CÁC THÁNH CHIẾU TỎA VINH QUANG THIÊN CHÚA

Một câu chuyện vui kể lại rằng, trong một lớp giáo lý, khi nữ tu hỏi một em nhỏ: con hãy nói cho sơ biết các thánh là ai?  Em bé suy nghĩ một chút rồi trả lời: các thánh là những người được ánh sáng chiếu xuyên qua.  Sự hiểu biết ngây thơ này đến từ việc có lần theo mẹ vào nhà thờ dự lễ, khi nhìn thấy những tấm hình người trên những cửa kính nhà thờ.  Em đã hỏi mẹ đó là hình của ai, và mẹ em trả lời: đó là các thánh.  Trong suy nghĩ đơn sơ của em, nhờ ánh sáng mặt trời chiếu qua mà làm hiện rõ nét những con người trên tranh kính.  Đó là các thánh.  Câu trả lời ấy cũng giúp chúng ta khám phá ra một trong những định nghĩa đơn sơ mà chân thực về các thánh: các ngài là những người để cho sự thánh thiện của Thiên Chúa chiếu tỏa.  Nói cách khác các ngài đã đón nhận hào quang của Thiên Chúa rồi làm cho hào quang ấy lan tỏa mọi môi trường xung quanh, để rồi người khác nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi các ngài.

Ngôn sứ Isaia đã được chiêm ngưỡng Thiên Chúa.  Ngài ngự trong vinh quang.  Các thiên thần và kỳ lão không ngừng tung hô: Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh.  Lời tung hô được lặp lại ba lần có nghĩa Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối.  Thị kiến mà ngôn sứ Isaia được nhìn thấy chính là phụng vụ thiên quốc, là vinh quang ngàn trùng của Thiên Chúa và cũng là khung cảnh thiên đàng.  Nơi đây, niềm vui bất tận và hạnh phúc khôn cùng.

Khi sáng tạo, Thiên Chúa san sẻ vinh quang và sự thánh thiện của Ngài cho mọi tạo vật.  Sự thánh thiện ấy lan tỏa trong thiên nhiên, thể hiện nơi khuôn mặt và cuộc đời của những người sống tốt lành trong tư tưởng, lời nói cũng như hành động.  “Hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh!”  Đó là lời mời gọi trong Cựu ước.  “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.”  Đức Giêsu đã tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, mời gọi con người hãy nên hoàn thiện.  Làm sao hoàn thiện như Cha trên trời, vì Chúa Cha là Đấng vô hình, không ai có thể hiểu thấu?  Đừng lo, nếu Chúa Cha là Đấng chí thánh và vô hình, thì Ngài đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để ở cùng chúng ta và làm gương mẫu cho chúng ta noi theo.  Nhờ Chúa Giêsu, con người ở bất kỳ bậc sống nào cũng có thể nên thánh.  Nên thánh là nên giống Chúa Giêsu.  Các tác giả Tin Mừng kể lại cuộc sống của Chúa rất đơn sơ gần gũi mọi người.  Mọi hành động, lời nói đều nhằm đem cho con người tình thương của Chúa Cha.  Đức Giêsu cũng nỗ lực cố gắng để xây tình huynh đệ giữa con người với nhau, không phân biệt sang hèn, tuổi tác địa vị.  Trong cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta làm những việc Chúa Giêsu đã làm, thì chúng ta sẽ nên giống Người và đang từng bước đạt tới sự trọn lành.

Giáo Hội là Dân Chúa đang lữ hành.  Dân này không phải chỉ bao gồm một quốc gia, một dân tộc, nhưng là tất cả những ai đã được bí tích Rửa tội thanh tẩy.  Tuy vậy, nói đến một dân tộc, tức là cũng nói đến một lịch sử hào hùng của dân tộc ấy.  Dân Chúa, tức là Giáo Hội, suốt bề dày lịch sử đã sản sinh ra biết bao phần tử ưu tú.  Họ là những người viết lên trang sử uy hùng của Giáo Hội, kể cả những lúc đen tối của lịch sử.  Khởi đi từ Đức Maria, thánh cả Giuse, các thánh tông đồ và tất cả các thánh được Giáo Hội chính thức mừng kính hằng năm, chúng ta chiêm ngắm vinh quang của một cộng đoàn đông đảo các thánh.  Họ là những người cha, người mẹ.  Họ là những giám mục, linh mục, tu sĩ.  Họ là những vua quan trong triều đình hoặc quân nhân ngoài chiến trận.  Họ là những người giàu và những người nghèo khó.  Họ là những người nam người nữ, người già người trẻ.  Những người này là niềm tự hào của Giáo Hội.  Họ cũng là hy vọng của các tín hữu, vì họ khẳng định với những ai tin Chúa rằng, Đức tin sẽ chiến thắng ba thù, lòng mến sẽ làm nên tất cả.  Họ là những Đấng Thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay.  Cũng giống như ngôn sứ Isaia, thánh Gioan, trong Sách Khải huyền (Bài đọc I) đã được nhìn thấy nghi thức phụng vụ thiên quốc: xung quanh ngai tòa của Chiên Con tức là Đức Giêsu, để cùng với Đức Giêsu dâng lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa.  Tôn vinh Thiên Chúa, đó là hạnh phúc viên mãn tròn đầy của các thánh.

Hôm nay chúng ta cũng mừng kính đông đảo các tín hữu đã khải hoàn vinh thăng.  Có thể họ là những người chúng ta đã quen biết và gặp gỡ, và hôm nay họ đang chiêmn ngưỡng vinh quang Thiên Chúa.  Bởi lẽ, tất cả những ai sống ngay chính và thánh thiện thì xứng đáng hưởng vinh quang nước trời.  Đức tin vào phần thưởng và hạnh phúc của những người công chính sẽ đem lại cho chúng ta niềm hy vọng.  Bởi lẽ, nếu ông bà, anh chị em thân thuộc của chúng ta đã được vinh quang Nước Trời, thì chúng ta cũng có thể hưởng vinh quang ấy và được gặp gỡ những người thân của chúng ta.

“Anh em hãy nên trọn lành, như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).  Lời kêu gọi của Chúa Giêsu đã trở nên lý tưởng phấn đấu cho biết bao tín hữu.  Họ đã chiến thắng gian khổ, vượt lên những khó khăn để sống một cuộc đời thanh tao giữa vũng lầy tội lỗi.  Phụng vụ cho chúng ta nghe bài giảng trên núi của Chúa Giêsu, mà nội dung là tám mối chúc phúc của Người.  Con đường nên thánh rất đa dạng và phong phú.  Mỗi “mối phúc” là mỗi phương pháp ta có thể chọn để nên giống Chúa Giêsu.  Những mối phúc này xem ra không hợp với những quan niệm của cuộc sống thông thường.  Tuy nhiên, nếu chúng ta thực thi với cái nhìn đức tin thì chúng ta sẽ tìm thấy hiệu quả đích thực trong cuộc sống.  Nội dung của các mối phúc hướng chúng ta đến với Thiên Chúa và tha nhân, chứ không phải chỉ sống ích kỷ cho riêng mình.  Nhờ sống vì Chúa, sống cho người khác mà chúng ta cảm nhận hạnh phúc thiêng liếng và đích thực, vì “Hạnh phúc lớn lao nhất mà ta cảm nhận là khi ta đem niềm vui cho tha nhân” (ngạn ngữ phương Tây).

Con đường nên thánh là con đường chung của mỗi chúng ta.  Tuy vậy, cũng như mỗi vận động viên phải luôn luôn luyện tập gian khổ để hy vọng thành tài, người tín hữu muốn nên thánh cũng phải chấp nhận rèn luyện bản thân và sống theo lời dạy của Chúa.  Các thánh là những người “đã trải qua cơn thử thách lớn lao.  Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Bài đọc I).  “Lửa thử vàng, gian nan thử đức.”  Những khó khăn ta gặp phải trên đường đời chính là cơ hội để tôi luyện lòng trung thành trong đức tin.

Các Thánh không phải những nhân vật xa xưa như trong chuyện cổ tích.  Cuộc đời của các Ngài gắn liền với ơn gọi Kitô hữu của chúng ta.  Mỗi chúng ta đang được mời gọi cố gắng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu như các Ngài.  Nên thánh là một điều có thể làm được, trong tầm tay của mỗi người.  Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã quả quyết với chúng ta: “Việc nên thánh là khả thi cho hết mọi người, mọi lứa tuổi và mọi lúc, vì mỗi người trong chúng ta đã lãnh nhận phần ân huệ thần linh của mình.  Thiên Chúa yêu cầu chúng đón nhận ân huệ này và sống những đòi hỏi của nó.  Chúng ta hãy để cho hoạt động của Thánh Thần của Ngài biến đổi chúng ta, để tuân theo thánh ý của Ngài.  Theo chân các thánh nhân, chúng ta cũng hãy trở nên một phần của một bức tranh ghép thánh thiện vĩ đại mà Thiên Chúa tạo nên trong lịch sử.”  (Trích bài giáo lý trong cuộc tiếp kiến chung ngày 13-4-2011).

Trở lại với câu chuyện trên đây, chúng ta có thể kết luận: nên thánh đơn giản chỉ là để cho hào quang của Chúa chiếu soi.  “Hào quang” ở đây chính là Lời Chúa, là lòng từ tâm bao dung bác ái.  Khi chúng ta thực hiện những điều này, như Chúa nói trong sách ngôn sứ Isaia: “Ánh sáng” ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ được chữa lành, đức công chính của ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi.  Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhậm lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: có Ta đây (x. Is 58,8,9).  Những lời diễn tả hạnh phúc và niềm vui của người công chính mà chúng ta vừa nghe, chính là sự thánh thiện mà chúng ta đạt được qua lòng bác ái bao dung và tình huynh đệ đối với tha nhân.

Ngày lễ Các Thánh trước hết giúp chúng ta chiêm ngưỡng vinh quang và sự thánh thiện của Thiên Chúa, đồng thời tôn vinh các tín hữu đã được Thiên Chúa ban thưởng vinh quang quê trời, trong đó có những người thân của chúng ta.  Ngày lễ này cũng khích lệ chúng ta về ơn gọi nên thánh của người Kitô hữu, đồng thời nhận ra xung quanh chúng ta có nhiều người tốt lành.  Họ sẵn sàng chấp nhận cuộc sống bình dị, đơn sơ, nhưng thấm đượm nghĩa tình.  Đức Thánh Cha Phanxicô gọi họ là các “vị thánh ở kề bên ta.”  Qua những con người đơn sơ này, Thiên Chúa, Đấng chí thánh, đang hiện diện giữa chúng ta.  Khi tôn thờ và yêu mến Chúa, chúng ta được chia sẻ vinh quang và sự thánh thiện của Ngài.

Vâng, mỗi ngày sống trên đời, tôi đang cố gắng để làm cho ánh hào quang của Chúa chiếu tỏa và bao bọc trọn vẹn cuộc đời của tôi.  Như thế, tôi sẽ được nên giống Chúa ngay khi còn sống ở đời này.  Thiên đàng sẽ khởi đầu ở dưới thế và vương quốc tình yêu mà Chúa Giêsu loan báo sẽ được thực hiện.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

THÁNH SIMON VÀ GIUDA TÔNG ĐỒ

Trong danh sách nhóm 12, Simon Nhiệt Thành được xếp vị trí thứ 10 (con số 10 tròn trịa).  Gọi là Simon Nhiệt Thành để phân biệt với Simon Đá Tảng, tức là Simon Phêrô, vị Tông Đồ Cả.  Còn Giuđa Thađêô được xếp thứ 11, nghĩa là gần cuối.  Hai vị Tông Đồ này luôn luôn được xếp gần sát nhau.  Có lẽ vì thế mà các ngài được Giáo Hội mừng chung một ngày, 28.10.

Có điều là Kinh Thánh lại nói rất ít về hai vị Tông Đồ này.  Đặc biệt đối với thánh Simon Nhiệt Thành, dường như ngài đã bị các Thánh Sử lãng quên.  Ngài chỉ được nhắc đến vài ba lần, khi liệt kê danh sách các Tông Đồ.  Theo Thánh Truyền thì Simon Nhiệt Thành chính là người phụ rể tại tiệc cưới Cana (Cana cũng chính là quê quán của ngài), và sau khi chứng kiến phép lạ nước hoá thành rượu, ngài đã đi theo Chúa Giêsu.  Ngài cũng là người được mệnh danh là nhiệt thành, nhiệt thành đến độ cực đoan (Zêlot).  Dĩ nhiên là nhiệt thành cho sứ mạng giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma.  Ngài thấy Chúa Giêsu có những phẩm chất của một vị lãnh tụ đáng tin cậy, có khả năng đánh đuổi đế quốc Rôma đô hộ và tái lập vương quốc Israel hùng cường.  Chúa Giêsu không ngần ngại chọn gọi ngài và hướng sự nhiệt thành của ngài, thay vì lo kiến tạo một vương quốc trần thế, thì lo xây dựng một vương quốc trời cao, vương quốc mà chính Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.  Quả vậy sau này chính ngài đã hết mình cho Tin Mừng Nước Trời đến độ hiến dâng cả mạng sống mình.  Truyền thuyết cho biết ngài đã chết trên thập giá, cái chết giống Thầy mình.  Một tình yêu đối với tổ quốc, với đồng bào được Chúa Giêsu nâng lên thành tình yêu phổ quát, tình yêu đối với mọi dân, mọi nước.  Một mộng tưởng phục vụ cho một quốc gia Do Thái bé nhỏ được Chúa Giêsu nâng lên thành lý tưởng phụng sự cho một quốc gia không biên giới, đó chính là Nước Trời.

Còn thánh Giuđa Thađêô thì sao?  Chúng ta cũng không biết gì nhiều ngoại trừ chi tiết ngài là em của thánh Giacôbê hậu, và là bà con của Đức Giêsu.  Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria.  Bà này đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Người chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức xác Chúa bằng dầu thơm.

Nếu thánh Simon được gọi với cái tên là Simon “nhiệt thành” thì có lẽ thánh Giuđa phải được gọi là Giuđa “trung thành.”  Ngài đã trung thành trong tình yêu mến, để bù lại cho một Giuđa khác, Giuđa Isacriôt, kẻ bất trung bội phản trong tình yêu.  Tin Mừng cho thấy có lần ngài đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy lại tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian” (Ga 14,22).  Chúa Giêsu trả lời ngài rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy.  Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở trong người ấy” (Ga 14,23).  Khi trả lời như thế, Chúa Giêsu muốn gián tiếp nói với Giuđa Thađêô rằng khi các con yêu mến Thầy, các con sẽ hiểu được câu hỏi tại sao.  Và khi các con yêu mến Thầy, các con sẽ hiểu được các mạc khải cao trọng hơn thế nữa.  Có “Cha Thầy và Thầy ở cùng” lẽ nào lại không hiểu được!  Quả thật, sau này ngài đã hiểu, vì ngài đã yêu mến Thầy mình thực sự.  Ngài đã yêu mến Thầy mình cho đến cùng.  Dù có trải qua bao phong ba bão tố của cuộc đời, ngài vẫn không bỏ cuộc, không bội phản như Giuđa Iscariôt.  Tương truyền cho biết ngài cùng với thánh Simon Nhiệt Thành hăng say rao giảng Tin Mừng đến tận miền Ba Tư và trung kiên làm chứng cho Chúa đến hơi thở cuối cùng.

Ở Việt Nam, người ta ít biết về ngài, và cũng ít người chọn ngài làm thánh Quan Thầy.  Thế nhưng ở Mỹ, ngài là một vị thánh rất được sùng kính.  Rất nhiều nhà thờ ở Mỹ đặt bàn thờ dâng kính ngài.  Lý do thánh Giuđa được sùng kính ở Mỹ như thế là vì ngài nổi tiếng là một vị thánh hay cứu giúp người ta, cả những người lương dân, trong những trường hợp khó khăn, trong hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng.

Chuyện kể rằng có một người phụ nữ gặp hoàn cảnh khó khăn về tài chính.  Bà đã đến một nhà thờ ở New York làm tuần Cửu Nhật cầu khấn thánh Giuđa, xin ngài giúp cho bà một số tiền là 10.000 đôla để bà giải quyết một vấn đề quan trọng.  Mỗi ngày bà đến cầu nguyện trước tòa kính thánh nhân.  Sang đến ngày thứ chín, bà thấy trên bàn thờ vị thánh có một chiếc phong bì, mở ra thì bà thấy trong đó có 10.000 đôla, đúng với số tiền mà bà xin.  Bà mừng quá, chạy vào nhà xứ kể cho cha xứ nghe sự việc, tin rằng đây là tiền của thánh Giuđa cho bà.  Tuy nhiên, cha xứ cho biết ngài vừa nhận được cú điện thoại của một người báo tin cho hay ông ta cũng vừa được thánh Giuđa ban cho một ơn như ý, và để tỏ lòng biết ơn, ông có dâng kính thánh nhân 10.000 đôla.  Nhưng vì không gặp được cha xứ, nên ông ta đặt số tiền đó trên bàn thờ thánh nhân, trong một phong bì, và xin cha ra lấy và cất giữ.  Như vậy, theo cha xứ, số tiền kia là của giáo xứ, bà ta phải đưa lại cho giáo xứ; còn người đàn bà thì lại quả quyết tiền đó là của thánh Giuđa giúp bà.  Vì vậy, để phân xử, hai người quyết định đưa nhau ra toà.

Người ta theo dõi vụ kiện qua báo chí và lấy làm thú vị về sự việc hi hữu này.  Họ không biết tòa sẽ phải giải quyết bằng cách nào trước một sự việc vừa mang tính pháp lý vừa mang tính thiêng liêng như thế này?  Đột nhiên, cha xứ tuyên bố rút đơn kiện, đồng ý để số tiền cho bà kia.  Bà ta bình thản nói rằng bà đã biết chắc chắn số tiền sẽ thuộc về bà, vì thánh Giuđa sẽ giúp bà cho đến cùng.

Thiết nghĩ thánh Giuđa không làm một phép lạ tỏ tường, nhưng ngài đã muốn dùng số tiền người ta dâng kính ngài, để tặng lại cho người phụ nữ trong lúc gặp sự khốn khó đã hết lòng tin tưởng chạy đến cùng ngài.

Chúng ta có thêm một địa chỉ nữa để chạy đến kêu xin sự trợ giúp, khi ta gặp gian nan khốn khó.  Câu chuyện vừa kể giúp ta có thêm niềm xác tín.  Dĩ nhiên không chỉ đơn thuần là xin ngài giúp tháo gỡ những khó khăn về cuộc sống vật chất, mà còn là những khó khăn về đời sống đức tin, đời sống đạo.  Đặc biệc xin ngài giúp chúng ta có được lòng nhiệt thành và trung thành như ngài: nhiệt thành phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, đồng thời trung thành bền chí đi theo Đức Kitô đến cùng.  Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

BA CHIỀU KÍCH TRONG TÌNH YÊU

Một thơ sĩ người Anh tên là Leigh Hunt đã viết một bài thơ rất nổi tiếng về một người tên là Abou Ben Adhem như sau:

Một đêm kia, khi Abou Ben Adhem choàng tỉnh dậy, anh thấy trong phòng ngủ của anh một thiên thần nhỏ đang cắm cúi viết trên một cuốn sách bằng vàng tên của những người yêu mến Thiên Chúa.  Anh rón rén lại gần và hỏi nhỏ: “Có tên của con trong sách đó không, thưa ngài?”  Vị thiên thần nhỏ lắc đầu: “Chẳng có tên của anh.  Abou nài nỉ: “Nếu thế, con xin ngài hãy ghi tên con là người biết yêu mến những người anh chị em của mình thôi.  Đêm hôm sau, vị thiên thần trở lại với danh sách của những người yêu mến Thiên Chúa.  Lần này, tên của Abou Ben Adhem đứng ở đầu danh sách.

Bài thơ này cho thấy tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu dành cho tha nhân thì tựa như hai mặt của một đồng tiền.  Người ta không thể tách rời hai thứ tình yêu này ra khỏi nhau được.  Đó cũng chính là những gì mà Tin Mừng ngày hôm nay muốn nói với chúng ta.  Khi người ta hỏi Đức Giêsu rằng đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì câu trả lời vẫn là giới luật về tình yêu đối với Thiên Chúa.  Nhưng Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở đó.  Ngài tiếp tục đưa ra một câu trả lời thực tế hơn.  Ngài trình bày cho chúng ta thấy mặt khác của đồng tiền: đó là tình yêu dành cho tha nhân.  Tình yêu mến Thiên Chúa cách đích thực và tình yêu thương tha nhân chân thành chỉ là một.  Đức Giêsu đã nói: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.  Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất.  Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.  Tất cả Luật Môi-sen và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22, 37-40).

Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu không chấp nhận lối hiểu tình yêu chỉ trong một chiều kích thôi.  Đối với Ngài, tình yêu đích thực phải diễn tả trong 3 chiều kích, đó là (1) tình yêu đối với Thiên Chúa, (2) tình yêu đối với tha nhân, (3) và tình yêu đối với bản thân.  Hai thứ tình yêu đầu được đòi hỏi cách tích cực, còn tình yêu thứ ba được đưa ra như một cơ sở của mọi tình yêu.  Việc đòi hỏi yêu thương tha nhân như chính bản thân, đã giả định rằng bạn phải biết yêu thương chính mình.

Vì câu trả lời của Đức Giêsu đề cập tới cả ba chiều kích của tình yêu, vậy đâu là điểm mà Đức Giêsu thực sự muốn nhấn mạnh?

Khi bạn hỏi ai đó một câu hỏi, và trong câu trả lời của người ấy, người ấy còn nói thêm một điều khác nữa mà bạn đã thực sự không muốn hỏi, thì hẳn rằng người ấy đang muốn bạn chú tâm đến yếu tố thêm vào đó.  Tuần vừa qua, khi Đức Giêsu bị chất vấn về việc có phải nộp thuế cho hoàng đế Xê-da không, thì Ngài trả lời: “Của Xê-da, thì trả cho Xê-da;” và Ngài còn nói tiếp: “Của Thiên Chúa, thì trả cho Thiên Chúa.”  Đó chính là điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu khi được hỏi về việc nộp thuế cho Xê-da.  Ngài không chỉ nói đến một điều xem ra hiển nhiên về quyền của Xê-da, nhưng còn nhấn mạnh đến quyền của Thiên Chúa mà con người vốn thờ ơ, không coi trọng.  Cùng cách thế này, đứng trước vấn nạn đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì tình yêu đối với Thiên Chúa là chuyện hiển nhiên, nên điều nhấn mạnh của Đức Giêsu ở đây chính là tình yêu đối với tha nhân mà vốn bị con người không để ý tới hoặc coi thường.

Bạn nên nhớ việc bắt bớ Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài là do chính những người lãnh đạo tôn giáo.  Những kẻ này tưởng rằng họ làm thế để thể hiện lòng nhiệt thành và yêu mến Thiên Chúa của họ, để bảo vệ uy quyền tối cao của Thiên Chúa.  Cũng những con người này khi hỏi Đức Giêsu đâu là giới răn quan trọng nhất, thì chính họ là những kẻ đang giăng bẫy nhằm giết Đức Giêsu.  Họ rất ý thức về tình yêu phải dành cho Thiên Chúa, nhưng tại sao họ lại trở nên vô cảm trước tình yêu phải dành cho tha nhân?  Sao-lê sau này trở thành Thánh Phao-lô, đã từng là một ví dụ điển hình về thứ quan niệm tôn giáo lệch lạc này.  Đức Giêsu cũng nói tiên tri rằng: “Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa” (Ga 16,2).

Điều sai lầm của những người Biệt phái ngày xưa có thể vẫn đang tồn tại nơi bản thân chúng ta.  Vẫn có nhiều người Ki-tô hữu đang cố tách rời tình yêu đối với tha nhân ra khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa.  Sự dấn thân trong niềm tin của họ không bao hàm việc dấn thân cho những quyền lợi của tha nhân, cho sự công bằng và hòa bình.

Chúng ta hãy biết mau mắn đáp trả trước lời mời gọi của Đức Giêsu trong sứ điệp của Ngài ngày hôm nay: Tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu đích thực dành cho tha nhân là hai mặt của một đồng tiền.  Mọi cố gắng nhằm tách rời hai điều này, sẽ làm sai lệch sứ điệp của Đức Giêsu.  Thánh Gioan đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).

Văn Chính, SDB chuyển ngữ

MỘT ĐỜI KHÔNG NGỦ

“Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ!”

Trong nội chiến Hoa Kỳ, thế giới biết đến vị tướng ‘huyền thoại’ Stonewall Jackson, “Tường Đá.”  Các sử gia coi Stonewall là một trong những chỉ huy tài năng nhất của lịch sử Mỹ.  Brinsley viết, “Chiến trường là nơi chết chóc; thế nhưng, sẽ thật ngây thơ nếu bảo Stonewall chưa bao giờ cảm thấy sợ hãi trước cái chết.  Tuy nhiên, dưới lửa đạn, sự bình tĩnh của ông thật phi thường, sâu sắc, không thể tin được.  Việc Stonewall coi nhẹ hiểm nguy là một bí ẩn!  Sau trận Manassas, ai đó đã hỏi, làm sao có thể như thế!  Ông trả lời, “Niềm tin vào Chúa làm tôi an lòng; tôi luôn sẵn sàng, Ngài canh thức tôi!”

Kính thưa Anh Chị em,

Nói rằng “Ngài canh thức tôi!”, khác nào nói ‘Ngài không ngủ vì tôi!’; nói rằng “Tôi luôn sẵn sàng!”, khác nào nói, ‘Tôi không ngủ vì Ngài!’  Sẽ rất thú vị, nếu những “canh” Chúa Giêsu đề cập trong Tin Mừng hôm nay là ba giai đoạn ‘không ngủ’ của một cuộc đời, thì cuộc đời theo Chúa Kitô của người môn đệ quả là ‘một đời không ngủ!’

Giữa những ‘canh đời’, chủ có thể bất chợt trở về.  Vì thế, “Các con hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn!”  “Hãy thắt lưng!” nói đến một người với chiếc áo choàng dài, khó khăn trong việc di chuyển; vì vậy, cần buộc chặt lưng để chuẩn bị cho một số hoạt động thể chất.  Với người lính, là chuẩn bị chiến đấu; nghĩa là sẵn sàng cho một khó khăn hoặc thử thách.  “Thắp đèn cho sẵn!” nghĩa là đừng ở trong bóng tối tội lỗi hoặc sự ngu dốt!  Hãy giữ mình sạch tội, khôn ngoan và sẵn sàng làm điều Chúa muốn!

Hành trình nên thánh là một hành trình không bao giờ kết thúc, nhưng liên tục tiến đến chỗ sâu sắc hơn.  Điều này chỉ có thể thực hiện, nếu người môn đệ Kitô biết “thắt lưng” và “thắp đèn cho sẵn” suốt cả cuộc đời; nghĩa là phải liên lỉ chú ý đến ngọn đèn đức tin, và sẵn sàng hành động mỗi khi Thiên Chúa gợi hứng, hầu trong mọi hoàn cảnh, làm sao bạn và tôi vẫn có thể thưa lên “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Ngài!” như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca.  Được như thế, đời môn đệ quả là ‘một đời không ngủ!’

‘Một đời không ngủ’ còn mang một ý nghĩa tuyệt vời khác là sống trong ân sủng Chúa!  Thư Rôma hôm nay cho biết, do một người mà “tội đã nhập vào thế gian”; cũng do một người mà “ân sủng đổ xuống đầy tràn.”  Ai sống trong ân sủng Chúa Kitô, nghĩa là ai tỉnh thức, giữ mình trong trắng, người ấy sống sự sống mới của con cái Thiên Chúa.

Anh Chị em,

“Thật là phúc cho họ!”, nghĩa là phúc cho những tôi tớ ‘không ngủ vì Chúa!’ Như vậy, Kitô hữu, không chỉ được sinh ra trong đức tin, nhưng còn làm điều Chúa muốn trong mọi ‘canh đời’ mình; và ngày càng đào sâu đức tin đó hơn để “Niềm tin vào Chúa làm tôi an lòng.”  Nếu bạn trung thành ở những giai đoạn cuộc đời, hãy tạ ơn Chúa và tiếp tục!  Nhược bằng thiếu đức tin, mất cảnh giác với điều Chúa muốn, bạn hãy thống hối và đặt điều đó trong bàn tay thương xót của Ngài hầu quyết tâm làm tất cả những gì có thể cho đẹp lòng Chúa.  Đừng sợ! ‘Ngài không ngủ vì tôi!’, Ngài thức để bổ sức cho bạn và tôi.  Lời Ngài soi sáng; Thánh Thần Ngài dẫn dắt; và Thánh Thể Ngài nuôi dưỡng!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Đấng không ngủ vì con, cho con dám nói, ‘Con không ngủ vì Chúa’, hầu con có thể làm tất cả những gì Chúa muốn; và điều Chúa muốn là con nên thánh!” Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CHỌN LỰA CƠN BÃO CHO MÌNH

“Chúng ta chỉ sống, chỉ ngạc nhiên, bị nuốt trọn trong ngọn lửa hoặc ngọn lửa.”

T.S. Eliot đã viết dòng này, và gợi ý rằng lựa chọn của chúng ta trong đời này không phải là giữa bình yên và cơn bão, mà là cơn bão này hay cơn bão kia.

Dĩ nhiên ông nói đúng, nhưng đôi khi cần thay đổi phép ẩn dụ này: Chúng ta sống trong một thế giới kẹt giữa hai vị thần rất mạnh và rất khác biệt, là hỗn loạn và trật tự.

Hỗn loạn là thần của lửa, sinh sôi, liều lĩnh, sáng tạo, đổi mới hoặc buông bỏ.  Hỗn loạn là thần của sự hoang dại, đem đến sự hỗn loạn và rối ren.  Hầu hết nghệ sĩ thờ phụng thần này.  Hỗn loạn còn là thần của sự thao thức, bồn chồn và tan rã.  Thật vậy, hỗn loạn hoạt động bằng sự tan rã những gì ổn định.  Hỗn loạn thường được những người người có tâm thức tự do tôn thờ.

Trật tự là thần của nước, của sự thận trọng, thanh tẩy, thường thức, ổn định và bám víu.  Trật tự là thần của quy tắc, thích hệ thống và một mái nhà không dột.  Trật tự thường được những người có tâm thức bảo thủ tôn thờ.  Ít nghệ sĩ hướng về trật tự, nhưng thế giới kinh doanh và giáo hội đã bù đắp quá đủ cho phần này.  Nhìn chung, trật tự là thần của họ.  Trật tự cũng có thể là thần của sự tẻ nhạt, dè dặt và khắt khe.  Với trật tự, ta không bao giờ bị tan rã, nhưng có lẽ sẽ thấy ngột ngạt.  Tuy nhiên, dù không đem lại nhiều sự phấn khích, thần trật tự giữ cho nhiều người được tỉnh trí và sống.

Hỗn loạn và trật tự, lửa và nước, không ưa nhau lắm.  Tuy nhiên, cả hai đều yêu cầu ta phải tôn thờ.  Thật không may, như mọi thần linh phiến diện, cả hai đều muốn chiếm lấy tất cả chúng ta, nhưng nếu chúng ta chịu quy phục như thế thì rất nguy hiểm.

Trung thành với một trong hai một cách tuyệt đối, thường dẫn đến sự tự diệt.  Khi hỗn loạn nắm quyền và không có trật tự kiểm soát, thì sự tan rã về tinh thần và tình cảm sớm bao trùm lên ta một bóng tối thường không thể nào vượt qua nổi.  Và đó chính là ý nghĩa của tan rã.  Ngược lại, khi trật tự hoàn toàn triệt tiêu hỗn loạn, trở nên một nhân đức tự diệt đóng giả làm Thượng đế, thì nó hút cạn sức sống của hân hoan và khả thể.

Tôn thờ chỉ một trong hai là rất nguy hiểm.  Cả hai đều cần thiết.  Linh hồn, giáo hội, đời sống thực tế, cơ cấu xã hội và cả tình yêu đều cần đến sự hòa trộn của cả hai, cả lửa và nước, cả hỗn loạn và trật tự.  Quá nhiều lửa thì sẽ cháy, sẽ tan rã.  Quá nhiều nước và chẳng có gì đổi thay, thì sự nhẫn tâm ngự trị.  Quá nhiều buông bỏ thì sự siêu phàm của tình yêu trở nên rẻ rúng, quá nhiều dè dặt thì tình yêu chỉ còn là thứ khô khan héo hắt.  Không, cả hai đều cần thiết, cả trong đời sống thực tế, trong đời sống tình yêu, trong giáo hội, luân lý, kinh doanh và chính phủ.  Liều lĩnh và thận trọng, nhạc rock và nhạc bình ca, cả hai đều chứa đựng tiếng thì thầm của Thiên Chúa.  Không phải tình cờ mà chúng ta kẹt giữa hai thứ này.

Và đây cũng không có gì là bất ngờ, vì Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa của cả hai, cả lửa và nước, cả hỗn loạn và trật tự, cả tự do và bảo thủ, cả tình yêu trong trắng và hoang đàng.  Thiên Chúa là điểm quy chiếu và cũng là nguyên tắc cho sự đổi mới, tươi mới và hồi sinh.

Thánh Tôma Aquinô từng định nghĩa tâm hồn con người là cấu thành từ hai nguyên tắc, nguyên tắc của sinh lực và nguyên tắc của sự dung hợp.  Một nguyên tắc giữ cho chúng ta sống và nguyên tắc kia giữ chúng ta cố kết.  Hai nguyên tắc này, dù có căng thẳng với nhau, nhưng vô cùng cần đến nhau.  Một tâm hồn lành mạnh giữ cho cho chúng ta có sinh lực, háo hức sống, nhưng một linh hồn lành mạnh cũng giữ cho chúng ta cố kết, biết mình là ai.  Tâm hồn chúng ta cần đem lại cho chúng ta sinh lực và sự toàn vẹn, lửa và keo.

Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu muốn và cần cả trật tự lẫn hỗn loạn.  Tình yêu luôn muốn xây dựng mái ấm, yên ổn, tạo một nơi yên bình, vững vàng và thanh sạch.  Trong chúng ta có khát khao thiên đàng, do đó tình yêu hướng về trật tự.  Nó muốn tránh sự tan rã về tình cảm và tinh thần.  Nhưng tình yêu cũng hướng về sự hỗn loạn.  Trong tình yêu có gì đó muốn buông bỏ, muốn bị chiếm lấy, muốn bỏ đi những giới hạn, muốn cái mới, cái lạ và muốn buông bỏ con người cũ.  Đó là một nguyên tắc mang tính sinh sôi trong tình yêu đã giúp duy trì nhân loại này!

Thiên Chúa của chúng ta tôn vinh cả hỗn loạn và trật tự, chính vì thế, giữ cho cả hai trong thế căng thằng là một điều lành mạnh.  Để được lành mạnh, chúng ta cần đưa cả hai lại với nhau trong lòng mình, và không phải là kiểu đưa hai đảng đến bàn đàm phán, mà là theo kiểu hệ thống cao áp-thấp áp tạo nên một cơn bão.  Sau cơn bão, trời lại sáng.

Trong giông tố, có sự sống và có Thiên Chúa.  Trong giông tố, chúng ta khởi đầu, sự khởi đầu thông việc chìm vào ngọn lửa dữ dội của dục vọng và làn nước ngất ngây của sự quy phục.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

TRUYỀN GIÁO THEO GƯƠNG MẸ TÊRÊSA

Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo.  Ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta quen gọi là Á thánh cũng là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo.  Và Đức Thánh Cha khuyên nhủ chúng ta hãy truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa.  Vậy Mẹ Têrêxa là ai và Mẹ đã truyền giáo như thế nào?

1. CUỘC ĐỜI

Mẹ Têrêxa sinh tại nước Anbani cũ.  Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được sai đi Ấn độ để phục vụ người nghèo.  Khi đến Ấn độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại dương mênh mông những người nghèo đói.  Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nằm la liệt ngoài đường.  Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết, bị vất vào đống rác như một con thú vật.  Xúc động trước cảnh nghèo khổ.  Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.  Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp, đưa những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được chết như một con người.  Rồi mở cửa nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi.  Rồi mở bệnh viện chăm sóc chữa trị những người nghèo khổ.  Rồi mở trường cho trẻ em nghèo đến học.  Công việc càng ngày càng phát triển.  Số người theo giúp Mẹ càng ngày càng đông.  Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái.  Ngoài 3 lời khấn như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người nghèo.  Mẹ được thế giới biết tiếng.  Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa.  Khi Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến nghiêng mình kính cẩn trước thi hài của Mẹ.  Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, thế mà đã nghi thức quốc táng cho Mẹ, đã bắn hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.

2. TRUYỀN GIÁO

Mẹ Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế?  Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương cách sau:

Phương cách thứ nhất: cầu nguyện.  Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động.  Không phải thế.  Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện.  Những giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa.  Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo.  Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện.  Dòng chảy cầu nguyện liên lỷ không bao giờ ngừng.  Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niệm trong hoạt động.

Phương cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa.  Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa.  Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa.  Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta.  Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me.  Đó là 5 từ tóm tắt 25 chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: “Mỗi lần các con làm những việc này cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thày.”

Phương cách thứ ba: yêu mến người nghèo.  Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm tính nhất thời.  Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa.  Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo.  Vì yêu mến người nghèo Mẹ đã tự nguyện sống nghèo.  Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.

Phương cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu.  Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa.  Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường.  Phải phục vụ một cách kính cẩn.  Phải phục vụ bằng tình yêu.

Giữa thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh.  Giữa nước Ấn độ xa lạ với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa, làm cho mọi người yêu mến đạo Chúa.  Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ 20.  Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi.  Lối đi vào thẳng trái tim con người.  Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn.  Ngọn đèn đó chiếu lên ánh sáng niềm tin.  Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến.  Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.

Chúng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu mến Lời Chúa, nhất là biết yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình yêu.  Để mỗi người Công giáo thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa.  Để mỗi người Công giáo là một niềm vui cho những người chung quanh.

Lạy Mẹ Têrêxa, xin cầu cho chúng con.  Amen!

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

THÁNH SỬ LUCA, TÁC GIẢ TIN MỪNG

Theo các nhà Kinh Thánh học, thánh Luca đã hiến cho chúng ta hai tác phẩm: một là cuốn Tin Mừng thứ ba và hai là sách Tông Đồ Công Vụ.

Qua các tông đồ, nhất là Mẹ Maria và thánh Phaolô, thánh Luca đã ghi lại tiểu sử của Chúa Giêsu bằng những nét đặc sắc.  Ngài đã hết lòng ca tụng ơn cứu độ và lòng từ bi của Thiên Chúa.  Qua những truyện như: Người con phung phá, người Samaritanô nhân hậu, ông Giakêu, người trộm lành… chúng ta thấy được phần nào chủ ý của thánh nhân khi ngài muốn trình bày cho chúng ta thấy một cách cụ thể về lòng từ bi của Thiên Chúa.

Tin Mừng thánh Luca cũng là Tin Mừng về đời sống cầu nguyện.  Ngài đặt trước mắt chúng ta gương cầu nguyện của Chúa Giêsu trước khi Chúa chịu phép rửa, trước khi khi chọn môn đệ, trước khi biến hình sáng láng, lúc hấp hối trong vườn Giệtsimani và cả trên thánh giá.

Tin Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức.  Không Tin Mừng nào làm cho chúng ta có thể thấy được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất.. một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn…  Không một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.

Tin mừng của thánh Luca là Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài, có rất nhiều chỗ nói về niềm vui như loan báo tin vui cho Zacharia, truyền tin cho Maria.  Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh…  Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui hân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem.  Ðúng như Harnack đã nói: “Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót.”

Tin Mừng của thánh Luca còn được gọi là Tin Mừng của những người phụ nữ bởi vì không Tin Mừng nào vai trò của người phụ nữ được nhắc tới với một lòng kính trọng như Tin Mừng của thánh Luca.  Những câu chuyện về những người phụ nữ đặc biệt như những chị em phụ nữ đi theo phục vụ Chúa Giêsu và tông đồ đoàn chỉ có thể tìm thấy trong Tin Mừng của thánh Luca.

Sau hết, khi trình bày, thánh Luca như cố ý cho chúng ta thấy những điều kiện cần thiết để tin theo Chúa cũng như để được gia nhập Nước Trời.  Những điều kiện đó là đức tin, lòng khiêm nhường, thống hối, dám chấp nhận những khó khăn, biết sống bác ái và kiên trung trong đau khổ.

Cũng như Tin Mừng, cuốn Tông Đồ Công Vụ của thánh Luca là một bằng chứng sống động về việc Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống truyền giáo của các tông đồ và đời sống của Giáo Hội lúc sơ khai.  Đây cũng là cuốn lịch sử đầu tiên của Giáo hội.  Đọc sách Công vụ chúng ta không thể không cảm thấy một nguồn vui thanh cao và sống động được bùng phát lên từ sự nhận biết Thiên Chúa của các tín hữu đầu tiên, và rồi kết quả sau đó là một cuộc sống được định hướng bằng tình bác ái chân thực, bằng tinh thần hy sinh xả kỷ, cũng như bằng bầu khí cầu nguyện, bằng sự hiệp nhất cao độ, lòng hợp lòng, với một đức tin, và một tình yêu duy nhất để hình thành nên những cộng đoàn thánh thiện giữa các tông đồ và những người tin Chúa của Giáo hội sơ khai.

Mặc dầu lịch sử không cho chúng ta những tài liệu chính xác về gia thế và đời sống của thánh Luca, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng: thánh Luca thuộc gia đình nề nếp và giàu sang tại Antiokia.  Khi còn bé, Ngài được giáo dục chu đáo về cả đức tính, văn hóa và nghề nghiệp.  Ngài theo học các khoa cổ điển của nền văn minh Hy lạp và chuyên nghề lương y.  Từ buổi đầu, thánh Luca vẫn chưa biết Chúa.  Cho đến một ngày kia thánh Phaolô đến Troa giảng đạo Chúa Giêsu.  Luca vào nghe và sau khi suy nghĩ, cân nhắc cẩn thận và nhận thấy giáo thuyết thánh Phaolô giảng rất thâm trầm hợp lý, Ngài liền tin theo.  Ngài chịu phép rửa tội và theo làm môn đệ thánh Phaolô, ngày đêm học hỏi Kinh Thánh và làm thư ký cho thánh Tông đồ.  Quãng năm 49, nghĩa là khi khởi sự truyền giáo lần thứ hai, thánh Phaolô cùng mang thánh Luca đi theo.  Nhưng rồi hai thầy trò lại chia lìa nhau một thời gian.  Có lẽ kỳ này thánh Luca trở về sinh quán làm nghề lương y.  Đến sau hai thầy trò lại gặp nhau tại Philipphê.  Từ đây thánh Luca cùng đi giảng đạo với thánh Phaolô.  Nhưng đến khi thánh Phaolô bị người La Mã bắt cầm tù, thì thánh Luca cũng từ giã đế đô, và chúng ta không biết gì về quãng cuối đời của Ngài nữa.

Đọc Tin Mừng thứ ba và Công vụ tông đồ, chúng ta thấy thánh Luca rất lỗi lạc về văn chương Hy lạp. Ngài quả là một nhà văn học kỳ tài, luôn thay đổi từ ngữ và dùng những danh từ thích hợp với đặc tính văn chương của người Hy lạp thời bấy giờ.  Thánh nhân tỏ ra rất nghệ thuật trong việc bố cục câu chuyện thế nào cho rõ ràng, hấp dẫn, gợi nhiều ý tưởng và tâm tình, chẳng hạn dụ ngôn người con người phung phá và câu chuyện hai người du khách trên đường Emmau phải là hai kiệt tác văn chương, có nhiều giá trị nghệ thuật không kém gì những áng văn hay nhất của người Hy lạp thời ấy.

Hơn thế, thánh Luca còn là một người rất sành tâm lý.  Thánh nhân đã mặc cho mỗi nhân vật trong Tin Mừng cũng như trong các dụ ngôn những tâm tình, cử điệu và lời lẽ phù hợp với địa vị riêng của họ.  Phải chăng nhờ tài nghệ này, thánh Luca đã đề cao đến chữ trọn hảo địa vị Cứu thế của Chúa Giêsu: Chúa nhân lành tự trời đến với loài người lầm than tội lỗi.  Chúa tự hiến mình trên thập giá để tẩy xóa mọi tội trần và thông ban ơn sủng đời sống mới cho các tâm hồn.

Với một sự hiểu biết sâu xa về sứ mệnh Cứu thế của Chúa như vậy, hẳn thánh Luca đã nhiệt thành với nhiệm vụ phổ biến Tin Mừng cứu thế không kém gì thánh Phaolô.  Nhưng Ngài giảng đạo tại đâu và chết như thế nào thì theo một tài liệu tìm thấy ở Constantinople, thánh Luca đã giảng đạo tại Achaie và Beotie.  Và sau cùng làm giám mục thành Thèbes.  Trong bài thực hành cuốn chú giải Tin Mừng thánh Matthêô, Thánh Hiêrônimô nói rõ thánh Luca đã viết Tin Mừng thứ ba tại Achaie và Beotie, sau cùng thánh Gaudence de Brescia quả quyết thánh Luca cùng chịu tử đạo với thánh Andrê tại Patras một tỉnh nhỏ thuộc vùng Achaie.

Ngày nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ.  Ngài cũng là bổn mạng các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu giúp.”

Ngay từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.

Kính xin thánh Luca thánh sử phù trợ cho chúng ta được lòng tin mạnh mẽ và hăng hái như người để chúng ta đem tin lành cứu độ đến cho những người còn chưa nhận biết Chúa.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

MƯỜI BÀI HỌC THIÊNG LIÊNG TỪ THÁNH TÊRÊSA AVILA

Chỉ trong hai tuần mà Lịch Phụng vụ tách biệt hai vị thánh kỳ diệu, truyền cảm và đáng yêu nhất, những người thực sự yêu thương chúng ta và muốn chúng ta yêu mến họ: Thánh Têrêsa thành Lisieux và Thánh Têrêxa Avila.

Thánh Têrêsa thành Lisieux chúng ta mừng kính vào ngày 1 tháng 10; Thánh Têrêxa Avila chúng ta mừng kính vào ngày 15 tháng Mười.  Họ có đặc điểm gì chung?  Cả hai đều là phụ nữ, cả hai đều thuộc số ít nữ Tiến sĩ của Hội Thánh, đều là những nhà chiêm niệm tuyệt vời, đều là nữ tu Dòng Cát Minh, nhưng quan trọng nhất là cả hai đều đã, đang và sẽ mãi mãi là những người yêu vĩ đại của Thiên Chúa chúng ta và Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ.

Trong bài viết ngắn này, chúng tôi muốn tri ân Thánh Têrêxa Avila và nêu bật mười đóng góp to lớn của thánh nữ cho Giáo hội Công giáo và đối với chúng tôi như một mẫu gương về sự thánh thiện, mà tất cả chúng ta đều được kêu gọi đạt tới.  Hãy nhớ lại những lời của Chúa chúng ta và Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ trong bối cảnh của Bài Giảng Trên Núi: “Hãy nên thánh như Cha anh em trên trời là Đấng thánh.” (Mt. 5:48)

Trở nên thánh thiện, đạt đến sự thánh thiện của cuộc sống, thì không phải là điều kiện, ước muốn cũng không phải là điều mà chỉ một nhóm tuyển chọn được kêu gọi, mà là tất cả.  Thánh Têrêxa thành Calcutta thách thức chúng ta bằng những lời đánh động này: “Sự thánh thiện không phải là đặc ân của một số ít, nhưng là bổn phận của tất cả mọi người.”  Bây giờ chúng ta hãy nhìn lên thánh Têrêsa Avila, người sẽ hướng chúng ta đến với Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ và Người Bạn Trung Thành.

1. Cầu nguyện

Một trong những điểm nổi bật chính đời sống thiêng liêng của Thánh Têrêsa thành Avila là tầm quan trọng của việc cầu nguyện.  Mặc dù thánh nữ đã đấu tranh trong nhiều năm, thánh nữ vẫn dạy chúng ta điều căn bản này nhưng không thể thiếu trong đời sống thiêng liêng – Sự kiên trì cầu nguyện!  Hãy suy ngẫm về những lời khôn ngoan bất hủ của thánh nữ và ghi nhớ: “Chúng ta phải có một quyết tâm kiên định để không bao giờ từ bỏ cầu nguyện.”

Chúa Giêsu đã dạy chúng ta điều cực kỳ quan trọng này trong Dụ ngôn Bà Goá và Thẩm phán.  Người góa phụ này, nhờ sự kiên trì và ngoan cường của mình cuối cùng đã nhận được sự trợ giúp của vị Thẩm phán lạnh lùng này (Lc 18: 1-8).  Thánh Têrêxa nhấn mạnh rằng chúng ta không bao giờ được bỏ cầu nguyện.  Nếu bạn thích một phép loại suy: không khí đến phổi thì lời cầu nguyện đến với linh hồn.  Phổi khỏe mạnh cần không khí liên tục và trong lành; linh hồn khỏe mạnh phải thường xuyên hít thở bằng lời cầu nguyện – oxy của linh hồn.

2. Định nghĩa cầu nguyện

Thánh Thomas Aquinas cho chúng ta lời khuyên đơn giản nhưng rất chắc chắn: hãy xác định chủ đề trước khi bắt đầu nói về nó.  Bằng cách này, bạn có thể tránh được nhiều nhầm lẫn.  Thánh Têrêa Avila cho chúng ta một trong những định nghĩa cổ điển về cầu nguyện trong lịch sử Công giáo.  “Cầu nguyện không gì khác hơn là dành nhiều thời gian ở một mình với người yêu tôi.”

Một bản tóm tắt ngắn gọn phải không?  Hai người bạn yêu nhau!  Chính Chúa Giêsu đã gọi các tông đồ là bạn – vì vậy, bạn cũng được kêu gọi làm bạn với Chúa Giêsu!

3. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu

Thánh Têrêsa cho chúng ta một gợi ý để phát triển đời sống cầu nguyện!  Thánh nữ Tiến sĩ Hội Thánh nói rằng thánh nữ đã nhận được nhiều ân sủng khi suy gẫm về nhân tính của Chúa Giêsu.  Bằng cách dành thời gian cho Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người và kết hợp với Ngài là một con đường chắc chắn để thăng tiến trong đời sống cầu nguyện.  Thử xem!

Thánh Inhaxiô thành Loyola, trong phương pháp Linh Thao nhấn mạnh việc cầu xin ân sủng này: “Sự hiểu biết sâu sắc về Chúa Giêsu rằng chúng ta yêu mến Ngài nhiều hơn và theo sát Ngài hơn.”

4. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu trong những đau khổ của Ngài

Dường như là một mẫu số chung trong nhiều vị thánh – lời kêu gọi chiêm ngắm tình yêu của Chúa Giêsu qua cuộc Khổ Nạn của Ngài – Padre Pio, thánh Catarina thành Siena, thánh Faustina và Têrêsa thành Avila.  Đối với thánh Têrêsa, thánh nữ đã có một trải nghiệm thần bí về Chúa Giêsu Khổ Nạn; thánh nữ đã nhìn thấy Chúa Giêsu với ánh hào quang trên đầu và điều này đã khiến thánh nữ có một tình yêu tuyệt đối dành cho Chúa Giêsu.

5. Chúa Thánh Thần: Vị Thầy thiêng liêng trong cầu nguyện

Trong một lần, thánh nữ gặp khó khăn trong cầu nguyện và thánh nữ đã nói chuyện với một linh mục Dòng Tên để xin lời khuyên về cách vượt qua khó khăn trong cầu nguyện.  Lời khuyên của vị linh mục rất đơn giản và  trọng tâm, nhưng đã thay đổi cuộc đời thánh nữ!  Linh mục nhấn mạnh đến việc cầu xin Chúa Thánh Thần.  Từ thời điểm đó, theo lời khuyên tuyệt vời này là cậy dựa vào Chúa Thánh Thần, đời sống cầu nguyện của Têrêsa được cải thiện rõ rệt.

Thư thánh Phaolô gởi cho tín hữu Rôma nhắc lại cùng một điểm: “Cũng vậy, Thánh Linh cũng đến trợ giúp sự yếu đuối của chúng ta; vì chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào, nhưng chính Thánh Linh cầu thay bằng những tiếng rên rỉ không tả.” (Rôma 8:26).  Hãy để chúng ta được dẫn dắt bởi vị thầy tốt nhất, bậc thầy nội tâm của cầu nguyện, Chúa Thánh Thần.

6. Hướng dẫn thiêng liêng

Để đạt được sự phát triển không ngừng trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải có một số hình thức hướng dẫn thiêng liêng.  Sự mù quáng về đời sống thiêng liêng, tất cả chúng ta đều trải qua.  Ma quỷ có thể trá hình hoặc ngụy trang thành một thiên thần ánh sáng.  Và chúng ta càng lên cao trong đời sống thiêng liêng thì những thủ đoạn và sự dụ dỗ của ma quỷ càng tinh vi hơn – “kẻ đang tìm kiếm chúng ta, một con sư tử gầm thét sẵn sàng ăn tươi nuốt sống chúng ta” (1 Pr 5: 8-9).

Trong suốt cuộc đời của mình, Thánh Têrêxa Avila đã nhờ đến một số vị linh hướng và một số trong số này đã được phong thánh: Thánh Gioan Thánh Giá (Carmelite), Thánh Phanxicô Borgia (Dòng Tên), Thánh Phêrô thành Alcantara (Phan sinh), và cuối cùng, Jerome Gracian – một học giả và nhà thần học nổi tiếng dòng ĐaMinh.  Đúng vậy, tất cả chúng ta không thể có ba vị thánh và một nhà thần học ĐaMinh lỗi lạc hướng dẫn chúng ta, nhưng tất cả chúng ta có thể và phải tìm ra một số hình thức đồng hành thiêng liêng định kỳ.  Thánh Gioan Thánh Giá nói thẳng: “Ai là người hướng dẫn chính mình thì có một môn đồ ngốc nghếch.”  Chiến thắng!

7. Hoán cải và đổi mới

Một điểm nổi bật chính trong cuộc đời của Thánh Têrêsa thành Avila là toàn bộ khái niệm về sự hoán cải hoặc đổi mới.  Với Thánh Gioan Thánh Giá, thánh nữ là khí cụ chính mà Thiên Chúa chọn để cải tổ Dòng Cát Minh.  Tuy nhiên, Têrêsa nhận thức sâu sắc sự thật này: để hoán cải người khác, chúng ta phải bắt đầu từ chính bản thân mình – điều này thánh nữ ấy đã thực hiện trong suốt cuộc đời trần thế của mình.

Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi rao giảng là: “Hãy hoán cải vì Nước Trời đã gần đến” (Mc.1, 15).  Xin cho chúng ta không ngừng nỗ lực hoán cải tận đáy lòng qua lời cầu bầu của Thánh Têrêxa Avila.

8. Những kiệt tác Tâm Linh – Những tác phẩm của thánh nữ

Không nghi ngờ gì nữa, một trong những đóng góp lớn cho Giáo hội cũng như cho thế giới nói chung là những tác phẩm hoặc kiệt tác Tâm Linh của thánh Têrêsa Avila.  Một trong những chủ đề cơ bản của thánh nữ là tầm quan trọng của việc cầu nguyện, và cố gắng ngày càng sâu hơn trong việc cầu nguyện cho đến khi một người đạt đến sự kết hợp mật thiết của người phối ngẫu, với Chúa Giêsu phối ngẫu trên trời.

Bất kỳ ai coi trọng đời sống cầu nguyện của mình nên biết về các tác phẩm của Têrêsa và dành thời gian đọc một số tác phẩm được chọn của thánh nữ.  Những tác phẩm kinh điển của thánh nữ là gì?  Đó là: “Cuộc đời của thánh nữ”, “Con đường của sự hoàn thiện,” “Lâu đài nội tâm,” “Nền tảng.”  Ngoài những sách này, thánh nữ còn viết nhiều bức thư đầy truyền cảm.  Muốn trở thành một vị thánh không?  Đọc và nghiền ngẫm từ các bài viết của các thánh, đặc biệt là các Tiến sĩ của Giáo hội!

9. Thánh giá như cầu dẫn đến Thiên đàng

Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác Thập giá mình mà theo Ta.”  Một mẫu số chung khác trong cuộc đời của các thánh là thực tại của thập giá.  Thánh Louis de Montfort chúc lành cho bạn bè của mình như vậy: “Cầu Chúa phù hộ cho bạn và ban cho bạn nhiều cây Thánh giá nhỏ!”

Thánh Têrêsa đã sống với một người bạn thường xuyên – thập giá của Chúa Giêsu.  Sức khỏe của thánh nữ luôn rất yếu ớt; Thánh nữ gần như chết khi còn rất trẻ.  Hơn nữa, để thánh Têrêxa Avila thực hiện Cải cách Dòng Cát Minh, thánh nữ đã phải chịu các cuộc tấn công và bắt bớ liên tục từ nhiều nữ tu trong tu viện, những người ưa thích một lối sống thoải mái hơn, từ các linh mục (Carmelites), và từ các thành viên giáo hội khác.  Thay vì thất vọng và nản lòng, thánh nữ  vui vẻ tin cậy nơi Chúa hơn nữa – dù sao, đó là việc của Ngài.

10. Đức Mẹ và Thánh Giuse

Trong suốt đời tu của mình, thánh Têrêxa Avila yêu mến Đức Trinh Nữ Maria – như điều thường thấy trong cuộc đời của các thánh, và hy vọng cuộc sống của bạn!  Danh hiệu của lòng sùng kính Đức Mẹ cụ thể của thánh nữ là Đức Mẹ Núi Carmel.  Đừng bao giờ quên, trong tình yêu của bạn dành cho Đức Mẹ, hãy đeo vòng đeo đầu của Đức Mẹ Núi Carmêl.  Đây là dấu hiệu bên ngoài của sự dâng mình cho Mẹ Maria.

Hơn nữa, Thánh Têrêxa Avila đã nuôi dưỡng một tình yêu dịu dàng và hiếu thảo đối với Thánh Giuse.  Thánh nữ cho rằng sự bình phục của thánh nữ sau một căn bệnh gần như kết thúc cuộc đời thánh nữ là nhờ sự cầu bầu mạnh mẽ của Thánh Giuse.  Ngoài ra, mỗi tu viện mới thành lập, thánh nữ đều đặt tên là San Jose – Thánh Giuse!

Tóm lại, cầu mong thánh nữ Tiến sĩ Giáo hội – Tiến sĩ cầu nguyện – Thánh Têrêxa Avila, là nguồn cảm hứng không ngừng cho bạn trong cuộc hành hương thiêng liêng về Nước Trời.  Mong thánh nữ khuyến khích bạn cầu nguyện nhiều hơn và sâu hơn, đạt đến sự hoán cải sâu sắc hơn trong tâm hồn, và cuối cùng yêu mến Chúa Giêsu là chính trung tâm và nguồn cuộc sống của bạn!

Fr. Ed Broom, OMV
Nguồn: https://catholicexchange.com

LỜI MỜI VÀ SỰ ĐÁP TRẢ

Sau khi đã dùng ba chuyện dụ ngôn đều xoay quanh hình ảnh vườn nho để giáo huấn về Nước Trời, Chúa Giê-su tiếp tục nói với chúng ta về Nước Trời với một lối so sánh khác, đó là tiệc cưới.  Trong bất kỳ nền văn hóa nào, tiệc cưới là một biến cố hân hoan vui mừng, không chỉ cho đôi tân hôn, mà còn cho cả họ hàng đôi bên và cả dân làng.  Tin Mừng hôm nay không phải là lần duy nhất Chúa Giê-su nói về tiệc cưới.  Chúng ta có thể thấy hình ảnh này trong Mt 9,15 (nói về khách dự tiệc cưới không thể buồn sầu và ăn chay), rồi trong Mt 25,1 (dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể).  Trong Tân ước, chúng ta còn thấy hình ảnh tiệc cưới trong Ga 3,29; Kh 21,2; Ep 5,22.  Một cách tổng quát, hình ảnh chàng rể được hiểu là chính Chúa Giê-su.  Người là tân lang của Giáo Hội.

Nếu Chúa Giê-su là chú rể, thì chủ tiệc là Chúa Cha.  Chúa Cha luôn quảng đại rộng rãi.  Ngài mời gọi con người đón nhận Đức Giê-su là Con Một Ngài nhập thể làm người.  Có những người được mời trân trọng từ ban đầu, nhưng lại coi nhẹ lời mời này, và kiếm cớ khước từ.  Những lý do khước từ là mới mua nông trại, mới cưới vợ, đang mải buôn bán.  Những người được mời đầu tiên có thể được hiểu là người Do Thái.  Họ là dân của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với ông Áp-ra-ham Tổ phụ.  Họ là những người được ưu tiên lắng nghe Lời Thiên Chúa.  Tuy vậy, nhiều người trong họ đã khước từ lời mời gọi của Chúa Giê-su.  Đương nhiên, có nhiều người Do Thái tin vào Chúa Giê-su và đi theo Người.  Hình ảnh những người được mời trước hết, cũng có thể hiểu là con người của mọi thời đại và có thể là chính chúng ta.  Bởi lẽ lời mời gọi của Chúa Giê-su trong Phúc âm luôn mang tính hiện tại.  Có những khi chúng ta khước từ lời mời gọi của Chúa vì những lý do nhỏ nhặt và trần tục, giống như những người được mời trong Phúc âm.

Dù có nhận lời mời hay không.  Dù được mời sớm hay mời muộn, tất cả cuối cùng cũng phải có mặt trong phòng tiệc.  Đó là ngày cánh chung.  Ngày Đức Giê-su sẽ đến một cách hữu hình lần thứ hai để phán xét kẻ sống và kẻ chết.  Mọi người sẽ phải trình diện trước Thánh Nhan, để chịu phán xét.  Người lành được ban thưởng, kẻ dữ phải trầm luân.  Đức Giê-su dùng nhiều hình ảnh để diễn tả ngày phán xét: đó là chiếc lưới thả xuống biển thu được cả cá xấu và cá tốt, hay mùa gặt lượm về cả lúa và cỏ lùng.  Nếu được thu hoạch cùng lúc, thì định mệnh và tương lai của cá xấu và cỏ lùng lại hoàn toàn khác biệt với cá tốt và thóc lúa.

Ngày cánh chung ấy được ngôn sứ Isaia diễn tả trong Bài đọc I: “Ngày ấy, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc.”  Lại là bữa tiệc, nhưng đây là bữa tiệc vĩnh cửu.  Đó là ngày Thiên Chúa can thiệp, vào lúc tận cùng thời gian.  Thiên Chúa sẽ cất đi chiếc khăn tang, nghĩa là không còn chết chóc đau thương, nhưng là niềm vui bất tận.

Dù mọi người qua đường đều được mời vào phòng tiệc, nhưng không phải ai cũng được dự tiệc.  Ông chủ trong dụ ngôn xem ra có vẻ kỳ lạ: ông sai người ra đường ép người ta vào cho đầy nhà, rồi lại hạch sách là sao không mặc áo cưới.  Người không mặc áo cưới đã phải chịu số phận thảm khốc, đó là bị trói chân tay và ném ra chỗ tối tăm.  Những gì được chính Chúa Giê-su diễn tả cho thấy hình ảnh của hoả ngục: nơi tối tăm và đầy tiếng khóc lóc nghiến răng.  Để giải thích thái độ của ông chủ, một số nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng theo phong tục tập quán thời bấy giờ, ở cửa phòng tiệc thường có ban lễ tân phân phát miễn phí áo cưới cho khách dự tiệc.  Có thể vị khách này đã coi thường tập tục, hoặc bất cẩn mà nên như vậy.

Thiên Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta đến dự tiệc cưới, mà chàng rể chính là Chúa Giê-su.  Sống trong Giáo Hội, chúng ta được hưởng niềm vui, vì được gặp gỡ Chúa Giê-su, được kết hợp với Người, mật thiết như bạn bè, thậm chí như tình nhân.  Quả vậy, Chúa Giêsu là Bạn tâm phúc của tâm hồn chúng ta.  Lòng yêu mến sẽ gắn bó cá nhân mỗi chúng ta với Người.

“Nước Trời giống như…”  Khi nói về Nước Trời, Chúa Giê-su luôn dùng lối so sánh.  Vì Nước Trời là một thực tại cao siêu, một phạm trù vô hình, chúng ta không thể hiểu nổi.  Tin theo Chúa Giê-su là gia nhập Nước Trời.  Nước Trời đã khai mở ở trần gian nhưng chưa đạt tới mức hoàn thành.  Chúng ta cần phải cầu nguyện hằng ngày: xin cho Nước Cha trị đến, đồng thời nỗ lực cố gắng làm cho Vương quốc bình an của Đức Giê-su hiện hữu nơi cuộc đời.  Có thể chúng ta lập luận: “Khó quá! Làm sao tôi có thể cộng tác mở rộng Nước Trời.”  Thánh Phao-lô khích lệ chúng ta trong Bài đọc II: Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết những gian nan khốn khó.  Thánh nhân khuyên chúng ta hãy tín thác vào quyền năng Thiên Chúa, nơi Ngài, điều không thể sẽ trở thành điều có thể.  Như thế, sống tốt lành và ngay thẳng như Chúa Giê-su dạy, đó là đón nhận Nước Trời; loan báo và làm lan toả tình thương, đó là rao giảng Nước Trời.

Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta hãy đáp lời.  Đừng do dự, vì có Chúa là Mục tử dẫn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Đáp Ca).  Chiếc “áo cưới” mà chúng ta mặc để đi dự tiệc, chính là Chúa Giê-su.  Lời nhắn nhủ của Linh mục chủ sự Bí tích Thanh Tẩy nói với chúng ta: Hãy mặc lấy Chúa Ki-tô – Mặc lấy con người mới” (x. Ep 4,24).

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

CHỌN PHẦN TỐT NHẤT

“Maria đã chọn phần tốt nhất!”

“Khu rừng sẽ rất im ắng nếu không có con chim nào hót ở đó, ngoại trừ những con chim hót hay nhất!” – Henry Van Dyke.

Kính thưa Anh Chị em,

Như “những con chim hót hay nhất” không làm cho khu rừng mất im ắng, thì Giôna đã cất ‘tiếng hót ăn năn’; Matta cất tiếng hót ‘nhiệt thành’; và Maria, cất tiếng hót ‘chiêm ngắm’ hay nhất… nhưng vẫn giữ cho khu rừng Lời Chúa hôm nay linh thiêng im ắng!  Đặc biệt Maria, người được Chúa Giêsu khen ngợi, “Maria đã chọn phần tốt nhất!”

Giôna, không chỉ là con người của bất tuân, nhưng còn là con người của sám hối; Matta, con người của bận rộn, nhưng là con người làm Chúa vui lòng; và nhất là, Maria, con người của chiêm ngắm, còn là con người đã ‘chọn phần tốt nhất.’  Mọi Kitô hữu được gọi để sống ba nhân đức này.  Cả khi cuộc sống tràn ngập đủ thứ công việc, bạn và tôi vẫn thường xuyên được mời gọi để ‘trở về,’ ‘làm Chúa vui lòng’ và ‘chọn phần tốt nhất!’

Trước hết, Giôna!  Chúa gọi ông lần thứ hai sau khi cá ‘hóc’ ông lên bờ.  Từ vực thẳm tanh tưởi như một quãng lặng trong bụng cá, Giôna bất động, nhầy nhụa, tối tăm; ở đó, ông trải nghiệm tình yêu của Thiên Chúa.  Kẻ nổi loạn được cứu; thân xác được chữa lành; và linh hồn được thứ tha.  Giôna không chỉ bị ném cho thuỷ thần nhưng còn được quăng vào đại dương từ ái của Thiên Chúa.  Quờ quạng trên bờ cát, ông hiểu thế nào bất tuân, trốn chạy!  Vì vậy, dẫu đang loi ngoi, nhơ nhớp, Giôna vẫn nghe rõ tiếng Ngài.  Lần này, ông mềm mỏng; đứng dậy và làm theo.  Nhờ ông, Ninivê sám hối, được thứ tha.  Như vậy, trước khi Ninivê ăn năn, Giôna đã hết lòng sám hối.  Thánh Vịnh đáp ca thật sâu lắng, “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?”

Thứ đến, Matta!  Ngày sống của chúng ta đan quyện bởi những công việc; làm ăn, dạy dỗ, giải trí và chăm sóc người khác…  Chúng ta được tạo dựng để làm việc cho đến suốt đời; nhưng làm gì và làm thế nào để Thiên Chúa vui lòng mới là điều quan trọng!  Làm sao bạn và tôi luôn ‘chọn phần tốt nhất’ hầu làm vinh danh Ngài nhất!

Sau cùng, tuyệt vời hơn cả, Maria!  Trước khi là con người chiêm ngắm, Maria là con người lắng nghe.  Lắng nghe và chiêm ngắm là điều cần làm trước nhất nếu chúng ta muốn hoàn thành tốt đẹp bất cứ điều gì.  Trong cuốn Tennyson’s Morte d’Arthur, vua Arthur nói với Sir Bedivere rằng, “Nhiều điều được tạo ra bởi lời cầu nguyện hơn là tất cả những gì mà thế giới mơ ước!”  Người chiêm ngắm là người đã ‘chọn phần tốt nhất!’

Anh Chị em,

“Maria đã chọn phần tốt nhất!”  Lắng nghe, chiêm ngắm là phần quý nhất!  Chỉ khi cầu nguyện, chiêm ngắm, con người mới thực sự vĩ đại trước mặt Thiên Chúa; và cũng chỉ khi chiêm ngắm, cầu nguyện con người thực sự là những con chim hót hay nhất, ngợi ca Thiên Chúa thay cho cả thế giới vốn là một khu rừng không bao giờ im ắng.  Chúa Giêsu đã sống gắn bó với Chúa Cha, làm vui lòng Cha, và hoàn toàn vâng phục ý Cha.  Hãy chiêm ngắm Ngài, hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày, bạn và tôi sẽ làm mọi việc hết tình và hết mình cho vinh quang Chúa!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết sám hối như Giôna, nhiệt tâm như Matta và biết ở lại với Chúa như Maria.  Và như thế, con có thể là một trong những con chim hót hay nhất!’”, Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế