CÓ NÊN TRỞ VỀ KHI CHA KHUẤT BÓNG?  

“Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.  Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.” (Lc 15:17-19)  Đang lúc soạn bài diễn văn trong đầu để nói với cha trong ngày trở về, nó lặng người đi khi nghe dân làng truyền tai nhau tin cha nó mới mất chiều qua.  Cái chết đến thật bất ngờ, người cha đã qụy ngã ngay trước cổng nhà khi ánh hoàng hôn tắt sau đồi, nơi ông thường ra đứng mỗi ngày để mong ngóng đứa con đi hoang trở về.  Tuổi già sức yếu đã cắt đứt nguồn hy vọng mong manh, ngày ông có thể dang rộng vòng tay nhân ái để đón thằng con nghịch tử về với ông, về dưới mái nhà thân thương.  Dân làng không biết người cha tội nghiệp chết vì kiệt sức trong mỏi mòn đợi trông, hay chết vì cơn đau tim, họ chỉ truyền tai nhau tin ông mới mất.

Nó hụt hẫng như người vừa bị ai giằng lấy cái phao cứu sinh cuối cùng giữa dòng nước chảy cuồn cuộn.  Thẫn thờ, nó thả người ngồi phịch xuống đất, há miệng ra thở dốc từng hồi như có ai đang bóp nghẹt lấy trái tim.  Hai dòng nước mắt lã chã tuôn rơi trên khuôn mặt gầy hốc hác sạm nắng.  Nó không hiểu là nó đang khóc thương cha, hay khóc thương cho cái bao tử xẹp lép không còn đường về.  Nó mệt mỏi đưa tay quệt nước mắt gục đầu xuống, kéo theo cái thân xác tiều tụy gầy dơ xương W13rũ xuống đất trong tiếng kêu ọc ọc của cái dạ dày trống không.  Nó không hiểu sao số phận lại nghiệt ngã với nó như vậy.  Sao cha lại chết ngay lúc nó muốn trở về.

Phải mất một lúc lâu nó mới lồm cồm ngồi dậy, chống cặp mắt ngây dại thẫn thờ nhìn về hướng thôn làng xa xa trong bóng chiều tà.  Nó bối rối đưa hai tay vò cái đầu rối bù mà vẫn không biết nên làm gì trong lúc này.  Có nên mang cái thân tàn ma dại, đầy vết lở loét về để chịu tang cha hay không?  Hay có gan chơi thì có gan chịu, lỡ đi hoang rồi thì đi luôn?  Nhưng nếu đi luôn thì đi đâu?  Nó đã từng đi ở đợ, chăn heo với mong ước là ăn những thức ăn của heo mà vẫn không ai cho.  Nếu về, thiên hạ có chửi rủa, chê cười nó không?  Trở về để ở lại trong ngôi nhà đó khi người cha đã ra đi, hay về để rồi tiếp tục đi hoang?  Ai sẽ chấp nhận nó trở về trong ngôi nhà đó?  Về với cương vị gì?  Đầu óc nó rối bung lên với một mớ những câu hỏi không lối đáp.  Nó không lạ gì người anh cả hay ghen tương, tị nạnh của nó.  Nó đã lấy hết sạch phần gia tài của nó rồi, nó đâu còn phần gì trong căn nhà, và ruộng nương nữa.  Sợi dây cuối cùng là người cha rộng lượng phóng khoáng chia gia tài cho nó cũng đã không còn.  Vậy thì có nên cất bước trở về hay không?

Cơn đói hoành hành bao tử khiến đầu óc nó không đủ minh mẫn để suy nghĩ tiếp, và không biết phải quyết định ra sao.  Bóng tối ập xuống trong đầu nó.  Nó không sợ những lời khinh chê, hay cái nhìn dè bỉu của làng xóm.  Nó chỉ sợ phải đối đầu với ông anh cả hẹp hòi ích kỷ.  Sợ ông sẽ triệt con đường sống cuối cùng của nó.  Lo rằng ông sẽ đày đọa nó cho bõ ghét, sẽ hành hạ nó như đứa đầy tớ, sẽ đay nghiến nó vì cái tội phá gia chi tử.  Nó biết cũng giống như nó, anh cả cũng chẳng thương yêu gì người cha già tội nghiệp đâu, nhưng ông sẽ chì chiết nó vì cái tội bất hiếu, gián tiếp gây nên cái chết đau khổ mòn mỏi của người cha.  Ông có thể ngược đãi dồn nó vô bước đường cùng để nó phải ra đi một lần nữa, hoặc tệ hơn ông có thể đối xử tàn ác, bức tử nó đến chết.  Nó rùng mình khi nghĩ đến ngày mai đen tối ở với ông anh cả.

Mắt nó hoa lên vì đói, nó thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, trong đầu nó hiện lên những thước phim đẹp của những ngày dĩ vãng xa xưa bên người cha nhân ái.  Những bữa cơm ấm cúng đầy thịt, nghi ngút khói của ba cha con.  Khuôn mặt phúc hậu của cha, những lời giáo huấn chứa chan yêu thương, những lời khuyên bảo anh em nó cách sống ở đời, dạy cách làm việc đồng áng, cách quản lý nhà cửa gia nhân….  Cha không những chỉ yêu thương hai anh em nó, mà ông yêu thương cả những người đày tớ, làm công trong nhà.  Ông sống chan hòa với làng giềng, già trẻ lớn bé ai ai cũng thương mến.  Trong đầu nó lại hiện lên hình ảnh của nó ngày xưa, thưở nhỏ mặc quần áo đẹp, hay chạy lon ton thả diều bên cạnh cha khi đi thăm đồng, nghe những lời dạy dỗ của cha chữ được chữ mất, tai này lọt qua tai kia.  Nó thấy trước đây khi còn ở với cha, nó cũng đâu tới nỗi nào.  Chỉ từ khi nghe lời bạn bè xấu xúi giục đòi chia gia tài.  Khi có tiền trong tay, xa gia đình, bạn bè xấu vây quanh, nó bắt đầu một cuộc sống đua đòi phóng đãng, không làm ăn, chỉ biết ăn chơi đàng điếm thì núi cũng phải lở.  Nó bị phá sản, ra thân tàn ma dại như ngày hôm nay là một kết quả đương nhiên.  Chỉ xui xẻo cho nó là ngay lúc nó trắng tay thì vùng nó đang ở lại xảy ra một nạn đói khủng khiếp.  Nó thấy tiếc nuối hình ảnh ngày xưa của chính nó.  “Nhân chi sơ, tính bản thiện,” nếu nó chịu lắng nghe lời cha, nếu nó vẫn sống bên cạnh cha nó, nếu nó không nghe lời đám bạn xấu đòi chia gia tài, nếu nó không ăn chơi đàng điếm, nếu… và nếu…!  Bên tai nó cứ văng vẳng nuối tiếc chữ “nếu…” oái oăm.

Nó bỗng choàng tỉnh dậy, người vốn đã mệt lả vì đói, giờ lại thêm hai luồng tư tưởng xâu xé nhau dữ dội như muốn vắt kiệt sức tàn của nó.  Về hay không về?  Về với ông anh cả cũng chết, mà không về cũng chết đường chết chợ.  Nó chợt nhớ tới bài diễn văn nó đang soạn dở trong đầu: “Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.”  Ừ, nó chỉ xin coi nó như một người làm công thôi mà.  Thay vì làm công cho cha, thì giờ đây làm công cho anh cả.  Cũng là làm công, chỉ khác nhau người chủ thôi, có gì đâu mà phải tính toán.  Khuôn mặt hiền lành phúc hậu của người cha hiện lên trong tâm trí như khích lệ ý tưởng đó.  Mái nhà thân yêu ngày xưa của ba cha con, căn phòng nhỏ với cái bàn học xinh xắn góc tường và cái giường thơm mùi gỗ lim, làn khói nghi ngút sực nức mùi thức ăn trong chái bếp sau hè… tất cả như đang vẫy tay mời gọi nó trở về.  Ừ, cha đã khuất nhưng về với mái nhà xưa sẽ cho nó có cơ hội tìm lại chính mình, tìm lại con người mà nó đã đánh mất trong chuyến đi hoang vừa rồi.  Về để tìm lại con người “nhân chi sơ, tính bản thiện” mà cha nó, ngày qua ngày đã dày công dạy dỗ, giáo dục anh em nó với tất cả tình thương và tấm lòng nhân hậu của người cha.

Thế là nó quyết định trở về, dù cái bụng đói trống rỗng thôi thúc, nhưng đầu óc khôn lanh ranh mãnh mách bảo cho nó biết không nên về trong lúc ma chay nhộn nhịp này.  Bà con láng giềng, họ hàng sẽ qưở trách nó, nó sẽ trở thành tâm điểm chú ý của mọi người.  Thôi, nó sẽ ráng sống lây lất đợi thêm vài ngày nữa, chờ cho những ngày chôn cất cha qua đi, cho họ hàng thân thuộc ra về, khi mọi sự trở lại nhịp sống bình thường, để không còn ai chú ý vào sự trở về không kèn không trống của nó nữa.

Đúng như nó dự đoán, người anh cả tuy không vui, không muốn nhưng ông vẫn lạnh lùng chấp nhận sự trở về của nó như một người làm công.  Ông không hạch tội, không trách mắng, chẳng hỏi han, cũng chẳng tỏ chút xót thương cái thân tàn ma dại, đầu bù tóc rối, và áo quần tả tơi của nó.  Giao ước được ký kết rõ ràng giữa hai anh em, nó không còn phần gì trong nhà này, đày tớ làm việc gì, nó sẽ làm việc đó, họ ăn cái gì, nó ăn cái đó.  Ông trả cho họ bao nhiều tiền công, cũng sẽ trả cho nó y như vậy, không hơn không kém.  Nó vui vẻ chấp nhận, miễn sao có cái gì lấp cho đầy bụng, có chỗ tá túc qua ngày, có cái mặc cho ra hồn một con người, lại còn được thêm tiền công.  Còn gì hơn nữa?

Sau vài ngày ăn uống nghỉ ngơi cho lại sức, nó bắt đầu công việc của một đứa làm thuê.  Những ngày đầu làm việc ngoài đồng, nó ngạc nhiên khi thấy đám đầy tớ âm thầm làm giúp nó nhiều công việc nặng nhọc của đồng áng, mà nó vẫn còn lúng túng chưa quen.  Đến bữa ăn, nó lạ lùng khi thấy người hầu len lén đưa thêm phần thịt cá trong bữa cơm của nó.  Quần áo mới thay ra, mắt trước mắt sau đã thấy họ đem đi giặt, và đưa cho nó bộ quần áo gấp ngay ngắn đã được giặt sạch sẽ.  Cái giường nó nằm đã được ai đó kín đáo lót thêm những lớp vải dày để nằm cho êm.  Buổi tối trời trở lạnh, bọn gia nhân lén đưa thêm cho nó tấm chăn bông mượt mà.  Những lúc tay nó phồng rộp lên vì phải cầm cái cuốc cái cày, họ đã giành làm hết phần việc của nó, đưa thuốc cho nó xức, bảo nó nghỉ ngơi cho khỏe.  Người tớ gái còn dấm dúi đưa cho nó cái nón rơm rộng vành để đội dưới ánh nắng trưa hè chói chang ngoài đồng.  Đến ngày lãnh lương, nó nhận được phần lương đầy đủ từ người anh cả như những người làm công khác, vì nó đã hoàn thành xuất sắc công việc đồng áng mà nó được giao.  Nó ngạc nhiên không hiểu tại sao nó lại được sự ưu đãi kín đáo đặc biệt như thế.  Nó không biết từ đâu, nhưng có điều chắc chắn là không phải từ người anh cả lạnh lùng hay ghen tị, vẫn nhìn nó với ánh mắt đố kỵ, và chẳng bao giờ thèm nói chuyện với nó.  Nó chẳng màng điều đó, nó chỉ thắc mắc và muốn tìm hiểu nguyên nhân.

Ngày qua ngày, nó đã từ từ lại sức và lấy lại phong độ của một thanh niên đang tuổi trưởng thành.  Căn nhà xưa không thay đổi gì nhiều so với lúc trước khi nó đi hoang, gợi nó nhớ lại hình ảnh của người cha, và những lời dạy dỗ của cha như vẫn còn văng vẳng đâu đây trong không gian thân thương này.  Bọn gia nhân trong nhà, những kẻ làm thuê ngoài đồng vẫn nhìn nó với ánh mắt kính nể, vẫn lễ phép thưa gởi nhẹ nhàng như nó vẫn còn là cậu chủ trong nhà, đã phần nào giúp nó lấy lại sự tự tin và phong thái của một cậu chủ.  Đôi khi nó cũng lúng túng không biết mình là ai trong căn nhà này.  Một cậu chủ hay một kẻ làm thuê?  Dưới cái nhìn khinh ghét và miệt thị của ông anh cả, thì nó đúng là một kẻ làm thuê, ngày ngày sắp hàng lãnh nhận tiền công.  Nhưng dưới con mắt của bọn gia nhân, nó thấy mình vẫn là một cậu chủ ngày xưa.

Thôi mặc kệ, cậu chủ hay kẻ làm thuê không quan trọng.  Những tháng ngày qua đã dạy cho nó biết rằng giá trị và nhân phẩm của một con người không phụ thuộc vào giai cấp hay tiền bạc.  Điều nó muốn là giải tỏa những khúc mắc trong lòng từ bao lâu nay.  Một hôm nó chặn một đứa gia nhân đang mang phần cơm ngon nóng hổi ra cho nó, hỏi tại sao nó lại được sự ưu đãi như thế.  Đứa gia nhân luống cuống ấp a ấp úng, gãi đầu gãi tai:

–  Thưa cậu, thưa… vì trước khi chết, ông chủ có dặn…., ông chủ có lo… có… để lại phần tiền để lo cho cậu khi cậu trở về.

Nói xong tên gia nhân lẩn nhanh đi mất như sợ bị tóm lại hỏi thêm.  Nó ngạc nhiên đến thẫn thờ.  Cha dặn…?  Sao cha biết có ngày nó trở về mà dặn dò như thế?  Hôm sau ra đồng, nó hỏi một đứa đầy tớ đang cày cho phần ruộng của nó.  Đứa đầy tớ sau một lúc lúng túng ấp úng, rồi cũng cho nó câu trả lời giống tên kia.  Buổi tối nó hỏi người quản gia, bà bếp… thì ai ai cũng bối rối và sau cùng thì cũng một câu trả lời như nhau.  Họ không nói rõ là cha dặn những gì, để lại phần tiền bao nhiêu để lo cho nó.  Họ cứ lắp bắp mãi câu:  “Ông chủ dặn… ông chủ lo… ông chủ đưa tiền trước….. cậu không cần phải bận tâm!”  Tất cả là một sự lo lắng khôn ngoan đầy yêu thương của cha nó, tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ như bà mẹ chăm con thơ, từ đầu đến chân, từ khi nó còn đang đi hoang ở mãi tận chân trời nào.

Nó nghẹn ngào, từ từ nó mới nhận ra được tình yêu sâu thẳm của cha dành cho nó.  Ông vẫn ấp ủ niềm hy vọng có ngày nó sẽ trở về.  Ông cũng lo sợ ngày đó ông không còn sống để đón nó trong vòng tay, để ôm ấp xoa dịu những vết thương của nó, để sai gia nhân đưa áo đẹp nhất cho nó mặc, xỏ nhẫn vào tay cho nó, mang dép vào chân cho nó.  Ông đã lo lắng cẩn thận trước mọi sự, mọi ngõ ngách, tính toán trước những tình huống có thể xảy cho đứa con dấu yêu.  Những sự chăm sóc, quan tâm chu đáo của đám gia nhân, càng làm nó cảm thấy nao nao nghèn nghẹn trong tim.  “Cha ơi…!”  Nó buột miệng khẽ gọi!  Trái tim nó thổn thức bồi hồi, hai dòng nước mắt lặng lẽ tuôn rơi trong bóng đêm.  Đến bây giờ nó mới nhận ra được tình yêu thương vô bờ bến của cha.  Đến bây giờ nó mới hiểu được tấm lòng bao la, ẩn sau khuôn mặt nghiêm nghị, mà đôi khi nó cảm thấy khó gần gũi.  Muộn mất rồi!  Nó gục đầu xuống ôm mặt nức nở!  Cha đã không còn sống để nó có thể qùy xuống, nói lên lời tạ lỗi chân thành từ trái tim thống hối ăn năn, chứ không phải là một bài diễn văn được soạn trước vì cái bao tử.  Cha đã ra đi trước để nó không thể nói lên lời yêu thương, mà hình như chưa bao giờ nó nói với cha.  Từ lúc nào đó, trái tim chai sạn của đứa con nghịch tử đã bắt đầu biết yêu cha mình.

Ngày tháng trôi qua, những cử chỉ chăm sóc ưu đãi của đám gia nhân không lọt qua được ánh mắt quan sát khắt khe của người anh cả, nó trở thành cái gai nhọn trong mắt ông anh.  Ông hậm hực xốn xang chỉ muốn bứng nó đi cho khuất mắt, nhưng hình như lại không dám.  Ông có vẻ còn e dè lưỡng lự, có lẽ như ông cũng đang vướng vào một lời hứa nào đó với cha.

Một ngày đẹp trời, người anh cả kêu hết đám thợ làm công, gia nhân, những người giúp việc trong nhà, và nó ra bàn chuyện.  Ông nói muốn bán hết tất cả những thưở ruộng và căn nhà của cha để lại để đi làm ăn phương xa.  Ông sẽ cho tất cả mọi người trong nhà nghỉ việc kể cả nó, không giữ lại ai hết, và cũng không giữ lại một cái gì.  Mọi người xôn xao bàn tán, người thì bất bình, kẻ thì hậm hực tỏ vẻ phản đối trước quyết định không thu phục lòng người này, còn nó thì lặng thinh không chống đối.  Nó cúi mặt xuống tư lự, di di ngón chân trần trên đất, nơi nó đã được sinh ra và lớn lên, nơi đã chứng kiến ngày nó đi hoang và trở về.  Số phận thật trớ trêu với nó, khi nó cất bước trở về, thì cha lại bỏ nó ra đi, khi nó bắt đầu chớm nở tình yêu với căn nhà thân thương và mảnh đất quê cha đất tổ này, thì người anh lại muốn bán đi tất cả.  Nó đâu còn cổ phần gì trên số gia tài này để nói lên ý kiến của mình.  Nó lấy quyền gì để khuyên răn hay ngăn cấm người anh cả?  Nó chặc lưỡi xót xa, cha dưới suối vàng chắc sẽ buồn lắm nếu anh nó bán đi ngôi nhà tổ, và ruộng nương từ bao đời để lại.  Nó cảm thấy tiếc nuối và cay đắng trong lòng.  Đứa đi hoang thì muốn ở lại.  Kẻ ở nhà thì lại muốn đi hoang!  Thôi, đành chịu vậy!  Nếu nó đã từng gom góp tất cả phần gia tài của nó để trẩy đi phương xa, bây giờ đến phiên người anh cả, thì tại sao lại không được chứ?  Công bằng thôi mà!  Nó nhún vai, không sao, chỉ sợ cha buồn!  Phần nó cũng chẳng lo, cũng may mà nó đã để dành được vài tháng tiền làm công, tích góp được một số kinh nghiệm sống trong những tháng ngày qua.

Vì cần bán nhà và ruộng nương nên một vài vị cao niên trong làng, và trưởng tộc trong dòng họ được mời tới để mở di chúc của cha nó để lại.  Láng giềng và họ hàng ai cũng biết chuyện nó lấy nửa phần gia tài bỏ đi hoang, nên chắc chắn phần gia tài còn lại trong nhà, đương nhiên sẽ thuộc về người anh cả thôi.  Họ tới và làm như một nghi thức chiếu lệ để chứng thực tính hợp pháp của căn nhà, và những cánh đồng bao la bát ngát.  Di chúc được mở ra, ai ai cũng kinh ngạc sững sờ khi biết phần gia tài được chia đều cho hai người con, người anh cả một nửa và người con út một nửa, hai phần bằng nhau không hơn không kém.  Tất cả nhà cửa và ruộng vườn khi muốn bán thì phải có sự đồng ý của cả hai anh em.  Đứa con út đã từng bỏ nhà đi hoang phải được cư xử và kính trọng như một người con trong gia đình, một cậu chủ trong nhà, chứ không phải là một người làm công, một kẻ thất bại hay ăn bám.  Người con thứ cũng có đầy đủ quyền hành trong nhà để tham gia vào những việc ma chay, hay những quyết định quan trọng trong gia đình và dòng tộc.

Nó mở to mắt kinh ngạc, miệng há hốc ú ớ cứ như đang ở trong mơ.  Nó bàng hoàng tưởng mình nghe lầm, hay người ta đọc lộn.  Nó không chắc cha có tỉnh táo, có đủ trí nhớ không khi viết bản di chúc này?  Chắc ông đã quên là đã chia cho nó phần nửa gia tài rồi mà.  Chắc ông không nhớ nó là đứa con phá gia chi tử hay sao?  Ông không sợ nó lại đi hoang lần nữa sao?  Nếu không vì lo buồn trông mong nó thì liệu ông có mất sớm như vậy không?  Nó cảm thấy như nghẹt thở, mắt hoa lên, nó đưa tay đè lên trái tim thổn thức rồi òa lên khóc như đứa trẻ thơ, miệng mếu máo: “Cha ơi!”

Người anh cả sau giây phút bàng hoàng trước sự thật phũ phàng, ông nhắm mắt, lắc đầu, bịt tai la to lên: “Không, không thể như thế được!”  Ông giận dữ bắt đầu la hét, đập phá, chửi rủa mọi người là giả dối, bất công, rồi ông hét to lên ôm đầu chạy ù ra cửa, hung hăng như một người điên.  Đám gia nhân và những người làm công nãy giờ đứng xớ rớ trong góc nhà, giờ thì ôm nhau vui mừng nhảy múa, có người sung sướng đến chảy nước mắt như chính họ được hưởng phần gia tài vậy.  Họ biết chắc một điều là họ sẽ được giữ lại trong ngôi nhà này, với những công việc cũ, với người chủ cũ, và sẽ chẳng có gì thay đổi cả.  Họ hân hoan hạnh phúc với niềm vui của cậu chủ nhỏ, mà giờ đây chính thức trở thành chủ của họ.  Họ vui mừng vì từ bây giờ họ có thể phục vụ, chăm sóc cho cậu chủ một cách công khai, như lời dặn dò của người cha, chứ không phải là trong lén lút như những tháng ngày qua.

Mọi người còn chưa hết ngạc nhiên, người quản gia già đi vô nhà trong một lúc, rồi khệ nệ bưng ra chiếc áo đẹp nhất mà người cha đã chuẩn bị sẵn để mặc cho nó.  Đại diện cho người cha đã khuất, ông xỏ vào tay nó chiếc nhẫn ấn tín tượng trưng cho quyền bính của người con, và xỏ vào chân nó đôi giầy, dấu hiệu của người con trong gia đình.  Hôm đó, bê béo được giết và một yến tiệc linh đình được khai mạc để chính thức chào đón đứa con đi hoang trở về trong cương vị một người con, một cậu chủ, theo lời dặn dò của người cha nơi chín suối.  Họ vui mừng nhảy múa, đàn ca hát xướng đến tận đêm khuya.  Trăng đêm nay sáng quá, vầng trăng tròn trên bầu trời mang dáng dấp khuôn mặt của người cha nhân hậu nở nụ cười, tuy nụ cười chưa được trọn vẹn mãn nguyện vì buổi tiệc vắng bóng người anh cả.  Ánh trăng lung linh như cõi lòng bao la của người cha chiếu sáng cả một dải đất hiền hòa, để niềm vui của những người dự tiệc được kéo dài mãi.  Những vì sao lấp lánh trên bầu trời như đang nắm tay nhau nhảy múa, hòa chung với niềm hân hoan của mọi người trong gia đình xóm làng.

***********************

“Có Nên Trở Về Khi Cha Khuất Bóng?” không chỉ là mối ưu tư trằn trọc, một sự dằng xé quyết liệt của người con đi hoang trước hai ngã rẽ cuộc đời, mà đó cũng là sự đấu tranh nội tâm, sự lựa chọn sống chết của mỗi người trong cuộc sống.  Hình ảnh người cha đã khuất là những lúc khô khan nguội lạnh trong đời sống thiêng liêng, là đêm tối của tâm hồn, những lúc bị thử thách không cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa, là khi Thiên Chúa ẩn mặt, tình yêu im tiếng, khi tôi bị bỏ rơi trong tuyệt vọng…. trong những lúc khó khăn như thế, tôi có nên trở về với Người Cha Nhân Hậu, về với nhà thờ, và về với chính lòng mình không?

Người con hoang đàng đã chọn câu trả lời và có một kết qủa bất ngờ, còn bạn thì sao?

Lang Thang Chiều Tím
Mùa Chay Năm Thánh Lòng Thương Xót 2016

BÍCH-VÂN-THIÊN (có Youtube)

“Bích-Vân-Thiên” là một trong những tiểu thuyết của nữ văn sĩ Quỳnh Dao.  Chuyện kể về mối tình tay ba giữa hai người phụ nữ Bích, Vân và một người chồng chung tên Thiên.  Vì người vợ không thể sinh con nối dõi tông đường cho chồng, nên nàng đành chấp nhận người em kết nghĩa như người vợ lẽ cho chồng.  Dù là tự nguyện, nhưng những ích kỷ ghen tương của kiếp nhân sinh đã khiến họ nhận ra rằng, cả ba không thể cùng hạnh phúc chung dưới một mái nhà.  Một người chấp nhận ra đi để hai người ở lại hạnh phúc hơn.

Những tưởng chuyện tình thơ mộng sầu muộn chỉ có trong tiểu thuyết, qua sự tưởng tượng phong phú của nhà văn.  Nhưng đâu ai biết rằng cuộc sống muôn màu sắc cũng đang dệt nên một chuyện tình tay ba đẹp lãng mạn như một bài thơ, trắc trở với những cảnh đời éo le, với phần kết vẫn còn dang dở.   “Bích-Vân-Thiên” của đời thực là một chuyện tình tay ba giữa Thu Bích, người con gái vô tư hồn nhiên, duyên dáng như viên ngọc xanh biếc giữa đời, và một Đình Vân thư sinh trắng trẻo nho nhã với cặp kiếng cận, như một áng mây lững lờ quyện lấy viên ngọc bích trong trời thu.  Hiện diện giữa họ là một Thiên Chúa vô hình lúc ẩn, lúc hiện, lúc hiền hòa yêu thương, lúc thinh thặng đến lạnh lùng.

Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình sùng tín đạo Phật có lòng thờ kính ông bà tổ tiên, Vân đến với Bích khi chẳng biết Thiên Chúa là ai.  Đúng rồi, Thiên là Trời, là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, dạy cho con người những điều hay lẽ phải.  Thiên Chúa của Đạo Công Giáo cũng là Ông Trời thân thiện gần gũi của dân tộc Việt Nam đấy mà, người quen cả chứ có phải ai xa lạ đâu.  Nhưng ngược với sự suy nghĩ đơn giản của Vân, người con gái mà anh đem lòng yêu mến ở đảo, trước biến cố 30 tháng Tư năm 1975 là một đệ tử đã từng được nuôi dưỡng bởi câu kinh ê a mỗi sáng chiều trong nhà dòng các Sơ.  Nàng mong muốn vợ chồng sẽ cùng chia sẻ và đồng hành bên nhau trong đời sống tự nhiên cũng như trong đời sống thiêng liêng.

Bản chất vốn dĩ hiền lành và chân thật, mang trong tâm hồn phần nào vẻ đẹp của Đấng Chân Thiện Mỹ, Vân tự ý tìm hiểu Thiên Chúa của Bích là ai.  Khởi đầu Vân cảm thấy khó hiểu, chuyện một Thiên Chúa từ bỏ vương quyền cao sang để sinh ra làm người trong máng cỏ nghèo nàn, rồi lại lang thang bồng bế nhau đi tị nạn xứ người.  Cũng là kiếp tị nạn cả thôi, nghe sao đồng cảm quá, giống như cảnh đời của Vân-Bích đang vất vưởng ở đảo chờ ngày định cư.  Lạ thay, càng tìm hiểu anh lại càng thấy mến thương một Thiên Chúa với tình yêu bao la dành cho con người hay phản bội chóng quên, một Thiên Chúa mặc lấy xác phàm để rồi cuối cùng bị chết thảm thương nhục nhã trên cây thập giá.

Sau những tháng ngày học hỏi tìm hiểu về Đạo Thiên Chúa, năm 1984 Vân cúi đầu nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội trong nỗi ưu phiền của người cha già ở phương xa, mà sau này khi đại gia đình được đoàn tụ, ông thường hay trách cứ: “Anh con theo Đạo để lấy vợ thì ba không buồn, nhưng con theo Đạo thì ba rất buồn vì con quá sùng tín.  Con là một đứa con bất hiếu, bỏ ông bà cha mẹ mà theo Đạo vợ.”  Trái tim Vân tan nát, anh chỉ biết cúi đầu im lặng mỗi khi nghe lời phiền trách của người cha yêu dấu.  Cha Vân đâu ngờ rằng đứa con trai này chịu phép rửa tội bằng con tim thổn thức của tuổi trẻ đi tìm chân lý, bằng nỗi khát khao nhiệt tình của người vừa tìm ra được lẽ sống đời mình, chứ không phải rửa tội chỉ để lấy vợ, như người đời thường nói: “Con quỳ lạy Chúa trên cao, con lấy được vợ con thôi nhà thờ.”

Từ đó Thiên Chúa luôn luôn hiện diện giữa Bích-Vân trong mọi biến cố buồn vui, thăng trầm của cuộc sống.  Cuộc tình nhẹ nhàng êm đềm như một bài thơ qua dòng thời gian lững lờ trôi.  Mối tình tay ba “Bích-Vân-Thiên” được triển nở khi Bích-Vân chính thức nên một trong Thiên Chúa qua bí tích Hôn Phối vào tháng 12 năm 1985.  Hạnh phúc gia đình thêm viên mãn với sự góp mặt của hai thiên thần nhỏ, một trai một gái.  Hơn 30 năm trôi dạt xứ người, phồn hoa phú quý nơi xứ sở giàu có văn minh chỉ làm Vân tăng thêm lời tạ ơn.  Đức tin của Vân ngày càng lớn dần theo thời gian cùng với tình yêu anh dành cho cả hai, Thiên Chúa và Bích.   Không chỉ giữ riêng đức tin cho mình, với tình yêu mãnh liệt mà anh cảm nhận được từ Thiên Chúa, anh mạnh dạn chia sẻ đức tin đó cho người cha và anh em trong gia đình mình.  Gương sống và hạt giống đức tin đã sinh hoa kết trái nơi người em gái mà lần này với sự đồng thuận của người cha: “Con đã quyết định theo Đạo Công Giáo thì theo cho đến nơi đến chốn.” Người anh kế và cậu em trai cũng một lòng tin kính Chúa mặc dầu chưa chính thức vào Đạo, nhưng bản thân họ đã tự nhận mình là Kitô hữu.  Vân không chỉ ngừng lại nơi đây, anh tích cực chia sẻ đức tin đó cho những người nghèo khó bệnh tật, cho những người già yếu trong viện dưỡng lão, cho ban Giáo Lý Dự Tòng, ban Tĩnh Tâm Linh Thao, phong trào Cursillo, cho các sinh hoạt mục vụ khác của giáo xứ, và là cánh chim đầu đàn cho phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Thung Lũng Hoa Vàng.  Với cây đàn guitar, với giọng hát sôi nổi trầm ấm, với những lời nguyện chân thành bộc phát từ trái tim cháy bỏng, đức tin mạnh mẽ của anh đã sưởi ấm bao cõi lòng băng giá vì vắng bóng niềm tin.  Trong bất cứ sinh hoạt mục vụ nào, Bích-Vân cùng sát cánh, chia sẻ và hỗ trợ cho nhau như hai người bạn thiêng liêng tâm đầu ý hợp.

Ấp ủ trong tim lời mời gọi thầm thì nhưng tha thiết yêu thương của Thiên Chúa, Bích-Vân mơ ước dành trọn cuộc đời còn lại để ra đi phục vụ tha nhân.  Nhưng cuộc đời không như là mơ, dẫu giấc mơ đó thật là cao quý!  Làm chứng cho đức tin của mình bằng cuộc sống tông đồ nhiệt thành hình như chưa đủ.  Thiên Chúa muốn đức tin của Bích-Vân và gia đình phải được thử thách tôi luyện, chứng nhân của Ngài phải đổ máu trong một bi kịch oan nghiệt trớ trêu.  Trong một buổi sáng định mệnh ngày 3 tháng 3 năm 2011, khi bệnh tình trở nặng vì những ảnh hưởng nguy hại của các thuốc an thần, anh cần phải được khẩn cấp nhập viện.  Tổng đài 911 đã nhận được thông báo để cấp cứu…  Xe cứu thương và xe cảnh sát đã tới.  Nhưng than ôi, trong khoảnh khắc tích tắc, một viên đạn oan nghiệt từ một người cảnh sát không quen biết, không thù oán đã kết thúc cuộc đời anh.  Anh ra đi đột ngột không hiểu tại sao mình lại bị giết ngay trong chính ngôi nhà của mình, nơi vừa được một vị linh mục làm phép nhà cách đó ba hôm, nơi mà hai vợ chồng mơ ước sẽ làm nhà tĩnh tâm, là nơi hội họp cầu nguyện cho anh chị em… Cuối cùng anh đã trở về bên Giêsu, Đấng mà anh được rước vào lòng mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể.  Anh đã vĩnh viễn trở về với Đấng Tạo Hóa, Đấng Chân Thiện Mỹ, Đấng mà suốt cả cuộc đời anh khát khao tìm kiếm, và cũng chính vì Ngài mà anh mang tội bất hiếu.

Từ khi bị bịnh, anh đã chuẩn bị sẵn sàng để ra đi, cho dù là cách nào, vào bất cứ lúc nào.  Nhưng thực tế cái chết tức tưởi oan ức của anh đã gây đau khổ, khó chấp nhận cho những người thân còn ở lại.  Đức tin của người vợ, hai con đang chập chững bước vào đời, hai bên cha mẹ già, anh em đạo cũ, đạo mới, chưa theo đạo bị thử thách dữ dội.  Trong giây phút mà sự dữ lên ngôi, thần chết tưởng như chiến thắng, cái ác cười ngạo nghễ trên sự thiện, người ta khó lòng mà giải thích được tại sao một người đạo đức, sống tốt lành thánh thiện như anh lại có một cái kết thúc bi thảm như vậy.  Người đời sẽ chẳng bao giờ giải thích được, trừ phi họ nhìn lên cây thập giá, nơi Chúa Giêsu Kitô chịu chết treo ô nhục trên đồi Canvê.  Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh bi ai trùm kín một màu tang tóc buồn bã, không phải là đích đến của những Kitô hữu.  Đàng sau ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Chúa Nhật Phục Sinh chiến thắng khải hoàn.  Nhưng trong cơn sầu khổ tuyệt vọng, lệ nhòa mi mắt thì bóng dáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh xa vời mờ nhạt quá.

Giữa những tiếng xì xầm của thế gian, tiếng cười đắc chí đắc thắng của thần dữ, người thiếu phụ gục xuống trước nỗi mất mát quá tang thương này.  Chị rút vào thanh vắng một thời gian dài, xa lánh phần lớn bạn bè người thân quen.  Chị tránh những ánh mắt thương hại tội nghiệp, né những câu hỏi han tò mò, ngại ngùng khi phải nghe những lời an ủi nhiệt tình nhưng vô duyên lạc điệu:  “Thôi đừng khóc, đừng buồn nữa, hãy chấp nhận thánh giá Chúa gởi đến, như thế Chúa và anh mới vui.”  Không, Bích không muốn che dấu nỗi buồn vô tận của mình.  Bích càng bối rối hơn khi nghe người ta đổ tội cho Thiên Chúa.  Vô lý quá, làm sao mà một “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”  (Ga 3,16), lại có thể gởi những sự dữ đến cho con cái của mình được.  Sự dữ đâu đến từ Thiên Chúa!  Ngài tôn trọng sự tự do chọn lựa của người cảnh sát vô cảm kia, cũng như Ngài đã từng tôn trọng sự tự do lựa chọn của Bích-Vân vậy.

Trong bóng tối cô đơn trước cây thánh giá, với cõi lòng tan nát, Bích muốn để những tiếng rên xiết quằn quại trong cõi lòng của mình được tự do òa vỡ.  Chị kiệt sức gục đầu lên vai Chúa để mặc cho dòng nước mắt thỏa sức tuôn rơi.  Chúa không bảo chị thôi đừng khóc, bớt buồn, mà chị lờ mờ thấy Chúa lau nước mắt cho mình, cùng buồn, cùng khóc với mình.  Chị để mặc cho Chúa vuốt ve, an ủi trái tim đang gào thét lên nỗi thương nhớ.  Chúa xót xa băng bó vết thương tâm hồn bê bết máu, xoa dịu nỗi buồn gặm nhấm tâm can.  Trong cõi một mình vắng lặng, Bích cố gắng tìm lại Lời Chúa, Ý Chúa, và hình ảnh Thiên Chúa ngày xưa của mình đang ở đâu trong biến cố này.  Bích cũng đang tập làm quen dần với cảnh đời mất chồng nơi xứ lạ.

Hơn hai năm sau, khi cơn đau vẫn chưa nguôi trong trái tim mới chớm lành của người goá phụ, Bích lại tiếp tục nhận được thất bại khác.  Chị đã thua trong vụ kiện người cảnh sát bắn chồng chị.  Bích kiện không phải vì tiền, vì chẳng có đồng tiền nào có thể đánh đổi được sinh mạng của anh.  Chị kiện để chân lý được sáng tỏ, để tránh cho người dân thấp cổ bé miệng sau này khỏi lâm vào hoàn cảnh oan ức như anh.  Kiện để những người cầm súng đại diện cho pháp luật ở một xứ sở tự do phải ý thức hơn về những gì họ đã làm, đang làm và sẽ làm.  Nhưng thương thay, tiếng nói yếu ớt của một sắc dân tị nạn thiểu số, tại một nơi mà đa phần là da trắng, tiếng bào chữa của một văn phòng luật sư bé nhỏ, làm sao có thể thắng được với một tập đoàn luật sư hùng hậu của thành phố, của quận hạt.  Chân lý một lần nữa lại đứng về phía kẻ mạnh.  Thần dữ lại một lần nữa vỗ tay cười hả hê, khoái trá chờ ngày người vợ và hai con đang tuổi nổi loạn từ bỏ đức tin, trút cơn giận lên Thiên Chúa chẳng chút nhân từ.  Chuyện tình ba người “Bích-Vân-Thiên” chắc rằng sẽ tan rã từ đây….

Dù không còn cảm giác với tình yêu ngọt ngào của Thiên Chúa, nhưng Bích cũng ráng đến nhà thờ mỗi ngày theo thói quen, đến nhóm cầu nguyện hàng tuần dù không cảm nhận được gì.  Sự thinh lặng của Ngài trong những giây phút cầu nguyện, trong các khóa tĩnh tâm dài ngày càng làm cho chị thêm khó hiểu.  Mỗi lần nhìn lên cây thánh giá, Bích không bao giờ dám hỏi Chúa tại sao những sự dữ lại xảy đến với gia đình mình.  Người Con Một của Ngài cũng có tội tình gì đâu sao phải chết treo trên thập giá?  Nhìn vào quan tòa xét xử Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, nhìn vào đôi tay Người Con Một Thiên Chúa đang bị trói chặt lại trước những tiếng la hét đòi xử tử, như chân lý và tình yêu bị trói buộc trước sự dữ, chị không muốn tiếp tục vụ kiện nữa.  Chúa Giêsu có thắng đâu trước quan tòa ngày hôm ấy!  Ngài đã thua thảm bại trước một tên tướng cướp giết người khét tiếng, đã thất bại chua cay trước những vị kinh sư Pharisêu đại diện cho tôn giáo của dân tộc mình.  Cũng như viên đạn bắn anh không phải xuất phát từ một tên cướp, mà là từ một nòng súng của người thi hành pháp luật dành cho một người dân vô tội.  Cay đắng quá!  Trò mà làm sao hơn được thầy!  Chén đắng đã hai lần nhấp thử, chị phần nào cảm nhận được nỗi thống khổ tột cùng của Chúa Giêsu trong vườn Gethsemane.  Cũng như Giêsu ngày xưa, Bích xuôi tay chấp nhận mình thua để khép lại vụ kiện, chị không muốn kháng án lên toà trên, không muốn vết thương lòng lại bị khơi ra khuấy động lên, chị muốn sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn, thấm thía mầu nhiệm thập giá… Từng ngày, từng ngày, trong tâm hồn chị vẫn vang lên lời nguyện xin tha thiết: “Chúa ơi, xin cứu con!  Chúa cho phép sự việc xảy ra như thế này thì sinh ích gì cho con?  Con xin tạ ơn Chúa mặc dù giờ này con chưa hiểu, nhưng con tin vào Ý Muốn Tốt Lành của Chúa vì Chúa đã nói mọi đau khổ đều sinh ích cho những ai yêu mến Chúa.”

Qua những tháng ngày đau khổ đến tê dại không còn cảm giác, qua những lúc ngã lên gục xuống, thầm khóc đến không còn nước mắt, qua những cay đắng khi nhận được tin thất bại của vụ kiện, người goá phụ từ từ cảm nhận được những nâng đỡ ủi an kín đáo của Người Cha Nhân Từ đang ẩn mặt đâu đó trong lúc này.   Gia đình, bạn bè, cộng đoàn Đức Tin, các Bí tích, Lời Chúa, Thánh Vịnh, và những bài Thánh Ca đong đầy yêu thương là những điểm tựa nương của Bích trong lúc sầu khổ lao đao: “Lạy Chúa, khi con nói: “Này chân con lảo đảo”, tình thương Ngài đã đỡ nâng con” (TV 94, 18), “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành” (TV 147, 3), “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta… Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53:4-5).  Bích không trách Thiên Chúa đã cất anh về sớm, trong cõi lòng sâu thẳm chị chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chị một người chồng tốt lành, một người cha gương mẫu cho các con, một người bạn thiêng liêng thánh thiện đã cùng đồng hành với chị trong suốt hai mươi lăm năm hôn phối, mà anh chị vừa long trọng lập lại lời thề hứa ba tháng trước ngày anh đi về cõi vĩnh hằng.  Bích tạ ơn cho những gì đã có, chứ không trách móc về những gì đã mất.  Chị biết, anh vui khi được ở bên chị và anh cũng hạnh phúc khi được xum vầy cùng Thiên Chúa, Đấng mà anh hằng khát khao được bvtdiện kiến.  Chị tin rằng hình ảnh của chị và hai con luôn ở trong tim anh, và anh sẽ tiếp tục cầu khẩn cùng Thiên Chúa cho ba mẹ con.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, thế mà đã năm năm trôi qua kể từ ngày Vân về với Thiên Chúa.  Trên bia mộ đá nơi anh an nghỉ, có hình của cả ba “Bích-Vân-Thiên”, với một bên còn trống để dành chỗ cho Bích, với lời ca Hallelujah của ngày Chúa Nhật Phục Sinh khải hoàn trong vinh quang.  Thiên Chúa chưa bao giờ vắng bóng trong cuộc tình của Bích-Vân.  Trong những tháng năm đầu, trên mộ Vân không lúc nào thiếu vắng hoa tươi do Bích mang lại.  Bạn bè kẻ khen người chê trước hành động lãng mạn không thiết thực đó, lãng phí cả thời gian và tiền bạc.  Nhưng Bích có cần gì đâu, chị làm theo tiếng nói con tim.  Sự chết không chia rẽ được tình yêu của anh chị.  Mỗi lần viếng nghĩa trang nơi anh an nghỉ, chị cảm nhận được tình yêu ba người “Bích-Vân-Thiên” quyện lẫn vào nhau trong gió, trong mây để chỉ còn là một.  Chẳng còn thế giới vô hình hay hữu hình nữa, cũng chẳng còn ranh giới sự sống hay sự chết.  Bích đến không để khóc than, chị đến để trái tim chị được sưởi ấm, đến để cảm nhận tình yêu chung thủy của ba người được thăng hoa.  Bó hoa tươi trên mộ anh là ngôn ngữ tình yêu nói thay cho con tim chị.  Anh yêu nhạc, chị thích hoa, cả hai cùng say mê vẻ đẹp chân thiện mỹ, Bích-Vân đang cùng hát lên bản Tình Ca Tạ Ơn bên Thiên Chúa – Hallelujah!

Năm năm với biết bao ân sủng tuôn đổ từ trời cao đủ để làm sống dậy tin yêu hy vọng trong Bích.  Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự mất mát và thất bại đã làm tươi mới lại con người Bích, chị trở lại với con người hồn nhiên yêu đời như những ngày trước có anh đi bên cạnh.  Nụ cười rạng rỡ lại trở về trên khuôn mặt nhân hậu duyên dáng của chị.  Không những thế, chị được mời gọi để làm chứng cho những mảnh đời bất hạnh, những tâm tư giận hờn Thiên Chúa vì những khổ đau bịnh tật, hay những mất mát chia lìa đớn đau, những con chiên tự tách mình ra khỏi đàn vì mải mê oán than…. Chị đến để mang câu trả lời cho những câu hỏi không lối đáp, tại sao Thiên Chúa lại để sự này xảy đến với tôi, với gia đình tôi?  Tại sao Ngài không nhận lời?  Tại sao Ngài không ngăn cản sự dữ xảy ra?  Tại sao Ngài không cất đi căn bịnh hiểm nghèo cho tôi, cho người thân của tôi?  Tại sao và tại sao?  Chị đến không để nói, để thuyết phục hay hùng biện, chị chỉ nhẹ nhàng kể về câu chuyện tình của đời chị… và Thiên Chúa sẽ làm việc với những tâm hồn tan nát đó.

Tác phẩm “Bích-Vân-Thiên” của nữ văn sĩ Quỳnh Dao được khép lại khi trang sách cuối cùng được lật qua.  Trong đầu người đọc chỉ còn lưu lại thoang thoáng vài nét về một cốt chuyện hay, một tình yêu lai láng sầu muộn chỉ có trên tiểu thuyết.  Còn “Bích-Vân-Thiên” trong đời thường, không chỉ là tên của ba người trong một cuộc tình ghép lại, mà còn là tựa đề của cuốn sách mang niềm hy vọng – cuốn sách chứng nhân đức tin – đang được tiếp tục lật từng trang mỗi ngày.  Ba nhân vật chính “Bích-Vân-Thiên” vẫn luôn nắm tay cùng đồng hành với nhau.  Đình Vân đã đi xong quãng đường của mình.  Chặng đường của Thu Bích vẫn còn dài đăng đẳng trước mắt nhưng Bích không đi lẻ loi một mình.  “Vân-Thiên” vẫn luôn cùng đồng hành với Bích và chờ ngày đoàn tụ để đóng lại cuốn sách chứng nhân đức tin “Bích-Vân-Thiên”.

Nguyện xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành cho thiên tình sử tay ba “Bích-Vân-Thiên” được đẹp mãi đến trang sách cuối cùng.  Mong rằng trong ngày sau hết cả ba sẽ được tái ngộ để cùng nhau kết hợp nên một mối tình tuy ba nhưng chỉ là một.

Lang Thang Chiều Tím
Kỷ niệm năm năm ngày giỗ anh Phêrô Lê Đình Vân, 03/03/2011 – 03/03/2016

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

MỪNG NGÂN KHÁNH LINH MỤC

ZZKính cha,

Nhân dịp mừng 25 năm ngân khánh linh mục của cha, con xin mạo muội gởi đến cha “Những Lời Chúc Mừng,” và những tâm tình mà con đã cảm nhận được về “Nét Đẹp Đời Linh Mục” trong “Ngày Lễ Bạc” của cha.

Nước Mắt và Hạnh Phúc hòa lẫn với nhau trênĐường Đời, ai rồi cũng phải nhận định Tìm Ý Chúa” để  Tìm Một Bến Bờ, hayChọn Một Con Đường cho mình bước đi.  Linh Mục” là người nhận ra Lối Đi Của Ơn Sủng, quảng đại đáp trả lạiTiếng Gọi Trên Cao, để mặc cho mình một Căn Cước đặc biệt trongGiáo Hội.”  Khác vớiNiềm Tin Của Thầy Sadhu hoang mang không biết Khi Nào Ngày Bắt Đầu,” “Linh Mục thì biết rõ conĐường Mình Đi, bởi vì cho dù Phêrô Lỗi Phạm,Phêrô Chối Thầy bảy mươi bảy lần bảy, thì Tình YêuƯớc Mơ Của Chúa vẫn tuôn đổ tràn trề trên nhữngKẻ Theo Ngài.

Ai bảo Linh MụcNgười Đổ Rác tội nghiệp trên đường?  Con thấy cuộc đời Linh Mục thật đẹp, như một Cánh Hoa Trên Gành Đá,Bóng Mát tỏa lan trên con Đường Hẹp.”  “Linh Mục với những Thánh Lễ và Đồng 50 Rúppi” đã mở cửa cho Lối Đi Của Ơn Sủng” len lỏi vào ngõ ngách của những cuộc đời Cô Đơn,”Dang Dở” tràn ngập những khổ đau.

25 năm trôi qua, Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục đã bộc bạch cho thế nhân tỏ tườngNỗi Lòng Người Chăn Chiên, khi vị cha già phải ky cóp từng đồngBán Ruộng để xây Nhà Thờ cho con chiên.  Trang Hồi Ký Của Tòa Giải Tội 25 năm qua đong đầy bao giọtNước Mắt ăn năn, dẫn đưa những cuộc đời Vắng ChúaTrở Về với Giáo Hội,Thiên Chúa Ba Ngôi.”  25 cuốn lịch đã được gỡ xuống trong cô tịch là những Dòng Sông và Câu Chuyện Đời” của bao kiếp người lầm than chất chứa lên đôi vai gầy người Linh Mục.”  “Thời Gian 25 năm đã tỏ lTâm Sự Một Người Cha, với Tình Yêu” “Bao Dung hải hà trải dài cho đứa con hoang đàng cũng như thằngAnh Cả, cho người Trong Đạo cũng nhưNgoại Đạo.”  25 năm qua rồi, vị Linh Mục trẻ ngày xưa giờ tóc đã điểm bạc, đâu mong mỏi gì Của Dâng Cho Cha Của Biếu Cho Mẹ của đàn chiên, Nỗi Lòng Cha giờ chỉ mong ước đàn chiên mình có thể “Nghe Tiếng Chúa Nói,” và thực hiện Ước Mơ Của Chúa đặt để nơi tâm hồn mỗi người, “Để Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn trên đường đến với “Nước Trời.”  25 năm là một trong Những Mốc Đường quan trọng của đời người, nhưng chẳng cần đi vàoSa Mạc để nhận Định Lại Những Giá Trị đã chọn của một thời đã qua, Lý Tưởng”  vẫn sáng rực trong tim đẩy đưa những Bước Chân Đon Đả mạnh dạn tiến bướcTrên Đường Về nhà Cha.

Mang trong mình phận người mong manh dễ vỡ, 25 năm quaLinh Mục cũng có những lúc Yếu Đuối khi trái tim thổn thức sai nhịp với Tiếng Gọi Bên Rừng Thu.  Đôi khi lòng vấn vương xao xuyến với nỗi Sầu Riêng, khi Tâm Hồn và Nỗi Trống Vắng bị bủa vây bởi niềmCô Đơn bên ánh Trăng Đêm bàng bạc.  Đôi khi đơn giản chỉ là những Lo Âu vu vơ trướcNhững Cái Nhìn quá đỗi tha thiết qua những Đôi Mắt” biết nói, khéo Trang Điểm của con chiên.  Nào ai trách được khi Dấu Chân Xưa của cố nhân bên cánh rừngMầu Tím Hoa Sim ngút ngàn những cánhHoa Thương Nhớ lại thoáng trở về trong ký ức.  Có dễ đâu để quên Lời Trên Sân Ga ngày ấy?   “Kỷ Niệm: Hạnh Phúc Hay Vết Thương?” làm sao để quên được một kỷ niệm đẹp của thời mộng mơ?  Thật là Gian Nan Cho Niềm Tin nhất là Khi Người Không Đáp Trả.”  Thế đấy, ai bảoLinh Mục là người không biết đếnTình Yêu và Đau Khổ” của kiếp nhân sinh. Hương Sắc Của Gai đong đầy những giọt Nước Mắt” phân vân khó định. Con Biết Con Cần Chúa” biết bao trong giây phút lao đao này, Chúa ơi!  Nhưng khi con nhìn xuống đôiBàn Tay đã từng được diễm phúc cầmMình Thánh Chúa, trái tim loạn nhịp lại thổn thức với Tiếng Gọi Phía Bên Trong thiêng liêng, để trở về với căn tính của mình.  Với Lời Nguyện Của Cây Đèn Chầu,” “Sức Mạnh Của Bí Tích, và đặc biệt là sự trung thành với câu Kinh Chiều” bên Thánh Thể, rồi sóng gió bão lòng cũng qua đi trong ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi, trong sự chở che Bao Dung của Mẹ Thiên Chúa.”  Tạ ơn Chúa đã cho nhữngKẻ Theo Ngài thấy rõ Thương Yêu Là Trung Thành” với Ơn Gọi của mình.  Tìm nhau không nhất thiết là phải có nhau.  Đường Đi Một Mình giờ lại thấy thênh thang hạnh phúc hơn.  Xuân Tâm Hồn” lại rộn lên khúc hoan ca.

Tạ Ơn Là Một Tâm Tình đẹp dù có tạm mượn tựa bài suy niệm của người khác để viết lên tâm tìnhBiết Ơn của mình.  Cám ơn cha ngày xưa đó đã gác qua nỗi lắng lo cho Đôi Chân Đau của cha già, vuốt giọtNước Mắt mẹ hiền trong ngày chia tay, mang theo mìnhMùa Xuân Im Lặng Trong Đôi Guốc, “Tấm Hình Của Mẹ” mà mạnh dạn Lên Đường.”  Cám ơn cha đã từ chối Tấm Thiệp Cưới năm xưa, trả lại Chiếc Nhẫn để mặc người Đi Trong Nỗi Buồn mà quảng đại đáp trả lại Ơn Gọi thiêng liêng, để Giáo Hội có những chứng nhân sống động trong thời đại mới.  Cám ơn cha đã dìu dắtNhững Bước Chân chập chững của nhữngKẻ Đi Tìm trên bước Đường Đi Hành Hương.”

Xin gởi đến chaÐôi Điều Suy Nghĩ của con, như mộtCánh Thư Mađalena, hay như một Tặng Phẩm nhân dịp kỷ niệm Ngày Lễ Bạc.”  Đây là Lời Nguyện Cầu Của Một Người Con”Viết Trong Tâm Hồn gởi đến vị cha chưa già nhưng đã vội khó tính.  Chúc cha luôn Trí Sạch – Tâm An và mong có cơ hội đểChúc Mừng cha một lần nữa trongNgày Lễ Vàng.  Mong rằng 25 năm sau, thế nhân sẽ được nghe tiếp những Truyện Cổ Tích Chưa Được Kể.”

Lang Thang Chiều Tím
May 2014

 

ĐÊM HUYỀN NHIỆM

(Lc 2:1-20)

Đêm nay thành phố Bê-lem nhộn nhịp khác thường.  Đèn đuốc bập bùng sáng rực một góc trời, tiếng người huyên náo gọi nhau í ới, tiếng trẻ khóc, tiếng bước chân dồn dập vội vã đi tìm nhà trọ, tiếng rao bán hàng rong náo động cả một góc trời, không khí giống như ngày trẩy hội vậy.  Mà đúng là ngày hội thật.  “Hoàng đế Augustus ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.  Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinius làm tổng trấn xứ Syria” (Lc 2:1-2).

Phía bên kia đồi ngoài thành Bê-lem, đêm nay chỉ là một đêm bình thường như bao đêm khác.  Đám mục đồng mồ côi tụ lại với nhau sau một ngày chăn chiên vất vả.  Chúng nằm lăn trên bãi cỏ trò chuyện, rồi chia ra đứa ngủ đứa thức để luân phiên canh gác đàn chiên.  Thằng bé ngồi canh cho đám bạn đang say ngủ.  Nó nghe ngóng những âm thanh ồn ào náo nhiệt từ thành phố bên kia vọng sang, mà cảm thấy tủi cho phận mình.  Trong khi “ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi” (Lc 2:3), còn Nó thì lặng lẽ ngồi đây.  Không nguyên quán, không quê nội, quê ngoại, không tên tuổi, không cha mẹ anh em, thế là chẳng cần đi đâu để khai báo.  Không có tên trong sổ kê khai dân số, không phạm luật nhưng sống ngoài vòng pháp luật, có sống cũng như chết, như chưa từng có mặt trên đời này.  Đó là số phận của Nó và bạn bè Nó, “những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật” (Lc 2:8).

Thằng bé ngủ gà ngủ gật.  Nó nhắm mắt mơ về một mái ấm gia đình.  Nó hình dung cảnh Nó đi tung tăng bên cha, tay nắm dây con lừa, mẹ bế em đi bên cạnh.  Gia đình Nó đang bồng bế nhau hướng về thành phố Bê-lem để kê khai tên tuổi.  Đang mơ màng, bỗng một luồng ánh sáng rực chói lòa từ trời cao xẹt xuống vụt qua tầm mắt.  Bầu trời mở ra như hai cánh màn sân khấu được vén lên.  Nó choàng tỉnh mở mắt nhưng vội nhắm lại vì chói quá!  Tiếng nhạc ở đâu bỗng trỗi lên réo rắt du dương.  Nó hoảng sợ ngồi bật dậy, tay lay lay mấy đứa bạn đang ngủ:

ZZ–  Dậy, dậy mà xem!

Trước mặt tụi nó, hai vị thiên sứ sừng sững trong không trung giữa một vầng hào quang chói sáng rực rỡ.  Thiên sứ mỉm cười thân thiện như trấn an.  Tụi nó ngồi bật dậy, kinh hãi lùi lại run rẩy nép sát vào nhau, như muốn tìm thêm sức mạnh trước quang cảnh vĩ đại lạ lùng này.  Vị sứ thần đứng bên phải bỗng cất cao giọng lảnh lót: “Anh em đừng sợ.  Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân:  Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa.  Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người:  anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:10-12).  Vị thiên sứ vừa dứt lời, hàng vạn thiên thần bé xíu xinh xinh hiện ra đủ màu sắc, vỗ đôi cánh chập chờn lượn bay chung quanh hai vị thiên sứ.  Những đôi môi đỏ hồng chúm chím mấp máy mở ra, trong không gian vút lên lời ca thánh thót:  “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).   Lời ca bay vút lên cao như xuyên thủng chín tầng mây, cho triều thần thiên quốc trên trời cùng nghe.  Rồi lời ca lại lao xuống đồng cỏ, vang vọng trải dài đến tận chân trời góc biển.  Quyện trong lời ca cao vút là tiếng nhạc đệm du dương réo rắt, lúc trầm lúc bổng được hoà âm bởi muôn ngàn loại nhạc cụ khác nhau.  Các thiên thần chụm đầu lại với nhau thành một làn sóng nhấp nhô, rồi đong đưa qua lại theo tiếng nhạc trông thật đẹp và lạ mắt.

Thời gian như ngừng trôi, không gian như lắng đọng, rồi giọng ca từ từ nhỏ dần, những đôi cánh thiên thần đưa lên cao vẫy qua vẫy lại như muốn chào tạm biệt.  Hình ảnh các thiên thần mờ dần trong làn sương mỏng, rồi từ từ khuất lần sau đám mây.  Giọng hát, tiếng đàn nhỏ dần… nhỏ dần…, nhè nhẹ im ắng… rồi từ từ im bặt, trả không gian trở về với thinh lặng như trước.  Mặt trăng và các vì sao lại từ từ rõ nét trên bầu trời trong veo như không có chuyện gì xảy ra.

Đám mục đồng vẫn ngồi im như trời trồng, miệng há hốc chưa hết kinh ngạc, mắt hướng về cuối chân trời xa, nơi các thiên thần biến đi mà lòng ngẩn ngơ luyến tiếc.  Rồi đứa này đến đứa kia ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu chuyện quan trọng gì vừa xảy ra.  Nó ngạc nhiên lẩm nhẩm, “tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân,” một tin như thế mà lại không báo cho Hoàng Đế, cho các vị quan quyền trong cung, hay các vị chức sắc học giả trong Đền thờ, mà lại đi báo cho tụi nó, một đám người chăn chiên ngu dốt nghèo nàn biết?  Nó loáng thoáng nhớ lại bài giảng của các vị rabbi, rằng dân tộc nó đang mong chờ một Đấng Thiên Sai đến, qua lời hứa của Thiên Chúa với cha ông thời xưa.  Phải chăng lời hứa bắt đầu ứng nghiệm, và Đấng đó đang đến với dân tộc nó?  Mà chẳng lẽ Đấng đó lại là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”  Một đứa trẻ nghèo hèn cùng thân phận giống nó sao?  Lạ thật!

Phải làm gì bây giờ nhỉ?  Tụi nó thảo luận sôi nổi và cuối cùng bảo nhau:  “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15b).  Nó sắp đặt một đứa ở lại trông coi đàn chiên, còn tất cả hối hả đi qua bên kia đồi, vào thành phố Bê-lem là thành vua Đa-vít để xem thực hư ra sao.  Tụi nó vừa đi vừa bàn tán xôn xao về biến cố mới xảy ra, cứ như là mơ, một giấc mơ tuyệt đẹp trong kiếp nghèo lầm than.  Đứa thì nói thích đôi cánh thiên thần, đứa khác thì mê mẩn tiếng nhạc, và lời hát du dương.  Còn Nó thì thích hết khung cảnh thần tiên đó.  Đẹp biết bao so với cuộc sống cơ cực nghèo hèn của Nó trong hiện tại!  Bỗng bước chân tụi nó khựng lại khi nghe tiếng khóc oe oe giống tiếng khóc của một đứa trẻ sơ sinh.  Cả đám dừng theo, và vểnh tai nghe ngóng.  Đúng rồi, là tiếng khóc của trẻ thơ.  Nhưng tại sao lại ở ngoài đồng không mông quạnh thế này?  Chưa vô trong thành mà?  Tụi nó lần mò đi về hướng có tiếng khóc.

Thấp thoáng dưới ngọn lửa leo lét của cái chuồng bò bỏ hoang, một thiếu phụ dáng vẻ xanh xao mệt mỏi, đang nằm thiêm thiếp bên cạnh máng ăn cỏ của bò.  Bên trong máng cỏ, một trẻ sơ sinh bé tí xíu, người đỏ hon hỏn, da nhăn nheo được bọc trong lớp tã, hai chân đạp lung tung, tay quơ quơ, mắt nhắm mắt mở, miệng khóc oe oe như đòi bú.  Người đàn ông, có vẻ như là người cha, đang lui cui bên đống rơm thổi lửa cho ấm em bé, và người vợ mới sinh.

Người thiếu phụ ngửng mặt nhìn lên, ngạc nhiên khi nhìn thấy một đoàn khách lôi thôi lếch thếch trong bộ đồ chăn chiên hôi hám nhưng mặt mày sáng rực rạng rỡ chói lòa.  Không cần được mời, tụi nó tự nhiên xà xuống bên cạnh máng cỏ, tò mò nhìn vào bên trong và reo lên:

–  A, đây rồi tụi bay ơi!  Đúng là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ,” đúng y chang như lời sứ thần báo với tụi mình.

Thế là đứa vuốt má, đứa nựng cằm, đứa xoa tóc em bé.  Có đứa mạnh dạn cúi xuống hôn cái chụt lên đôi bàn chân bé bỏng.  Thấy con khóc quá, người thiếu phụ ngồi dậy, bế em lên lòng và ngạc nhiên hỏi thăm tụi nó tìm ai?  Thế là tụi nó tranh nhau kể lại biến cố kỳ diệu vừa xảy ra, những điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.  “Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.  Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:18-19).  Bà tin vào những điều tụi nó kể và cũng tin là tụi nó không dám thêm bớt, hay cắt xén chữ nào.

Nó ngồi nhìn em bé khóc oe oe trên tay người thiếu phụ trẻ, mà thèm được nâng niu bồng ẵm em bé.  Nó chưa bao giờ được bế em bé mới sinh cả, chẳng ai dám đưa đứa con nhỏ xíu của mình cho một đứa trẻ dơ dáy hôi hám như nó bồng.  Nó nuốt nước miếng rồi lấy hết can đảm xin được bồng em bé!  Chẳng chút ngại ngần, người mẹ trẻ giao con cho Nó bế!  Nó hồi hộp run run đưa đôi tay dơ bẩn chưa kịp rửa ra, để đón lấy món quà thiêng liêng.  Ôm Đấng Cứu Độ vào lòng mà người Nó trào dâng một niềm hạnh phúc khôn tả.  Sao đứa bé này giống… người thường quá đi!  Chẳng có gì ra dáng con vua chúa cả, mà chẳng có gì là giống Đức Chúa, hay Đấng Kitô gì… gì… đó, những từ ngữ to lớn mà các thiên thần vừa nói với Nó.  Nó có cảm giác như đang bế đứa em ruột thịt của mình vậy.  Không có khoảng cách nào giữa Nó, và đứa bé mới sinh này cả.  Từ cái tã quấn, tuy sạch sẽ nhưng cũng vá víu chằng chịt, giống chiếc áo nó đang mặc trên người.  Cái mùi cỏ khô, quyện với mùi phân bò trên người em bé, đâu có khác gì mùi cỏ non lẫn với mùi chiên bò trên người nó.  Cùng hôi như nhau, cùng nghèo giống nhau.  Nó lắc đầu không hiểu!

Nhưng Nó suy đi nghĩ lại thì thấy sứ thần cũng có lý!  Đấng Cứu Độ có sinh ra trong máng cỏ, giữa trời cao đất rộng như vậy, thì tụi nói mới tìm đến được.  Chứ nếu Đấng ấy sinh ra trong cái nhà trọ ZZto nhất, đẹp nhất ở Belem, thì làm sao mà tụi nó tìm được?  Rồi nếu cái nhà trọ to thật to đó lại có người đứng gác cửa, thì chắc gì người ta chịu mở cửa cho đám chăn chiên nghèo hèn hôi hám vào thăm?  Nếu Ngài được sinh ra từ một gia đình giàu có, người hầu kẻ hạ tấp nập xung quanh, thì ai mà dám cho đôi bàn tay dơ dáy của Nó rờ vào em bé?  Nó từ từ hiểu ra!  Ừ nhỉ, và Nó bắt đầu tin!

Người cha của baby thân thiện mở ra những gói lương thực khô mang theo đi đường, và mời đám nhóc ăn.  Chẳng đứa nào làm khách cả, tụi nó ùa vào ăn uống tự nhiên như đã quen biết nhau từ lâu lắm rồi.  Tiếng nhai ngồm ngoàm, tiếng cười nói râm ran, quyện với tiếng khóc oe oe của em bé, hoà chung với tiếng hát ngây ngô của một vài đứa lập lại lời ca của các thiên thần, tạo nên một khung cảnh ấm áp giữa bầu trời đầy sao.  Tiếng nổ lách tách của những que củi trong đám lửa chập chờn, sưởi ấm cõi lòng hiu quạnh của Nó.  Nó nhắm mắt tận hưởng một bầu không khí ấm áp hạnh phúc của một gia đình có cha mẹ, có anh em.  Cả một hố sâu tự ti mặc cảm, những khao khát mơ ước về một mái gia đình của đứa trẻ mồ côi, bỗng dưng được lấp đầy.  Đêm nay sao quá kỳ diệu!  Quả là một đêm huyền nhiệm!  Nó không biết đêm nay quan trọng như thế nào với dân tộc Nó, nhưng Nó biết đêm nay đã biến đổi cuộc đời Nó, đêm mà Nó được vinh dự là vị khách đầu tiên được bồng ẵm Đấng Cứu Thế, như ôm ấp đứa em ruột bé bỏng trên tay, đêm mà trái tim khô cằn của Nó rung lên vì cảm thấy yêu và được yêu.  Đêm nay, Nó cảm tưởng như thân phận thấp hèn của Nó được nâng lên hàng thần thánh, là đêm mà Nó trở thành một trong những khán giả hiếm hoi của dàn đồng ca thiên quốc, là một nhân chứng sống động về sự giáng sinh lịch sử của Đấng Cứu Thế.  Ôi, đêm huyền nhiệm!

Bình minh từ từ ló dạng nơi cuối chân đồi.  Đã đến giờ chia tay rồi, tụi nó phải trở về với công việc hàng ngày của kẻ chăn chiên thuê.  Nhìn đứa trẻ ngủ vùi trong vòng tay, Nó nhẹ nhàng và trân trọng đặt lên má em một nụ hôn yêu thương, rồi thầm thì vào tai em những ước nguyện đơn sơ:  “Ước gì con được ôm Ngài trên tay mãi mãi, ước gì lời ca tiếng hát của các thiên thần sẽ ở với con mỗi ngày, cho đến khi con được nghe lại khúc nhạc hoan ca đó trên thiên quốc.”  Nó lưu luyến giao em lại cho người mẹ, với lời cám ơn tấm lòng quảng đại của bà đã chia sẻ đứa con mới sinh cho Nó bế, cám ơn người cha hiền lành tốt bụng đã niềm nở đón tiếp, và thết đãi tụi nó một bữa tối no say.  “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vưa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20).

Một ngày mới bắt đầu và cuộc đời Nó đã sang trang.  Đôi tai diễm phúc của Nó làm sao quên được khúc nhạc huyền diệu của trời xanh, đôi bàn tay thô kệch hôi hám được bồng ẵm Đấng Cứu Thế, mắt phàm được nhìn thấy Ngài, được chiêm ngưỡng các thiên thần ca hát bay bổng chúc tụng Thiên Chúa, mũi Nó được ngửi mùi thơm da thịt non nớt của Ngài, và đôi môi Nó đã được hôn lên đôi má bụ bẫm đáng yêu ấy.  Tâm hồn Nó cảm nhận một niềm hạnh phúc hoan lạc vô biên, vì đã nếm trước được hương vị ngọt ngào của Thiên đàng, nơi mà Nó tin tưởng sẽ đến khi cuộc đời gian truân khổ ải này qua đi.  Nó không còn oán ghét, trách móc số phận hẩm hiu này nữa, mà coi đó như là một lời chúc phúc, một cơ duyên để Nó có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu đêm nay.  Giấc mơ của Nó đã trở thành sự thật ngay ở dương thế này rồi!  Những giây phút nhiệm mầu thánh thiêng của đêm huyền nhiệm này sẽ mãi mãi không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Nó.  Nó nhắm mắt ngây ngất, bước chân đi theo đám bạn mà hồn Nó bay bổng giữa chín tầng mây!  Văng vẳng đâu đây còn vọng lên tiếng hát của các thiên thần “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). 

Lang Thang Chiều Tím
Giáng Sinh 2012

PHÔI PHA

ZZÔm lòng đêm / nhìn vầng trăng mới về / nhớ chân giang hồ / ôi phù du / từng tuổi xuân đã già / một ngày kia đến bờ / đời người như gió qua.

Không còn ai / đường về ôi quá dài / những đêm xa người / chén rượu cay / một đời tôi uống hoài / trả lại từng tin vui / cho nhân gian chờ đợi.

Về ngồi trong những ngày / nhìn từng hôm nắng ngời / nhìn từng khi mưa bay / có những ai xa đời quay về lại / về lại nơi cuối trời / làm mây trôi.

Thôi về đi / đường trần đâu có gì / tóc xanh mấy mùa / có nhiều khi / từ vườn khuya bước về / bàn chân ai rất nhẹ / tựa hồn những năm xưa.

Trịnh Công Sơn

*********************************

“Ôm lòng đêm, nhìn vầng trăng mới về… ” Giọng ca trầm bổng của ca sĩ Nguyên Khang cất lên nhè nhẹ trong đêm khuya thanh vắng, như ru hồn người vào cõi cô tịch với chị Hằng.  Điệu nhạc da diết quyện với những ẩn chứa sâu lắng trong từng ca từ “Phôi Pha” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn làm thổn thức cõi lòng ai, như thức tỉnh người nghe về với một thực tại phũ phàng của“từng tuổi xuân đã già,” khi bên mình “không còn ai.”  Theo phóng sự trong ngày lễ an táng ông, nhạc phẩm “Phôi Pha” là một trong những bản tình ca được viết năm 1956, khi nhạc sĩ mới 17 tuổi.  Ông đã thưởng thức “chén rượu cay, một đời tôi uống hoài” khi chưa đủ tuổi để uống rượu, đã ý thức sẽ có ngày phải “trả lại từng tin vui, cho nhân gian chờ đợi” khi chưa bắt đầu sự nghiệp, đã suy tư về từng tuổi xuân đã già” ngay khi còn rất trẻ, gẫm suy về sự chết ngay khi còn sống “một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua.”  Một cuộc đời luôn suy tư thao thức về thân phận con người.

Với “Chén rượu cay, một đời tôi uống hoài,” nhạc sĩ họ Trịnh như đã chấp nhận chén rượu cay đời mình, không trách móc than phiền, cũng chẳng hận đời oán người.  Mượn ánh trăng, lời nhạc nửa thực nửa ảo để trang trải tâm sự một cõi lòng u uất cô đơn một mình bên ly rượu.  Dù cay, dù một mình nhưng vẫn phải uống, uống hoài, uống mãi, uống đến giọt cuối cùng.  Trong kiếp làm người, dù muốn dù không, rồi ai cũng phải cạn ly rượu cuộc đời của mình.  Con Một Thiên Chúa trong thân phận thấp hèn của con người, cũng phải uống cạn chén rượu cay phần mình.  Rượu nào cay hơn?  Chén nào đắng hơn?  Thế gian này không ly rượu nào có thể cay hơn, đắng hơn chén rượu mà Con Một Thiên Chúa đã uống.  Chưa uống mà đã đổ mồ hôi máu.  Mới nhìn chén rượu cay mà đã ba lần cất tiếng van xin Cha cất cho chén đắng đó!  Môi chưa nhấp ly mà tâm hồn đã “cảm thấy buồn rầu xao xuyến,” một “nỗi buồn đến chết” người!  Rồi Ngài cũng đã uống cạn chén đắng trong vâng lời, trong yêu thương những kẻ đã trao chén rượu cay.  Từ từ uống một mình, cô đơn bên cạnh những môn đệ yêu dấu đang vô tư ngủ say sưa (x Mt 26, 36-46 và Lc 22, 44).

Rồi tôi cũng sẽ phải cạn ly rượu đời mình thôi, chưa đến giọt cuối cùng đâu.  Chẳng ai biết trước giọt cuối cùng trong chén rượu đó sẽ có vị như thế nào?  Nhưng tôi tin rằng, nếu có người bạn tri kỷ Giêsu cùng nâng ly, rượu của tôi sẽ vơi bớt vị cay, từng giọt rượu trong ly sẽ được thánh hóa để mang một màu sắc khác, thấm đẫm hương vị thiêng liêng.  Nếu biết uống cùng ai, hẳn sẽ không còn tiếng than ai oán “chén rượu cay, một đời tôi uống hoài,” và chén đắng của Giêsu ngày xưa không trở nên vô ích.

Trong nỗi buồn quay quắt của “những đêm xa người,” bên “chén rượu cay, một đời tôi uống hoài,” đôi mắt tâm hồn của nhạc sĩ họ Trịnh như được mở ra để thấy rõ sự vô nghĩa của những gì một đời mê mải kiếm tìm.  Những tin vui của thời xuân xanh: thành công, nhà lầu, xe hơi, sự nổi tiếng, chinh phục, chiếm đoạt, bằng cấp, chức tước, v.v…  tất cả nay xin “trả lại từng tin vui, cho nhân gian chờ đợi.”  Một thời để góp nhặt, một thời để trả lại!  Điểm lạ nơi ông là mới 17 tuổi, chưa ky cóp được gì, chưa bắt đầu bon chen với đời mà đã ý thức là sẽ có ngày phải “trả lại từng tin vui, cho nhân gian chờ đợi.”  Vì ông biết cần gì nữa đâu khi “một ngày kia đến bờ,” mang gì theo đâu “đời người như gió qua!”

“Thôi về đi, đường trần đâu có gì,” cung nhạc bỗng trầm xuống, lời nhạc tha thiết xuống nước như một lời năn nỉ thuyết phục ai đó hãy quay về.  Về đi, đường trần có gì vui đâu.  Có chăng cũng chỉ là những cuộc vui tạm bợ chóng qua thôi mà!  Về đi, trước khi quá muộn màng.  Đường trần có vui thì đến lúc nào đó cũng “không còn ai.”  Về đi, trước khi thấy “đường về ôi quá dài.”  Về đi, mà ai cần phải về?  Tác giả mời gọi người tình xưa trở về với mình, hay là một lời mời gọi chính mình trở về với cái nội tại của mình?  Về đi, tiếng nài nỉ như níu kéo bước chân giang hồ, nhưng về đâu?  Về với ai?  Về để làm gì?

“Về lại nơi cuối trời, làm mây trôi” ư?  Nghe thật thơ, thật lãng mạn nhưng mây làm gì có bến đỗ?  Rồi lại tiếp tục một kiếp lãng du khác, tiếp tục lang thang trôi dạt trên bầu trời bao la không nơi đến, không chỗ về.  Rồi trong kiếp mây trôi đó, lại cháy lên một niềm khát khao được trở về một lần nữa.  Bỗng dưng tôi thấy mình thật hạnh phúc vì biết nơi mình sẽ về, vòng tay nào đang chờ đợi tôi nơi cuối trời.  Thì ra khát khao được “v là khát vọng của kiếp nhân sinh cho dù là ai, niềm tin nào, ở đâu.  Ai về với ai, không quan trọng cho bằng vẫn là một cuộc trở về!  Một thời để đi hoang, một thời để quay về.  Về lại nơi tôi xuất phát, về lại với Đấng đã tạo dựng nên tôi, Đấng đã vì tôi uống cạn chén đắng.

“Thôi về đi!” dù chưa biết nơi để về thì hãy về lại với chính mình, về với tiếng gọi rất khẽ trong sâu thẳm tâm hồn, về lại với mái ấm, với bổn phận của người với người.  Về với ai đó đang chờ đợi bước chân tôi.  Về, đôi khi chỉ đơn giản để “nhìn từng hôm nắng ngời, nhìn từng khi mưa bay,” thế thôi, nhưng cũng cần lắm những cuộc trở về.  “Thôi về đi, tóc xanh mấy mùa” đâu mãi xanh hoài!  Về để thấy chén rượu cuộc đời vơi bớt vị cay, để thấy đường đi không quá dài!

Chúa ơi, thật không dễ để làm một cuộc trở về, đôi khi chân đã cất bước nhưng lòng vấn vương “nhớ chân giang hồ,” nếu không có ơn Chúa đổ xuống, chẳng ai có thể quay về.  Xin tiếp tục tuôn đổ mưa hồng ân xuống trên thế nhân, để từng người chúng con đủ can đảm trở về.  Về với Chúa, và về với nhau trước khi trở về với lòng đất mẹ.

Lang Thang Chiều Tím
Lập Thu 2012

CAFÉ MỘT MÌNH

Sáng nay café một mình, Sài gòn chợt mưa chợt mưa
Nhớ Cha bao nhiêu cho vừa, Cha ơi…. Cha ơi…!

Tôi lẩm nhẩm hát một mình bên ly café buổi sáng và thích thú với lời nhạc chế biến của mình, tự dưng lòng dâng lên một niềm vui thánh thoát bình an.  À mà trong lúc cầu nguyện có được uống café không nhỉ?  Chắc chắn là không rồi!  Ai lại bất kính đến thế!  Cầu nguyện theo nghĩa thông thường hình như phải là nghiêm trang, hai tay chắp lại, khuôn mặt đăm chiêu suy tư, mắt nhắm nghiền tư lự, miệng lẩm nhẩm thì thầm câu kinh gì đó…  Thôi, nếu vậy thì trong lúc uống café có được cầu nguyện không?  Dĩ nhiên là được rồi, tốt quá đi chứ!  Tôi tự hỏi và thích chí với câu trả lời của mình.  Vậy thì mời Cha đến ngồi cạZZnh con, bên xích đu đong đưa sau nhà, cùng nhâm nhi ly café buổi sáng và cùng ngắm những nụ hoa xuân trong vườn.

Chẳng phải làSài gòn chợt mưa chợt mưa,” mà là Cali buổi sáng mùa xuân với làn gió ban mai tinh khiết mát rượi mơn man bờ má.  Ngắm nhìn ly café sữa đá với những giọt nước long lanh đọng ngoài thành ly, con cảm nhận sự hiện diện nhẹ nhàng của Cha bên con.  Hai cha con mình cùng thinh lặng!  Cha vốn dĩ ít nói rồi, còn con cũng chẳng muốn nói gì thêm, chẳng muốn xin gì!  À, không phải con “chảnh” đến mức độ không có gì để xin đâu nhé!  Con lúc nào cũng có sẵn một “sớ táo quân” dài lướt thướt bên mình.  Nhưng giây phút thiêng liêng này dịu dàng và ngọt ngào quá, xin xỏ làm gì để phá hỏng không khí lãng mạn này, phải không Cha?  Có Cha là có tất cả rồi, xin gì hơn nữa bây giờ?  Cha có nghe không tiếng nước róc rách rất nhỏ từ một cái suối bé xíu mà phải im lặng lắm mới nghe được.  Những chú chim bay lạng qua lạng lại bên những nụ hoa đầy màu sắc trong vườn, như tôn trọng không khí cô tịch nên lịch sự cất tiếng hót rất khẽ mà phải lắng tai lắm mới nghe được.  Còn tiếng nhịp đập của trái tim con và trái tim Cha nữa chứ, Cha có nghe thấy không?  Ồ, còn nhiều thứ để nghe quá.  Thôi hãy thinh lặng cùng lắng nghe, Cha nhé!  Con không phàn nàn là Cha ít nói nữa đâu!

Sáng nay mây thấp trên đầu, từng giọt cà phê ngọt đắng
Biết Cha nơi đâu bây giờ, Cha ơi….. Cha ơi…..

Vừa nhâm nhi vài giọt café ngọt lịm ở đầu môi con vừa lẩm nhẩm theo câu hát.  Sao điệu nhạc thì buồn tan tác mà lòng con lại ngập tràn hạnh phúc?  Ai đã làm cho con vui bên ly café một mình?  Sao cùng là “Café Một Mình” mà hai tâm sự khác nhau quá Cha nhỉ?  Tại con bên ly café sữa đá và tác giả Ngọc Lễ bên ly café đen chăng?  Tại café, tại khung trời, tại lòng người hay tại cái gì khác nữa?  Con vui vì bất ngờ trong cõi một mình con lại gặp được Cha, tìm về một mình con bắt gặp nhiều ngạc nhiên thú vị.   Ngắm nhìn ly café con thấy Cha như “từng giọt café ngọt đắng” huyền bí, muôn màu sắc, nhiều hương vị!  Đâu phải lúc nào Cha cũng ngọt ngào mát lạnh như ly café sữa đá làm dịu lòng người.  Đâu phải lúc nào con cũng cảm nghiệm được sự hiện diện của Cha bên mình như sáng nay.  Có những lúc Cha như café đen không đường đắng ngắt, đầy vị chát.  Uống vào thì đắng, mà không uống thì lờ đờ không sức sống.  Không ai chối bỏ hương thơm vị ngọt của café đen, nhưng cũng không ai phủ nhận chất đắng của café nơi đầu lưỡi.  Nếu “từng giọt café ngọt đắng” mang đến sự tỉnh táo cho một ngày mới, thì những giây phút huyền nhiệm bên Cha mang đến cho đời sống tâm linh con một sức sống dồi dào phong phú.

“Từng giọt café ngọt đắng” trong chiếc phin pha café, không chảy ào ào xuống, mà là từng giọt…. từng giọt… lách tách rơi xuống ly, như những cay đắng nghiệt ngã của cuộc đời đến từ từ… chầm chậm….. từng biến cố, để không thánh giá nào quá sức chịu đựng của con người.  Sự hiện diện của Cha trong cuộc sống chẳng phải qua một phép lạ kinh thiên động địa, rung chuyển núi non, mà là một sự hiện diện nhẹ nhàng ẩn khuất, từng ngày…. từng phút…. trong từng ngọn gió hiu hiu… qua từng biến cố lớn nhỏ… qua từng giọt café tí tách… để thấm dần… thấm nhẹ vào lòng người.  Trong cõi một mình cô tịch, con thấy giọt café đen lạ lùng, nhiều ý nghĩa…

Sáng nay nghe mưa quanh mình, trời chợt lạnh như mùa Đông
Những cơn mưa rơi ơ hờ, rớt trên cuộc tình mong manh…..

Sáng nay quanh mình không tiếng mưa rơi, thế vào đó là tiếng nước róc rách ru hồn con trong vòng tay Cha.  Tiếng nước thánh thót nhẹ nhàng, quyện với tiếng nhạc da diết cho con cảm giác phận người mong manh dễ vỡ.  Làm sao để giữ lại những giây phút có Cha bên mình?  Làm sao để xác tín rằng con không một mình bên ly café cuộc đời?

“Sáng nay café một mình…”  À, có “Café Một Mình” thì mới gặp được Cha, chứ nếu café với “nhiều mình,” ồn ào huyên náo thì đã không có được cảm giác có Cha ngồi bên để cùng nhâm nhi ly café.  Có dành ra tí chút thì giờ để “Café Một Mình” trước khi đi làm thì mới bắt gặp được Cha, cũng đang dạo quanh tìm những “một mình” khác để quyện lại với nhau vẫn chỉ là một mình, nhưng không phải là một mình của cô đơn buồn bã, lo âu sợ hãi, nhưng là một mình của bình an hoan lạc, tin tưởng và cậy trông.  Chẳng phải lúc nào cũng dễ dàng bắt gặp được Cha bên ly café cuộc đời, nhưng có “Café Một Mình” thì dễ bắt gặp Cha hơn.  Chỉ có vậy thôi, “Sáng nay café một mình,” chẳng có gì đặc biệt cả, ly café vẫn như mọi ngày với đầy đủ hương vị ngọt đắng của nó, nhưng tâm tình của “một mình” hôm nay khác hẳn.

Cha ơi…. Cha ơi…!  Cám ơn Cha đã hào phóng cho con những giây phút không một mình bên ly café.  Xin cho con được ghiền Cha như ghiền café buổi sáng.  Xin cho con nhiều hơn những phút giây “Café Một Mình” bên Cha.

Lang Thang Chiều Tím
July 2012

 

 

NỮ ĐẠO CHÍCH

(Mc 5:25-34)

Ngày xửa ngày xưa… vào thời mà phụ nữ bị đối xử rẻ mạt coi khinh.  Tại một đất nước Do Thái xa xôi, khi mà các ngành nghề trong xã hội từ thượng tầng đến hạ cám không hề có bóng dáng phụ nữ, kể cả nghề… đạo chích.  Thế mà lại có một nữ lưu xuất hiện trong nghề này một cách bất ngờ.  Bà đã ra tay chớp nhoáng, rồi giải nghệ nhanh chóng.  Chỉ hành nghề một lần duy nhất trong đời mà bà sống ung dung hạnh phúc suốt đời.

Vâng, bà quả là một tên trộm tài tình.  Tuy bị bắt gặp quả tang nhưng bà đã được tha thứ, bởi bà đã lấy cái đáng để lấy, và đã ăn cắp của một người đáng để ăn cắp.  Cái tài của bà là cho đến nay, ít ai nhận diện ra bà là một tay đạo chích.  Bà đã từng là một tiểu thư con nhà giàu có, tiền rừng bạc bể.  Nhưng ông trời kể ra cũng công bằng.  Cho bà nhiều tiền lắm của, thì cũng ban thêm cho bà một căn bịnh nan y.  Cái “bịnh đàn bà” mà bà thường xấu hổ không muốn ai biết đến.  Bà bị băng huyết đã mười hai năm rồi (Mc 5:25).  Suốt cuộc đời thanh xuân, bà cứ phải đeo bên mình những chiếc khăn để thấm những giọt máu rỉ rả chảy ra ngày đêm.  Người bà lúc nào cũng thoang thoảng một mùi tanh tưởi khó chịu mà chẳng dầu thơm nào có thể át đi được.  Gia sản kếch sù của mẹ cha để lại đã tiêu dần theo tháng ngày để chữa căn bịnh đáng nguyền rủa kia.  Nhưng khốn thay, tiền mất tật mang, bịnh tình bà ngày càng thêm trầm trọng hơn (Mc 5:26).  Hạnh phúc gia đình bà cũng đội nón ra đi, vì có ông chồng nào lại muốn sống chung với người vợ bị bịnh băng huyết trầm kha như bà?

Bà đã có tất cả để rồi mất tất cả: tiền bạc, tình yêu, hạnh phúc gia đình, quyền làm vợ, làm mẹ.  Đời bà chìm sâu trong khổ đau nước mắt suốt những năm tháng dài.  Sống với nỗi bất hạnh đớn đau, bà chỉ cắn răng chôn chặt trong lòng mà chẳng dám tỏ cùng ai.  Tỏ ra mà chi, ai có thể cứu được bà khỏi nỗi oan khuất cuộc đời này?  Trong cay đắng tuyệt vọng, bà nghe loáng thoáng tin đồn về một vị ngôn sứ mới xuất hiện, thường hay rao giảng, và làm phép lạ bên bờ Biển Hồ gần nhà bà.

Như chết đuối gặp được chiếc phao, bà thầm nghĩ sao bà không đi gặp vị ngôn sứ đó, và xin ông chữa lành cho bà khỏi căn bịnh nan y, như ông đã từng chữa lành những người què cụt, đui mù, phong hủi khác?  Rồi bà lại lưỡng lự do dự.  Bao nhiêu tiền bạc còn không hết, huống chi là chữa bịnh miễn phí!  Bà lại tới lui đắn đo… nhưng nếu ông ta chữa cho bà được lành bịnh thì sao?  Ngược lại nếu không khỏi bịnh, thì bà có bị mất cái gì đâu?  Bà chẳng còn gì để mất nữa!  Được ăn cả, ngã về không!  Một canh bạc chỉ có lời chứ không có lỗ.  Bà phải đánh liều với canh bạc cuộc đời này vậy, đánh liều với số phận đen đủi đã bám theo bà bao nhiêu năm nay.

Thế là bà lân la tìm hiểu về đường đi nước bước của vị ngôn sứ mới nổi lên trong vùng.  Ông tên Giêsu, được người ta xưng tụng là Con Thiên Chúa.  Ông thường kêu gọi mọi người ăn năn hối cải vì Nước Thiên Chúa đã đến gần.  Quanh ông lúc nào cũng có những đám đông vây kín, hết vòng trong đến vòng ngoài.  Ngoài trừ các môn đệ, ít ai có cơ hội “chụp” được lúc ông đi riêng một mình.  Vậy thì làm sao bà, một phụ nữ xa lạ, lại có thể tiếp cận được với ông để xin chữa bịnh cho mình?  Bà lại chẳng quen ai trong đám môn đệ của ông để mà chạy chọt nhờ vả.  Nếu giỏi chen lấn đến được gần bên ông, liệu bà có đủ can đảm nói rõ căn bịnh của mình trước đám đông ồn ào hay không?  Không, bà không đủ can đảm.  Bà xấu hổ với căn bịnh kín này, mà chẳng biết là do tội của bà hay tội của cha ông để lại, thì làm sao bà dám tự thú trước đám đông như vậy.

Nếu không có cơ hội để xin thì phải đành… ăn cắp vậy.  Chà, một vụ trộm giữa thanh thiên bạch nhật đây, mà bà lại là người không có chuyên môn.  Tự nhiên bà hồi hộp lưỡng lự chùn bước, nếu bị bắt gặp quả tang thì sao nhỉ?  Chắc không sao đâu, đành liều mạng vậy thôi vì không còn cách nào khác.  Nạn nhân của bà là Ngôn sứ Giêsu nhìn cũng thật thà hiền lành.  Cái mà bà muốn lấy cắp là năng lực, là thần khí ở nơi ông.  Tự trong đáy lòng, bà xác tin mạnh mẽ rằng nếu được đến gần vị ngôn sứ đó, được rờ vào tua áo ông, ăn cắp nguồn sinh lực dồi dào nơi ông thì bà sẽ được chữa lành.  Phải, chỉ cần rờ vào tua áo ông thôi.  Bà nín thở nhắm mắt lại hình dung cảnh bà hết bịnh, khoẻ mạnh tung tăng tràn đầy sức sống… Và biết đâu ông sẽ không biết nguồn năng lực bị lấy cắp?   Bà nhẹ nhõm với ý nghĩ này, và lên chương trình hành động cho mình.

Một chiều thu nắng đẹp, trời trong veo, bà có mặt trong đám đông náo nhiệt đang vây quanh vị ngôn sứ Giêsu để nghe giảng.  Bà chen lấn, cố lách mình qua đám thanh niên vạm vỡ, rồi đến nhóm đàn bà con gái lì lợm không chịu nhường bước cho ai.  Tấm thân bịnh hoạn mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhại, bà thở hắt ra, và muốn bỏ cuộc.  Không, bà không được bỏ cuộc, phải ráng lên, chỉ còn vài bước nữa thôi.  Bà cố gắng vét chút hơi tàn để lách tấm thân gầy gò qua hai chú nhóc con đang mải nói chuyện với nhau.  Tới gần rồi, nhưng không thể ráng thêm được nữa.  Sao mà đông thế này!  ZZBà cảm thấy ngộp thở, muốn qụy xuống mặc cho làn sóng người đẩy đưa.  Bà giơ cánh tay về phía trước quờ quạng khua khua trong không khí, coi may ra có chộp được cái gì hay không.  Hụt rồi!  Bà thất vọng bỏ tay xuống thở hổn hển, cố ráng thêm một lần nữa xem nào.

Chợt một cơn gió nam ùa tới thổi tung vạt áo vị ngôn sứ bay về phía bà.  Bà mừng rỡ rướn người đưa tay về phía trước.  Bàn tay bà chộp được tua áo, bà nắm chặt lấy nó như giữ của qúy trong tay.  Bà nhắm mắt lại, một luồng sinh lực mạnh mẽ từ tua áo vị ngôn sứ chảy ào ào qua người bà.  Luồng điện truyền khắp châu thân, chảy dọc từ chân lên đến đỉnh đầu.  Luồng điện chạy đến đâu, người bà nóng hừng hực đến đó như có thể nổ tung ra.  Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh (Mc 5:29).  Buông vạt áo ra, bà cảm thấy khoẻ khoắn tràn đầy nhựa sống, như được tái sinh con người mới.  Đứng thẳng người, bà mở mắt hít một hơi dài làn không khí trong lành vào hai buồng phổi.  “Khỏi thật rồi!  Lạy Thiên Chúa của con!”  Bà lẩm bẩm và lặng người đi trước niềm vui bất ngờ quá lớn lao này.  Tâm hồn lâng lâng trong niềm hoan lạc, đầu óc bà bắt đầu nghĩ đến việc nhẹ nhàng rút êm, càng sớm càng tốt.  Bước chân chưa kịp lẩn trốn, bỗng bà giật thót mình khi nghe tiếng hỏi vang vang bên tai:

–  Ai đã sờ vào áo tôi? (Mc 5:30).

Bà kinh hãi chết đứng tại chỗ: “Trễ rồi sao?  Vị ngôn sứ đã biết rồi ư?  Làm sao bây giờ?”  Bà lặng người nín thở không dám lên tiếng, mặt cúi gằm xuống đất để tránh né cái nhìn tìm kiếm của ông Giêsu.  Đám đông ngơ ngác nhìn quanh.  Ngạc nhiên nhất là các môn đệ, mắt họ dáo dác nhìn nhau lắc đầu, chẳng ai hiểu Thầy mình muốn hỏi gì.

Tất cả chìm trong lặng im, chẳng thấy ai lên tiếng trả lời cho câu hỏi kỳ lạ.  Cuộc rao giảng nhường chỗ cho một vụ án mới, mà nạn nhân giờ đây đang truy tìm thủ phạm.  Lại tiếp tục thinh lặng!  Luật sư Phêrô đứng ra trả lời thay cho đám đông.  Nhưng thay vì lên tiếng binh vực cho nạn nhân Giêsu, ông nói lên một sự thật rất logic trước câu hỏi như ngớ ngẩn của thân chủ mình:

–  Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?” (Mc 5:31).  

Nạn nhân Giêsu không thèm đếm xỉa đến câu nói “phản án,” mang đầy tính binh vực cho bị cáo của luật sư Phêrô.  Ngài tiếp tục nhìn chằm chằm vào đám đông đang xô đẩy xung quanh, như quyết truy xét bị cáo cho đến cùng.  Ánh mắt sáng quắc quét qua từng người làm cho ai nấy đều khiếp vía lui lại vài bước.  Ai ai cũng lắc đầu không hiểu vị ngôn sứ đang tìm kiếm gì nơi đám đông?  Trong vụ trộm bí ẩn này, chỉ có người bị mất cắp mới biết mình vừa mất món gì.  Và chỉ có tay đạo chích vừa hành nghề xong, mới biết mình vừa “chôm chỉa” được món hàng béo bở gì.  Câu hỏi có vẻ như ngây ngô của nạn nhân Giêsu chỉ có người trong cuộc mới hiểu được.  Nó không hoàn toàn vô nghĩa như người ta tưởng.

Bà sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình (Mc 5:33).  Thoáng hạnh phúc vì được khỏi bịnh đã tan mau, giờ đây bà lại đương đầu với một vụ án mới mà bà không biết bản án cho tội ăn cắp sẽ là gì?  10 năm, 20 năm, hay 30 năm tù, hoặc là án tử hình?  Bà lo sợ tự hỏi mình như vậy.  Rồi vị ngôn sứ có đòi lại năng lực mà bà vừa mới “chôm” được từ con người của ông hay không?  Rồi bà sẽ bị trả về với căn bịnh cũ, và thiên hạ sẽ cười chê bà về tội ăn cắp?  Tim bà quặn thắt lại, bà phải làm sao đây?  Bà nghe nhiều về những việc chữa lành của vị ngôn sứ nhưng bà hoàn toàn không biết gì về con người của ông ta cả.  Giêsu là con người như thế nào nhỉ?  Nhân hậu cảm thông với những người ốm đau bịnh tật, hay thẳng tay theo đúng luật lệ như mấy ông Pharisêu?  Tội của bà có thể tha thứ được không?  Ông ta có kết án bà không?  Bao nhiêu câu hỏi quay cuồng trong đầu khiến bà run sợ, cúi gằm mặt xuống đất không dám nhìn vào ánh mắt Giêsu.

Câu hỏi một lần nữa lại được vang lên một cách nghiêm khắc:  “Ai đã sờ vào áo tôi?”

Không thể chần chờ và giữ kín được nữa rồi, bà run rẩy bước ra khỏi đám đông, và phủ phục trước mặt Giêsu.  Sau vài câu đầu lắp bắp vì sợ hãi, thần khí sự thật nay đã ở trong bà, ban thêm cho bà ơn can đảm, giúp bà mạnh dạn kể lại toàn bộ sự việc trước mặt đám đông, và ngôn sứ Giêsu.  Bà thú thật về căn bịnh băng huyết 12 năm của mình, về ước ao được chữa lành, về niềm tin nếu đụng vào áo của Giêsu thì sẽ được chữa lành, và sự thật bà đã được khỏi bịnh tức khắc ngay khi vừa đụng vào áo của ông như thế nào.

Kể xong, bà lặng im thổn thức cúi đầu chờ đợi, hai hàng nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.  Bà như một bị cáo hồi hộp đứng chờ quan tòa tuyên án.  Nạn nhân Giêsu nhẹ nhàng đặt tay lên vai bà như truyền thêm cho bà sức mạnh tình yêu, thứ mà bà chưa biết nơi con người Giêsu.  Với giọng trầm ấm nhân từ, Ngài nhỏ nhẹ nói:

–  Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an, và khỏi hẳn bịnh (Mc 5:34).

Bà ngạc nhiên mừng rỡ như không tin vào tai mình.  Như vậy là ngôn sứ Giêsu không đòi lại Thần khí mà bà vừa mới lấy cắp được ư?  Ông không kết án bà sao?  Không những đã tha tội cho bà mà ngài còn khen thưởng về lòng tin, và chúc bà về bình an nữa.  Niềm vui, hạnh phúc, trộn lẫn với những khổ đau trong 12 năm bịnh hoạn đã một thời bị đè nén, giờ ùa ra vỡ tràn bờ đê!  Bà gục xuống ôm chân vị ngôn sứ khóc nức nở.  Những giọt nước mắt của một thời khổ đau thay bà nói lên lời tạ ơn với vị ân nhân tốt bụng.  Giêsu đứng đó, lặng im tôn trọng giây phút thánh thiêng của phận người gặp gỡ nguồn ân phúc cao cả.

Trước đây bà chỉ nghe nói về một ông Giêsu chuyên làm phép lạ, chữa lành những người đau yếu, rao giảng về một Nước Trời xa lạ nào đó.  Giờ đây chính bản thân bà mới có cảm nghiệm của riêng mình về lòng tha thứ nhân từ của Giêsu, về tình yêu Ngài dành cho những kẻ khốn khổ, về ý nghĩa của hai chữ “Nước Trời.”  Cuộc đời bà giờ đã sang trang, một đức tin vững vàng nơi Thiên Chúa nhân từ ở trong một thân xác khoẻ mạnh hồng hào.  Bà có cảm tưởng như bà lại có tất cả.  Vâng!  Sức khoẻ, niềm tin, tình yêu, và một năng lực mới ở trong con người bà, là những món quà thiêng liêng mà vị ngôn sứ Giêsu đã trao tặng lại cho bà, không còn phải là của ăn cắp nữa!  Những giọt lệ nóng vẫn lăn dài trên má, nhưng giờ đây đó là những giọt nước mắt sung sướng hạnh phúc!  Tiền bạc đã hết, danh vọng cũng chẳng còn, bà chẳng còn gì để trả ơn cho vị ân nhân cứu mình, bà chỉ có tình yêu xin được đặt dưới chân Người!

Nắng ngả chênh chếch về hướng tây, đám đông rút lui dần để lại các môn đệ, và hai nhân vật chính trong vụ án khó hiểu.  Vị trạng sư Phêrô nhíu mày lắc đầu, hết nhìn thầy mình, đến người đàn bà, rồi nhìn các bạn đồng môn như vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra.  Tại sao lại có phép lạ kỳ quặc như thế này nhỉ?  Thầy mình ra tay lúc nào mà có phép lạ?  Ông vẫn sờ vào tua áo của thày mình hàng ngày đấy thôi, có chuyện gì xảy ra đâu?  Còn bao nhiêu người khác nữa, cũng đụng vào áo thày mình ầm ầm mà có thấy phép lạ, hay điềm thiêng gì đâu?  Ông không biết rằng những thắc mắc đó chẳng phải là của riêng ông mà còn là những thắc mắc của bao thế hệ sau này.  “Phép lạ là gì?  Lòng tin là gì mà có thể cứu chữa được con người?”  Chẳng ai có thể hiểu được nó chỉ trừ phi họ sống đức tin của mình trước, như người đàn bà bị bịnh băng huyết.  Cho nên dù là một tay đạo chích, bà quả đáng mặt nữ lưu anh hùng của niềm tin để con cháu đời sau noi theo.

Lang Thang Chiều Tím
October 2010

LỜI TỎ TÌNH

Thế là họ chia tay nhau sau vài năm ngắn ngủi bước vào đời sống vợ chồng.  Gặp lại anh khi vừa mới li dị, tôi không nhận ra người xếp trẻ, đẹp trai, giỏi giang, và hoạt bát của mấy năm về trước.  Khuôn mặt anh già nhiều so với thời gian, cặp mắt chất chứa vẻ u buồn chán nản, và phảng phất nét bất cần đời của kẻ bị thất bại trên tình trường.  Cuộc ly dị chớp nhoáng của đôi vợ chồng son chưa kịp có con đã để lại nơi anh nhiều dấu ấn, nhiều điều lưu luyến chưa kịp nói ra, những giấc mơ đẹp đang dệt dở dang…  Mất nhà, mất tài sản… không đau bằng mất người vợ mà anh như vẫn còn nhiều vấn vương thương nhớ.  Địa vị vẫn còn đó, tài năng vẫn ở lại với anh, nhưng anh như hụt hẫng, xa lạ với cuộc sống, thiếu tự tin, và thiếu vắng một cái gì đó bên đời.  Vợ anh, một cô gái trẻ đẹp mắt xanh tóc vàng, như đa số các cặp vợ chồng người Mỹ khác, đã chia tay anh trong vui vẻ hòa bình.  Cô ta coi anh như bạn, nhưng anh thì lại tránh không muốn gặp mặt cố nhân.  Anh buồn nhưng không hận, chán đời ZZnhưng chưa chán “người,” giận “người” bỏ đi nhưng cũng giận mình ở lại, trách “người” cũng có, và không phải không có những điều để tự trách mình.

Trong khi trách ai “tham vàng bỏ nghĩa,” anh nhìn lại mình và xót xa nhận ra những thiếu sót trong đời sống hôn nhân.  Có một điều mà anh nuối tiếc nhất, trách mình nhiều nhất, và nếu có cơ hội để làm lại, anh sẽ làm tốt hơn.  Đó là anh sẽ bày tỏ tình yêu của người chồng với vợ qua những lời tỏ tình đơn giản trong cuộc sống trước khi quá muộn màng.  Ba chữ “anh yêu em,” hay “I love you” đơn giản vậy thôi, nhưng với anh sao mà khó nói quá, cho dù anh qua Mỹ từ lúc nhỏ, cho dù người anh chất Mỹ nhiều hơn Việt, cho dù anh cưới cô vợ Mỹ, cho dù anh đã nói lời tỏ tình nhiều lần trước khi cưới, cho dù…. thế này, thế kia… Thực tế phũ phàng là anh đã “quên” không nói lời tỏ tình từ sau khi người ta chịu qùy xuống bái lạy cha mẹ anh.

Đôi lúc anh tự biện hộ cho mình rằng, vợ anh phải “tự động” hiểu tình yêu anh dành cho vợ được biểu hiện qua nhiều cách khác nhau.  Những hành động cụ thể như cho vợ xài tiền thoải mái, nhường xe mới cho vợ chạy, đưa vợ đi nghỉ hè mỗi năm, v.v… và v.v… như thế chưa đủ nói lên tình yêu hay sao?  Tự biện hộ cho mình nhưng anh cũng tự phủ định tất cả những lý do anh đưa ra.  Nếu anh không thành thật với chính mình để rút ra bài học, anh sợ sẽ tiếp tục thất bại thêm lần nữa.  Anh không yêu một người điếc, và anh cũng chẳng phải là người câm, vậy cái gì đã ngăn cản anh không nói lên lời của con tim?  Đổ lỗi cho văn hóa Việt Nam ư?  Anh lấy Mỹ và đang ở Mỹ mà!  Anh chua chát nhận ra rằng, dù Mỹ hay Việt, Tình Yêu cần phải được nói ra bằng lời – nếu là yêu; cần phải lập đi lập lại nhiều lần – nếu còn yêu; cần phải nuôi dưỡng nó – nếu muốn nó sống sót; cần phải làm mới lại tình yêu mỗi ngày – nếu muốn nó phát triển.  Bài học cay đắng tuy trễ nhưng chưa quá muộn màng với anh.  Cuộc đời anh còn dài, hy vọng anh sẽ tránh được vết xe đổ trong đời sống hôn nhân sau này.  Tôi cầu chúc anh sớm tìm được tình yêu mới, với những thiếu sót trong hôn nhân đổ vỡ đã qua, anh sẽ biết khôn ngoan hơn để gìn giữ hạnh phúc dài lâu trong vòng tay.

******************************

Câu chuyện tình buồn với phần kết thúc không có hậu của người bạn, giúp tôi hiểu hơn về giá trị “Lời Tỏ Tình” trong đời sống hôn nhân ngày nay.  Cuộc sống lứa đôi bây giờ đã khác nhiều so với những thế hệ trước.  Hôn nhân không phải là đoạn kết của một cuộc tình, càng không phải là lúc kéo màn kết thúc những “Lời Tỏ Tình” lãng mạn hôm qua.  Hôn nhân là cánh cửa mở ra một chân trời mới.  Tình yêu lứa đôi giờ đây đã đi vào chiều kích sâu đậm hơn, chữ tình bị thử thách nhiều hơn, chữ nghĩa ngày càng chồng chất.  Những từ ngữ xa lạ như bổn phận, trách nhiệm từ đâu ập đến khiến cả hai nhìn nhau bỡ ngỡ.  Vậy mà ở nơi “chiến trường” khốc liệt đó, anh đã quên không nói lên tiếng nói của con tim, để “đối phương” ngỡ ngàng không hiểu sao họ lại bị ràng buộc bên nhau để cùng “chiến đấu?”  Tôi tự hỏi, nếu anh không quên nói lời tỏ tình mỗi ngày, nhất là trong những lúc sóng gió cuộc đời, thì hôn nhân của họ ZZcó đổ vỡ hay không?  Không chắc cho một câu trả lời, nhưng chắc hẳn anh sẽ không có gì để luyến tiếc ân hận, vì đã không nói lên tiếng nói của con tim tràn đầy yêu thương với người bạn đời.

“Lời Tỏ Tình” trong đời sống hôn nhân có giá trị là thế, vậy trong đời sống thiêng liêng “Lời Tỏ Tình” có cần thiết không?  Một Thiên Chúa thấu biết mọi sự, “biết cả khi con đứng con ngồi, con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa…” (TV 139) có cần đến “Lời Tỏ Tình” của tôi không?  Một Thiên Chúa mà khi “miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết,” có dư thừa không nếu tôi cứ phải nói tiếng yêu với Ngài mỗi ngày?  Ngược lại, tôi có nhất thiết phải được nghe “Lời Tỏ Tình” của Chúa với tôi không dù tôi đã thuộc nằm lòng câu “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một…?”  Chúa ơi, con biết rồi tình yêu của Chúa dành cho con, và Chúa cũng đã quá rõ tình yêu của con với Ngài, vậy mình có cần trao đổi “Lời Tỏ Tình” với nhau không?

“Lời Tỏ Tình” của tôi chẳng mang thêm vinh quang gì cho Chúa.  Không có “Lời Tỏ Tình” của tôi, Ngài vẫn trung thành với lời giao ước.  Tình yêu của Ngài chẳng bao giờ đổi thay.  Không cần tôi nói lời yêu, Ngài đã yêu, đang yêu và sẽ yêu cho đến cùng.  Chưa kịp nghe chữ yêu, Ngài đã gục đầu xuống tắt thở.  “Lời Tỏ Tình” của tôi với Thiên Chúa Tình Yêu là cho tôi chứ chẳng phải cho Ngài.  “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa” được lập đi lập lại nhiều lần sẽ nuôi dưỡng tình yêu của tôi lớn lên từng ngày.  Nó giúp tôi ý thức hơn về tình yêu của mình dành cho Chúa, là động lực khích lệ tôi cố gắng sống xứng đáng hơn với tình yêu mà tôi vừa thổ lộ.  Lời Tỏ Tình đó không chỉ giúp tôi cảm nhận được sự hiện diện gần gũi của người mà tôi đang nói lời yêu thương, mà còn giúp tôi chống trả với những cám dỗ trong cuộc sống.  Tình yêu của Chúa dành cho tôi không thể nhiều hơn, hay mặn nồng hơn khi nghe tôi nói Lời Tỏ Tình, vì tình yêu của Ngài đã là tận cùng, tột cùng, và “đến cùng” rồi (Ga 13:1b).  Nhưng chắc chắn tình yêu của tôi như được tưới thêm nước, có thêm ánh sáng, đất tốt để đơm bông kết trái.  Thiên Chúa có thể “tự động” hiểu tình yêu của tôi dành cho Ngài.  Nhưng tình yêu của tôi với Chúa không thể “tự động” lớn lên, nếu không được chăm bón từng ngày từng phút.  Trên Biển Hồ Ti-bê-ri-a ngày xưa, Chúa đã nghe rồi câu trả lời của Phêrô: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy,” vậy mà Chúa cứ hỏi đi hỏi lại đến ba lần cùng một câu hỏi “Con có yêu mến Thầy không?”  Phải chăng Chúa cũng vui và hạnh phúc khi được nghe tiếng tình yêu đáp trả tình yêu, nên Ngài muốn nghe, nghe nữa, nghe hoài những điệp khúc đó?  Phải chăng Ngài cũng từng mòn mỏi mong đợi đến ngày mà “ngươi sẽ gọi Ta: “Mình ơi”, chứ không còn gọi “Ông chủ ơi” nữa” (Hs 2, 18)?

Vâng, tôi cũng biết rất rõ là “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian (trong đó có tôi) đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho trần thế…,” nhưng đó là câu của thánh Gioan viết lại từ 2000 năm về trước trong cuốn Kinh Thánh dày cộm, chứ đâu phải lời tỏ tình trực tiếp của Chúa với tôi?  Tình Yêu đâu có chuyện nghe tỏ tình gián tiếp qua người này người nọ?  Tình yêu nghe trực tiếp còn chưa có đất sống, chứ đừng nói đến chuyện nghe qua người này người kia.  Tôi tin là Chúa yêu tôi đến nỗi chết cho tôi được sống.  Nhưng con tim của tôi cần phải được cảm nhận tình yêu đó.  Đôi tai tôi cần được nghe trực tiếp Lời Tỏ Tình của chính Chúa nói với tôi, chứ không phải qua thánh Gioan, hay qua bài giảng hùng hồn của một vị linh mục, hoặc qua bài suy niệm ướt át của người khác viết.  Vậy làm sao tôi có thể nghe được tiếng Chúa nói với tôi là Ngài yêu tôi, chính tôi chứ không phải ai khác?  Mà làm sao có thể nghe được tiếng nói của người yêu nếu không dành thì giờ cho nhau?

Lòng khao khát trong Tình Yêu sẽ chỉ cho mỗi người chúng ta biết mình cần phải làm gì để tiếp cận được với người mình yêu, để nghe được tiếng nói của người yêu, để tạo cơ hội cho người yêu nói, và để yêu nhau hơn, gần nhau hơn.  Chỉ cần tôi thành thật với chính mình, hãy hỏi lòng mình muốn gì, tìm gì trong cuộc tình này?  Tôi tin là Chúa cũng mong muốn nói lời yêu thương với tôi lắm, Ngài chỉ chờ có cơ hội thôi.  “Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.” (Hs 2:16).  Còn tôi, tôi có nghiêm túc trong cuộc tình này không, hay chỉ là theo chân đám đông à ơi dí dầu cho qua chuyện.

******************************

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho các cặp tình nhân trên thế gian này đều được mãn nguyện sống hạnh phúc bên nhau.  Khi họ đã chọn để cùng sống bên nhau, xin Chúa chúc lành, và ban thêm ơn sủng cho các đôi hôn phối, để họ có thể cùng đi với nhau đến trọn đời.  Xin cho mối tình giữa Ngài và con sẽ có một kết thúc đẹp tuyệt vời bên Ngài trong ngày sau hết, để lời cầu nguyện của Ngài được trở thành sự thật “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17:24a) Amen!

Lang Thang Chiều Tím
Valentine’s 2012

SUY NIỆM HÀNG NGÀY – MƯỜI NĂM NHÌN LẠI

ZZVào những ngày cuối Thu năm 2001, một nhóm bạn trẻ ở Thung Lũng Hoa Vàng đã nhận được những bài suy niệm ngắn gọn được chuyền tay nhau qua email từ người này sang người kia.  Sau đó, vài người bạn bàn nhau thành lập một email-group để chia sẻ kinh nghiệm trong đời sống thiêng liêng và những bài Suy Niệm Hàng Ngày (SNHN) được gởi đến độc giả qua email group này.  Đó là v-sharing@yahoogroup.com.  Lang Thang Chiều Tím, một bút hiệu nhuốm đầy bụi trần, ra đời từ đó để gởi đi các bài SNHN với mục đích không để ai biết tung tích người gởi.

Mục đích ban đầu của SNHN thật rõ ràng, là “… chia sẻ các bài suy niệm, và cầu nguyện cho các anh chị em Vùng Bay.”  Nhưng Chúa Thánh Thần lại có cách làm việc riêng, Ngài không chỉ làm việc “online” với các tâm hồn ở Vùng Vịnh, mà còn thổi luồng gió mới đến các vùng đất khác.  Khi được đánh động, người đọc đã chuyển SNHN cho bạn bè và người thân để cùng chia sẻ một tâm tư, một rung cảm nào đó mà họ đã cảm nhận được.  Người được nhận cảm thấy cùng chung một nhịp đập, lại tiếp tục chuyển thông điệp đi cho người khác, và cứ như thế!  Rồi những e-mail gởi về xin nhận SNHN như những cánh bướm mang mùa Xuân tới cho chương trình.  SNHN bây giờ không còn là của riêng Vùng Vịnh San Jose nữa, mà cũng chẳng thuộc giáo xứ, hay hội đoàn nào.  Và đâu ai biết rằng trong những e-mail xin nhận bài suy niệm, có cả những Phật tử, những anh em ngoài Công Giáo.  Đúng thật Thiên Chúa chẳng là của riêng ai!

Mười năm nhìn lại, số người nhận bài Suy Niệm từ 100 trong buổi ban đầu, nay đã tăng lên gần 3000 với đủ mọi thành phần: Giám Mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, Phật tử, Tin Lành, bổn đạo mới, già trẻ, lớn bé, người Việt trong nước, Việt kiều khắp năm châu bốn bể…  Để đáp ứng với sức sống mới, SNHN đã trải qua ba lần thay đổi email-groups, và đã có nhà riêng ở địa chỉ suyniemhangngay.org

Mười năm nhìn lại, mục đích ban đầu đã được Thiên Chúa biến đổi từ từ.  SNHN bây giờ là tâm tình chia sẻ những cảm nghiệm thiêng liêng trong đời sống đức tin của mọi người, mọi giới, và mọi nơi….  Là những bài ngắn gọn dễ đọc, dễ hiểu, có thể đọc vội vàng hay từ từ suy gẫm bên tách cà phê buổi sáng.  Là những bài sưu tầm lượm lặt đó đây…, là những lời nguyện ngắn gọn, đơn sơ giúp bạn đọc có vài phút lắng đọng hướng tâm tình lên với Chúa trong một ngày làm việc bận rộn.

Mười năm nhìn lại, SNHN cũng trải qua bao thăng trầm như một phận người.  Có những lúc muốn về hưu non vì không đủ sức đi tiếp.  Ban Biên Tập, nghe thật oai nhưng chỉ là hai người, một người tìm và gởi bài một tuần ba lần, còn một người đưa bài lên web, thâu âm mix nhạc, và làm các bài đọc audio file mp3.  Lao đao qua bao tháng ngày vật lộn tìm ý Chúa, tìm người hợp tác… cuối cùng SNHN cũng có lối thoát!  Người thì không có thêm, nhưng công việc được san sẻ, và ơn Chúa lại xối xả tuôn đổ xuống cho những kẻ đang đi giữa phong ba bão táp cuộc đời!

Mười năm nhìn lại, SNHN không chỉ là các bài viết mà còn là các bài đọc dưới dạng audio file mp3.  Từ những bước đầu chập chững của năm 2004 với một giọng đọc nữ, rồi thay kỹ thuật, đổi software, nâng cấp microphone, chuyển cách mix nhạc, chọn bài hát sao cho phù hợp, tìm thêm các giọng đọc nam nữ, v.v…, tất cả là sự cố gắng của những “amateurs” để tạo thêm cơ hội cho Chúa Thánh Thần làm việc.  Cộng tác viên của SNHN dần dần tăng lên con số 6.

Mười năm nhìn lại, biết bao niềm vui khi nhận những e-mail khích lệ, cám ơn, những lời cầu nguyện, và lời chúc tốt đẹp, xin sử dụng bài đọc MP3, xin được chuyển ngữ bài viết qua tiếng Hoa, xin được dùng bài viết trong trường Việt Ngữ, xin được đăng bài viết lên các tờ thông tin của giáo xứ, và các trang web khác…  Là niềm an ủi thiêng liêng khi độc giả chia sẻ đã nghe đi nghe lại các bài đọc audio file đến thuộc lòng.  Là tâm tình bất lực khi nhận những e-mail xin bài bằng tiếng Anh, tiếng Pháp để bạn bè ngoại quốc, hoặc con cháu không rành tiếng Việt có thể đọc được SNHN.  Là tâm trạng áy náy khi nhận những e-mail với lời lẽ quá trang trọng như “trọng kính cha…,” “thưa ngài…,” “chào qúy cha, qúy thầy…,” “kính gởi LTCT…”  Biết nói sao bây giờ nhỉ?  Giải thích thế nào cho suông sẻ?  Thôi thì đành lặng im vậy!  Chúa ơi, giờ nào là giờ của Chúa, xin giải thích dùm chúng con, những kẻ phàm nhân mang nhiều bụi trần đang lang thang vật lộn giữa dòng đời!

Mười năm nhìn lại là chuỗi ngày hồng ân cho những giáo dân tầm thường được kêu mời vào công việc mục vụ online một cách bất ngờ.  Những kẻ không có chuyên môn về giáo lý thần học, chưa từng viết bài suy niệm, không rành cách làm web, không biết việc thu âm làm audio file, chẳng hiểu cách mix nhạc…  Nếu Chúa muốn sử dụng thì Ngài phải ban thêm ơn, và ơn mưa móc từ trời cao đã không ngừng tuôn đổ trong suốt 10 năm ròng rã.

Mười năm là một chặng đường dài với một đời người, và càng dài hơn với một công việc mục vụ, một việc đòi hỏi sự trung thành bền bỉ, dù vui hay buồn, dù rảnh hay bận, dù khoẻ hay ốm.  SNHN sẽ còn được bao nhiêu năm trước mắt nữa?  Sẽ có ngày kỷ niệm 20, 25 năm không?  Chẳng ai biết được!  Ngày nào được kêu gọi thì kẻ gieo giống cứ tiếp tục đi, đi trên những cánh đồng online mênh mông vô hình.  Ngày nào tiếng gọi trong lòng bảo dừng, thì xin được dừng lại để người khác tiếp tục nối bước.

Mười năm nhìn lại là lời Tạ ơn nối tiếp lời Tạ ơn.  Lời Tạ ơn đầu dâng lên Thiên Chúa Chí Thánh đã cho chúng con có cơ hội phục vụ trong thế giới online huyền bí.  Tạ ơn Chúa Giêsu Kitô vì cái chết của Ngài đã là nguồn cảm hứng cho tất cả chúng con.  Tạ ơn Chúa Thánh Thần đã thổi chúng con đi quá xa cái dự định ban đầu.  Tạ ơn Mẹ Maria đã luôn đồng hành, an ủi và nâng đỡ những khi đoàn con gặp khó khăn xuống tinh thần.  Cám ơn tất cả qúy bạn đọc đã mở lòng đón nhận SNHN dù bài hay hoặc dở, dù ngắn hay dài, dù gởi sớm hay trễ….  Cám ơn qúy cha và những cộng sự viên đã gởi bài cho chương trình.  Cám ơn anh chị em ban Tĩnh Tâm Linh Thao đã, và đang cưu mang SNHN trên trang web.  Cám ơn anh chị em trong nhóm đã, đang, và sẽ tiếp tục cộng tác trong mục vụ truyền giáo online âm thầm bé nhỏ này.  Tất cả chỉ để Danh Thánh Chúa được vinh quang hơn, và Lời Chúa được rao truyền đến nhiều người hơn.

Tạ ơn Chúa và cám ơn người!  Xin tri ân tất cả!

Thay mặt Ban Biên Tập,
Lang Thang Chiều Tím
November 2011

ĐẤT SÉT

(Gr 18:1-6)

Tôi là cục Đất Sét bị bỏ xó nằm buồn thiu bên cạnh những cái bình vỡ ở góc nhà của ông chủ lò gốm.  Cuộc đời tôi lưu lạc từ người thợ gốm trước của ông chủ.  Anh ta là một người thợ bất tài, không có lương tâm.  Đang lúc anh nặn tôi thành hình một chiếc bình, đôi tay vụng về đã làm hỏng chiếc bình trên tay anh.  Chuyện này cũng có lúc xảy ra khi thợ gốm nặn đất sét (Gr 18:4).  Thay vì làm lại một chiếc khác đúng như anh thấy cần phải làm, thì anh đã vo tròn miếng đất sét lại và thẳng tay ném tôi vào góc nhà một cách không thương tiếc.  Đầu tôi bị đập mạnh vô vách tường u lên một cục, thân tôi bị bầm dập, nứt nẻ đầy mình.  “Thế là xong đời,” tôi nhủ thầm và tủi thân khóc thương cho số phận hẩm hiu của cục Đất Sét trong tay người thợ gốm bất tài ác tâm.  Trong bóng tối của góc nhà giăng đầy màng nhện, tôi đã chẳng khóc một mình.  Xung quanh tôi, những đứa bạn cùng chung số phận, đứa thì sứt tai, gãy càng, rách mặt, u đầu… ngồi ôm nhau khóc thút thít mà chẳng biết kêu cùng ai.

Không may cho người thợ gốm vô lương tâm kia!  Khi ông chủ biết chuyện, ông đuổi hết những người thợ gốm gian ác đi.  Trong lò làm gốm giờ chẳng còn ai.  Chúng tôi hồi hộp lo sợ, không biết ông chủ tính làm gì với những mảnh Đất Sét tàn phế vô dụng này.  Ông sẽ mướn những người thợ gốm khác để làm lại ư?  Hay ông sẽ bán cơ ngơi lại cho người khác?  Cũng có thể ông sẽ giục hết đống Đất Sét vụn đi?  Không có câu trả lời!  Ông chủ nổi tiếng giàu có nhất vùng, lò gốm chỉ là một dấu phảy trong cơ ngơi ngút ngàn của ông.  Chẳng ai có thể đếm được khối tài sản của ông.  Bởi ông càng giàu nên chúng tôi càng lo sợ.  Cái thứ phế liệu như chúng tôi có là gì để ông chủ phải bận tâm chứ?  Chúng tôi chỉ còn chờ ngày người ta quẳng vô thùng rác đầu làng.ZZ

Không như chúng tôi dự đoán!  Ngày ngày ông chủ đi ra cái lò gốm bề bộn của đám thợ bất nhân để lại, ông cần mẫn dọn dẹp từng thứ cho gọn gàng ngăn nắp.  Ông làm việc ngày đêm, mang những sản phẩm hoàn chỉnh để riêng sang một bên, quét sạch những góc nhà tối tăm, lôi đám Đất Sét tàn phế ra ánh sáng để xem xét và quyết định số phận.  Rồi ông xách xô nước lạnh đến và nhẹ nhàng nhặt từng đứa một bỏ vào xô nước ngâm cho nhão ra.  Chúng tôi vui suớng ngập mình trong dòng nước mát rượi, và từ từ thân thể chúng tôi biến dạng dãn ra, nhão nhét và mềm mại.

Ngày hôm sau, khi trời vẫn còn tờ mờ sáng, ông chủ đã có mặt ở lò gốm.  Ông dừng lại bên chiếc bàn xoay có hai bánh, từ từ kéo chiếc ghế ra và ngồi xuống trước bàn.  Chúng tôi nhìn nhau kinh ngạc.  Hả, một ông chủ giàu có của lò gốm mà bây giờ tính ngồi vào chiếc ghế của người thợ gốm sao?  Hay tại ông tiếc tiền không muốn mướn thợ?  Vô lý, tiền bạc của ông đếm không xiết thì có xá gì một hai đồng để trả lương cho thợ.  Hay ông không tin vào cách làm ăn cẩu thả của đám thợ vô lương tâm?   Cũng không hợp lý nốt, thợ thì có người này người kia, tìm hoài thế nào mà chẳng có những người thợ làm ăn đàng hoàng chân chính.  Thật không hiểu được!

Ông chẳng thèm đoái hoài gì đến những thắc mắc của chúng tôi.  Ông cho tay vô xô nước và lôi tôi lên, miếng Đất sét nhão nhét chảy dài ra và nằm gọn lỏn trong lòng bàn tay người thợ gốm.  Ông vo vo miếng Đất sét trong tay rồi nheo mắt suy nghĩ, nên nặn tôi ra hình thù gì cho thích hợp đây.  Toàn thân tôi run rẩy trong lòng tay người thợ gốm mới.  Chẳng lẽ ông chủ giàu có lại tính tái chế miếng Đất Sét đã bị phế thải ư?  Dù có nghề thợ gốm cha truyền con nối, nhưng bỏ lâu không làm, biết ông có đủ tài để nặn lại tôi thành một đồ vật hữu ích không?  Rồi ông có đủ đức kiên nhẫn của người thợ gốm để nặn, để gò, để uốn, để nhồi, để nắn không, hay lại… nửa chừng thì quăng tôi ra góc nhà?  Nếu thế thì thật bất hạnh cho thân tôi quá!  Nhưng một cục Đất Sét trong tay người thợ gốm thì có quyền gì mà hạch hỏi người thợ chứ?  Ông làm chủ số phận tôi mà!

Đang mải miên suy nghĩ, bỗng….. reeeẹc…, Úi cha, đau quá!  Tôi rùng mình thét lên.  Thoáng cái đôi tay người thợ gốm đã đưa thân mình tôi xẹt qua xẹt lại giữa bàn xoay hai bánh.  Thân hình tôi từ từ biến dạng theo độ xoay của chiếc máy.  Đau đớn cộng với nỗi sợ hãi quá đáng, tôi co người lách ra ngoài vòng xoay của chiếc máy và những kẽ hở của đôi tay người thợ.  Tay ông mất đà cà xát mạnh vào bánh xoay.  Bàn xoay đã không phân biệt được đâu là đôi tay mềm mại của ông chủ giàu có, và đâu là miếng Đất Sét lì lợm, đã gọt dũa luôn bàn tay chủ tôi.  Máu văng đầy khắp bàn xoay chảy lênh láng, những mảnh thịt vụn li ti văng tung toé lên mình tôi.  Ông nhăn mặt đau đớn, vội bỏ tôi xuống và ôm bàn tay đầy máu đi vào trong.  Tôi sợ hãi hối hận oà lên khóc nức nở.  Vì không tin vào khả năng của chủ mình, vì nghi ngờ vào sự kiên nhẫn của ông, mà tôi đã vô tình làm ông bị thương.  Tôi thật đáng bị nguyền rủa và bị quăng vào thùng rác, tôi không xứng đáng để ông chủ nâng niu nặn hình nữa.  Ông chủ ơi!  Xin lỗi ông!

Hôm nay ông chủ không quay trở lại lò gốm.  Tôi nằm chơ vơ trên bàn máy, lòng buồn ngổn ngang trăm mối.  Tôi có thể làm gì để chuộc lại lỗi lầm của mình đây?

Lại thêm một ngày nữa trôi qua trong lo lắng khổ sở, tôi vò đầu bức tóc.  Mặt trời mọc rồi lặn nhường chỗ cho chị Hằng đến, vẫn không thấy bóng chủ tôi đâu!  Mặt trời ơi, mặt trăng ơi, bàn tay chủ tôi ra sao rồi?  Trong dằn vặt nhung nhớ, tôi không còn thấy người thợ gốm như ông chủ mình nữa.  Tôi thấy ông như một phần thân thể của mình, vì thịt và máu của ông vẫn còn dính đầy trên người tôi đây.  Và ngược lại tôi cũng thấy mình như một phần chi thể không thể thiếu của ông.  Chẳng phải bàn tay ông dính đầy Đất Sét hay sao?  Lòng tôi bâng khuâng lo lắng!  Nếu ông không trở lại thì số phận tôi sẽ ra sao nhỉ?  Lại trở về với thân phận bụi đất vô dụng chăng?  Tôi gục đầu buồn bã ăn năn!

Sáng tinh sương ngàZZy thứ ba, tôi giật mình mở mắt khi có bàn tay ấm áp đặt lên mình.  Tôi mừng rỡ reo lên:  “A, ông chủ!”  Ông mỉm cười âu yếm nhìn tôi.  Lạ thay bàn tay ông đã lành, chỉ còn lại vết thẹo to chạy dài theo lòng bàn tay.  Ông ngồi xuống và nâng tôi lên.  Ông nhẹ tay lau những mảnh máu khô và những vết dơ trên thân thể tôi.  Rồi không một lời trách mắng, không một hành động thô bạo với miếng Đất Sét lì lợm khó ưa, ông bắt đầu lại cuộc hành trình mới với tôi.  Tôi nhắm mắt thả lỏng thân mình trong lòng bàn tay với vết thẹo mới của ông.  Tiếng máy chạy xè xè… thân tôi bắt đầu bị gọt dũa… cắt tỉa… tôi quằn quại đau đớn nhưng ráng cố gắng chịu đựng.  Mỗi khi thân tôi chạy xẹt qua máy, tim tôi thắt lại, đau xé ruột gan.  Trong không gian im ắng, thỉnh thoảng tôi nghe tiếng từng giọt nước thánh thót chảy trên thân mình.  Hé mắt ra nhìn, đó là những giọt mồ hôi nhễ nhãi trên khuôn mặt ông chủ, đang nhiễu nhão chảy dài lên sản phẩm trên đôi tay.  À, ra thế!  Cuộc hành trình từ một cục Đất Sét phế thải đến một sản phẩm hoàn mỹ, không chỉ có mình tôi chịu đựng sự gian truân khốn khổ, mà còn là những giọt mồ hôi công lao khó nhọc của người thợ gốm nữa.  Lặng người đi vì cảm động, tôi không dám nhúc nhích, cố gắng nằm im… phó thác, tin tưởng!

Thời gian như ngừng trôi, sau những khoảng khắc lặng im không nghe tiếng máy chạy nữa, tôi mở mắt ra.  Đã xong giai đoạn đầu và người thợ gốm đứng lên chuẩn bị đưa tôi vào giai đoạn cuối để hoàn tất sản phẩm của mình.  Đó là giai đoạn mà tôi sợ nhất khi thân tôi sẽ bị đặt vào lò nung, với nhiệt độ thật cao trong một thời gian dài.  Nóng khủng khiếp!  Đau đớn đến tận ngõ ngách của xương tủy!  Nhức nhối xuyên suốt con tim khối óc!  Đó là lúc mà cục Đất Sét sẽ chết đi để hoá thân trở thành một sản phẩm mới.  Tôi phân vân!  Dù chỉ là Đất Sét, nhưng tôi vẫn có sự chọn lựa của mình.  Tôi có thể nằm ì ra, hay lăn xuống đất để chống lại đôi tay người thợ gốm đang từ từ đưa tôi vào lò nung.  Hoặc tôi có thể hợp tác với chủ mình, bằng cách ngoan ngoãn nằm im chấp nhận giai đoạn nung nóng này.  Tôi muốn gì?  Trở thành một bình bông tuyệt đẹp, hay mãi mãi chỉ là cục Đất Sét vô dụng?

Nhìn lên đôi tay vẫn còn dấu ấn của vết thương ngày nào, lòng tôi xao xuyến bồi hồi!  Làm sao tôi có thể chống lại đôi tay đã từng vì tôi mà mang thương tích?  Nhìn xuống phận mình, tôi chỉ là một miếng Đất Sét tàn phế, bị quẳng đi ở góc nhà.  Ngước mắt lên nhìn người thợ gốm, tôi bắt gặp đôi mắt long lanh, đang say sưa nhìn sản phẩm trên tay với ánh mắt trìu mến tràn đầy tình yêu thương.  Ánh mắt khích lệ như bảo tôi đừng sợ, có ông ở bên cạnh mà!  Ông sẽ chẳng để lửa thử thách, khốn khó gian truân quá sức chịu đựng của tôi đâu.  Tôi cần phải bước qua ngưỡng cửa của lò nung, thì mới hoá thân trở thành một sản phẩm mới được.  Đó là quy luật!  Không có sự chọn lựa nào khác cả.

Tôi nhắm mắt buông xuôi hai tay, nằm im chấp nhận sự thanh tẩy cuối cùng.

Tôi đau đớn lịm đi trong lò nung chẳng biết là bao lâu.  Làm sao tôi có thể đo được thời gian khi đang ở trong đau khổ?  Thế mà thời gian rồi cũng qua đi, cánh cửa lò xịch mở!  Tôi được mang ra ngoài khi toàn thân tê tái nằm im không cử động được.  Trong mơ màng, tôi cảm nhận một nụ hôn nhẹ đặt lên thân mình.  Tôi tê dại khẽ mở mắt ra nhìn.  Ông chủ!  Bốn mắt nhìn nhau long lanh ngấn lệ, yêu thương dâng tràn!  Tôi từ từ đưa mắt nhìn xuống thân mình.  Ồ, cái gì thế này?  Ngạc nhiên quá đến quên cả đau đớn, tôi ngồi phắt dậy tròn xoe đôi mắt ra nhìn.  Trên tay ông chủ là một bình bông rực rỡ tuyệt đẹp.  Là tôi đấy ư?  Tôi mà đẹp đến thế sao?  Tôi ngạc nhiên hết nhìn mình rồi lại nhìn ông chủ với ánh mắt ngạc nhiên thán phục.  Ông hãnh diện vuốt ve chiếc bình trên tay nở nụ cười mãn nguyện.

Giờ đây tôi không còn là một cục Đất Sét xấu xí, bị bỏ xó ở góc nhà nữa.  Nếu bạn có dịp vào nhà ông chủ lò gốm chơi, bạn sẽ thấy một bình bông tuyệt đẹp đặt trên chiếc bàn salon giữa nhà.  Điểm thêm vào đấy là mấy cánh hoa sặc sỡ, đầy sắc màu của vùng nhiệt đới quê tôi, càng làm tăng thêm vẻ kiêu sa lộng lẫy của chiếc bình hoa.  Là tôi đó!  Khách đến nhà chơi, ai cũng phải dừng chân để chiêm ngắm vẻ đẹp thanh tao đài các của tôi.  Họ xuýt xoa trầm trồ khen ngợi tài năng người thợ gốm.  Họ chúc mừng ông đã làm ra một sản phẩm tuyệt mỹ.  Họ đâu biết quãng đường gian khổ mà ông và tôi đã trải qua!  Vâng, hành trình từ một miếng Đất Sét vô dụng đến một sản phẩm hữu ích xinh đẹp, không phải là chuyện đơn giản dễ dàng.  Nó đòi hỏi tình yêu của người thợ với sản phẩm, những giọt máu văng tung toé trên bàn xoay của người thợ tận tâm nhân ái, bàn tay với vết sẹo dài vẫn tiếp tục làm việc, những giọt mồ hôi thánh thót chảy xuống trong trưa hè nóng bỏng, sự kiên nhẫn làm việc qua tháng năm dài, bao công lao khó nhọc đã đổ ra… Tài năng, công đức trộn với tình yêu của người thợ gốm mới ra tôi hôm nay.  À, đừng quên nói đến sự hợp tác nhỏ bé của tôi nữa chứ!  Nếu ngày đó, tôi không ngoan ngoãn để người thợ gọt dũa cắt tỉa, hoặc tôi nhảy xuống đất khi bị mang vào lò nung… thì đâu có ngày hôm nay bạn nhỉ?

Tôi muốn gởi đến bạn bè tôi, những mảnh Đất Sét cùng chung số phận hẩm hiu, ngồi ôm nhau khóc tỉ tê ở góc nhà năm xưa.  Hãy cố gắng chịu đựng gian khổ khi bị gọt dũa cắt tỉa, bạn nhé!  Hãy tin tưởng vào tình yêu và tài năng của người thợ gốm khi bị mang vào lò nung.  Đó là cánh cửa mà tất cả phận Đất Sét chúng ta phải bước qua.  Ông chủ sẽ chẳng để cho lửa thiêu đốt bạn đến chết đâu.  Rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau, nơi trưng bày những sản phẩm tuyệt mỹ của người thợ gốm tài đức.  Lúc đó chúng ta sẽ cùng nhau ca hát nhảy múa.  Hẹn gặp lại tất cả!

Lang Thang Chiều Tím
July 2011