THẤY MÌNH TRONG CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU

Đấng đáng kính TGM Fulton J. Sheen (1895-1979, Hoa Kỳ) đã trình bày bài suy niệm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Chúng Ta và Đấng Cứu Thế Giêsu Kitô theo nhiều cách.  Hai trong số những cách đáng chú ý nhất mà ngài đã trình bày về Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu là:

a) Suy niệm sâu sắc về “Bảy Lời Cuối Cùng của Chúa Giêsu từ Thập Giá.”

b) Trình bày cách mô tả “Các Nhân Vật Trong Cuộc Khổ Nạn.” Ngài mô tả các thái độ, nhân đức hoặc tính xấu khác nhau của nhiều người tham gia vào Cuộc Khổ Nạn – đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá.

“Các nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô” chắc chắn có thể dùng như một phương tiện để xét mình nghiêm túc đối với mỗi người trong chúng ta.  Chúng ta có thể khám phá và xác định mình với nhiều đặc điểm của các nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa – một số tích cực và đáng khen, một số tiêu cực và đáng trách.

Vì vậy, chúng ta hãy can đảm bước vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu bằng cách vừa suy gẫm vừa suy nghĩ về những nhân vật hoặc những người liên quan Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Chúa chúng ta.  Hy vọng chúng ta sẽ được coi là những người trung thành của Chúa Giêsu, những người mang lại niềm an ủi sâu sắc cho Trái Tim bị thương và chảy máu của Ngài.

Chúng ta sẽ xem xét một số nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu.  Bài viết ngắn này không đầy đủ, nhưng nó sẽ cho chúng ta nếm trải ít nhất một hương vị trong nhiều tính cách của những người có mặt trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, cách phác họa các động độ khác nhau sẽ tác động đến chúng ta theo nhiều cách và có thể thúc đẩy chúng ta hoán cải.

ÁC VƯƠNG HÊRÔĐÊ

Chúa Giêsu bị chất vấn trước mặt vua Hêrôđê và triều đình, nhưng Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi nào.  Ông vua độc ác này đại diện cho những người theo chủ nghĩa nhục dục, chủ nghĩa khoái lạc, phó mặc cho những ham muốn xác thịt.  Chúa Giêsu không mở miệng bởi vì Ngài sẽ chỉ bị chế giễu, mỉa mai và nhạo báng.  Với những loại người này, Chúa Giêsu xác định: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.” (Mt 7:6)

Ngày nay, nhiều người theo chủ nghĩa khoái lạc, hướng về nhục dục, hoàn toàn phó mặc cho những ham muốn xác thịt.  Chúa Giêsu xác định với ông Nicôđêmô: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.  Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí.” (Ga 3:5-6)

TỔNG TRẤN PHILATÔ

Người biện lý La Mã này đại diện cho nhiều người ngày nay.  Về cơ bản, Philatô đại diện cho kẻ hèn nhát điển hình.  Vợ ông là Claudia đã mơ về sự vô tội của Chúa Giêsu, nhưng ông ta đã bỏ qua yếu tố chân lý này.  Ông ta muốn làm hài lòng đám đông, ông ta là “người làm vui lòng dân hơn là làm vui lòng Chúa!”

Chúng ta thường hành động và phản ứng như thế nào để làm vui lòng mọi người, để được mọi người vui thích và tán thưởng, để làm tổn hại chúng ta vì đã từ chối ý muốn của Thiên Chúa và làm mất lòng Chúa?  Sự tôn trọng dành cho con người lại thường vượt xa sự tôn trọng dành cho Thiên Chúa!

PHARISÊU, KINH SƯ VÀ SAĐỐC

Nhiều người từ chối Chúa Giêsu và kêu gào kết án Ngài, điều đó thể hiện sự kiêu ngạo về trí tuệ.  Đây là giới trí thức – nhóm có học thức và uyên bác về Kinh Thánh.  Họ là những người biết nhiều về tâm linh.  Người ta cảm thấy quá sức tưởng tượng khi đối diện với một người thợ mộc khiêm tốn, ít học, đến từ Nadarét, giống như một thỏi nam châm, thu hút vô số người bởi những lời nói và việc làm của Ngài.

Quả thật, chính sự kiêu ngạo và đố kỵ về trí tuệ của họ đã làm cho họ mù quáng, không thể nhận ra mà chấp nhận Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ của họ.  Ngày nay có biết bao người vẫn mù quáng, không nhận biết và không chấp nhận sự thật do sự kiêu ngạo về trí tuệ!

VÔ SỐ NGƯỜI THEO DÕI CHÚA GIÊSU

Nhiều người trong nhóm này là biểu tượng của những người tò mò.  Nhiều người tìm kiếm sự mới lạ, sự đổi mới, mốt mới và kiểu lạ để khơi gợi sự tò mò bệnh hoạn của họ.  Thật nguy hiểm biết bao khi họ chỉ sống vì sự phấn khích mau qua.  Người ta có câu: “Sự tò mò giết chết con mèo!”

TIẾNG HÔ “ĐÓNG ĐINH!”

Có những người trên thế giới thực sự có lòng căm thù đối với Thiên Chúa, đối với Chúa Giêsu, và tất cả những gì liên quan Thiên Chúa.  Nhóm Sađốc, các thượng tế đứng dưới thập giá và đám đông trước mặt Philatô kêu to: “Đóng đinh nó vào thập giá!”

Ngày nay, càng ngày càng có nhiều người nuôi dưỡng lòng căm thù quỷ quyệt đối với Chúa Giêsu và tất cả những gì liên quan Thiên Chúa.  Số người này trong thế giới hiện đại vẫn tiếp tục gia tăng!

ÔNG SIMÔN KYRÊNÊ

Sau khi làm việc và trở về từ cánh đồng, ông Simôn thành Kyrênê bị bắt buộc phải giúp Chúa Giêsu vác thập giá.  Lúc đầu, Simôn chống cự và tìm cách thoái thác, nhưng khi đã chấp nhận vác thập giá, ông ấy không chỉ thấy hoàn toàn phù hợp với công việc này, mà còn thích giúp Chúa Giêsu vác thập giá.

Có thể đó là bạn và tôi: ngay từ đầu chúng ta muốn chạy trốn khỏi thập giá, nhưng khi đã chấp nhận, chúng ta thấy “ách êm ái và gánh nhẹ nhàng.” (Mt 11:30)

BÀ VÊRÔNICA

Bà Vêrônica là một phụ nữ dũng cảm.  Bà đã chen qua đám đông và lau mặt Chúa Giêsu bằng khăn trùm của mình.  Chúa Giêsu đã đền đáp cho bà bằng cách để Thánh Nhan Ngài in vào tấm khăn đó.  Còn chúng ta, liệu chúng ta có can đảm ra đi để giúp đỡ những người đang đau khổ và hoạn nạn hay không?

NHỮNG NGƯỜI ĐÓNG ĐINH CHÚA

Mặc dù điều này có thể khó chấp nhận, nhưng mỗi khi chúng ta đồng ý phạm một tội trọng, thì theo nghĩa thực tế, chúng ta phải chịu trách nhiệm về việc đóng đinh Chúa Giêsu, về những chiếc đinh đâm vào chân tay Ngài.  Tuy nhiên, bằng cách xưng tội nên, chúng ta nhổ đinh và để cho Chúa Giêsu Phục Sinh bước đi!

NHỮNG NGƯỜI LÍNH RÚT THĂM CHIA CHÁC

Có những người lính bên dưới khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá và đau đớn tột cùng.  Họ rút thăm xem ai được nhận y phục của Chúa Giêsu.  Những người này, cùng với nhiều người trong đám đông đang nhìn xem, thể hiện thái độ dửng dưng và lãnh đạm.

Ngày nay có quá nhiều người bày tỏ thái độ dửng dưng, lãnh đạm, thờ ơ, xa cách đối với Chúa Giêsu.  Sách Khải Huyền lên án mạnh mẽ thái độ này bằng những lời lẽ làm rung chuyển trái đất này: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng.  Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!  Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3:15-16)

Đáng buồn là có một số đông những người được gọi là Kitô hữu Công giáo thể hiện thái độ dửng dưng và lãnh đạm với Chúa, với các Bí Tích và với Giáo Hội.  Có lẽ chúng ta thuộc nhóm này.  Nếu vậy, đã đến lúc chúng ta phải thay đổi!

KẺ TRỘM DỮ

Bất chấp gương tốt của Chúa Giêsu và tấm gương cao quý nhất về lòng nhân từ và thương xót của Ngài: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc. 23: 24)  Tên tử tội xấu đã tự kết liễu đời mình bằng cách nguyền rủa và thách thức Chúa Giêsu.  Thậm chí hắn còn muốn biến đổi tử tội cùng bị đóng đinh với mình, nhưng hắn vẫn chết với trái tim lạnh lùng, nhẫn tâm và độc ác!  Có những người, mặc dù được Thiên Chúa ban cho nhiều ân sủng, nhưng họ lại trở nên chai cứng và nhẫn tâm hơn.  Xin Chúa giải cứu chúng ta!

NGƯỜI TRỘM LÀNH

Ở mặt khác của đồng tiền, bên cạnh Chúa Giêsu trên Thập Giá, chúng ta gặp người trộm lành.  Anh ta kết thúc đời mình bằng cách ăn năn và cầu xin Chúa Giêsu thương xót.  Chúa Giêsu luôn sẵn sàng tha thứ, tỏ lòng thương xót, và mở Thiên Đàng cho tử tội sám hối này, với những lời an ủi nhất: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc. 23:43) TGM Sheen nhắc nhở chúng ta: “Anh ta chết mà vẫn ăn trộm vì anh ta đã lấy trộm Thiên Đàng.”  Sự cứu rỗi có thể xảy ra ngay giây phút cuối cùng đối với những người thật lòng ăn năn!

VIÊN ĐỘI TRƯỞNG ĐÂM CHÚA

Sau khi đâm Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, viên đại đội trưởng này đã tin!  Ông công nhận: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa!” (Mc 15:39) Máu và nước tuôn ra từ Trái Tim Chúa Giêsu là nguồn ơn hoán cải và ơn cứu độ vô tận!

MARIA MAĐALÊNA

Sau khi được trừ bảy quỷ, bà Mađalêna đã biến đổi nhờ tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu.  Đứng dưới chân Thập Giá, ôm lấy Thập Giá với mái tóc rối bù, bà Mađalêna thể hiện tình yêu chân thành và lòng sùng kính dành cho Chúa Giêsu.  Bà Mađalêna đại diện cho những người thực sự canh tân cuộc sống.  Tất cả đều được mời gọi ăn năn và tín thác.  Có lẽ vẫn còn điều gì đó giống bà Mađalêna trong chúng ta, đó là cần đổi mới chăng?

MÔN ĐỆ GIOAN

Môn đệ Gioan đứng dưới Thập Giá đại diện cho giới tư tế.  Linh mục có thể được định nghĩa là nạn nhân, là vật hy sinh, là người dâng những lời cầu nguyện và hy sinh để đền tội cho mình và cho các tội nhân.  Chúa Giêsu là lễ vật không tì vết, và bị treo tên Thập Giá.  Môn đệ Gioan đứng bên Mẹ Maria, dưới chân Thập Giá, dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha Hằng Hữu để xin ơn cứu độ tội nhân và nhân loại.  Xin cho các giáo sĩ biết noi gương Thánh Gioan!

ĐỨC MẸ

Có rất nhiều danh hiệu dành cho Đức Mẹ.  Tuy nhiên, TGM Sheen tôn vinh Đức Mẹ là Đấng Vô Tội – Innocence, vì Đức Mẹ đã đứng bên Thập Giá suốt ba giờ.  Tất cả chúng ta đều đóng đinh Chúa Giêsu vào Thập Giá do tội lỗi của mình.  Đức Maria không hề phạm tội, nhưng đã dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha để cứu rỗi toàn thể nhân loại.

CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH

Khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, chúng ta có cách mô tả rõ ràng nhất về Tình Yêu Nhập Thể. Thánh Inhaxiô nói rằng Chúa Giêsu chết trên Thập Giá vì hai lý do:

a) Cho chúng ta thấy sự xấu xa của tội lỗi.

b) Đặc biệt cho chúng ta thấy sự vĩ đại của tình yêu Ngài dành cho chúng ta. Nếu bạn là người duy nhất trên thế giới, Chúa Giêsu vẫn chịu khổ nạn và chịu chết vì yêu thương bạn và cứu rỗi linh hồn bất tử của bạn.

CHÚA CHA VĨNH HẰNG

Trong bộ phim The Passion of the Christ (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của Mel Gibson, cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá kết thúc bằng một giọt nước khổng lồ từ trên trời rơi xuống.  Cách hiểu thế nào?  Đó là Giọt Nước Mắt của Chúa Cha từ trời cao.  Chúa Cha khóc trước cái chết của Con Ngài và khóc vì tội lỗi của nhân loại.  Nhưng Chúa Cha cho phép Con Ngài chết vì yêu thương chúng ta và sự cứu rỗi đời đời của chúng ta.

KẾT LUẬN

Hãy dành nhiều thời gian để suy ngẫm về các nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô.  Bạn có thể xác định điều gì trong số những điều này với cuộc sống của chính mình?  Cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí bạn để biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát bạn.

Lm. Ed Broom, OmvTrầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

NGHỊCH LÝ CỦA THÁNH GIÁ

Buổi chiều hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết để chuộc tội thiên hạ.  Buổi chiều hôm nay là “giờ” của Thiên Chúa Cha đã định, và cũng là “giờ” của Đức Giêsu hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại; “giờ” của người Tôi Trung mà tiên tri Isaia đã loan báo.  “Giờ” đó được hoàn tất trên Thánh Giá.  Vì thế, phụng vụ chiều hôm nay đều quy chiếu về Thánh Giá Đức Kitô như một sợi chỉ xuyên suốt từ đầu đến cuối.

1. Nghịch lý của Thánh Giá

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói: Đức Giêsu Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8); và Ngài đã chết theo như lời Thánh Kinh (x. 1Cr 15,3).

Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá đã là nguyên nhân để nhiều người được cứu độ, nhưng cũng không thiếu những kẻ cứng lòng, cố chấp và trai lỳ trong ích kỷ, kiêu ngạo.  Những người như thế, họ coi đó như là hình phạt mà Đức Giêsu là người đáng phải chịu do tội mình gây nên.

Thật vậy, khi thập giá được dựng lên, và khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, đã không biết bao người tin theo và suy tôn.  Tuy nhiên, cũng không thiếu những lời chê bai dè bửu và khinh thường.  Họ coi thập giá như là thứ đồ tể đáng sợ để trừng phạt những tử tội oái oăm, khét tiếng và nguy hiểm…  Suy nghĩ như thế, thì cái chết của Đức Giêsu không có công trạng gì, mà chỉ như là một hình phạt đích đáng được dành cho một kẻ đã từng bị kết án vì tội “sách động dân chúng; tìm cách lật đổ chế độ và nói lời phạm thượng.”  Và, những người theo Đức Giêsu phải chăng họ là bọn người cuồng tín khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một kẻ bị treo trên cây gỗ như một tử tội!

Thật vậy, thập giá của Đức Giêsu hôm nay được tôn vinh, đã làm không ít người cảm thấy ngỡ ngàng, bởi vì xét theo người đời, thì đây chính là sự ô nhục, hận thù, đáng ghét… là biểu tượng của sự chết chóc và thập giá vẫn chỉ là dụng cụ ghê rợn được dùng để xử tử tội nhân mà thôi.

Nhưng đối với Thiên Chúa, thì đây chính là sự khôn ngoan khôn dò thấu của Người.  Thánh Phaolô đã nói: “Con Thiên Chúa chết trên thập giá là một trong những đường lối khôn ngoan sâu thẳm mà không một ai dò thấu” (x. Rm 11,33).  Bởi vì Thiên Chúa đã dùng thập giá như một sự nghịch lý để cứu độ con người.

Thực ra thập giá luôn mang tính nghịch lý, bởi vì nó tuyên dương quyền năng thượng trí của Thiên Chúa ở nơi mà người đời coi là điên rồ.

Nhưng với những người tin, hẳn sự cảm nghiệm, suy nghĩ và thái độ hoàn toàn ngược lại.  Những người đó sẽ coi thập giá trở thành Thánh Giá và Thánh Giá lúc này trở thành phương dược, để qua đó Đức Giêsu chuộc tội thay con người và cứu độ nhân loại.

Nếu xưa kia trong vườn Địa Đàng, Ađam đã ngã gục trước Cây Trái Cấm, và gieo rắc tội lỗi cho nhân loại, thì giờ đây, trên cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì mà Ađam đã đánh mất và để lại hậu quả cho nhân loại.

Như vậy, từ Cây Trái Cấm, sự chết đã tiêu diệt thế gian, và Trái Cấm là rào cản lớn đến độ con người không thể vượt qua, thì giờ đây, từ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì đã mất do Nguyên Tổ gây nên và mặc cho nó thành cây Sự Sống, quả Phúc Trường Sinh.

Chính Đức Giêsu đã khẳng định rõ điều này khi nói: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32).  Vì thế, không lạ gì khi thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên xưng niềm tin và ơn cứu chuộc của mình nơi Thánh Giá, ngài nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa […]  Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin.  Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (nhưng) cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (x. 1Cr 1,18-25).

Vì thế, “Nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi lòai dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).

2. Đón nhận Thánh Giá như nguồn ơn cứu rỗi

Cuộc đời của người Kitô hữu, tức là cuộc đời của những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người luôn nghe thấy lời mời gọi của Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.  Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.  Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? ” (Mc 8,34-36); và: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38).

Lời mời gọi đó đã được gióng lên ngày chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội cũng như suốt cuộc đời của mỗi người chúng ta.  Như vậy, Thánh Giá trở nên cứu cánh và việc vác Thánh Giá trở thành điều kiện cần của chúng ta trên hành trình dõi bước theo Đức Giêsu.

Thánh Giá mà mỗi chúng ta phải vác ở đây chính là bổn phận phải chu toàn; là từ bỏ những thứ không cần thiết trên hành trình tin Chúa; là từ bỏ ý riêng… và phục vụ trong yêu thương.

Làm được như thế, ấy là chúng ta sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Giêsu.  Đặt bước chân của ta vào dấu chân của Chúa, để sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng.

Như vậy, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta.  Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy khi tuyên xưng: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào thập giá […] (Và) tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi ” (Gl 2,19-20).

Mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu, người Kitô hữu chúng ta sẽ từ bỏ con đường tội lỗi, để được hiệp thông cách trọn vẹn vào cuộc khổ nạn của Ngài, và như một định luật đối với những người tin và theo Đức Giêsu là: qua đau khổ thì mới được vào vinh quang.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng chịu treo trên Thánh Giá, xin thương xót và cứu chuộc chúng con.  Amen!

Jos Vinhsơn Ngọc Biển SSP

TRỜI ĐÃ TỐI

Làm người ở đời ai chẳng có lúc xao xuyến.  Đức Giêsu hai lần nhắc các môn đệ đừng xao xuyến trước sự ra đi được báo trước của Thầy (Ga 14, 1.27).  Nhưng Ngài đã xao xuyến khi thấy người ta khóc thương Ladarô (Ga 11, 33).  Ngài cũng đã xao xuyến khi giờ đã đến và cái chết gần kề (Ga 12, 27).  Trong bữa tối này, Đức Giêsu không tránh khỏi xao xuyến khi nói đến sự phản bội sắp đến của một người môn đệ (c. 21).  Vậy vấn đề không phải là cố tránh xao xuyến, mà là đừng để nó làm chủ mình.

Trong bốn sách Tin Mừng, Thầy Giêsu không bao giờ nói rõ Giuđa là kẻ phản bội.  Thầy muốn giữ thể diện thậm chí cho kẻ sắp phản bội mình.  Vì thế nói chung các môn đệ không rõ ai là kẻ sẽ nộp Thầy (c. 22).  Ông Phêrô có lẽ nằm trên giường tiệc xa với Thầy, nên đã làm hiệu cho anh môn đệ được Thầy thương, để nhờ anh hỏi xem là ai.  Thầy Giêsu đã không nói tên kẻ phản bội.  Ngài chỉ tế nhị dùng một dấu hiệu để cho anh môn đệ mình thương nhận ra.

Dấu hiệu đó là chấm một miếng bánh trao cho Giuđa.  Đây là một cử chỉ quý mến của chủ tiệc dành cho một vị khách đặc biệt.  Việc trao miếng bánh cho Giuđa cho thấy anh nằm gần với chủ tiệc là Thầy, như thế Giuđa, người thủ quỹ kiêm quản lý, có một chỗ khá cao trong bữa tiệc.  Giuđa đã nhận miếng bánh ân tình của Thầy và anh có thể chọn lại.  Anh có dám từ bỏ kế hoạch phản bội của anh không?  Tiếc là không, cử chỉ ưu ái của Thầy chẳng làm anh thay đổi.

“Khi anh vừa ăn xong miếng bánh, thì Satan nhập vào anh” (c. 27).  Chúng ta ngạc nhiên khi Thầy Giêsu không hề phân biệt đối xử với Giuđa.  Thầy đã rửa chân cho anh và còn cho anh tham dự bí tích Thánh Thể (Mt 26, 27).  Khi biết lòng anh chai đá, Thầy lại hối thúc: “Anh làm gì thì làm mau đi” (c. 27).  Giuđa ra đi lúc trời đã tối.

Cũng trong bữa tiệc này, Thầy Giêsu nói về việc Phêrô sẽ chối Thầy ba lần.  Thầy chỉ nói sau khi Phêrô tuyên bố mình sẽ thí mạng để cứu Thầy (c. 37).  Phêrô tỏ ra quá tự tin vào tình yêu và sức mạnh của mình.  Anh coi thường cuộc chiến đấu ác liệt sắp tới nên đã dễ dàng ngã quỵ.

“Thầy đi đâu?”, tiếng Latinh là “Quo vadis?” (c. 36).  Ta lại thấy câu hỏi này của Phêrô trong một sách ngụy thư ở cuối thế kỷ thứ hai.  Lúc Phêrô chạy trốn khỏi sự bách hại ở Rôma, anh lại gặp Thầy Giêsu và hỏi Thầy: “Thầy đi đâu vậy?”  Thầy trả lời Thầy đang vào thành Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa.  Phêrô hiểu ra nên trở lại Rôma để chết tử đạo ở đó.

************************

Lạy Chúa, 
xin cho con quả tim của Chúa. 
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, 
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa 
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường 
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ. 
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, 
mọi trả thù ti tiện. 
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, 
không một biến cố nào làm xáo trộn, 
không một đam mê nào khuấy động hồn con. 
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, 
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích. 
Xin cho quả tim con đủ lớn 
để yêu người con không ưa. 
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở 
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ

GIU-ĐA, THẬT SỰ NGƯỜI LÀ AI?

 

Xưa kia, cái khung cảnh và căn phòng được Ðức Giêsu và các Tông đồ chọn làm nơi ăn bữa tối cuối cùng, thật sự là một nơi của bữa tiệc biệt ly, của sự tang tóc buồn sầu: Bên ngoài màn trời đầy u ám, tối đen và lạnh giá!  Nhưng hôm nay trong ngôi thánh đường này, nơi chúng ta đang cùng nhau cử hành bữa Tiệc Ly, lại sáng rực và ấm cúng.  Tuy nhiên, một sự cô quạnh băng giá nào đó đang len lỏi vào trong tâm hồn chúng ta mà sự thô bạo nặng nề của nó đã từng đè lên trái tim cũng như đôi vai của Chúa.  Ðó là khi xuất hiện tên tuổi của một người mà trong các kinh nguyện phụng vụ chúng ta đọc khi cử hành việc tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa, cũng như trong bài Tin Mừng.  Một tên gọi mà mỗi lần nghe nhắc đến lại gây ra một cảm giác khinh rẽ và tiêu cực: Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ phản bội!  Thật bất hạnh cho Giu-đa!

Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên khi nghe tôi đề cập đến người môn đệ bất hạnh này, người mà trong một lúc nào đó đã không còn có thể giữ lòng trung thành với Sư Phụ mình được nữa.  Dĩ nhiên không một ai có thể biết được rõ ràng những gì đã diễn biến trong nội tâm và ý nghĩ của Giu-Ða khi ông ta có toan tính như thế.  Và chúng ta cũng không muốn đi tìm một lời cắt nghĩa hay một giải đáp về vấn đề đó!  Nhưng trong buổi chiều hôm nay, tôi có ý nghĩ muốn xin anh chị em một chút thông cảm cho “người anh em Giu-đa” của chúng ta.  Trước hết, khi chúng ta gọi Giu-đa là người anh em của chúng ta, chúng ta đã dùng chính ngôn từ của Chúa.  Đúng vậy, buổi tối trong vườn Cây Dầu, khi Giu-đa hôn phản bội Thầy mình, thì Ðức Giêsu đã nói với Giu-đa những lời đầy ân tình mà chúng ta không thể quên được: “Bạn ơi, bạn dùng nụ hôn để phản bội Con Người sao?”

“Bạn ơi!”  Tiếng này nói lên một sự âu yếm và tha thiết của tình yêu, của lòng thương xót và quảng đại của Chúa.  Tiếng đó cũng làm cho anh chị em hiểu được tại sao bây giờ và ở đây tôi lại gọi Giu-đa theo như ngôn ngữ của Chúa là người anh em.  Chúng ta đã biết rằng trong Bữa Tiệc Ly Ðức Giêsu đã nói: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu.”  Các Tông đồ đã trở thành những người bạn thân thiết của Chúa, dù họ tốt hay xấu, quảng đại hay nhỏ nhoi, trung thành hay phản bội, v.v… tất cả họ luôn luôn là những người bạn của Chúa.

Chúng ta có thể phản bội lại tình bạn của Ðức Kitô.  Nhưng Người thì không bao giờ phản bội chúng ta, là những người bạn của Người.  Kinh thánh đã từng nói: “Dù cho cha mẹ con có bỏ rơi con đi nữa, thì Thiên Chúa cũng không hề bỏ rơi con” (Tv 27,10).  Cả khi chúng ta không xứng đáng với sự trung thành của Chúa, cả khi chúng ta phủ nhận Người, chối từ Người, thì trước mắt và trong trái tim Chúa chúng ta vẫn luôn luôn là những bạn hữu của người.  Bởi thế, Giu-đa vẫn là người bạn của Chúa cả ngay trong lúc ông ta phản bội Người bằng một nụ hôn!

Tôi đã tự hỏi: Làm sao một vị Tông đồ của Chúa lại có thể kết thúc như một kẻ phản bội?

Có ai hiểu được những bí ẩn của sự ác không?  Có ai có thể nói cho chúng ta hay là làm thế nào mà chúng ta đã trở thành độc ác?  Chúng ta đừng quên rằng mỗi người trong chúng ta vào một lúc nào đó đã khám phá thấy rằng sự ác từng đồn trú, từng nằm vùng trong trái tim và trong ý nghĩ của ta.  Chúng ta đã nhìn thấy sự ác đó triển nở, lớn phồng lên mỗi ngày.  Chúng ta không hề biết được tại sao chúng ta lại trao phó mình cho sự ác.  Và một lúc nào đó sự dữ sẽ nổ tung lên.  Từ đâu phát sinh ra sự ác?  Ai đã sản xuất ra sự ác?  Ai đã cướp mất niềm tin của chúng ta?  Ai đã cướp mất khả năng của chúng ta để tin tưởng vào sự thiện và để yêu mến sự thiện?

Nhưng hiện tượng “Sự ác trong chúng ta” không còn là một điều bí ẩn nữa, cũng như sự phản bội của Giu-đa không còn là một bí ẩn nữa.  Mọi người đều biết điều đó.  Bất cứ lúc nào một vị Tông đồ cũng có thể trở thành kẻ phản bội được.  Bất cứ lúc nào một Kitô hữu cũng có thể trở thành kẻ chối đạo.  Bất cứ lúc nào một tín hữu dù đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy cũng có thể bội hứa với Ðức Tin của mình.  Bất cứ lúc nào một người đã được ghi dấu trên mình nhân danh Thiên Chúa ba Ngôi, cũng có thể xúc phạm đến Thánh Danh đó.  Vậy đâu là nguyên nhân của những thay đổi mang tính cách phản bội như thế?

Sự cám dỗ đã được bắt đầu với tiền bạc, với những ngón tay biết đếm tiền.  Ðó là một cái vòng luẩn quẩn đáng buồn của loài người, xưa kia cung như ngày nay, mà một khi đã rơi vào trong đó người ta rất khó lòng thoát ra được.  Bởi lẽ tiền bạc trong túi những người đó đã trở nên quá toàn năng và độc đoán.  “Các ông cho tôi bao nhiêu, nếu tôi nộp Người cho các ông?  Và họ đã chỉ trả cho y 30 đồng bạc” (x. Mt 26,14-16).

Chỉ cần 30 đồng bạc thôi cũng đã vừa giá cho Giu-đa để bán đổi người bạn, vị Sư Phụ của mình, Ðấng đã kén chọn ông ta trong muôn một và đã đặt làm Tông Ðồ; Ðấng ban cho chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, đã cho chúng ta có được nhân phẩm, sự tự do và những sự cao cả của những kẻ làm con Thiên Chúa.  Vâng, tiền bạc, địa vị, danh dự, v.v… tất cả đều phát xuất từ Thiên Chúa, đều là ân huệ Thiên Chúa ban, nhưng chúng lại được nhiều người trọng vọng và được đánh giá cao hơn cả niềm tin của họ, hơn cả lòng trông cậy phó thác của họ vào Thiên Chúa.

Tuy nhiên, khi Giu-đa nghe lọt tai tiếng gào thét của đám đông: “Ðóng đinh nó vào thập giá!  Ðóng đinh nó vào thập giá!”  Khi Giu-đa nhìn thấy Thầy mình bị hành hạ và bị lãnh án tử trong dinh Phi-la-tô, bấy giờ tâm hồn ông ta bắt đầu xúc động, lòng một kẻ phản bội bắt đầu đâm ra quá xúc động và ông ta đã ném trả lại 30 đồng bạc giá máu của Ðấng vô tội xuống đất.  Những đồng bạc đó giờ đây đối với ông ta không còn giá trị gì nữa.  Ông ta vô cùng hối hận.  Nhưng tiếc thay, mọi sự đã quá muộn!

Tội nghiệp cho Giu-đa!  Thật tội nghiệp cho người anh em Giu-đa!  Bởi vì cái tội nặng nhất không phải là hành động phản bội và bán đổi Ðức Kitô của ông ta, nhưng là sự thất vọng, sự nghi ngờ lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa nơi ông ta!  Vì chính Phêrô cũng đã chối Chúa và tất cả các Tông đồ cũng đều đã bỏ Chúa, nhưng tất cả đã ăn năn hối cải trở về với Thầy mình và Ðức Kitô đã tha thứ cho tất cả họ và đồng thời đã tiếp nhận họ với tất cả sự tin tưởng.

Sau cùng, tôi lại muốn nhắc qua đến “Giu-đa” trong chính con người tôi, và cả đến “Giu-đa” có lẽ ở nơi các bạn nữa, đồng thời xin các bạn hãy cho tôi được cầu xin Ðức Giêsu ban cho tôi ơn phục sinh: Ðược gọi chính tôi là “bạn” trong chiều nay, sớm mai và trong đêm thứ bảy, đêm Phục Sinh.  Bởi vì tiếng đó là ngôn ngữ của Phục Sinh!  Tiếng đó được nói ra cho Giu-đa khốn khổ cũng như cho chính tôi, và cũng rất có thể cho một Giu-đa khốn khổ trong các bạn.  Bởi vì đó là cả một niêm vui mừng trọng đại, khi Ðức Giêsu không muốn để chúng ta rơi vào cảnh bối rối lo âu sợ hãi, nhưng đã tha thứ cho chúng ta hết mọi tội lỗi.  Chúng ta luôn nhớ rằng, hôm nay cũng như trong lúc chúng ta yếu đuối sa ngã, chúng ta luôn luôn là những người bạn của Chúa, như Giu-đa là người bạn muôn đời của Chúa!

LM Nguyễn Hữu Thy

VÀI NGHỊCH LÝ TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊSU THEO THÁNH MARCÔ

Đọc và suy niệm Tin Mừng thánh Marcô, đặc biệt là bài Thương Khó, ta thấy cuộc đời Đức Giêsu có vài nghịch lý sau:

1. Có ngày có lúc, có thời có buổi người ta tôn vinh Đức Giêsu là vua, là Đấng Mêsia…, nhưng cũng có ngày có lúc, có thời có buổi người ta đả đảo, kết án, đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Đó là đám đông dân chúng.

2. Có người suốt đời được Đức Giêsu tín nhiệm yêu thương, thế mà có ngày phản bội, cả gan bán nộp Thày mình lấy 30 đồng bạc. Đó là Giuđa Iscariô.

3. Có người khi ở miền Césaré Philiphê thì tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa…, nhưng khi Đức Giêsu bị bắt thì ông lại chối bỏ không biết Ngài là ai trước mặt người đầy tớ gái. Đó là tông đồ Simon- Phêrô.

4. Có những người được Đức Giêsu tuyển chọn, để cùng ăn cùng ở và cùng chia vui sẻ buồn với Ngài trong sứ vụ rao giảng Tin mừng, nhưng khi Đức Giêsu bị bắt, bị đánh đòn và phải vác thánh giá đến nơi hành hình, thì họ bỏ trốn chẳng còn một ai, chỉ có một người ngoại giáo, không quen biết, tên là Simêôn sẵn sàng ghé vai vác thâp giá đỡ Đức Giêsu và một vài người phụ nữ đạo đức theo Ngài lên đồi Sọ mà thôi. Đó là các Tông đồ và môn đệ.

5. Lúc còn rao giảng Tin Mừng, thì Đức Giêsu ngăn cấm, không muốn cho một người nào tiết lộ Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng khi ra trước tòa án Philatô, Đức Giêsu lại xác nhận mình là Con Thiên Chúa.

6. Đức Giêsu, Đấng vô tội, cả đời làm việc lành cứu người, thế mà lại bị người đồng hương của mình coi không bằng đứa trộm cướp giết người tên là Baraba.

7. Người Do Thái vốn ghét cay ghét đắng đế quốc Rôma ngoại giáo, thế mà chỉ vì không đồng quan điểm về giáo lý, về Lề Luật, về Đền Thờ, về Thiên Chúa, mà người Do Thái lại xuất hiện như những kẻ đứng lên bảo vệ đế quốc Rôma, sẵn sàng trao nộp Đức Giêsu cho quan tổng trấn Philatô.

8. Tổng trấn Philatô người đại diện cho công lý, trả lại công bằng cho người vô tội, mặc dù biết Đức Giêsu vô tội, nhưng vì sợ những kẻ gian tham độc ác và sợ mất chức quyền, nên đã cho đánh đòn và đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá như những tên tử tội.

9. Lúc còn tại thế, không một phàm nhân nào nhận biết và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, ngoại trừ Phêrô, thế mà khi Ngài tắt thở trên thập giá, có người ngoại giáo lại nhìn nhận và tuyên xưng Đức Giêsu quả thật là Con Thiên Chúa. Đó là viên sĩ quan quân đội Rô-ma.

Những nghịch lý xưa kia trong cuộc đời Đức Giêsu, ngày nay vẫn còn tái diễn trong đời sống cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội.  Chỉ xin gợi lên vài điều minh họa:

Nhiều cha mẹ ngày hôm nay khó nhọc cả đời nuôi con…, nhưng khi con cái lớn khôn thì lại đánh đập chửi bới cha mẹ.

Nhiều người ngày hôm nay không muốn ai chất thánh giá trên vai mình, nhưng lại thích chất thánh giá trên vai người khác là những yếu đuối bất toàn và tội lỗi của mình.

Nhiều người ngày hôm nay “khi vui thì vỗ tay vào, khi gặp hoạn nạn thì nào thấy ai,” lúc dễ dàng thuận lợi thì đi Đạo, có thời gian rảnh rỗi thì đi lễ, đọc kinh cầu nguyện, nhưng khi gặp khó khăn, bận bịu thì bỏ Đạo, chẳng lễ lạy kinh hạt gì hết.

Nhiều người trong gia đình và xã hội ngay nay, vì tiền bạc, đất cát, chức quyền, danh vọng mà kiện cáo, bỏ tù và giết hại lẫn nhau.

Nhiều người ngày hôm nay, vì những bất đồng chính kiến, bất đồng tư tưởng mà sẵn sàng khạc nhổ vào mặt, đóng đinh vào thân thể anh chị em mình bằng lời nói và việc làm.

Nhiều người ngày hôm nay, vì ghen tương, đố kỵ trong cuộc sống mà ném đá giấu tay, mượn tay người ngoài để giết anh em đồng loại, mượn tay kẻ ngoại đạo để làm hại người đồng đạo.

Nhiều người ngày hôm nay không muốn ai phản bội mình, nhưng vì những quyền lợi vật chất và lý tưởng trần thế lại bán rẻ lương tâm, chối Chúa, bỏ Đạo, sẵn sàng đứng ra làm chứng gian, vu khống người khác.

Nhiều người ngày hôm nay là những người công chính lương thiện, nhưng phải tan cửa nát nhà, chết oan uổng, vì gặp phải những Philatô mới của thời đại, không bảo vệ người dân vô tội mà lại tiếp tay cho những kẻ gian ác.

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã vui lòng chấp nhận những nghịch lý trong cuộc đời cho đến chết trên cậy thập giá, để trở nên bài học và gương mẫu cho nhân loại.  Xin cho mỗi người chúng con biết hạn chế tạo nên những nghịch cảnh trong đời và nếu có gặp phải những nghịch cảnh, thì xin cho chúng con biết vui lòng chấp nhận.  Amen!

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

GIUSE, NGƯỜI HÙNG CỦA THINH LẶNG

Nói đến Giuse là nói đến con người của Mùa chay.  Điều đó có nghĩa rằng Ngài yêu thích sự thinh lặng nội tâm.  Ngài thinh lặng đến nỗi mà trong Kinh thánh, không hề nghe được một câu nói nào thốt ra từ chính môi miệng của ngài.  Cho nên lễ thánh cả Giuse được Giáo hội mừng vào Mùa chay thánh cũng là dễ hiểu thôi.

Vì thế, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ca ngợi nhân đức thinh lặng của thánh Giuse như thế này:

“Một sự thinh lặng cho thấy được một cách đặc biệt con người nội tâm của thánh Giuse.  Các sách Tin mừng chỉ nói đến những gì “thánh Giuse làm,” nhưng cũng giúp chúng ta khám phá được “trong những hành động” luôn luôn thấm nhuần sự thinh lặng của Người có một bầu khí chiêm niệm sâu xa.  Hằng ngày thánh Giuse tiếp xúc với “mầu nhiệm được giấu kín từ bao thế hệ,” mầu nhiệm đã “cư ngụ” dưới mái gia đình của thánh Giuse.”

Ai đã từng một lần hành hương đến Nazaret, quê hương của Thánh gia, thì sẽ nhận thấy ngòai đường phố, trong cửa hiệu buôn bán, thậm chí ngay ở quầy tiếp tân của khách sạn, tuyệt nhiên không có lấy một bóng người phụ nữ.  Sở dĩ như thế là vì đây là một xã hội của đàn ông, đàn bà không có quyền ăn nói, thậm chí không có quyền xuất hiện.  Và trong một nếp sống như thế, lẽ ra Giuse có quyền và có bổn phận phải nói, nhưng ngài đã chọn thinh lặng.

Tin mừng cho chúng ta thấy rằng, cuộc đời của thánh Giuse là một cuộc đời gắn liền với gia đình thánh.  Một cuộc đời có nhiều sóng gió, gian nan và thử thách.  Thế nhưng người ta vẫn gặp thấy một Giuse hoàn toàn lặng thầm, thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa, rồi suy niệm, nhận ra ý Chúa và mau mắn thi hành.

Giuse, người thinh lặng lắng nghe

Có thể nói được rằng, Giuse thinh lặng là để lắng nghe tiếng Chúa.  Trước biến cố Maria có thai, Giuse đau khổ lắm.  Nhưng trong thinh lặng, Giuse vẫn rất mực yêu thương Maria và tin tưởng rằng Maria trong sạch tinh tuyền.  Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nỗi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách.”  Giuse không còn chọn lựa nào khác” vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).  Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Đừng sợ đón Maria về nhà mình”(Mt 1,20).  Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24).  Như vậy, trong thinh lặng, Giuse đã lắng nghe thánh ý của Chúa và mau mắn thi hành.

Rồi cuộc sống đang bình yên tại Bêlem, thì chính lúc đó, Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc chạy sang Ai Cập sống kiếp lưu đày.  Trước mắt là gian truân vất vả, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14).

Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng, thì một lần nữa, Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để lên đường.  Thật mau mắn trước Thánh ý Chúa, “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21).

Trước thánh ý của Thiên Chúa, Giuse thinh lặng lắng nghe, vâng phục và chu toàn giống như Đức Maria.  Trong thinh lặng, Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm.  Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt.  Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững.  Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, Ngài nghe và vâng theo, rồi mau mắn thi hành.  Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài vẫn luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình.

Thinh lặng đồng hành với Thánh Gia

Sau khi mang Hài Nhi Giêsu và Mẹ Người trở về từ Ai Cập, Giuse đã cùng sống và đồng hành với Thánh Gia tại Nazaret.  Cùng với Đức Maria, Giuse dâng con trẻ Giêsu trong đền thánh.  Trong khi đó, cụ già Simeon đã cất lên bài thánh ca chúc tụng, còn Giuse vẫn thinh lặng lắng nghe và suy gẫm những lời tiên tri về con trẻ Giêsu.

Khi Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cùng với gia đình đi hành hương đền thánh Jerusalem.  Nhưng con trẻ Giêsu bị thất lạc.  Sau khi tìm thấy con trong đền thờ, Đức Maria đã nói: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?  Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48).  Còn Giuse vẫn thinh lặng không nói một lời nào.  Nhưng ngài thinh lặng để lắng nghe Lời của Chúa Giêsu: “Sao cha mẹ lại tìm con?  Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49).

Trong cuộc sống đời thường tại Nadarét, thánh Giuse âm thầm thinh lặng lao động.  Tin mừng không nói gì về cuộc sống của ngài tại Nadarét.  Điều duy nhất biết được là ngài làm nghề thợ mộc và ngay cả chi tiết nhỏ này nữa, chúng ta cũng chỉ biết nhờ những người đồng hương gọi Đức Giêsu là “con bác thợ mộc” (Mt 13,55) mà thôi.  Rồi ngài qua đời khi nào và được an táng ở đâu nào có ai hay. T ất cả những điều đó nói lên cuộc đời thinh lặng của thánh Giuse.

Cuối cùng, chiêm ngắm cuộc đời của thánh Giuse, chúng ta học hỏi nơi Người sự thinh lặng để lắng nghe, thinh lặng để thấu hiểu và thinh lặng để thực thi ý Chúa.  Tắt một lời, thánh Giuse là vị thánh của thinh lặng.  Thiên Chúa nói với ngài ngay trong thinh lặng và nếu như chúng ta cũng biết sống trong thinh lặng, thì Thiên Chúa cũng sẽ nói với chúng ta, và chúng ta lắng nghe tiếng của Ngài và thực thi thánh ý Ngài.

Lm. Micae Trịnh Ngọc Tứ
Nguồn:  https://www.vanthoconggiao.net/2022/05/thinh-lang-thanh-chuong-v-nguoi-hung-thinh-lang-trong-kinh-thanh-tac-gia-lm-micae-trinh-ngoc-tu.html

LẮNG NGHE CHÚA TRONG THINH LẶNG

Một trong những phẩm tính đáng ngưỡng mộ nhất được nhận thấy trong cuộc đời Thầy Chí Thánh Giêsu, mẫu gương trọn lành của chúng ta, là sự thinh lặng.  Tất cả những huyền nhiệm của cuộc sống dương gian, cũng như đời sống thần linh cao vời của Người đều mang dấu ấn thiêng thánh của sự thinh lặng.

Hội Thánh cho chúng ta biết rằng Hài Nhi Giêsu đã đến giữa thế gian trong sự yên ắng của toàn vũ trụ: “Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm canh ba, thì từ trời cao thẳm, Lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu” (Kn 18,14).  Ba mươi năm đầu đời của Chúa Giêsu đã được bao trùm bởi một sự thinh lặng ấn tượng.  Sau đó là thời gian ba năm đời sống công khai rao giảng của Người, thời gian để Thiên Chúa cất lời và đối thoại với con người.  Dẫu vậy, ngay cả trong thời kỳ này cũng chất chứa thật nhiều điều kỳ diệu của sự thinh lặng.  Thinh lặng là một nét đặc thù trong Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu đến nỗi Tiên tri Isaia đã loan báo trước rằng: “như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng”(Is 53,7).

Trong Bí tích Thánh Thể, chẳng phải sự thinh lặng khôn thấu của Người làm cảm kích chúng ta và thông truyền chính Người cho chúng ta mỗi khi chúng ta tiếp cận đó sao?

Sự thinh lặng không được coi là một nhân đức, nhưng nó chính là môi trường để các nhân đức triển nở, và nó cũng là dấu hiệu cho thấy sự trưởng thành của các nhân đức.  Điều này giống như khi nhìn thấy những bông lúa vàng xuất hiện trên cánh đồng, chúng ta biết hạt lúa đã chín, cũng vậy, khi một nhân đức được nhuốm màu thinh lặng, chúng ta nhận thức được rằng nó đang vươn tới sự trưởng thành.  Hãy suy tư về sự thinh lặng của Chúa Giêsu, đồng thời cố gắng suy đi gẫm lại bên trong tâm hồn chúng ta để mỗi người có thể noi gương sự thinh lặng của Người nơi đời sống của chính mình.

Học cách thực hành thinh lặng nội tâm

Chúng ta hãy nhìn xem sự thinh lặng trong ba mươi năm đầu sống ẩn dật của Chúa Giêsu.  Sự thinh lặng này quả thật không thể hiểu thấu.  Nếu có một con người nào với đủ tất cả quyền hạn để cất tiếng nói, tất cả ân ban để lôi kéo sự chú ý, tất cả phương tiện để tạo ra cơn chấn động, thì con người đó phải là Chúa Giêsu, bởi chính Người là Chủ tể muôn loài, Thượng Trí vô tạo, đặc biệt Người là Ngôi Lời Vĩnh Cửu của Thiên Chúa Cha, và cũng là Đấng mà thế nhân hằng mong đợi từ rất lâu.  Chắc chắn, nếu có bất kỳ sự kiện nào gây rúng động trong dòng lịch sử, đó phải là sự nhập thể và cư ngụ giữa chúng ta của Chúa Giêsu.  Thế nhưng, thay vào đó, một sự thinh lặng bao trùm ba mươi năm đầu tiên ấy.

Kinh Thánh gần như cũng không cho chúng ta biết gì hơn khi nói đến giai đoạn này.  Rất nhiều lần chúng ta muốn biết thêm một chút về những bí nhiệm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu để dưỡng nuôi lòng đạo đức của mình.  Mặc dầu vậy, Kinh Thánh chỉ thi thoảng đề cập đến những năm đầu đời của Người.  Như tiếng thì thầm thoảng qua nơi đồng vắng, một vài trang kể về những sự kiện trong giai đoạn đời sống ẩn dật của Chúa Cứu Thế đã nhấn mạnh và làm bật lên mà không hề phương hại gì đến sự thinh lặng: Ba nhà đạo sĩ đăng trình thờ lạy Hài Nhi Giêsu, cuộc trốn chạy qua Ai Cập của Thánh Gia, việc dâng trẻ Giêsu trong đền thờ – ba sự kiện này không những không gây xáo trộn sự thinh lặng của giai đoạn ẩn dật, nhưng làm hiển lộ một cách rõ ràng hơn.

Chúng ta cảm nhận được sự thinh lặng đặc biệt trong lối sống của gia đình Nazareth.  Đó là “ngôi nhà của thinh lặng,” chúng ta gần như chẳng thể mường tượng được ý niệm nào khác về Thánh gia ngoài điều này.  Mỗi khi chúng ta suy gẫm về những mầu nhiệm đã diễn ra ở đó, chúng ta luôn nhận thấy mỗi thành viên của Thánh gia đều cư ngụ trong một sự thinh lặng thần thiêng.  Có thể nói, sự hiện diện của gia đình Nazareth đã lưu giữ tâm hồn chúng ta đắm chìm trong thinh lặng.

Thánh Cả Giuse không hề có một lời nào được viết lại trong Tin Mừng, và chúng ta chẳng thể hình dung điều gì về ngài ngoại trừ việc say mê lặng ngắm những mầu nhiệm diễn ra trong cuộc đời của ngài.

Đức Trinh nữ Maria cũng luôn ở trong sự thinh lặng.  Đó là sự thinh lặng của bất ngờ và tình yêu được mang đến bởi sự xuất hiện của Thiên Chúa trong cuộc đời Mẹ; một sự thinh lặng tiếp tục được củng cố bằng ánh sáng thánh thiêng của Chúa Giêsu và bởi những dấu lạ mà Mẹ đã chứng kiến và tham dự vào.  Sau khi thuật lại những dấu lạ, Tin Mừng còn nói thêm một lời về Đức Mẹ mà qua đó chúng ta bắt gặp một ánh nhìn soi lối vào tận đáy sự thinh lặng và chiêm niệm bên trong cõi lòng Đức Trinh Nữ, đó là: “Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,52).  Mẹ không hề trao đổi những điều ấy với thánh Giuse, nhưng giữ lại và suy ngắm chúng trong lòng mình.

Và chàng trai Giêsu, dù sống và làm việc trong xưởng mộc của thánh Giuse như một người bình thường, nhưng hẳn đã sống một đời sống thầm lặng với tất cả linh hồn và trái tim đắm chìm nơi Thiên Chúa Cha.  Linh hồn và Trái tim ấy luôn hòa quyện trong hình dung, thao thức về linh hồn và trái tim của mỗi con người chúng ta.  Người luôn mơ những giấc mơ tình yêu và khổ nạn, luôn nghĩ suy về những vinh quang mà Người sẽ mang lại cho Chúa Cha và sự cứu rỗi mà các linh hồn sẽ được hưởng nhờ bởi tay Người.  Tâm hồn Người hoàn toàn đắm say vào những huyền nhiệm của Thiên Quốc.  Và theo như tôi thấy, đây đích thực là sự thinh lặng của chiêm niệm và đời sống nội tâm.

Thinh lặng và sự tập trung

Thinh lặng, hay thậm chí nói chuyện bình thường, cũng luôn mời gọi chúng ta tập trung vào bên trong chúng ta, đồng thời gẫm suy về những gì quan trọng và sâu sắc.  Ví dụ, khi chúng ta ở trong một khu rừng, hoặc lênh đênh trên đại dương, hay lang thang trong sa mạc, chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự cần thiết của việc tập trung và hồi tâm nơi bản thân mình.  Bộ máy tâm lý của chúng ta dễ bị những tiếng ồn làm phiền và kéo chúng ta ra khỏi bản thân, chúng làm chúng ta xao nhãng và mất đi năng lực tập trung; sự ồn ào cũng khiến tâm hồn chúng ta chỉ lảng vảng xung quanh những thứ tầm thường bên ngoài mà không thể đi sâu vào con người mình.  Nhưng khi sự thinh lặng chiếm ưu thế, chúng ta sẽ lại tập trung và một lần nữa sống thinh lặng và đi sâu vào đời sống nội tâm.

Theo như quy luật tâm lý này, chúng ta cần đi vào bên trong con ngươi mình để sống với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa chỉ có thể được tìm thấy nơi sâu thẳm nội tâm mỗi người.  Lẽ dĩ nhiên, việc giữ thinh lặng bên ngoài không chỉ là cửa ngõ dẫn vào đời sống nội tâm, nhưng còn là điều kiện cần thiết cho cuộc sống đối thoại mật thiết với Thiên Chúa.  Nguồn sống của đời sống nội tâm và chiêm niệm chính là sự thinh lặng; do đó, các bậc thầy trong đời sống thiêng liêng luôn đề cao sự thinh lặng; cũng vì thế, việc giữ thinh lặng đã trở thành một trong những điều luật căn bản đời sống tu trì.

Để có thể sống đời chiêm niệm hay đời tu trì dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc một đời sống nội tâm thực sự, thì sự thinh lặng bên ngoài là điều không thể thiếu.  Đồng thời, để nhận ra được tầm quan trọng của nó trong đời sống kết hiệp với Chúa, trong đời sống hướng lên chứ không phải hướng xuống, chúng ta đừng bao giờ rời bỏ thực tế: thinh lặng không phải là một biện pháp kỷ luật đơn thuần hoặc là một cách thức giữ trật tự thường được áp dụng trong các lớp học, nhưng là một điều kiện cần thiết và không thể thiếu cho đời sống nội tâm.

Luis M. Martinezchuyển ngữ: Quang Sáng
Theo: catholicexchange.com(29.7.2021)

GIAO ƯỚC MỚI

Theo nghĩa thông thường, “Giao ước” là sự cam kết, giao kèo giữa hai cá nhân hoặc hai tập thể.  Mỗi bên đều có bổn phận tuân giữ những quy định được ghi rõ trong cam kết này, và bên nào vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc.

Trong truyền thống Kinh Thánh, “Giao ước” là hiệp định ký kết bằng cách cả hai bên phải đi vào giữa hai phần những con vật được sát tế và xẻ đôi.  Giao ước đối với toàn dân Ít-ra-en là Giao ước cũ (còn gọi là Cựu ước), được thực hiện tại núi Sinai qua việc ông Môi-sen rảy máu tế vật lên bàn thờ và trên dân.  Giao ước giữa Thiên Chúa và dân của Chúa không chỉ là kết quả của sự thoả thuận của hai bên, mà còn là đặc ân vô điều kiện của Thiên Chúa (Từ điển Công giáo, Tr. 334).

Luật Giao ước là niềm tự hào của người Do Thái.  Khi so sánh với các dân xung quanh, ông Môi-sen đã nói: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?  Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?” (Đnl 4,8).

Nếu Thiên Chúa luôn trung thành giữ lời giao ước, thì con người lại hay vi phạm những điều đã cam kết.  Tội lỗi và kiêu ngạo đã phá vỡ mối tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và con người.  Con người đã khước từ tình thương của Thiên Chúa và quay lưng chống lại Ngài.  Vì vậy mà Thiên Chúa phải thiết lập một Giao ước mới.  Giao ước ấy được ký kết, không còn bằng máu chiên máu bò, nhưng bằng máu của Con Một Thiên Chúa, là Đức Giê-su Ki-tô.  Ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Bài đọc I) đã loan báo một Giao ước mới.  Giao ước này không giống như giao ước Chúa đã lập với các bậc tiền nhân của người Do Thái.  Giao ước mới sẽ biến đổi lòng dạ con người, giúp họ canh tân bản thân để nên hoàn thiện.

Trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giê-su đã lập phép Thánh Thể.  Người trao cho họ chén rượu và nói: “Đây là máu Giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28). Tác giả Lu-ca còn nói rõ hơn: “Chén này là Giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20; 1 Cr 11,25).

Tại sao Thiên Chúa không dùng cách khác để cứu chuộc con người, mà lại dùng cái chết đau thương của Con Một Ngài?  Nhiều thế hệ, quá khứ cũng như hiện tại, đã đặt ra câu hỏi này.  Thực ra, Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng muôn vàn cách khác nhau, cũng như khi vũ trụ còn là hư vô, Chúa đã phán một lời, mọi sự được tác thành.  Chỉ có câu trả lời “do bởi tình thương” mới có thể làm thỏa mãn vấn nạn trên.  Vâng, như người mẹ vất vả mang thai và sinh con và nuôi dưỡng nên người, Thiên Chúa cũng thể hiện tình thương của Ngài bằng cái chết đau thương của Con Một chí ái.  Tuy vậy, nếu Đức Giê-su đã chết trên thập giá, thì ngôi mộ không phải là nơi cầm giữ Người mãi mãi.  Chúa đã sống lại vinh quang.  Hình ảnh hạt lúa gieo vào lòng đất, chấp nhận thối đi để nảy mầm đơm hạt mà chính Chúa Giê-su đã sử dụng khẳng định chân lý ấy.  Đức Giê-su thành Na-gia-rét là Hạt Giống vĩ đại, đã chấp nhận chết đi để sinh ra một dòng giống mới.  Từ cái chết của Người, một công trình tạo dựng mới đã được khởi sự, để rồi những ai sẵn sàng dìm mình trong sự chết của Đức Giê-su, sẽ được tái sinh và gia nhập Dân Thánh, Dân của Giao ước mới.  Cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá đã xóa bỏ bản án nguyên tội ở khởi đầu lịch sử, thiết lập một trang mới trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại.  Thánh Phao-lô nói với chúng ta (Bài đọc II): Đức Giê-su đã mang lấy trên bản thân mình muôn vàn đau khổ.  Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.  Trong Mùa Chay, chúng ta ôn lại những chặng đường thập giá của Chúa Giê-su.  Hôm nay, những chặng đường thập giá cũng đang đè nặng trên thân phận con người, ở nhiều hình thức và hoàn cảnh khác nhau.  Ý thức có Chúa cùng vác với ta, thập giá cuộc đời sẽ bớt nghiệt ngã hơn.  Xác tín vào sự hồi sinh của hạt lúa, chúng ta sẽ thêm niềm hy vọng giữa những tăm tối của cuộc đời.

Như cây đến mùa thay lá, như vườn nho đến ngày cắt tỉa, mùa Chay giúp chúng ta buông bỏ những gì cản trở chúng ta trên con đường theo Chúa và trong bổn phận đối với tha nhân.  Những thực hành đạo đức của mùa Chay như chay tịnh, cầu nguyện và bác ái sẽ giúp cho con người cũ nơi chúng ta chết đi, trở thành con người của Giao ước mới, mặc lấy Chúa Giê-su Phục sinh.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

THUỞ LANG THANG

“Tôi đã thấy dòng nước từ cửa đông đền thờ tuôn ra!”

“Để tôi kể cho bạn một câu chuyện bi thảm nhưng có thật. Một phụ nữ nọ cùng đứa con đi dạo dọc bờ sông.  Đột nhiên đứa trẻ trượt xuống sông.  Cô hét lên kinh hãi.  Cô không biết bơi; hơn nữa, cô đang ở giai đoạn cuối của thai kỳ.  Cuối cùng, có người nghe tiếng và lao xuống bờ sông.  Bi kịch tột cùng là, khi họ bước xuống dòng nước đục ngầu để vớt đứa trẻ đã chết lên, họ phát hiện nước chỉ sâu đến thắt lưng!  Người mẹ đó lẽ ra có thể dễ dàng cứu con mình nhưng cô đã không làm được vì thiếu hiểu biết” – Ray Comfort.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay không nói đến ‘một dòng sông cạn’ giết chết một đứa bé, nhưng nói đến ‘một dòng sông sâu’ cứu sống muôn người!  Nước từ đền thờ thời Êzêkiel báo trước dòng nước ân sủng thời Giêsu!  Một người bại liệt lây lất bên hồ những 38 năm, tương đương với ‘thuở lang thang’ gần 40 năm của Israel trong sa mạc.  Và xem ra anh này cũng đã ‘lang thang’ trong sa mạc đời anh gần 40 năm.

‘Lang thang!’, một hành động mang tính biểu tượng cho sự ‘tê liệt’ của một con người.  Đó là hình ảnh hậu quả của tội lỗi trong cuộc sống.  Khi phạm tội, chúng ta ‘tê liệt’ và ‘lang thang’ trong sa mạc đời mình.  Tội lỗi có những hậu quả nghiêm trọng đối với cuộc sống khiến chúng ta không thể đứng dậy và bước đi đúng hướng.  Đặc biệt, tội trọng, nó khiến chúng ta bất lực trong việc yêu thương và sống trong tự do; cùng lúc, không thể quan tâm đến đời sống tinh thần của mình hoặc của người khác.

Chúa Giêsu tự nguyện đi đến với người bại liệt này; Ngài bước vào sự cô lập của anh dù không được mời!  Ngài thấy anh, biết hoàn cảnh của anh, Ngài đến và trực tiếp nói với anh, “Anh có muốn khỏi bệnh không?”  Không trả lời Ngài, anh chỉ phàn nàn, “Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ.”  Anh mắc bệnh bi quan, phát ốm vì buồn; anh mắc bệnh lười! “Đúng, tôi muốn lành, nhưng…,” và anh đợi ở đó.  Thế mà mấu chốt là chính cuộc gặp gỡ của anh với Chúa Giêsu; dẫu xem ra, anh “thiếu hiểu biết”, anh không cần Ngài.  Và nhường như anh vẫn tiếc nuối ‘thuở lang thang?’

Thật tuyệt vời!  Ngài đã chữa lành anh mà không cần dìm anh xuống hồ Bêthesda.  Bêthesda có nghĩa là “Ngôi nhà của lòng thương xót,” hoặc “Ngôi nhà của ân sủng” theo tiếng Do Thái.  Đúng thế, người này đang cần lòng thương xót và ân sủng cả khi không ý thức.  Và Chúa Giêsu không phải là ‘dòng nước cạn giết chết’ nhưng là ‘dòng sông sâu’ cứu sống!  Augustinô viết, “Vết thương của chúng ta rất nghiêm trọng, nhưng vị Thầy Thuốc thì toàn năng.  Tôi sẽ tuyệt vọng về vết thương chí mạng của tôi, nếu tôi không tìm thấy một Thầy Thuốc vĩ đại như Ngài!”

Anh Chị em,

“Tôi đã thấy dòng nước từ cửa đông đền thờ tuôn ra!”  Giêsu là dòng sông sâu cứu sống!  Ngài là đền thờ mới mà Êzêkiel đã thấy trước dòng nước tuôn ra từ cửa đông của nó.  Đỉnh của đền thờ là Canvê, nơi nước ngọt ngào của phép Rửa chảy ra từ cạnh sườn Ngài.  Và ngày nay, dòng nước cứu độ ấy vẫn tiếp tục chảy, tiếp tục nuôi sống, rửa sạch mọi thương tích trong tâm hồn chúng ta.  Nước Giêsu đem lại hạnh phúc viên mãn ngay trong sa mạc trần gian khô khốc này, Ngài nói với bạn và tôi, “Thôi! Đừng thiếu hiểu biết!”

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con tiếc nuối ‘thuở lang thang.’  Xin giải thoát con, dìm con vào Chúa mà đừng thèm hỏi con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CHÌM VÀO VỰC BẤT XỨNG

“Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ!”

Simpson viết, “Cầu nguyện là sợi dây liên kết con người với Chúa, là chiếc cầu bắc qua mọi vùng vịnh, đưa bạn vượt mọi thung lũng hiểm nguy!  Chúa không cần những con người vĩ đại, Chúa cần những con người dám chứng tỏ sự vĩ đại của Ngài.  Vì thế, lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu khởi đi từ một linh hồn đã ‘chìm vào vực bất xứng’ của nó!”

Kính thưa Anh Chị em,

Cao trào của Lời Chúa hôm nay là tính cách trần trụi của ‘một vai phụ’ trong dụ ngôn Tin Mừng, một người thu thuế!  Anh đã dâng một “lời cầu khởi đi từ một linh hồn đã ‘chìm vào vực bất xứng’ của mình.  Với những gì anh bộc lộ, Chúa Giêsu mách cho chúng ta điều Thiên Chúa yêu thích nơi con người là “tình yêu,” mà không cần bất cứ điều gì khác!

Hôsê cho biết, Thiên Chúa thấu suốt lòng dạ con người, “Tình yêu của các ngươi khác nào mây buổi sáng, mau tan tựa sương mai”; Ngài chỉ muốn tình yêu, “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ” – bài đọc một.  Thánh Vịnh đáp ca cũng lặp lại chỉ ngần ấy!

Trái với điều Thiên Chúa chờ đợi, người biệt phái trong Tin Mừng dâng Thiên Chúa một điều gì đó hoàn toàn khác!  Lời cầu nguyện của ông bị bóp méo khi ông coi Thiên Chúa như ‘Con Nợ’ và tệ hơn, lấy những ‘kỳ tích’ của mình để so sánh và khinh dể người khác.  Thực ra, đó không phải là cầu nguyện mà là ‘diễn văn.’  Tuy không phải là người xấu, nhưng lòng kiêu hãnh của ông đã khiến ông mù lòa đến độ xúc phạm tình yêu khi ông sống tôn giáo của mình một cách tối thiểu để không phạm tội; nhưng ông không biết rằng, Thiên Chúa không bao giờ thoả mãn với một ‘mức tối thiểu trần!’  Lời cầu ông là ‘vô trùng’ khi ông quên rằng, Thiên Chúa chỉ “muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ!”

Nhân vật thứ hai của dụ ngôn cũng lên đền thờ cầu nguyện! ‘Vai phụ’ này “khi ra về thì được khỏi tội.”  Người này “khỏi tội” không phải vì đã làm những điều đúng đắn, nhưng vì đã khiêm nhường nhận ra tội của mình.  Lời cầu của ông xuất phát từ một tấm lòng tan nát; ông ý thức sự bất xứng của mình trước một Đấng Toàn Thánh.  Và có lẽ, đã nghe thấy những gì người Pharisêu nói và điều đó càng khiến ông càng đau đớn hơn để ‘chìm vào vực bất xứng’ của mình, và ông chỉ đủ sức đấm ngực nài van, “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!”  Lạ thay, điều này rất đẹp lòng Chúa và Ngài thích thú!

Đức Phanxicô nói, “Nơi nào có quá nhiều cái “tôi”, nơi đó rất ít Chúa.  Ở nước tôi, chúng tôi gọi những người này là “Tôi, chính tôi và tôi,” tên của những người đó.  Người ta từng nói về một linh mục tự cho mình là trung tâm và thường bông đùa rằng: “Mỗi khi xông hương, thì ngài xông ngược; ngài xông chính mình!”;  và điều đó khiến bạn buồn cười!”

Anh Chị em,

“Ta muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ!”  Mọi sự trên trần gian đều thuộc về Chúa, Ngài cần gì hy lễ của ai!  Ngài cần tình yêu từ tận trái tim mỗi người.  Đừng quên, “Lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu khởi đi từ một linh hồn đã ‘chìm vào vực bất xứng’ của nó!”  Đây là điều làm cho kinh nguyện của chúng ta có kết quả!  Chỉ những ai tự nhận mình ‘không có gì’ mới có thể nhận được tất cả; những ai biết mình trống rỗng mới có thể được lấp đầy.  Mùa Chay, mùa ‘chìm vào vực bất xứng’ để chỉ biết cầu xin lòng Chúa xót thương!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘xông hương ngược!’  Chúa không cần sự vĩ đại của con, Chúa cần con biết ‘con đáng thương’ ngần nào và dám chứng tỏ sự vĩ đại của Ngài!”  Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế