếc máy chụp hình.  Mắt nhìn để nói.  Mắt nhìn để hiểu. Mắt nhìn để thông cảm. Mắt nhìn để chê bai. Nhưng để hiểu, để rung cảm, để giận ghét, để yêu thương lại là phạm vi của tâm hồn.  Mắt thơ ngây.  Mắt bao giờ cũng đáng yêu.  Tự bản tính của mắt, mắt bao giờ cũng vô hồn.  Tâm hồn là người có trách nhiệm.  Vì thế, người ta không nói kẻ có đôi mắt đẹp thì tâm hồn đẹp.  Nhưng là kẻ có tâm hồn đẹp thì bao giờ cũng có đôi mắt trong.  Đôi mắt của trẻ thơ đã nói lên điều đó.

Nhiều người đã sa ngã vì những đôi mắt biết dỗi hờn.  Nhiều kẻ đã say những cặp mắt biết liếc nhìn quyến rũ.  Sở dĩ có những đôi mắt ấy vì phải có người yêu những vẻ đẹp đó nên mới có kẻ làm khí giới tấn công.  Và, nếu những xao xuyến rung động, những tình yêu chỉ vì đôi mắt ấy thì cũng giống như Eva, chỉ nhìn thấy màu hồng của vỏ trái táo chứ không thấy bóng sâu ở trong.

Người có đôi mắt đẹp là người không đánh lừa kẻ khác bằng đôi mắt của mình.  Kẻ có đôi mắt đẹp cũng không để mình bị đánh lừa bằng đôi mắt người khác.  Mắt đẹp là mắt nhận ra giá trị thật và chỉ ngắm nhìn những giá trị đó.

Trong cuộc sống gia đình, nhiều đôi mắt không nhìn ra nét đẹp nơi người yêu mình.  Nhưng lại thấy vẻ đẹp nơi người yêu của kẻ khác.  Thấy thèm muốn nhưng không thấy giới hạn.  Nhiều đôi mắt chẳng nhận ra đâu là hạnh phúc mình phải đem đến cho người bạn đời.  Nhưng lại nhìn ra những nhu cầu của mình bắt tha nhân mang tới.  Thấy đòi hỏi nhưng không thấy bổn phận.

Mắt giữ vai trò quan trọng trong lịch sử cứu rỗi của loài người.  Ngay những chương đầu của sách Khải Nguyên đã nói về mắt:

Rắn đã nói với người đàn bà: Chẳng chết chóc gì đâu!  Quả Thiên Chúa biết, ngày nào các người ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu.  Và người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon.

Sau khi nhìn rồi, Kinh Thánh kể tiếp cái nhìn của Eva:  “Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn”.  Sau khi ăn rồi, Kinh Thánh kết luận về đôi mắt của cả hai người như sau: “Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng (Kn 3:4-7)”

Đoạn Kinh Thánh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến mắt qua ba tiến trình:

Rắn hứa là mắt của Adong và Eva sẽ mở ra.

Eva đã nhìn vào trái táo và thấy sướng mắt.

Mắt hai người đã mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai ngưới sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa.  Nhưng mắt đức tin của cả hai đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn nhìn sẽ đem lại đổ vỡ cho cuộc đời.  Họ đang thấy chung quanh họ là mùa hoa nở rộ, là những đồi cỏ bình yên, là những giải nắng hiền, dòng suối êm. Nhưng chỉ nhìn như Thiên Chúa, nên cỏ bình yên thành cỏ dại, suối hiền cạn khô, nắng thành vất vả, hoa thôi lên màu.

Chỉ vì muốn nhìn những điều không thể nhìn được nên mắt họ chẳng còn nhìn thấy những điều họ đã thấy nữa.

Mà nhìn thì đã sướng mắt”.  Đó là tâm trạng của Eva.  Cái nhìn ấy phải là đắm đuối.  Bằng cái nhìn “sướng mắt” ấy mà tội lỗi đã vào thế gian.  Qua một cái nhìn mà hạnh phúc thành rách nát.  Lịch sử vũ trụ thay đổi. Tang thương.

Lời hứa của rắn đã hiệu nghiệm.  Mắt của hai người đã mở ra.  Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà để nhìn thấy mình trần truồng. Trần truồng là biểu tượng của hèn hạ, của nghèo đói, của nhục nhằn.  “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Kinh Thánh thật ngắn ngủi, nhưng sự tinh tế và đau thương nằm ở đó.  “Mắt hai người đã mở ra”.  Nhưng đồng thời cũng là giây phút đóng lại.  Mở mắt để thấy trước mặt là tan tác, chia phôi.  Mở mắt để thấy trước mặt là hệ luy.  Mở mắt để thấy mình trơ trụi.  Mở mắt để biết rằng mình không còn thấy những gì mình muốn thấy.

Adong-Eva đã mở mắt. Nhưng họ lẩn trốn không dám nhìn Chúa.  Cả hai đã mở mắt.  Nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau.  Như thế, mở mắt có ích gì?  Có những mở mắt nguy hiểm.  Có những mở mắt gieo khổ ải.  Không nhìn những điều phải nhìn là thiệt thòi.  Nhìn những điều không nên nhìn cũng là mất mát như thế.  Khởi đầu của lịch sử nhân loại đã không  phải là lịch sử có đôi mắt thơ mộng, mà là đôi mắt mù loà.

Rồi sự mù lòa ấy chảy dọc theo thời gian.  Chúa Kitô đã đến trong Tân Ước để hàn gắn sự mù lòa xảy ra những trang đầu của Cựu Ước đó.  Chúa không bao giờ từ chối chữa người mù.  Trong cuộc đời rao giảng tin mừng, nếu có người mù kêu xin là Chúa động lòng xót thương và chữa họ ngay.   Sự mù lòa nói đến trong Tân Ước đã có nguyên do từ sự mù lòa khởi nguyên ngay ở vườn địa đàng.  Chúa đến để chữa vết thương kéo dài từ biến cố đó.  Đặt những phép lạ Chúa chữa người mù trong Tân Ước với bối cảnh mù lòa khởi nguyên của Adam-Eva ta mới thấy ý nghĩa sâu xa vì sao Chúa đã đến trong thế gian.  Và nếu ý thức được rằng, từ bắt đầu, dòng suối đã mù lòa thì nước suối làm sao trong, ta sẽ nhận ra một ý nghĩa khác, đó là phải chấp nhận rằng mình mù lòa, và cần Chúa chữa sự mù lòa ấy.

Phúc Âm thánh Gio-an có thuật lại phép lạ của Chúa chữa một người mù.  Đặc biệt Gio-an kể rõ chi tiết là “mù từ lúc mới sinh”.  Các Phúc Âm khác chỉ nói chữa người mù, không nói chi tiết mù như thế nào. Vì sao Thánh Gio-an lại nhấn mạnh điểm đó?  Phải chăng “mù từ lúc mới sinh” là mù từ thuở xa xưa lắm rồi.  Là mù từ thuở địa đàng.  Là mù gốc rễ trong tâm hồn tôi.  “Từ trong tà ác tôi đã sinh ra” (Tv 51:7)

Một chi tiết quan trọng khác mà Thánh Gio-an đã nói đến là Chúa chữa người mù “từ thuở mới sinh” trong ngày “sabath”.  Ngày sabath là ngày không được phép làm gì cả.  Đây là luật rất ngặt của người Do Thái.  Chính vì thế Chúa đã bị kết án.  Có phải Chúa đã chữa người mù, cho dù là ngày sabath vì mù lòa là một bất hạnh ghê gớm, một thiệt thòi nguy hiểm?  Chúa không thể chấp nhận mù!  Như vậy, chẳng có lý do nào Chúa lại chậm trễ chữa sự mù lòa của tâm hồn tôi.  Sứ mạng của Chúa là: “Người đã sai Lời Người đến chữa họ, và giật sinh mạng họ ra khỏi mồ chôn” (Tv. 107:20)

Trong câu chuyện chữa người mù, ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt người mù và đôi mắt của các thầy Pharisêu.  Đôi mắt thân xác của người này mù, nhưng mắt tâm hồn ông lại sáng. Ông nhận ra Chúa là người có thể chữa cho ông, nên ông đã đến suối Siloam rửa mắt như lời Chúa dạy.  Các thầy biệt phái đã có đôi mắt không mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết.  Họ đã nói với người mù về Chúa như sau: “ Chúng ta biết tên đó là một người tội lỗi” (Gn 9:24)

Không có sự tăm tối nào lại mù lòa hơn sự mù lòa của những đôi mắt sáng ấy.  Bởi đó, thấy mặt trời vẫn có thể là sống trong bóng đêm. Trong bất hạnh của thân xác vẫn có thể nhìn ra chân lý.  Điều ấy nói cho tôi biết trong đau khổ tật nguyền, hạnh phúc vẫn có thể nở hoa, kết trái xum xuê.  Trong những hiểu biết trần thế. Biết đâu là một cõi lòng khô héo ân sủng thiêng liêng. Rồi, vì thế, đằng sau những đôi mắt đẹp, có thể là một màn đêm lạnh lẽo, một tâm hồn trống trải, buồn tênh.

Đôi mắt dễ thương chỉ có nơi tâm hồn duyên dáng. Lo trang điểm cho đôi mắt mà không làm đẹp tâm hồn là chỉ muốn người ta nhìn mắt mình, chứ mắt mình không nhìn được điều phải nhìn.  Có người tốn rất nhiều tiền để làm đẹp mắt, nhưng tiếc xót gởi một thùng quà cho bạn bè thân nhân nghèo khó ở bên nhà.  Ngại ngùng bỏ ra tiền để sửa chữa một ngôi thánh đường đang sụp đổ. Quá muốn mắt mình được nhìn nên đã không nhìn thấy điều Chúa muốn họ thấy.

Toàn thân mày, mày sinh ra trong bóng tối, mà mày lại làm thầy dạy chúng ta ư!”  Sau khi mắng người mù thư thế, Pharisêu trục xuất ông (Gn. 9:34).  Người mù đã bị đuổi ra khỏi hội đường vì dám chấp nhận Chúa là Thầy chữa cho mình.  Chúa đã hỏi người mù : “Còn ngươi, ngươi có tin vào con người không?” Ông ta đáp lại: “Lạy Ngài, tôi tin” (Gn 9:35-38).  Như vậy, để nhìn thấy Chúa, ông đã phải trả một giá đắt.  Những đôi mắt dám nhìn sự thật nhiều khi là những đôi mắt ướm lệ.

Phúc Âm thánh Mác-cô cũng nói về mắt. Người mù lên tiếng: “Lạy thầy, xin cho tôi thấy được”. Đức Kitô bảo hắn: “Hãy đi! Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.  Rồi, dòng chữ cuối cùng nói về đôi mắt đó là dòng chữ đẹp bát ngát của một bầu trời mới, một tâm hồn vô cùng thênh thang:

Lập tức hắn đã thấy được.  Và theo Ngài lên đường (Mc. 10:52)

Người mù đã không trở về để lập nghiệp làm ăn, nhưng lên đường theo Chúa.  Lúc này là lúc Chúa đang trên đường về Jerusalem để chịu chết. Ông đã thấy gì mà dám lên đường theo một kẻ sắp bị đóng đinh?

Nói về đôi mắt, Chúa quở trách rằng: “Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy.  Tâm hồn họ ra chai đá rồi ” (Mt. 13:14).  Như vậy, Chúa xác định tâm hồn có trách nhiệm về cái nhìn.

Hôm nay, không thiếu bao tiếng khóc.  Có tiếng khóc âm thầm.  Có tiếng khóc lo âu.  Tiếng khóc nghèo đói. Tiếng khóc lạc lõng trong cuộc sống.  Tiếng khóc lặng lẽ của cõi lòng chán chường.  Tiếng khóc che kín bằng tiếng cười ở giữa đám đông.  Nước mắt ở khắp nơi.

Biết bao tâm hồn chỉ vì nghèo đói mà sống mất phẩm giá con người.  Những người mẹ bên Phi Châu ngồi khóc vì đói, vì đôi vú không còn sữa cho con.  Những đôi mắt trẻ thơ ruồi bu quanh. Đấy là hình ảnh Chúa Kitô.  Ngài đang lang thang và chẳng có ai nhìn.

Có đôi mắt liếc nhìn quyến rũ.
Có đôi mắt trang điểm.
Có đôi mắt rình mò.
Có đôi mắt để chọn quần áo.
Có đôi mắt để đếm tiền.
Có đôi mắt để nhìn người yêu.

Những tiếng khóc đau khổ vẫn không ai muốn nghe.  Những nghèo đói vẫn không ai muốn nhìn.  Có phải chỉ có đôi mắt đức tin mới nhìn thấy Chúa Kitô đang nghèo, đang túng thiếu.  Chia cái nghèo, chia cái túng thiếu, chỉ có đôi mắt tình thương mới dám nhìn.

Hai ngàn năm trước Chúa đã than thở: “Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy vì tâm hồn họ ra chai đá rồi” (Mt. 13:14). Hôm nay, nếu mắt không nhìn những điều phải nhìn. Nhìn mà không thấy những điều phải thấy. Thấy mà chẳng hiểu những điều phải hiểu thì Chúa cũng chỉ biết than thở như hai nghìn năm xưa: Vì tâm hồn họ ra chai đá rồi.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

TRÚNG SỐ

“Trúng số có thể là một tai họa”.  Đó là khẳng định của tuần báo Newsweek số ra tuần cuối tháng 6/95.

Tuần báo ghi lại vận may của hai người đàn ông cùng làm chủ một tiệm sản xuất kiếng tên là Mc. Gardner 33 tuổi và Paul Madison 41 tuổi.  Trong cuộc xổ số toàn quốc lần này, hai người đã trúng được 11 triệu bảng Anh.  Nhưng tai họa cũng bắt đầu từ đó.

Người đàn ông tên là Mc. Gardner đã trở thành mũi dùi của tất cả những tờ báo lá cải xuất bản tại Anh Quốc.  Chỉ ba ngày sau khi thần tài gõ cửa, tất cả mọi người dân Anh đều biết rằng Mc. Gardner là một người đàn ông không ra gì.

Trang bìa của bất cứ tờ báo lá cải nào cũng có in hình của ông, bên trong ông được mô tả như một người đàn ông nghiện ngập, vũ phu, vô trách nhiệm, ba lần ly dị.  Người vợ thứ ba tố cáo ông bỏ bê đứa con trai hai tuổi của họ, và thề sẽ đòi cho hết số tiền ông vừa trúng số.  Người mẹ nuôi của ông thì mách rằng ông đã ăn cắp nữ trang của bà, và luôn luôn đòi tiền để ăn xài.  Bà còn nguyền rủa rằng:  “Tôi hy vọng là hắn sẽ uống rượu cho đến chết thì thôi”.

Hiện nay, trong tổng số 44 triệu người Anh thì có 30 triệu người mua vé số mỗi tuần.  Một nhà tâm lý trị liệu tại Anh Quốc đã nói:  “Chúng ta đang trở thành một dân tộc bài bạc”.

Một cuộc thăm dò tại London cho biết Thomas Bryant 51 tuổi đã tự tử vì nghĩ rằng mình đã mất 2 triệu bảng Anh chỉ vì không tiếp tục mua vé số.  Thật ra, ông ta đọc lầm số.  Vé số mà ông hằng đeo đuổi trúng có 27 bảng Anh mà thôi.

Và như ông Mc. Gardner đã khám phá:  đôi khi trúng số cũng có nghĩa là thua lỗ thực sự.

*********************************

Kinh nghiệm cho thấy đồng tiền không do mồ hôi nước mắt làm ra lắm khi chỉ là một tai họa.  Tục ngữ có câu:  “Của cải làm ra cất ở trên gác, của cải đánh bạc để ở ngoài sân, của cải gian lận đem ra ngoài ngõ”.

Có nhiều người trúng số tiêu xài hoang phí để rồi cuối cùng tan gia bại sản và thân tàn ma dại.  Thật ra, cái chân lý ngàn đời vẫn luôn chiếu sáng trước mắt mọi người:  sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho con người.

Tiền của chỉ lợi ích cho con người khi nó là một phương tiện.  Bao lâu nó trở thành chủ nhân thống trị và sai khiến con người, thì dĩ nhiên, cái thân phận nô lệ mà con người tự trói buộc vào sẽ không bao giờ làm cho con người được hạnh phúc.

Có thể con người được thỏa mãn vì được ăn ngon, ở nhà đẹp, có xe mới v.v…. Nhưng chắc chắn, thỏa mãn vẫn chưa được hạnh phúc.  Thỏa mãn đó rồi lại ham muốn đó.  Càng có nhiều thì càng hưởng thụ nhiều, càng hưởng thụ thì càng ham muốn thêm mà thôi.

“Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”.  Chỗ đứng ấy luôn mời gọi người tín hữu xác định lại cuộc sống của mình trong tương quan với của cải trần thế.  Không thể sống mà không màng đến của cải, không thể sống mà không có phương tiện để sống.  Nhưng phải sống như thế nào để không làm nô lệ cho của cải vật chất.

Đó cũng là lẽ khôn ngoan của Tin Mừng:  “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì người ta nào có lợi gì?” (Mc 8,36).  Có tất cả mà không biết được bí quyết của hạnh phúc đích thực quả là một điều khốn khổ nhất trong kiếp người.

*********************************

Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con rằng:  “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”.  Xin cho con luôn ý thức được niềm hạnh phúc đích thực là trao ban.  Trong tất cả mọi sự, xin cho con biết tìm kiếm niềm hạnh phúc của việc trao ban ấy.

Thiên Phúc

BẢO HIỂM LINH HỒN

“Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?” (Lc 12:20)

Nasruddin đang bò gối trên thảm cỏ trước nhà, hình như đang tìm kiếm vật gì.  Người hàng xóm của anh ta thấy thế bèn cất tiếng:

– Này Nasruddin, anh đang tìm gì vậy?

– Tôi tìm chiếc chìa khoá. Nasruddin trả lời.

– Thế là người hàng xóm liền tỏ lòng hào hiệp. Anh cùng bò gối trên sân để tìm chiếc chìa khoá cho Nasruddin.  Sau một hồi lâu tìm kiếm mà không được, anh hàng xóm ngước mắt lên hỏi:

– Mà Nasruddin nè, anh làm rơi chiếc chìa khóa ở chỗ nào vậy?

– À, tôi làm rớt ở trong nhà.
Nghe câu trả lời, người hàng xóm ngẩn ra vì tức:

– Rơi ở trong nhà… nhưng tại sao anh lại tìm ở đây?
Nasruddin tỉnh bơ đáp lại:

– Bởi vì ở ngoài này sáng hơn, còn trong kia tối quá.

****************************

Thế đấy! Ở trên đời có không ít người đi tìm hạnh phúc, nhưng lại chẳng tìm đúng nơi.  Cũng có lắm kẻ đã đến đúng nơi rồi nhưng lại không biết mình nên tìm thứ gì.

Có nhiều người tầm sư học đạo mà tìm mãi không ra, nhưng cũng có lắm kẻ đang ở trong chính đạo, nhưng lại cứ kiếm những thứ gì đâu!  Có bao giờ bạn đặt câu hỏi với chính mình: “Tôi đã thuộc về chính đạo chưa?  Nếu rồi, thì nơi đó tôi đang muốn điều chi?”

Đặt câu hỏi như vậy là để xác định cho mình một mục tiêu, nếu chưa có.   Hỏi như thế cũng là để chỉnh đốn hướng đi, nếu như mình đang bước không đúng với tinh thần của đạo.

Khi yêu quí thứ gì thì người ta đâu muốn bị mất mát hư hao.  Cho nên nếu có phương cách để bảo vệ, tất họ sẽ không ngần ngại thi hành.  Đây là tâm lý chung mà nhiều kẻ nhờ biết khai thác và kinh doanh đã trở nên giàu to.  Bao dịch vụ hay công ty mang danh bảo hiểm – insurance – đã xuất hiện để bồi hoàn cho những mất mát hay hư hao đó.

Kết quả là nhiều thứ bảo hiểm xuất hiện:  nhà cửa, xe cộ, vật dụng, công việc, sức khoẻ, nhân thọ.  Thậm chí còn có bảo hiểm cho cả chó mèo, chim chóc trong nhà.

Không có thứ bảo hiểm nào lại không liên quan đến sự sống người ta.  Tôi mua bảo hiểm cho chiếc xe, cái nhà, cửa tiệm, bức tranh, chiếc nhẫn kim cương… là vì những thứ đó có dính dáng đến cuộc sống của tôi phần nào.

Nhưng thử hỏi có mấy thứ bảo hiểm người ta đang có mà lại không đụng đến đồng tiền?  Phải nói rằng trong thực tế, thứ nào cũng cần có tiền mới mua được.  Thành ra để bảo hiểm cho thứ này vật kia, tôi phải nai lưng ra kiếm tiền; để bảo vệ sự sống, tôi phải lo lắng vất vả thức khuya dậy sớm cày thêm tí “job” để có tiền đóng bảo hiểm.  Rốt cuộc, tôi đã tiêu hao sự sống để bảo vệ sự sống.  Trực tiếp giữ gìn sự sống thân xác trong khi đã gián tiếp đánh mất nó.  Mà nhiều khi lại đánh mất trong hãnh diện và tự hào mới khốn chứ!

Quả là phù vân tiếp nối phù vân, hư không trên các sự hư không.

Nếu không thoát được bao sự hư không phù phiếm đó thì tôi sẽ chẳng khác chi gì “người phú hộ giàu có” trong Tin mừng của thánh Luca: gặp năm được mùa, lúc thóc dư tràn, người phú hộ không biết để đâu cho hết.  Sau nhiều hôm trằn trọc băn khoăn, cuối cùng ông tìm được một kế: phá quách các kho nhỏ, đóng một kho thật lớn để chất tất cả tài sản thóc gạo vào đó.  Thế rồi, khi mọi sự hoàn tất, được bảo đảm bởi một kho lẫm chắc chắn, ông phú hộ mới nói với linh hồn: “Hãy ăn đi, uống đi, hãy nếm cho thoả thích mùi đời đi, hỡi linh hồn của ta.”

Nhưng bất thần có tiếng Chúa phán: “Đồ ngốc,ngay đêm nay người ta sẽ đòi lại hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ kia sẽ để lại cho ai đây?” (Lc 12:16-21)

Mới đọc qua dụ ngôn, không ít người thắc mắc : một kẻ làm ăn cần cù, có lẽ không gian dối lừa gạt bóc lột ai, nhưng sao lại bì kết án “đồ ngốc” nặng nề như vậy?  Thế nhưng, suy nghĩ một chút người ta sẽ phải công nhận người giàu có kia đã phạm phải ba lỗi lầm chứng tỏ ông ta ngốc thật.

Lỗi lầm thứ nhất: ông tưởng của cải vật chất là yếu tố căn bản có thể mang lại sự sống cho linh hồn, một hữu thể vô vật chất.  Ông ngây ngô khi nói với linh hồn mình hãy cứ ăn uống những thứ mà ông thu tích được kia.

Lỗi lầm thứ hai: ông phá được các kho lẫm ích kỷ nhỏ nhoi của mình để rồi xây lại một cái khác to lớn hơn.
Phải chăng trong thực tế cũng có không ít người phá được hầu bao của mình để dâng cho Chúa một chút tiền công đức thì lại cứ muốn tên tuổi được khắc ghi trên bia đồng hay bia đá, hoặc có những người vừa thoát được cái thế giới thầm lặng khép kín của mình để ra đóng góp cho cộng đoàn tha nhân thì lại xây ngay một cái kho khác lớn hơn: cái kho của tự cao tự phụ – “mọi người phải biết đến phần đóng góp của tôi, nếu không thì tôi rút lui.”

Đó không phải là nẻo đường chân chính của Phúc âm.  Trái lại, theo tinh thần Kitô giáo, phá kho là để trao ban cho người chứ không phải xây lên kho khác để rồi lại tích lũy cho mình.

Điều lầm lẫn thứ ba của người phú hộ là chỉ biết hướng về những sự dưới đất, những chuyện thế gian, những phạm vi thân xác, và thiếu quan tâm đến những thiêng liêng hay cuộc sống mai sau.          

“Người ta sẽ đòi linh hồn ngươi.”  Câu nói này đã bộc lộ một chân lý:  Đến giờ chết thân xác sẽ tiêu tan, trở về với cát bụi, chẳng ai còn tha thiết với nó.  Những gì sẽ được đem đi chính là linh hồn. Cho nên thật là khờ dại khi chỉ tích trữ, trang điểm, vỗ béo cho thân xác mà quên mất hay coi nhẹ việc tô điểm hoặc bảo hiểm cho linh hồn.

“Người ngốc” được nói đến trong Phúc âm là kẻ chỉ biết có hiện tại, tìm kiếm và hưởng thụ những giá trị hữu hình.

Người khôn ngoan chính là người sống trong hiện tại nhưng biết hướng về tương lai, ở trong thế giới hữu hình nhưng luôn chuẩn bị cho mình những giá trị và tài sản vô hình thiêng liêng.

Người khôn ngoan “khi còn sống trên địa cầu biết kiềm chế các chi thể là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là những sự thờ quấy… (cùng với) nóng giận, gắt gỏng, thâm độc, chửi rửa, thô tục” (Col 3:5,8).

Người khôn ngoan là người biết rằng không có gì quí bằng linh hồn, không có gì quan trọng cho bằng sự sống mai sau với Đức Kitô.  Từ chỗ nhận biết này người khôn ngoan sẽ lo việc bảo hiểm linh hồn của mình nhiệt thành hơn.
Có rất nhiều phương cách để giúp bảo hiểm linh hồn, nhưng có một phương cách mà ai chịu khó đầu tư cũng đều nắm chắc phần thắng.  Đó là cầu nguyện.  Thánh Anphongsô từng khẳng định: “Ai cầu nguyện nhất định được rỗi linh hồn.”  Bởi vì qua cầu nguyện, người ta sẽ vững bước trên con đường tiến về Thiên Chúa.

Lm Bùi Quang Tuấn, DCCT – Vietcatholic.net

***************************

Lạy Chúa xin mở mắt con để biết hướng về những gì hữu ích cho linh hồn mình, cho đời sống vĩnh cửu mai sau.  Xin đừng để của cải vật chất đời này làm u mê bước chân người lữ hành.  Lạy Chúa, xin dạy bảo con trước khi quá muộn màng, xin đừng để ai trong chúng con phải hư mất như người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay, Amen!

HAI SẮC HOA TI GÔN

T.T.Kh

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người ấy với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng “Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng thế thôi.”

Thuở đó nào tôi có hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy.”

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi, thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
“Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhung hồng tựa trái tim tan vỡZZ
Và đỏ như màu máu thắm phai

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu cũ rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu…
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng  

********************************

Huyền thoại thi ca tiền chiến Việt Nam những năm 1937-1938 bỗng nổi cơn ba đào với bốn bài thơ ký tên T.T.Kh, rồi sau đó lặng lẽ tan vào cõi hư không, mặc cho dư luận ồn ào xôn xao.  Chất hưng phấn làm hoa ti gôn nở rộ một thời, được khai hoa nở nhụy bằng một câu chuyện “Hoa Ti Gôn” của ký giả Thanh Châu, đăng trên báo “Tiểu Thuyết Thứ Bảy,” xuất bản tại Hà Nội.  Là một truyện ngắn không có gì đặc sắc, nhưng nhẹ nhàng và bay bổng, “Hoa Ti Gôn” kể về một chuyện tình buồn giữa một chàng họa sĩ và một thiếu nữ gia đình thượng lưu.

Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được một bài thơ “Hai Sắc Hoa Ti Gôn,” ký tên T.T.Kh do một thiếu phụ trạc hai mươi, dáng bé nhỏ thùy mị, nét mặt u buồn mang đến.  Đó là lần đầu, và cũng là lần cuối người thiếu phụ nầy xuất hiện.  Câu chuyện “Hoa Ti Gôn” đã khơi lại mối tình xưa của người thiếu phụ (T.T.Kh.) với một chàng nghệ sĩ, cả hai đã qua một thời yêu thương hẹn hò dưới giàn hoa ti gôn.  Rồi chàng ra đi biền biệt không hẹn ngày về.  Nàng ở lại vâng lời mẹ cha, gạt nước mắt nên duyên cùng người khác – một người chồng luống tuổi – để rồi tan nát tâm tư, mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của thời quá khứ.  Bài thơ Hai Sắc Hoa Ti Gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ, bởi những câu thơ quá da diết.  Sau bài thơ nầy, tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại nhận được bằng đường bưu điện ba tác phẩm khác cũng mang tên T.T.Kh.  Đó là các bài “Bài Thơ Thứ Nhất,” “Bài Thơ Đan Áo” (riêng đăng ở Phụ Nữ Thời Đàm), và “Bài Thơ Cuối Cùng.”

Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T.T.Kh nữa.  Không ai hiểu tại sao bài “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” lại xuất hiện trước “Bài Thơ Thứ Nhất,” và cũng không hiểu tại sao tác giả lại lặng lẽ rời bỏ văn đàn không lời từ biệt, để lại trong lòng người yêu thơ bao nỗi niềm thương nhớ luyến tiếc.

********************************

Bảy mươi năm trôi qua, nhân gian tốn bao giấy mực để tìm hiểu T.T.Kh là ai.  Người thì đoán Trần Thị Khánh, một nữ sinh Hà nội, người yêu của Thâm Tâm, một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với bài Tống Biệt Hành.  Kẻ lại bảo là Nguyễn Bính, rồi em gái họ nhà thơ Tế Hanh.  Người khác đoan chắc đó là Trần Thị Vân Chung, người yêu nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa Ti Gôn.  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi tác giả tiếp tục thinh lặng “sống hờ hết kiếp, trong duyên trái đời.”

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình buồn nếu chỉ có một người?  Thế là dư luận đổ xô đi tìm “người ấy” của T.T.Kh để hỏi xem “người ấy có buồn không, có còn nghĩ tới loài hoa vỡ.”  Kẻ xầm xì nói đó là nhà thơ Thâm Tâm, người lại bảo là nhà văn Thanh Châu.  Nguyễn Bính, J. Leiba và bao nhiêu anh hùng thiên hạ khác nữa, cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của mình!  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi loài hoa ti gôn chỉ nở một lần, hoa rụng mang theo niềm bí mật của người yêu hoa.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình ngang trái nếu không có người thứ ba, là kẻ có nợ nhưng không duyên, có nghĩa nhưng không tình?  Thế mà thiên hạ chẳng ai buồn tìm hiểu người chồng “nghiêm luống tuổi” là ai?  Báo chí chẳng tốn một giọt mực, không một lời phân ưu.  Chẳng ai buồn thắc mắc đến danh tính của kẻ chiến thắng, nhưng lại là chiến bại, kẻ “được” nhưng là “mất.”  Cũng như vợ mình, chân dung của ông vẫn là một ẩn số, nhưng là một ẩn số phụ bé nhỏ, không lối đáp trong nghi án văn học T.T.Kh.

ZZZBài thơ tình lãng mạn thời tiền chiến này đã đi sâu vào lòng tôi một thời.  Ngắm hoa ti gôn “sắc hồng tựa trái tim tan vỡ, và đỏ như màu máu thắm pha,” tôi ngậm ngùi xót thương người con gái bạc phận ôm mối tình dang dở lên xe hoa, theo lời mẹ cha nhắm mắt đưa chân sống “quang cảnh lạ, tháng năm dài, đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.”  Tôi cảm thông tâm tình cay đắng người thiếu phụ buồn, ngồi bên song cửa sổ miễn cưỡng “đan đi đan lại áo len cho chồng,” mà mắt cứ dõi nhìn phương xa.  Tôi thầm trách “người ấy” đã làm tan nát thêm cõi lòng người yêu khi mang “Bài Thơ Đan Áo nay rao bán, cho khắp người đời thóc mách xem.”  Xót xa, tiếc nuối… là những tình cảm lưu luyến dành cho hai nhân vật trai thanh gái tú, có duyên gặp gỡ nhưng không phận phu thê, đã dệt nên những áng thơ tình bất hủ cho nền văn chương Việt Nam!

Cũng như người đời, tôi chưa một lần thắc mắc tâm tư người chồng đi bên lề cuộc đời vợ mình ra sao.  Ông buồn hay vui khi đêm đêm nằm ôm cái xác không hồn, với cặp mắt ngơ ngác thất thần?  Ông nghĩ gì khi môi đụng làn môi băng giá?  Ông cảm thấy gì khi được vợ, nhưng không được trái tim của nàng?  Cho đến một ngày tình cờ đọc Kinh Thánh, tôi ngờ ngợ như đọc được nỗi niềm cay đắng của ông, một người đứng bên lề cuộc đời người yêu qua những dòng chữ chua chát “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b).  Ôi, Thiên Chúa của tôi, Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, giàu sang và uy quyền, lại chia sẻ chung số phận hẩm hiu với người chồng già bạc phận trong “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” hay sao?  Tôi đã sống ra sao để Ngài phải thốt lên những lời ai oán ấy.

Từ “ngày vui pháo nhuộm đường” đó, cuộc sống tuy nhiều sầu muộn, tháng ngày đong đầy những chua cay, nhưng T.T.Kh. không hề có ý định chạy trốn cuộc sống, cũng chẳng dự định trốn theo người yêu.  Nàng “vẫn đi bên cạnh cuộc đời,” trong sự “ái ân lạt lẽo” của chồng, với một thái độ lạnh lùng, dửng dưng chấp nhận sự thật dù phũ phàng.  Tôi cũng thế, vẫn đi bên Thiên Chúa, vẫn thờ phượng Ngài, không có ý định bỏ đạo, càng không muốn chống đối Ngài.  Chỉ là một thái độ lạnh nhạt chấp nhận sự việc có Chúa bên đời như một tình cờ, như một sự ép đặt của mẹ cha.  Còn lòng tôi ư? Người thiếu phụ có chồng “vẫn giấu trong tim bóng một người,” chỉ một người thôi!  Còn tôi, thờ phượng Ngài đó nhưng che giấu trong tim biết bao bóng hình, những mộng mơ với thế gian phù phiếm, những toan tính cho tương lai, dù tương lai không thuộc về tôi, và bao dự định dang dở…  Những bóng hình đó không ngừng đeo đuổi tôi đến nhà thờ những ngày Chúa nhật dù chỉ một tiếng, vẫn hiện diện trong những lời kinh ro ro thuộc lòng dù chỉ vài phút.  Như một thiếu phụ đoan trang khép mình trong lễ giáo, tôi tuân giữ những luật buộc một cách máy móc, dâng Ngài những của lễ dư thừa trong nhăn nhó.  Nhưng linh hồn tôi, trái tim tôi, tâm trí tôi… dật dờ đâu rồi trong một cõi xa xăm nào đó!

Đi bên chồng nhưng lại hỏi “người ấy” có buồn không, đó là tâm trạng của người xưa.  Còn tôi hôm nay đi bên Ngài đó, nhưng vất vả lo toan cho những việc ở trần gian.  Miệng nói tôn kính Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự.  Nhưng bao sức lực, trí lực, tài năng, máu huyết của tuổi thanh xuân… tôi đã dâng hiến cho thế gian hết rồi, để mong tìm một chỗ đứng trong xã hội, một cuộc sống tiện nghi…  Còn chăng chỉ là cái xác mệt mỏi vô hồn trong lòng nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật buồn.  Xa thật hai cõi lòng của tôi và Ngài!  Phải chăng những lời trách móc “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b) là để chỉ tôi sao?

“Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời…, vẫn giấu trong tim…,” “vẫn đi” “vẫn giấu,” một sự ngoan cố đến lạ lùng của một phụ nữ yếu đuối.  Không có ý định từ chối cuộc sống và gia đình, nhưng cũng không có ý định chôn hình ảnh xưa cố quên để sống.  Nàng đã cố bám víu lấy nó như một thứ lương thực nuôi sống hiện tại.  Tôi thấy thấp thoáng hình ảnh mình trong sự cố chấp, bám dính quá khứ của người thiếu phụ.  Vẫn biết một ngày nào đó tôi sẽ phải rũ áo ra đi, không mang theo được gì, nhưng tôi vẫn ngoan cố xây đắp cho thật nhiều.  Vẫn biết đời sau mới là thiên thu vĩnh cửu, nhưng tôi chỉ chăm lo hạnh phúc hời hợt của vài thu chóng qua.  Phải chăng đó là oan trái của kiếp người?  Phải chăng con rắn ngày xưa vẫn tiếp tục cám dỗ trong lòng mỗi người mãi không thôi?  Người thiếu phụ đã bám lấy cả hai, và nàng đã phản bội cả hai: người yêu và chồng mà cuộc sống chỉ là “từng thu chết, từng thu chết.”  Kết quả cuộc sống của tôi có khá hơn không khi tôi cùng bám vào cả hai: Thiên Chúa và thế gian?

Còn gì xót xa não nùng cho bằng khi nghe những lời thở than của người vợ hiền “Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời, ái ân lạt lẽo của chồng tôi.”  Phải chăng đó cũng là những tiếng trách móc của tôi về sự “ái ân lạt lẽo” của Thiên Chúa?  Như một ông chồng già giàu có nhưng keo kiệt, uy quyền nhưng bủn xỉn, Ngài quay mặt làm ngơ trước những lời van xin thống thiết của tôi: cái xin không được, cái không xin lại cho, cái muốn được thì mất, cái mất lại được.  Ngài đã bỏ tôi chới với một mình trong khổ đau, mặc tôi ngụp lặn trong cô quạnh không lời ủi an.  Trong nỗi đau không tình cờ đó, Ngài tiếp tục thinh lặng, bí mật và khó hiểu… không một lời đáp trả.  Quả là lạt lẽo và vô tình làm sao!

Dù lời thơ ai oán, hồn thơ chất chứa niềm trách móc cam chịu của người vợ bị chồng “lạt lẽo, hờ hững,” nhưng tôi vẫn bắt gặp đâu đó một sự quảng đại nơi người chồng “nghiêm luống tuổi” môn đăng hộ đối.  “Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ, “người ấy” cho nên vẫn hững hờ.”  Chỉ là hững hờ thôi sao?  “Vẫn biết,” một sự khẳng định chắc chắn đến thế, nhưng không có cảnh đòi ly dị, không đuổi về nhà người vợ ngày qua đêm lại chỉ “thờ thẫn hồn eo hẹp” nhớ người xưa, không cưới năm thê bảy thiếp, không đánh đập hành hạ, mà cũng chẳng có chuyện “ông ăn chả bà ăn nem,”… không một hành động cụ thể nào cho sự trả thù.  Chỉ là một thái độ “hững hờ” của người quân tử!  Thái độ “hững hờ” hay nồng nàn, “lạt lẽo” hay sốt mến còn do thái độ cảm nhận của đối tượng nữa.  Tôi không thể nhìn thấy cuộc đời màu hồng khi đeo cặp kiếng đen.  Làm sao có thể tìm thấy một sự yêu đương nồng cháy khi “từ đấy thu rồi, thu lại thu, lòng tôi còn giá đến bao giờ?”  Ai có thể làm tan tảng băng nếu lối vô bị bít kín?  Ly nước đã đầy làm sao có thể rót thêm?  Làm sao có thể tìm được lòng sốt sắng yêu mến khi tôi đến với Thiên Chúa với tấm lòng giá băng, qua những nghi thức thờ phượng hời hợt bên ngoài, với trái tim đầy ắp những tham vọng thế gian, và cái đầu tính toán đầy những thành kiến.

Có đúng chăng sự “hững hờ” “lạt lẽo” của người chồng trong “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” là kết quả cách sống thờ ơ của người vợ?  Có sai không thái độ giận dữ của Thiên Chúa “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!  Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16) là kết quả cách sống dở dở ương ương của tôi?  Tôi còn có sự tự do lựa chọn cho mình một lối sống, nhưng người con gái đất Việt bảy mươi năm về trước thì không.  Vậy tôi và nàng ai đáng thương, và đáng trách hơn?

Xuyên suốt bốn bài thơ của T.T.Kh, ngoài thái độ “hững hờ” “lạt lẽo” của người chồng, còn một thái độ tế nhị khác nữa, đó là sự chờ đợi!  Ông đã âm thầm đi bên cạnh cuộc đời vợ mình, để chờ đợi sự quay về của người vợ hiền, nếu không quay về vì yêu thương thì cũng xin vì bổn phận.  Qua ông, tôi bắt gặp hình ảnh chờ đợi của Thiên Chúa, Ngài đã kiên nhẫn đứng bên lề cuộc đời của những người đã chọn Ngài là Chúa, nhưng chỉ là môi miệng, để ngày qua tháng lại tiếp tục mòn mỏi trông chờ.  Một Thiên Chúa đầy quyền uy nhưng thật tội nghiệp vẫn lặng lẽ đứng đó, không một lời giải thích cho thái độ tưởng như hờ hững, lạt lẽo của mình, với đôi cánh tay giang rộng để chờ đợi không chỉ thân xác, không chỉ hình thức, không chỉ môi miệng, nhưng là một tình yêu đích thực từ trái tim, từ một cái xác có hồn, một sự dâng hiến trọn vẹn tuyệt vời của người yêu.

Ngược lại với sự quảng đại chờ đợi trong âm thầm nhẫn nhục của người chồng, là một sự phản bội tế nhị của “người ấy”:

“Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài Thơ Đan Áo của chồng em
Bài Thơ Đan Áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.”
Là giết đời nhau đấy biết không? (Bài Thơ Cuối Cùng)

Bây giờ thì nàng đã rõ rồi tấm lòng yêu thương của người mà nàng hằng ấp ủ trong tim.  Trong khi người con gái “vườn Thanh” lo lắng “nếu biết ngày mai tôi lấy chồng, trời ơi, người ấy có buồn không,” với một niềm tin mạnh mẽ vào người yêu “nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ, người ấy ghi lòng vẫn nhớ em,” và nỗi khắc khoải mong chờ được tái ngộ dù chỉ trong mơ “tiếng lá thu khô xiết mặt hè, như tiếng chân người len lén đến.”  Thế mà người ấy lại nhẹ nhàng đem tình nàng “rao bán” trên mặt báo. “Bài Thơ Đan Áo” chỉ viết riêng cho chị, chia sẻ nỗi lòng u uất của người con gái lấy chồng phương xa, giờ còn đâu nữa những tâm tư thầm kín của người thiếu phụ khuê các.  Người ta đã quên rồi lời hẹn xưa “cố quên đi nhé câm mà nín, đừng thở than bằng những giọng thơ.”  Người ta thương gì “một mảnh lòng tan vỡ,” xót xa gì “một tâm hồn héo,” tiếc gì một đóa “hoa tàn dấu xác xơ.”  Không ăn được thì đạp đổ!  Hạnh phúc của người yêu nào có nghĩa lý gì!  Thẳng tay, phũ phàng, và dứt khoát “lại chính là anh, anh của em” đó!  Đâu rồi một tâm hồn nghệ sĩ cao thượng?  Đâu rồi nét quân tử của người yêu hoa?  Chả trách nào tiếng chim trong lồng tắt lịm từ đó!

Hình ảnh “người ấy” phải chăng là hình ảnh của thế gian: đẹp đẽ, lãng mạn, nên thơ… khi tình đang mặn nồng, thưở “nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn.”  Nhưng khi lòng tôi thao thức với lời mời gọi thiêng liêng từ trong đáy tim, thì thế gian cố níu kéo bằng những dụ dỗ ngon ngọt, những hình ảnh phù phiếm, sự hưởng thụ thân xác.  Và khi tôi nhất quyết quay gót trở về với Thiên Chúa, thì bộ mặt thế gian biến đổi, với những gian trá mưu mô xảo quyệt, với hành động trả thù bỉ ổi, nhằm phơi bày tội lỗi thầm kín của tôi, cho dù làm thế “là giết đời nhau.” “Đời chỉ đẹp khi tình còn dang dở!”  Tình đã dang dở rồi đây, nhưng người trong cuộc có thấy đẹp hơn, thơ mộng hơn không, hay chỉ toàn cay đắng phũ phàng?

Thế gian là thế đấy!  Người tình là thế đó!  Mặc dù “oán hờn anh mỗi phút giây” nhưng lòng thì “giận anh không nỡ nhớ không thôi!”  Thiên Chúa có lẽ quá thấu hiểu sự yếu đuối mù quáng của con người, nên hai chữ TỈNH THỨC được lập đi lập lại nhiều lần trong giáo huấn của Ngài, và ân sủng từ trời cao không ngừng tuôn đổ, để giúp con người biết lựa chọn, và sống với sự chọn lựa của mình một cách sáng suốt.

Chuyện tình nào rồi cũng có đoạn kết, mối tình tay ba nào cũng phải kết thúc bằng sự lựa chọn.  Như “Người chồng Người tình” không thể cùng song hành với nhau trong cuộc sống “Người vợ,” thì Thiên Chúa cũng không thể cùng đồng hành với thế gian trong trái tim, và linh hồn một người.  Tôi đang ở đâu trong mối tình tay ba giữa “Thiên Chúa – Thế gian – và Tôi?”  Tôi sẽ chọn lựa ai, chỉ một trong hai?  Và sẽ sống với thái độ nào trong sự tự do lựa chọn đó?

Lang Thang Chiều Tím
August 2007