CÁC THÁNH NAM NỮ: HỌ LÀ AI VẬY?

zzCó một số người, đặc biệt là những anh chị em Kitô hữu thuộc các giáo phái trong giáo hội Tin Lành (Protestant Church), thường hay thắc mắc: “Các thánh nam nữ, họ là ai?” và “Trong lịch Phụng Vụ của GH Công Giáo, hầu như trong thánh lễ Misa nào cũng có mừng kính thánh này, thánh kia, có ngày có tới 5, 6 thánh, vậy tại sao mà người Công Giáo lại còn có thêm một ngày lễ gọi là lễ Các Thánh và lại mừng kính một cách trọng thể như vậy?”

Các thánh nam nữ, họ là ai?  Kinh Thánh đưa ra cho chúng ta những lời giải thích rất rõ ràng:

  1. Các thánh là một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ (Kh 7:9), các ngài đang được diện kiến Thánh Nhan Thiên Chúa và đang được cùng với Đức Maria và với các thiên thần hát khen, ngợi ca và tận hưởng vinh phúc trên Thiên Đàng.
  2. Các thánh là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao.  Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên (Kh 7:14).  Các ngài là những người đã từng có những kinh nghiệm của yếu đuối, sa ngã, và tội lỗi… nhưng họ đã ăn năn, quyết tâm hối cải, tin tưởng vào sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa, đã đứng lên và trung thành đi theo Chúa cho đến cùng.
  3. Các thánh là những người đã cố gắng sống và tuân giữ bản HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI mà Chúa Giêsu đã đưa ra trên núi khi xưa (Mt 5:1-12).
  • Các ngài là những người có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, đã từng trải qua những nỗi sầu khổ và đã khát khao nên người công chính: Thánh Anthony Viện Phụ, Benedict, Cecilia, Maria Goretti, Martin De Porret, Monica, Gioan Thánh Giá, Têrêsa Avila…
  • Các ngài là những người đã biết xót thương người khác, có tâm hồn trong sạch và là những người nỗ lực kiến tạo và xây dựng hoà bìnhThánh Martin De Tour, Damien Cùi, Ignatius, John Vienanay, Dominic Savior, Maria Magareta, Faustina…
  • Các ngài là những người bị bách hại vì sống công chính, đã bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa, bị sỉ nhục và chịu chết vì danh Chúa Giêsu Kitô:  Các thánh Tông Đồ, Cosma, Damiano, các thánh Tử Đạo Việt Nam, Đại Hàn, Trung Hoa, Philippine …

Tại sao Giáo Hội Công Giáo lại có thêm ngày lễ mừng Kính Các Thánh Nam Nữ?  Theo thiển ý của tôi, sở dĩ có ngày lễ mừng kính Các Thánh Nam Nữ là bởi vì:

  • Mẹ Giáo Hội muốn nhắc nhở cho con cái biết rằng có một sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba thành phần trong Giáo Hội: Giáo Hội Lữ Hành, Giáo Hội Đền Bù & Giáo Hội Chiến Thắng.   Nói cách khác, có một mối liên hệ thiêng liêng hỗ tương giữa những người còn đang sống ở trên dương thế này với những linh hồn đang chịu thanh luyện trong Luyện Tội và với các thánh đang hưởng vinh phúc trên Thiên Đàng (GLTYGHCG # 195 & Lumen Gentium # 49)
  • Trong danh sách những vị được Giáo Hội phong hiển thánh con số đã lên tới hơn mười ngàn vị, mà mỗi một năm chỉ có 365 ngày, cho nên không thể nào mừng kính tất cả các thánh từng ngày trong suốt năm được.
  • Và còn có rất nhiều các vị thánh tử đạo ở khắp mọi nơi trên thế giới, bên Trung Quốc, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản, Hàn Quốc… chưa được Giáo Hội ghi tên vào sổ bộ các Thánh, cho nên mừng tất cả các thánh vào ngày 1/11 là trọn nghĩa trọn tình nhất.

Bạn thân mến, mừng kính lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng mình cần phải làm gì để cho ngày lễ này mang lại nhiều ý nghĩa đây?  Tôi nghĩ, trước tiên tôi và bạn phải có niềm ao ước mãnh liệt rằng, sau này tôi cũng sẽ được cùng với các thánh nam nữ chung hưởng hạnh phúc trên Thiên Quốc.  Và kế đến, tôi xin bạn hãy chú ý đến những vấn đề sau đây:

Thứ nhất là bạn và tôi phải cẩn trọng trong việc cầu nguyện, và trong những việc sùng kính Đức Mẹ và các thánh.  Tại sao phải cẩn trọng?  Là bởi vì đã có nhiều người hiểu lầm là người Công Giáo tôn thờ Đức Mẹ và các thánh

  • Khi cầu nguyện, bạn và tôi phải nhớ là chúng mình phải cầu nguyện VỚI CHÚA, chứ không phải là cầu với Đức Mẹ hay với các thánh.   Bất cứ khi nào cầu nguyện với Chúa, dù là nơi công cộng hay riêng tư, thì bạn hãy mở đầu, hoặc là kết thúc lời cầu nguyện của bạn, đại khái như thế này: “… nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, (hoặc của thánh quan thầy, Giuse, Đaminh, Phanxicô….) xin Chúa ban cho chúng con ơn bình an, khoẻ mạnh, thánh thiện, khiêm nhường…”
  • Trên bàn thờ của gia đình, bạn hãy đặt tượng chịu nạn, hoặc ảnh của Chúa Giêsu ở trên nơi cao nhất, rồi ở dưới mới là ảnh của Đức Mẹ hay của các thánh.   Đức Mẹ và các thánh không có buồn khi được xếp bên dưới ảnh tượng của Chúa Giêsu đâu!  Đừng có lo!

Thứ hai, hãy mua cho con cái và cho chính bạn những cuốn phim DVD, hoặc những cuốn truyện nói cuộc đời của các thánh, nhất là vị thánh quan thầy của mình, và những vị quan thầy của con cái.   Qua những cuốn phim, qua những cuốn sách kể về cuộc đời các ngài, bạn và tôi mới biết được những khó khăn, thử thách, cám dỗ và gian khổ mà các ngài đã phải chịu đựng và đã phải chiến đấu để vượt qua… nhờ đó bản thân mình, và con cái mình mới cố gắng noi gương, học hỏi đức hy sinh, chịu đựng, và mới cảm thấy gần gũi để xin các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng mình.

Thứ ba, là vấn đề chọn tên thánh cho con cháu.  Người Công Giáo có thói quen chọn một vị thánh quan thầy trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức.  Vì thế cho nên trước khi chọn tên một vị thánh cho con cháu, bạn hãy chịu khó đọc và tìm hiểu cho kỹ về tiểu sử, về cuộc đời cũng như về sự nghiệp của vị thánh ấy.  Và bạn phải nhớ cho thật kỹ!  Marilyn Monroe, Jenifer Lopez, Michael Jackson, Tom Cruise, Catherine Zeta-Jones… không ai trong số họ là THÁNH cả!  Đừng có lấy những tên này để đặt cho con cho cháu, sau này khi lớn lên, chúng nó bắt chước lối sống và kiểu cách của những nhân vật này thì… phiền lắm đấy!

Ước chi mỗi người trong chúng ta luôn luôn sống như các thánh nam nữ, biết chỗi dậy khi bị sa ngã và biết quyết tâm, cậy dựa vào ơn của Chúa cũng như vào sự trợ lực của các bí tích, đặc biệt là bí tích Giải Tội và bí tích Thánh Thể, để nhờ vậy chúng mình mới có đủ sức để chống trả lại những thế lực và những cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.

Nếu tôi và bạn noi gương các thánh nam nữ, can đảm đứng lên sau khi sa ngã, cậy trông và tin tưởng vào lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa, và trung thành với Ngài cho đến cùng, thì chắc chắn là trong ngày sau hết, chúng mình sẽ được tận hưởng thánh nhan của Thiên Chúa, và sẽ được cùng với các ngài chung hưởng phúc, vui vẻ đời đời chẳng cùng.  Amen!

Lm Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

13 CẢNH BÁO CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ MA QUỶ

zz“Ma quỷ đang ở quanh ta … trong thế kỷ 21 này!” – ĐGH Phanxicô

Luận điệu gian xảo nhất của Satan là đang thuyết phục con người tin rằng hắn không còn tồn tại trong thế kỷ này?

ĐGH Phanxicô không ngạc nhiên trước luận điệu đó.

Bắt đầu từ bài giảng đầu tiên sau khi nhậm chức Giám mục Roma, ĐGH Phanxicô luôn nhắc nhở các tín hữu rằng ma quỷ là thực hữu và chúng ta luôn phải cảnh giác với chúng, và niềm hy vọng duy nhất cho chúng ta có thể chống lại ma quỷ là Đức Giê-su Ki-tô.

Dưới đây là 13 câu trích dẫn từ những bài giảng của ĐGH về vấn đề này.

1) “Khi một người không tuyên xưng Đức Ki-tô, người đó sẽ tuyên xưng sự trần tục của ma quỷ.”

Bài giảng đầu tiên, 14/03/2013

2) “Ông Hoàng của thế giới ngày nay là Satan rất ghét sự thánh thiêng, hắn không muốn con người bước theo Đức Ki-tô.  Có thể có người sẽ nói: “Nhưng thưa Cha, cách Cha nói về ma quỷ đã quá lỗi thời trong thế kỷ 21 này!” Nhưng các bạn hãy cảnh giác vì ma quỷ vẫn đang hiện hữu!  Ma quỷ đang ở trong thế giới này… ngay trong thế kỷ 21 này!  Và chúng ta đừng thờ ơ nữa.  Hãy học trong Thánh Kinh cách chiến đấu chống lại với Satan.”

Bài giảng ngày 10/04/2014

3) “[Ma quỷ] đang tấn công dữ dội vào các gia đình, là nơi ma quỷ không muốn tình yêu được thể hiện và chúng đang tìm cách để phá hủy tình yêu.  […] Nguyện xin Thiên Chúa ban phúc lành cho mọi gia đình.  Xin Người ban sức mạnh cho các gia đình trong cơn khủng hoảng này, cơn khủng hoảng mà ma quỷ đã tạo ra để phá hủy nền tảng gia đình.”

Bài giảng ngày 01/06/2014

4) “Đã quá đủ khi báo chí đầy dẫy những tin tức tội ác và chúng ta thấy được sự hiện hữu của tội lỗi, của ma quỷ vây quanh ta.  Chúng đang hoạt động tích cực.  Nhưng Ta muốn cất cao giọng tuyên tín rằng “Thiên Chúa là sức mạnh vô song.” Vậy các bạn có tin điều đó không, rằng Thiên Chúa có quyền uy trên tất cả?”

Triều yết chung, 12/06/2013

5) “Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa đoái thương đến chúng ta trong những cơn sóng gió này.  Người đã đến thế gian để chiến đấu cứu rỗi chúng ta.  Người đã chiến thắng bóng tối ma quỷ!  Xin hãy đừng tiếp tay cho ma quỷ!  Người đang tìm những con chiên lạc, Người bảo vệ che chở chúng ta … Đừng thờ ơ nữa, hãy luôn cảnh giác!  Và hãy luôn ở trong Đức Ki-tô!”

Bài giảng ngày 08/11/2013

6) “Ma quỷ đã xuất hiện ngay từ trang đầu tiên của Thánh Kinh, và Kinh Thánh cũng kết thúc có sự hiện hữu của ma quỷ cùng với chiến thắng vinh quang của Thiên Chúa.”

Bài giảng ngày 08/11/2013

7) “Chúa Giê-su đã nói “Hoặc ngươi theo ta, hoặc chống lại ta” … [Đức Giê-su đã đến] để giàng lại cho chúng ta quyền tự do … [khỏi] tình trạng nô lệ mà bóng tối ma quỷ đang bao trùm trên chúng ta … Như vậy không thể có sự lập lờ về thái độ.  Cuộc chiến luôn diễn ra ở nơi đâu có ơn cứu độ, ơn cứu độ đời đời.  Chúng ta phải luôn đề phòng và cảnh giác chống lại những mưu chước của ma quỷ, chống lại những cám dỗ của chúng.”

Bài giảng ngày 11/10/2013

8) “Ma quỷ gieo rắc mầm mống tội lỗi vào những nơi tốt lành, chúng cố gắng chia rẽ con người, phá tan các gia đình và dân tộc.  Nhưng Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn mỗi người và kiên nhẫn chờ đợi với tình thương bao la: Người nhìn thấy những yếu đuối và tội lỗi của chúng ta, nhưng Người lại nhìn đến và kiên nhẫn tìm kiếm và chờ đợi những hạt giống tốt lành trong mỗi chúng ta nảy mầm.”

Bài giảng ngày 20/07/2014

9) “Ma quỷ không bao giờ chịu đứng im nhìn sự thánh thiêng và tốt lành của Giáo hội hay của mỗi chúng ta mà không cố tìm cách phá hủy sự tốt lành đó.”

Bài giảng ngày 07/05/2014

10) “Hãy xem cách Đức Giê-su đáp trả lại [những cám dỗ]: Người không đôi co với Satan, như Eva trong vườn Địa đàng.  Đức Giê-su biết rất rõ rằng con người không thể dùng miệng lưỡi đôi co lại với Satan vì hắn rất xảo quyệt.  Vì vậy, thay vì tranh luận với hắn như Eva xưa, Chúa Giê-su đã chọn cách vững chắc là dùng Lời Chúa để đáp lại ma quỷ với uy quyền của Lời Người.  Chúng ta hãy ý thức điều này mỗi khi chúng ta bị cám dỗ…:  Đừng đối thoại với Satan, nhưng hãy dùng Lời của Chúa để bảo vệ chúng ta.  Và Lời Người sẽ cứu thoát chúng ta.”

Bài giảng Chúa Nhật 09/03/2014

11) “Chúng ta cũng phải bảo vệ đức tin của mình, bảo vệ đức tin tránh xa những bóng tối.  Vì rằng rất nhiều khi bóng tối nằm ẩn nấp đâu đó dưới vỏ bọc ánh sáng.  Như Thánh Phao-lô cảnh báo rằng ma quỷ có những lúc chúng cải trang thành thiên thần.”

Bài giảng ngày 06/01/2014

12) “Ẩn sau những lời đồn thổi là sự đố kị và ganh ghét.  Những câu chuyện ngồi lê đôi mách này chia rẽ cộng đoàn, phá hủy cộng đoàn.  Buôn chuyện là một vũ khí rất hiệu quả của ma quỷ.”

Bài giảng ngày 23/01/2014

13) “Chúng ta hãy luôn ý thức rằng kẻ thù của Ánh sáng luôn tìm cách ngăn cản chúng ta đến với Chúa và chúng cấy vào trong tâm hồn chúng ta sự thất vọng chán nản mỗi khi công việc tông đồ phục vụ của ta không được tưởng thưởng kịp thời.  Hàng ngày ma quỷ gieo những hạt giống bi quan và cay đắng trong tâm hồn chúng ta…  Xin cho chúng ta luôn mở rộng cõi lòng đón nhận sinh khí của Chúa Thánh Thần, Người không bao giờ ngừng gieo những hạt giống hy vọng và tin cậy.”

Diễn văn ngày 18/06/2013

Tri Khoan

Nguồn: ChurchPOP

**************************

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chịu đau khổ và bị cám dỗ.  Chúa là Đấng quyền năng đã đến để cứu giúp những người đang bị xiềng xích bởi ma qủy, vì Chúa luôn nâng đỡ những kẻ đi theo Ngài.

Lạy Chúa, xin gìn giữ những kẻ tin vào danh thánh Chúa trong cánh tay Ngài.  Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, mà ban niềm hoan lạc bất diệt.  Amen!

St. Gregory of Khandzta (759-861)

**************************


Có ma, có quỷ thật không?
Quỷ ám, quỷ nhập như thế nào?
Những chuyện bùa ngải, thư ếm là thực hay hư?
Tại sao Thiên Chúa để cho ma quỷ quấy nhiễu, hành hạ con người?
Tất cả những thắc mắc trên đây đều được giải đáp, không phải bằng lý lẽ, nhưng bằng những câu truyện ly kỳ, kinh dị và khủng khiếp mà Đức Cha Cristiani sẽ thuật lại trong tác phẩm “
Ma Quỷ Trong Thế Giới Ngay Nay
Đây là một cuốn sách đã được tiếp đón nồng nhiệt sau những tháng ngày đằng đẵng trông mong.
Một cuốn sách gây ấn tượng mạnh, hấp dẫn lạ thường, đồng thời sinh nhiều lợi ích cho bất cứ độc giả nào đã một lần đọc qua.

Xin mời đọc sách “Ma Quỷ Trong Thế Giới Ngay Naytại đường link sau:

https://suyniemhangngay.net/2016/09/17/ma-quy-trong-the-gioi-ngay-nay/

LÙN THẤP BÉ NHƯNG…

zzĐọc câu chuyện ông Gia kêu có lẽ ai cũng phải nực cười xen lẫn cảm động.  Cái nực cười thứ nhất là Gia kêu thấp bé, vóc người không giống ai.  Cái nực cười thứ hai, ông Gia kêu làm trưởng ban thu thuế thời Chúa Giêsu.  Gia kêu lúc nào xem ra cũng rổn rẻng với tiền bạc, với việc làm giầu v.v…  Con người bề ngoài khác thường về vóc dáng, nhưng thực tế lại là một con người đầy lòng nhân từ, biết sám hối, biết hối cải.  Chúa Nhật 31 thường niên cho chúng ta một cái nhìn rất thực tế, đầy an ủi về lòng nhân từ bao la của Chúa: “Lạy Chúa, Chúa sẽ dạy con đường về cõi sống: Trước Thanh Nhan, ôi vui sướng tràn trề” (Tv 15, 11).

Gia kêu nếu xét theo một nghĩa nào đó thực là một người đáng ghét, đáng khinh vì ông làm việc cho đế quốc Roma, làm nghề thuế vụ, làm trưởng ban thuế, làm cái nghề tiếp tay với ngoại bang bóc lột dân chúng.  Gia kêu giầu có, có quyền lực vì ông làm việc cho đế quốc Roma.  Dân Do Thái không ưa ông, ghét ông, xếp ông vào hàng tội lỗi và đặt ông ngang hàng với bọn điếm đàng.  Đối với dân Do Thái, ông không thể ăn năn, không thể hối cải.  Ông đáng sa vào hỏa ngục lửa thiêu.  Thế nhưng, Chúa Giêsu lại chọn nhà ông Gia kêu để ghé thăm nhà ông.  Gia kêu chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu đi ngang chứ làm sao dám mời Chúa Giêsu ghé thăm nhà ông được.  Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ được.  Chúa đã chọn nhà ông Gia kêu.  Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người được Thánh Thần hướng dẫn khi thấy ông Gia kêu giữa đám đông.  Chúa Giêsu minh chứng Người đã tới Giê-ri-khô để cứu một người giầu có.  Tuy nhiên, người Do Thái vẫn dị nghị, vẫn hiểu lầm Chúa và hiểu lầm cả ông Gia kêu.  Họ cho rằng “Chúa lại vào ở nhà người tội lỗi.”  Nhưng thực ra Chúa Giêsu hiểu mọi người và hiểu ông Gia kêu.  Chúa đến nhà của Gia kêu không phải vì miếng ăn, vì bữa tiệc, vì chén rượu, chén trà, nhưng vì ơn cứu rỗi của ông và của gia quyến ông.  Dịp này, ông Gia kêu và cả gia đình ông đã công khai thú tội trước mặt Chúa Giêsu và trước mặt mọi người dự tiệc, và hứa “xin bán đi nửa gia tài, phân chia cho kẻ nghèo khó, và đền trả một gấp bốn cho những ai ông gây thiệt hại” (Lc 19, 8).  Chúa Giêsu đã nói về ông: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19, 9).

Tự sức con người, con người không thể làm lành, nhưng Thiên Chúa có thể làm được tất cả.  Chúng ta hãy đọc các đoạn Tin Mừng như: “Con chiên lạc.  Đồng bạc đánh mất.  Người con hoang đàng.  Người phụ nữ ngọai tình v.v…” để thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa như thế nào.  Con người phản nghịch, con người tội lỗi nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người.  Thiên Chúa yêu con người và không muốn để bất cứ ai bị hư mất.  Ông Gia kêu dư biết thiên hạ ganh ghét ông và thèm được như ông.  Gia kêu đâu có phải là người xấu bụng dù rằng ông đã nhúng tay vào việc thật xấu xa, nhưng trong cõi lòng sâu kín của ông vẫn còn chứa chất điều thiện, ông thầm tin tưởng và cám ơn Chúa Giêsu mà ông coi như một vị ngôn sứ lớn.  Ông tha thiết muốn gặp gỡ Chúa Giêsu, do đó ông và cả gia đình ông đã được ơn cứu độ.  Chúa đã giải thoát cho ông và gia đình ông khỏi tội lỗi, khỏi hư đi.  Ân huệ cao vời Chúa ban cho ông khiến ông đã bộc lộ tất cả những gì là tốt lành, là nhân ái, còn chứa trong nỗi lòng sâu kín nhất của ông.  Gia kêu đã trở nên mẫu gương cho những ai biết đón nhận ơn tha thứ bằng việc thật tâm hối cải, quay trở về với Chúa.  Đúng thật, Chúa tới để tìm kiếm những gì đã hư mất.

Bí Tích Giải Tội là Bí Tích do Chúa Giêsu thiết lập và là một hồng ân cao vời Chúa ban cho nhân lọai.  Đây là phương thế giúp chúng ta làm hòa với Chúa, với Giáo Hội và với anh chị em, là phương thế Chúa ban lại sự an bình tâm hồn cho con người và thêm sức mạnh cho tương lai, trả lại tình trạng trong sáng đã bị tội lỗi làm lu mờ.  Bí Tích Giải Tội nối những gì tội lỗi đã làm con người xa lìa Thiên Chúa.  Do đó, chúng ta phải yêu mến Bí Tích Giải Tội và luôn siêng năng lãnh nhận Bí Tích Giao Hòa để được gần gũi Thiên Chúa, gần gũi Giáo Hội và gần gũi anh chị em.

Lạy Chúa xin cho chúng con có tấm lòng như Chúa, có đôi mắt của Chúa để chúng con luôn biết cảm thông với những yếu hèn của người khác.  Amen.

LM Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

MẸ LÀ SAO BIỂN

zzCuộc đời này được sánh ví như đại dương bao la.  Mỗi ngày sống là một ngày vượt trùng khơi, vật lộn với sóng cả ba đào để tới bến bờ.  Có những hành trình êm ả thuận lợi, nhưng cũng có những hành trình vất vả gian nan.  Trong hành trình vượt đại dương cuộc đời, người tín hữu Công giáo có Đức Mẹ là “Đấng chỉ bảo đàng lành”.  Như ngôi sao sáng dẫn chỉ lối giữa đại dương bao la, Mẹ Maria cũng được tôn vinh là “Ngôi Sao Biển – Maris Stella”.

Ai đã từng vượt biển mới cảm nghiệm nỗi kinh hoàng khi đại dương rùng mình dậy sóng.  Khi chuẩn bị bước sang thế kỷ 21, một số nhà nghiên cứu đã tổng hợp các sự kiện đáng ghi nhớ của dân tộc Việt Nam.  Biến cố vài trăm ngàn người Việt bỏ lại đàng sau quê hương xứ sở, vượt biển ra nước ngoài được coi như một sự kiện “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử dân tộc Việt Nam của thế kỷ 20.  Người vượt biển phải đối diện với biết bao nguy hiểm, lằn ranh giữa sự sống và cái chết rất mong manh.  Không ai thống kê được con số người đã bỏ mạng trên biển, vì đói khát, vì bão tố phong ba và vì hải tặc.  Nhiều người may mắn thoát chết đã bị ám ảnh suốt đời vì những gian nan đã trải qua.  Trong hành trình vượt biển này, có nhiều người đã được ơn lạ của Đức Mẹ.  Người viết bài này có dịp tiếp xúc với một số người quen biết hiện sinh sống tại Hoa Kỳ, nghe họ kể về những trường hợp lâm nguy, trên những con thuyền mong manh như chiếc lá giữa đại dương.  Trong giờ phút nguy khốn ấy, họ đã kêu cầu Đức Mẹ.  Trong số đó có những anh chị em ngoài Công giáo.  Có người hứa với Đức Mẹ, nếu thoát mạng, sẽ xin nhập Đạo.  Sau này, khi đến đất nước thứ ba, họ đã giữ lời hứa ấy và trong số đó có người đã làm linh mục.  Họ là chứng từ sống động về tình thương Thiên Chúa và về lời cầu bầu hiền mẫu của Đức Mẹ.  Đức Trinh nữ Maria quả thực đã là ngôi sao biển dẫn đưa những người có niềm cậy trông về bến an toàn.

Khi tôn vinh Đức Mẹ là ngôi Sao Biển, chúng ta thể hiện lòng cậy trông của chúng ta đối với Đức Mẹ.  Bên chân thập giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan, đồng thời Người cũng trao phó Thánh Gioan cho Đức Mẹ.  Cử chỉ ấy muốn nói lên rằng, trong đời sống của người môn đệ Chúa Giêsu, từ nay có Đức Mẹ đồng hành.  Thánh Gioan ghi chú thêm: “Kể từ giờ đó, người môn đệ đón Đức Mẹ về nhà mình” (Ga 19,27).  Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong Thư Chung công bố đầu tháng 10-2016 vừa qua, cũng mời gọi các tín hữu Việt Nam hãy “đón Mẹ về nhà” và yêu mến Đức Mẹ với trọn tình con thảo.  Quả thật, có Đức Mẹ hiện diện, chắc chắn đời chúng ta không còn cô đơn.  Trên hành trình vượt biển cuộc đời, Đức Mẹ hiện diện ở đó để hướng dẫn chúng ta biết sống sao cho đẹp lòng Chúa.  Nhờ Đức Mẹ chỉ bảo, con thuyền cuộc đời của chúng ta biết “bát, cạy”, tức là biết lái sang bên phải hoặc bên trái, với mục đích đem lại cho chúng ta hạnh phúc niềm vui trong cuộc sống và ân sủng từ trời.

Trong buổi lễ kết thúc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II vào ngày 21-11-1964, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã chính thức tuyên bố Đức Maria là Mẹ Giáo Hội.  Sau khi tuyên bố Đức Maria là một “thành viên trổi vượt”, là “kiểu mẫu” và “gương sáng” của Giáo Hội, Công đồng viết: “Giáo hội Công giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người tình con thảo, như đối với người Mẹ rất đáng mến yêu” (LG 53).  Mẹ là Mẹ của Giáo Hội lữ hành đang vượt biển trần gian.  Giáo Hội vẫn được trình bày như con thuyền căng buồm lướt sóng ra khơi, giữa biết bao sóng cả ba đào.  Cờ hiệu của con thuyền Giáo Hội là cây thập giá, dấu chỉ của chiến thắng và hy vọng.  Trên con thuyền Giáo Hội, có Mẹ ở đó, hiện diện âm thầm, để dõi theo từng bước đi của Giáo Hội, như Mẹ đã âm thầm dõi theo từng bước đường truyền giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, Con của Mẹ.  Hình ảnh Đức Mẹ hiện diện giữa các tông đồ, chìm sâu trong lời cầu nguyện, được Thánh Luca kể lại trong sách Công vụ Tông đồ, cho thấy, Giáo Hội của Đức Giêsu không cô đơn, vì có Đức Mẹ đồng hành (x.  Cv 1,12-14).  Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều ấy.  Trên thế giới, có nhiều địa điểm được Đức Mẹ thăm viếng, và nhanh chóng trở thành những linh địa, những điểm hành hương nổi tiếng.  Tuy vậy, người tín hữu luôn tin rằng, dù không được đến những địa điểm hành hương nơi Đức Mẹ đã hiện ra, ở bất cứ nơi nào, nếu họ tin tưởng phó thác và kêu cầu sự bảo trợ của Đức Trinh nữ, thì Đức Mẹ vẫn hiện diện trong cuộc đời của họ.  Đó là sự hiện diện thân thương mà đầy quyền năng, đem lại cho tâm hồn người tín hữu ấm áp và an bình.

Một câu chuyện rất cảm động kể về lòng can đảm của một phụ nữ xóm chài: Trong lúc mọi ngư dân đang đánh cá ngoài khơi, thì bỗng một cơn bão lớn nổi lên.  Chiều đã tới và màn đêm buông xuống mà bão tố vẫn chưa tan.  Những người phụ nữ và trẻ em đều nóng lòng sốt ruột ngóng trông ra biển, vì hầu hết những người đàn ông và thanh niên trai tráng đều ở ngoài khơi, và giờ đây họ đang chống chọi với bão tố để tìm đường về.  Bà con làng chài đốt những bó đuốc lớn với hy vọng những người thân ngoài khơi nhận ra hướng đất liền để trở về.  Một người phụ nữ nhanh trí đã phóng lửa đốt cả ngôi nhà mình, mong tạo lên mội khối lửa khổng lồ, vượt xuyên màn đêm tối.  Nhờ khối lửa khổng lồ này, những ngư dân đã trở về đất liền an toàn.  Người phụ nữ đã hy sinh tất cả, với ước nguyện cứu sống những người thân.

Hình ảnh người phụ nữ xóm chài gợi lại cho chúng ta người mẹ đứng dưới chân thập giá trên đồi Canvê năm xưa, đó là Đức Trinh nữ Maria.  Mẹ đã hy sinh tất cả, đã âm thầm cầu nguyện trong đau đớn, để cùng với Con của mình dâng hy tế cứu độ trần gian.  Nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, nhân loại được hưởng niềm vui và hạnh phúc.  Đức Giêsu là tất cả của Mẹ.  Người là sự sống, là niềm vui, là niềm an ủi, là trọn niềm yêu thương.  Đức Maria đã can đảm hiến dâng người con ấy, để cho trần gian được cứu rỗi.

Ý thức được mình đang được ngôi Sao Biển có tên là Maria hướng dẫn, chúng ta không sợ lạc đường, nhưng an tâm bước đi trong cuộc sống mỗi ngày.  Như người lữ hành vượt trùng khơi, chúng ta phải luôn ngước mắt nhìn ánh sao biển để nhận biết phương hướng cho cuộc hành trình.  Cũng vậy, tôn vinh Đức Mẹ là Sao Biển không phải là một khẩu hiệu rỗng tuếch, nhưng đó phải là tâm tình yêu mến cậy trông.  Ngày hôm nay, Mẹ vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để dặn dò chúng ta như Mẹ đã dặn dò những người giúp việc trong tiệc cưới ở Cana: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo!” (Ga 2,5).  Đúng vậy, khi chuyên tâm thực thi ý Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm được hướng đi cho đời mình.  Đức Mẹ soi sáng cho chúng ta hiểu Lời Chúa, như Mẹ đã chiêm niệm, suy tư và ghi nhớ Lời Chúa trong lòng.

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, trong Thông điệp “Chúng ta được cứu rỗi trong hy vọng – Spe Salvi” đã tôn vinh Đức Mẹ với tước hiệu “Ngôi Sao Hy Vọng”.  Ngài viết: “Còn ai hơn được Mẹ Maria, là ngôi sao của hy vọng cho chúng ta? Khi Mẹ “Xin Vâng” Mẹ đã mở cửa thế giới của chúng ta cho chính Thiên Chúa; Mẹ trở nên Hòm Bia Thiên Chúa sống động, trong đó Thiên Chúa nhập thể, trở nên một con người như chúng ta, và dựng lều ở giữa chúng ta (x.  Ga 1,14)” (Số 49).

Hành trình vượt biển là một hành trình dài, đầy những sóng xô nghiệt ngã và thử thách gian nan.  Mẹ Maria là ngôi Sao Biển rạng ngời hướng dẫn chúng ta.  Có Mẹ đồng hành, chúng ta không còn sợ nguy biến.  Nghe Mẹ chỉ bảo, chúng ta sẽ cập bến.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Tháng Mân Côi 2016

ĐGH GIOAN PHAOLO II VÀ BỨC ẢNH MỚI ĐƯỢC CÔNG BỐ

Vào ngày 13.5.1981, tên khủng bố Mehmet Ali Agca, người Thổ Nhĩ Kỳ, đã cố ý giết chết Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bằng ba phát súng lục trong một cuộc tiếp kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô ở Roma.  Mãi cho đến hôm nay nguyên nhân vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II của Ali Agca vẫn chưa được hoàn toàn giải thích một cách rõ ràng, mặc dù người ta đã biết được rằng Agca thừa hành lệnh của mật vụ Bảo Gia Lợi (Bulgarie).  Có sự nghi ngờ cho rằng vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là được cơ quan mật vụ Liên Sô KGB ở Mạc Tự Khoa trao cho mật vụ Bảo Gia Lợi thi hành, đã lan rộng ra liền ngay sau vụ ám sát.

Đức Gioan Phaolô II chỉ bị trọng thương qua vụ ám sát.  Và việc ngài sống sót là cà một phép lạ.  Dĩ nhiên, sức khỏe vốn cường tráng trước kia của ngài đã bị ảnh hưởng rất nặng bởi vụ ám sát, khiến ngài phải chịu đau đớn thường xuyên, kéo dài mãi cho tới lúc ngài băng hà năm 2005.

Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Đức Gioan Phaolô II đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là ngài đã tha thứ cho y.

ĐHY Stanislaw Dziwisz tường thuật lại là trong cuộc gặp gỡ và nói chuyện này tại nhà tù, Ali Agca chỉ lặp đi lặp lại với Đức Thánh Cha một câu hỏi duy nhất:

“Tại sao Ngài lại không chết? – Tôi biết chắc chắn là tôi đã nhắm rất trúng đích.  Tôi cũng biết rằng phát đạn tôi bắn ra có hiệu quả tàn phá và gây tử thương một cách chắc chắn.  Nhưng tại sao Ngài lại không bị tử thương?”

Về phần Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì hoàn toàn xác tín rằng chính nhờ bàn tay hiền mẫu của Đức Mẹ Fatima che chở nên ngài mới có thể thoát chết một cách lạ lùng như thế.  Bởi vì, ngày ngài bị ám sát tại Rôma – ngày 13 tháng 5 năm 1981 – cũng chính là ngày Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên năm xưa tại Fatima, ngày 13 tháng 5 năm 1917.  Hơn nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, thì vị Giám Mục mặc áo trắng phải chịu đau khổ nhiều mà Đức Mẹ đã cho ba trẻ trông thấy trong một thị kiến khi hiện ra với ba trẻ tại Fatima, chính là ngài.

Do đó, đúng một năm sau vụ ám sát (1982), Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đi hành hương Fatima để tạ ơn cứu sống của Đức Mẹ và trong dịp này ngài cũng mang theo một trong các đầu đạn mà Mehmet Ali Agca đã bắn vào ngài để dâng kính Đức Mẹ.  Và kìa một sự lạ lùng đã làm chính Đức Gioan Phaolô II và tất những người chứng kiến không khỏi sửng sốt và kinh ngạc, là đầu viên đạn mà ngài mang theo kia khi được gắn vào một lỗ hổng duy nhất còn sót lại ở mão triều thiên trên đầu tượng Đức Mẹ Fatima, mà các đoàn thể phụ nữ Bồ Đào Nha đã dâng cúng cho Đức Mẹ vào năm 1946, thì hoàn toàn vừa vặn như thể người ta đã cốt ý làm cái lỗ hổng đó sẵn cho viên đạn vậy.

zzVà đây là bức ảnh mới được công bố gần đây, cho thấy sự can thiệp nhiệm mầu của Đức Mẹ Maria vào ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô bị ám sát, ngày 13 tháng 5 năm 1981

Chúng ta không hiểu tại sao Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II đã muốn cất dấu tấm hình chụp nầy trong nhiều năm.  Vatican đã vừa mới công bố tấm hình chụp nầy lần đầu tiên.  Tấm hình được một vệ sĩ của Người chụp ngay chính lúc Đức Thánh Cha bị tấn công và đang ngã xuống trong chiếc xe đặc chế (papamobil) của Người.  Các bạn có thể nhìn thấy đau đớn hiện trên mặt Người.

Joaquin Navarro Valls, phát ngôn nhân Toà Thánh vào thời gian đó, đã tuyên bố người ta mất nhiều năm để nghiên cứu tấm hình chụp khó tin nầy và tất nhiên là về chất lượng rửa hình, vì khi được chuẩn bị kỹ càng, không ai có thể nhìn rõ ràng bởi vì tấm hình không sáng sủa.  Cuối cùng, sau nhiểu kiểm duyệt và tìm tòi, dưới sự kiểm soát của các chuyên gia nhiếp ảnh trên thế giới, họ đã quyết định không hề có “giả mạo’ thuộc thuật nhiếp ảnh và ngày nay họ cho chúng ta món quà đẹp đẽ nầy về Mẹ Thiên Chúa.

Các bạn có thể nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa ôm Đức Gioan-Phaolô II trong tay Mẹ.

Lm Nguyễn Hữu Thy

TỘI LỖI CHỐNG LẠI SỰ CÓ TỘI

Người Pharisêu hoàn toàn không biết đến sự có tội của mình.  Ông ta không nghĩ mình có tội gì cả.  Ông ta không phải là một người tội lỗi như phần còn lại của nhân loại.  Không.  Ông ta khác hẳn.  Tuy nhiên, thay vì xem xét lương tâm của mình và xưng thú tội lỗi của mình, ông xem xét lương tâm của những người khác và xưng thú tội lỗi của họ – tham lam, bất công, ngoại tình v.v…

Tuy nhiên, ông ta có tội.  Thật vậy, tội rất nghiêm trọng.  Tội chính của ông là lòng kiêu ngạo.  Nhưng ông ta cũng phù phiếm và tự cho mình đúng lại còn khinh khi những người khác.  Những tội lỗi của ông ta không phải vì những việc làm xấu mà là những thái độ xấu.  Ông ta tỏ một thái độ có vấn đề như người ta thường nói như thế ở Mỹ.

zzNgười thu thuế nếu muốn cũng có thể cáo tội người Pharisêu.  Nhưng ông không làm thế.  Ông tập trung vào chính mình, và để tội lỗi của những người khác ở giữa họ và Thiên Chúa.  Với sự lương thiện triệt để, ông bóc trần tâm hồn trước mặt Thiên Chúa.  Ông không cố tình giấu giếm điều gì.  Ông đứng trước mặt Thiên Chúa và với tất cả sự khiêm tốn, ông nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”  Kết quả là khi ông trở về nhà, ông đã được nên công chính.  “Lời cầu xin của người khiêm tốn sẽ vọng tới các tầng mây” (Bài đọc 1).

Chúng ta có thể học hỏi cả hai người ấy.  Trước hết người Pharisêu.  Thật vậy, có một người Pharisêu ẩn núp trong mỗi người chúng ta.  Giống như họ, chúng ta có thể nhận thức rõ những tội lỗi của các người khác nhưng lại không nhìn thấy tội lỗi của mình.  Người ta dễ có thói quen cáo tội người khác.  Nhưng điều nguy hiểm bởi vì nó ngăn cản chúng ta nhìn vào chính tội của mình.  Ngoài ra, không thể định tội những người khác mà không để cho sự chủ quan của mình, làm cho thiên lệch.

Và chúng ta có thể học hỏi với người thu thuế.  Ông này chỉ cho chúng ta biết phải xưng thú tội lỗi của chúng ta như thế nào.  Dù chúng ta chưa nhận thức hết mọi tội mình làm, mỗi người trong chúng ta vẫn có thể nói với tất cả sự thật: “Con là kẻ tội lỗi.”

Nhiều người đến với Bí tích hoà giải với một danh sách các tội đã được chuẩn bị trước.  Phần lớn những điều ghi trong danh sách ấy thì tầm thường, không đáng kể và không thay đổi bao nhiêu từ lần xưng tội này đến lần xưng tội sau.  Người ta không nỗ lực đi sâu vào căn nguyên của mối tương giao của họ với Thiên Chúa và với người khác.  Người ta quá nhấn mạnh đến các tội mà không nhấn mạnh đúng mức trên sự kiện là một người tội lỗi.

Người thu thuế hẳn sẽ dễ dàng lập ra danh sách các tội.  Nhưng ông đã không làm thế; ông làm một điều tốt hơn, và cũng khó khăn hơn.  Ông nói: “Con là kẻ tội lỗi.”

Chúng ta cũng phải chuẩn bị đứng trước Thiên Chúa như những kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa như đất hạn cần mưa.  Chúng ta cần phải đối diện không phải với sự thật chúng ta phạm tội, mà với sự thật chúng ta là những kẻ tội lỗi.  Chúng ta là một dân có tội, sa đọa – đây là một thực tế.  Tội lỗi không phải là một hành động hay một hoạt động các hành động, nhưng là một điều kiện trong đó chúng ta sống.  Đó là một chân lý cao cả mà người thu thuế đã lĩnh hội.

Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là con người không biết được chính mình, nhận ra điều xấu và giải quyết nó nơi bản thân mình.  Những người trong các nhóm hỗ trợ nói rằng khúc quanh lớn làm họ chuyển biến là khi họ có thể nói lên sự yếu đuối của mình.

Người Pharisêu đầy sự tự mãn, là tâm điểm của thế giới ông ta.  Ông đã tự tán dương mình.  Từ vị trí tự tâng bốc ấy, ông nhìn xuống những người khác, trong đó có những người mà ông khinh bỉ.  Người thu thuế, trái lại, hạ mình trước mặt Thiên Chúa.  Ông này đặt hy vọng của ông vào lòng thương xót của Thiên Chúa.  Chúng ta làm tốt khi theo gương ông.  Thiên Chúa yêu thích tâm hồn tan vỡ và sầu khổ biết rõ những thất bại của mình hơn tâm hồn tự mãn và kiêu căng không bao giờ nhận rằng mình đã phạm tội.

“Một kẻ tội lỗi biết rằng mình là kẻ tội lỗi, tốt hơn một ông thánh biết mình là thánh nhân” (Châm ngôn Yiđít).

McCarthy

https://suyniemhangngay.net/

 

THÁNH LUCA, THÁNH SỬ

zzTheo các nhà Kinh Thánh học, thánh Luca đã hiến cho chúng ta hai tác phẩm: một là cuốn Tin Mừng thứ ba và hai là sách Tông Đồ Công Vụ.

Qua các tông đồ, nhất là Mẹ Maria và thánh Phaolô, thánh Luca đã ghi lại tiểu sử của Chúa Giêsu bằng những nét đặc sắc.  Ngài đã hết lòng ca tụng ơn cứu độ và lòng từ bi của Thiên Chúa.  Qua những truyện như: Người con phung phá, người Samaritanô nhân hậu, ông Giakêu, người trộm lành…  chúng ta thấy đuợc phần nào chủ ý của thánh nhân khi ngài muốn trình bày cho chúng ta thấy một cách cụ thể về lòng từ bi của Thiên Chúa.

Tin Mừng thánh Luca cũng là Tin Mừng về đời sống cầu nguyện.  Ngài đặt trước mắt chúng ta gương cầu nguyện của Chúa Giêsu trước khi Chúa chịu phép rửa, trước khi khi chọn môn đệ, trước khi biến hình sáng láng, lúc hấp hối trong vườn Giêtsimani và cả trên thánh giá.

Tin Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức.  Không Tin Mừng nào làm cho chúng ta có thể thấy được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất… một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn…  Không một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.

Tin mừng của thánh Luca là Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài, có rất nhiều chỗ nói về niềm vui như loan báo tin vui cho Zacharia, truyền tin cho Maria.  Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh…  Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui nân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem.  Ðúng như Harnack đã nói: “Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót.”

Tin Mừng của thánh Luca còn được gọi là Tin Mừng của những người phụ nữ bởi vì không Tin Mừng nào vai trò của người phụ nữ được nhắc tới với một lòng kính trọng như Tin Mừng của thánh Luca.  Những câu chuyện về những người phụ nữ đặc biệt như những chị em phụ nữ đi theo phục vụ Chúa Giêsu và tông đồ đoàn chỉ có thể tìm thấy trong Tin Mừng của thánh Luca.

Sau hết, khi trình bày, thánh Luca như cố ý cho chúng ta thấy những điều kiện cần thiết để tin theo Chúa cũng như để đuợc gia nhập Nước Trời.  Những điều kiện đó là đức tin, lòng khiêm nhường, thống hối, dám chấp nhận những khó khăn, biết sống bác ái và kiên trung trong đau khổ.

Cũng như Tin Mừng, cuốn Tông Đồ Công Vụ của thánh Luca là một bằng chứng sống động về việc Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống truyền giáo của các tông đồ và đời sống của Giáo Hội lúc sơ khai.  Đây cũng là cuốn lịch sử đầu tiên của Giáo hội.  Đọc sách Công vụ chúng ta không thể không cảm thấy một nguồn vui thanh cao và sống động đuợc bùng phát lên từ sự nhận biết Thiên Chúa của các tín hữu đầu tiên, và rồi kết quả sau đó là một cuộc sống được định hướng bằng tình bác ái chân thực, bằng tinh thần hy sinh xả kỷ, cũng như bằng bầu khí cầu nguyện, bằng sự hiệp nhất cao độ, lòng hợp lòng, với một đức tin, và một tình yêu duy nhất để hình thành nên những cộng đoàn thánh thiện giữa các tông đồ và những người tin Chúa của Giáo hội sơ khai.

Mặc dầu lịch sử không cho chúng ta những tài liệu chính xác về gia thế và đời sống của thánh Luca, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng: thánh Luca thuộc gia đình nề nếp và giàu sang tại Antiokia.  Khi còn bé, Ngài được giáo dục chu đáo về cả đức tính, văn hóa và nghề nghiệp.  Ngài theo học các khoa cổ điển của nền văn minh Hy lạp và chuyên nghề lương y.  Từ buổi đầu, thánh Luca vẫn chưa biết Chúa.  Cho đến một ngày kia thánh Phaolô đến Troa giảng đạo Chúa Giêsu.  Luca vào nghe và sau khi suy nghĩ, cân nhắc cẩn thận và nhận thấy giáo thuyết thánh Phaolô giảng rất thâm trầm hợp lý, Ngài liền tin theo.  Ngài chịu phép rửa tội và theo làm môn đệ thánh Phaolô, ngày đêm học hỏi Kinh Thánh và làm thư ký cho thánh Tông đồ.  Quãng năm 49, nghĩa là khi khởi sự truyền giao lần thứ hai, thánh Phaolô cùng mang thánh Luca đi theo.  Nhưng rồi hai thầy trò lại chia lìa nhau một thời gian.  Có lẽ kỳ này thánh Luca trở về sinh quán làm nghề lương y.  Đến sau hai thầy trò lại gặp nhau tại Philipphê.  Từ đây thánh Luca cùng đi giang đạo với thánh Phaolô.  Nhưng đến khi thánh Phaolô bị người Lamã bắt cầm tù, thì thánh Luca cũng từ giã đế đô, và chúng ta không biết gì về quãng cuối đời của Ngài nữa.

Đọc Tin Mừng thứ ba và Công vụ tông đồ, chúng ta thấy thánh Luca rất lỗi lạc về văn chương Hy lạp.  Ngài quả là một nhà văn học kỳ tài, luôn thay đổi từ ngữ và dùng những danh từ thích hợp với đặc tính văn chương của người Hy lạp thời bấy giờ.  Thánh nhân tỏ ra rất nghệ thuật trong việc bố cục câu chuyện thế nào cho rõ ràng, hấp dẫn, gợi nhiều ý tưởng và tâm tình, chẳng hạn dụ ngôn người con người phung phá và câu chuyện hai người du khách trên đường Emmau phải là hai kiệt tác văn chương, có nhiều giá trị nghệ thuật không kém gì những áng văn hay nhất của người Hy lạp thời ấy.

Hơn thế, thánh Luca còn là một người rất sành tâm lý.  Thánh nhân đã mặc cho mỗi nhân vật trong Tin Mừng cũng như trong các dụ ngôn những tâm tình, cử điệu và lời lẽ phù hợp với điạ vị riêng của họ.  Phải chăng nhờ tài nghệ này, thánh Luca đã đề cao đến chữ trọn hảo địa vị Cứu thế của Chúa Giêsu: Chúa nhân lành tự trời đến với loài người lầm than tội lỗi.  Chúa tự hiến mình trên thập giá để tẩy xóa mọi tội trần và thông ban ơn sủng đời sống mới cho các tâm hồn.

Với một sự hiểu biết sâu xa về sứ mệnh Cứu thế của Chúa như vậy, hẳn thánh Luca đã nhiệt thành với nhiệm vụ phổ biến Tin Mừng cứu thế không kém gì thánh Phaolô.  Nhưng Ngài giảng đạo tại đâu và chết như thế nào thì theo một tài liệu tìm thấy ở Constantinople, thánh Luca đã giảng đạo tại Achaie và Beotie.  Và sau cùng làm giám mục thành Thèbes.  Trong bài thực hành cuốn chú giải Tin Mừng thánh Matthêô, Thánh Hiêrônimô nói rõ thánh Luca đã viết Tin Mừng thứ ba tại Achaie và Beotie, sau cùng thánh Gaudence de Brescia quả quyết thánh Luca cùng chịu tử đạo với thánh Andrê tại Patras một tỉnh nhỏ thuộc vùng Achaie.

Ngày nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ.  Ngài cũng là bổn mạng các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu giúp”.

Ngay từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.

Kính xin thánh Luca thánh sử phù trợ cho chúng ta được lòng tin mạnh mẽ và hăng hái như người để chúng ta đem tin lành cứu độ đến cho những người còn chưa nhận biết Chúa.

LM Giuse Đinh Tất Quý

https://suyniemhangngay.net/

TÊRÊSA AVILA, TÂM HỒN NHẠY CẢM

zzTrong kho tàng truyện kể về đời thánh nữ Têrêsa Avila, có một truyện được nhiều tác giả nhắc đến, vừa như một điển hình đời sống thiêng liêng, vừa như một tính cách rất riêng của thánh nữ.  Đó là truyện “Hèn chi Chúa có ít bạn.”   Chắc nhiều người đã biết?  Truyện kể: Trong lần xuất thần, thánh nữ nhìn thấy tình trạng tội lỗi con người xúc phạm đến Chúa ghê gớm quá, nặng nề quá.  Thế là thánh nữ buồn bã vật vã ba ngày liên tiếp không ăn uống gì.  Cuối ngày thứ ba, Chúa Giêsu hiện ra, dáng vẻ dịu hiền, an ủi bằng cách trao cho thánh nữ một miếng bánh và một ly nước.  Nhưng thánh nữ làm mặt giận chối từ.  Chúa Giêsu dỗ dành: “Con không biết rằng Cha thường đối xử với bạn bè bằng cách gửi cho họ Thánh giá sao?” Và thánh nữ trả lời: “Hèn chi Chúa có ít bạn.”   Vâng, chỉ với mẩu truyện đó thôi, có lẽ người ta cũng nhận ra tính cách của Têrêsa Avila.  Đó là sự nhạy cảm.

  1. Nhạy cảm trước tình yêu bao la của Thiên Chúa.

Đọc Phúc Âm, ai trong chúng ta cũng biết định nghĩa nổi tiếng của thánh Gioan “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8), nhưng để cảm nghiệm thế nào là sức nặng của định nghĩa vắn gọn và tầm cỡ này, đó lại là chuyện không chỉ dừng lại trong ngôn từ sách vở một thời, mà còn cần đến cả một đời dấn bước kiếm tìm, thậm chí vào sinh ra tử nữa kìa.  Thánh Gioan Tông đồ được Chúa Giêsu yêu dấu, nên từ cảm nhận tới cảm nghiệm có thể là vắn gọn như chính định nghĩa về Thiên Chúa của ông, nhưng với Têrêsa Avila lại là cả một sự vật lộn giữa sóng gió cuộc đời vừa hoạt động để kiếm tìm, vừa chiêm niệm để chiêm ngưỡng.

Trên bức tượng “Ecce Homo – Này là Người” (Ga 19,5) trình bày Chúa Giêsu vì yêu thương loài người mà chịu khổ nạn, để nên tình yêu lớn nhất của người dám chết vì người mình yêu, Têrêsa đã gặp được “tiếng sét ái tình” vào năm 1545, để nghiệm ra rằng: Nếu Chúa vì yêu con người mà phải chịu khổ, thì con người cũng phải làm sao đáp lại cho cân xứng, với tình yêu của Chúa dành cho mình.  Và thế là khởi đi từ sự nhạy cảm trong nhận thức ấy, thánh nữ đã tìm ra nẻo đi của riêng mình là “lấy tình yêu đáp trả tình yêu,” và cứ thế, như ngọn lửa một khi đã bừng lên thì không gì có thể dập tắt được nữa, thánh nữ làm tất cả mọi sự do tình yêu thúc đẩy và dâng hiến tất cả cho tình yêu.

Chả thế mà người ta vẫn bảo: Đường nên thánh của Têrêsa là con đường “bốc lửa”: Lửa chiêm niệm tìm ra ý Chúa mãnh liệt đến độ thường xuyên xuất thần mỗi khi cầu nguyện, và lửa yêu thương tìm gặp gỡ Chúa khít khao như lòng với lòng, đến nỗi có cảm tưởng rằng cuộc đối thoại giữa thánh nữ với Chúa không khác chi những lời gần gũi giữa cánh bạn bè, của người bạn dành cho bạn mình.

  1. Nhạy cảm trước tội lỗi của con người.

Một khi đã coi “phải làm sao cho xứng với tình yêu của Chúa” như một hướng sống, một hướng nên thánh, một hướng cải cách đời tu, thì tâm hồn Têrêsa Avila bỗng trở nên nhạy cảm vô cùng trước những gì được xem là không xứng với tình yêu ấy, trong đó tội lỗi là điều đáng buồn nhất, không phải vì nó xúc phạm tới Thiên Chúa tối cao cho bằng nó phản bội lại Thiên Chúa tình yêu, Đấng đã làm tất cả vì con người và cho con người.

Phản bội trong chính trường được xem là mưu mô, phản bội trong thương trường được coi là mánh mung, nhưng phản bội trong tình trường, dù là tình Chúa hay tình người đi nữa, cũng vẫn là điều đáng buồn nhất.  Chính Chúa Giêsu đã buồn rầu hỏi Giuđa trong vườn Cây Dầu là “anh lấy cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22,48) vì Giuđa là kẻ phản bội.  Và trong truyện “Hèn chi Chúa có ít bạn” kể trên, Têrêsa buồn bã những ba ngày liền, không phải vì tội mình mà vì tội tình của người khác, đã cho thấy một con tim nhạy cảm, không rỗi hơi thương vay khóc mướn, mà chỉ vì tê tái quặn đau thấy người ta phản bội tình yêu của Chúa, còn mình trong tư cách là bạn tâm giao lại chẳng có cách nào mà can ngăn.

Rõ ràng, Têrêsa là một tâm hồn nhạy cảm.  Từ nhạy cảm ngây ngất trước tình thương xót khôn cùng của Chúa, một tình yêu dám từ bỏ “lá ngọc cành vàng” để đành đoạn ôm lấy “phận cỏ mình rơm” cho rặm bụng một đời cứu thế, Têrêsa tự nhiên nhạy cảm khổ đau trước sự khốn cùng của tội lỗi nhân sinh, tội bạc tình, một thứ tội làm tê dại cõi lòng.  Hoá ra, ai càng nhạy cảm với tình thương xót của tấm lòng Thiên Chúa, càng nhạy cảm hơn với sự khốn cùng của tội lỗi con người.

  1. Nhạy cảm trước đường nên thánh là đường Thánh giá.

Đã có lần Chúa Giêsu bảo “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13), để rồi từ đó trở thành quy luật của muôn đời cho những ai dám gán đời mình cho tình yêu Thiên Chúa hoặc mon men muốn nên bạn hữu của Ngài.  Vâng, “yêu ai yêu cả đường đi”, yêu Chúa cũng yêu cả con đường Chúa đi năm xưa là đường Thánh giá, không phải là “mười bốn chặng đường” ngắn ngủi êm ả dễ chịu trong giáo đường, mà là những cảnh đời thường lặp đi lặp lại mỗi ngày, ở đó ý Chúa như búa đập trên ý mình và ý mình như kình chống lại ý Chúa.

Nếu “yêu là chết ở trong lòng một ít”, thì yêu Chúa cũng là phải chết đi ít một trong ý riêng để ý Chúa được thể hiện từng ngày.  Như lương thực hằng ngày của “Kinh Lạy Cha” mà người theo Chúa phải làm quen dần dần từ những bước chập chững đầu tiên cho đến khi thuần thục nhuần nhị để có thể hiên ngang tiến tới trên đường trọn hảo.  Đó là đường tình yêu.  Mênh mông tình Chúa, mong manh tình người, nên cũng là đường Thánh giá, đường Thương khó.

Đó, “yêu Chúa” nói và hát thì dễ, nhưng khi dấn bước vào, người ta mới thấy những nỗi đa đoan vất vả không bao giờ hết, mà chỉ có những tâm hồn nhạy cảm mới có thể dự đoán và an tâm bước đều.  Chúa chúng ta kỳ lắm.  Người yêu những kẻ đóng đinh Người và tha thứ cho họ dễ dàng, nhưng Người lại đóng đinh những kẻ Người yêu và tặng những kẻ yêu Người Thánh giá, không chỉ một lần mà xem ra còn dai dẳng hoài hoài trong đời.  Bằng một tâm hồn nhạy cảm thánh đức, Têrêsa đã hiểu đó là lộ trình nên thánh cho bất cứ ai chọn đi theo Chúa.

Tóm lại, ba nét nhạy cảm: Với tình yêu vô biên của Thiên Chúa, với tội lỗi thấp hèn của nhân loại và với bước đường Thánh giá, với tội lỗi thấp hèn của nhân loại và với bước đường Thánh giá, hy vọng đã một phần nào phác vẽ lên cách đơn giản chân dung của một vị thánh lớn, thánh Têrêsa mẹ, vị anh thư cải cách dòng Cát Minh thế kỷ XVI tại Tây Ban Nha, vị tiến sĩ đã để lại cho Hội Thánh bí quyết chinh phục đỉnh cao tình yêu Thiên Chúa, và cũng còn là vị thánh thân thương có một tâm hồn nhạy cảm phi thường muốn đem tình yêu Thiên Chúa nhân rộng đến hết mọi người.

Xin nhờ lời chuyển cầu của ngài, cho cộng đoàn Cát Minh và cho những ai chân thành yêu mến thánh nữ, được luôn nhạy cảm bền bỉ khơi lên ánh lửa yêu mến trước tình yêu Chúa, để đến khi Chúa muốn, Người sẽ cho biến thành những đám cháy kỳ diệu có khả năng thiêu huỷ tội lỗi, thanh tẩy tâm hồn và lôi cuốn người ta đến với tình yêu thánh hoá, cho dẫu trước mắt vẫn còn là ngổn ngang những Thánh giá của mùa xây dựng, nhưng trong lòng đã nóng bừng hy vọng.  Mong rằng câu nói “Hèn chi Chúa có ít bạn” không phải là một chân lý bất biến, nhưng là một câu nói đang chờ sự đáp ứng, để một khi mọi người đều nhạy cảm quan tâm trở nên bạn hữu của Chúa, thì thay vì ba ngày buồn bã, có lẽ Têrêsa Avila sẽ có nhiều lần ba ngày vui vẻ vì ngỡ ngàng thấy Chúa luôn có nhiều bạn mới.

Vũ Duy Thống, Gm

CHỨNG NHÂN TRONG SỰ HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG

Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu.  Một Têrêsa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục.  Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn zznói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh.  Đó chính là Đức Giám mục Cassaigne.  Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những đau đớn cho người cùng khổ.  Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.

Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai.  Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian.  Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới.  Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phaolô đã từng nói rằng: “Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên.”  Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất?  Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.

Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu “sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung.  Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Tđcv 2, 44).  Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau.  Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.

Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến.  Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa.  Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn.  Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được “toàn dân thương mến” (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương.  Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho “càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội” (Tđcv 2, 47b).

Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân.  Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ.  Lấy “dĩ hòa vi quý” để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông.  Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.

Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của Kitô giáo chính là Mến Chúa – yêu người, thì người người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người.  Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân.  Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu.  Chúng ta không thể là một người Kitô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh.  Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa.  Nhà lãnh tụ Ganhi của Ấn Độ đã từng nói: “Nếu những người Kitô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ.  Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại.”   Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ.  Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta.  Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương.  Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn.  Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.

Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu zzngười nơi mỗi người chúng ta.  Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo.  Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân.  Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối.  Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn.  Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình.  Amen.

LM Jos. Tạ Duy Tuyền
Đức cha Gioan Cassaigne

FATIMA NĂM 1917

Mặt Trời Quay, Một Phép Lạ Vĩ Đại Chưa Từng Xảy Ra Và Không Ai Có Thể Chối Cãi Được!

Chắc hẳn khi nhắc đến tên Fatima, các bạn đã nghe nói đến phép lạ mặt trời quay?

Nhưng các bạn có biết rằng qua cách thức phép lạ xảy ra, thì đây hẳn là một phép lạ vĩ đại nhất chưa từng xảy ra trong lịch sử Giáo Hội?  Hay: Phải chăng đây là một chuyện thêm thắt và bịa đặt thái quá?

Hy vọng qua những dòng sau đây, các bạn sẽ có được sự nhận định chính xác hơn.

Để mọi người tin

Vào ngày 13.10.1917, tại ngọn đồi Cova da Iria ở Fatima, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã hiện ra lần thứ sáu với ba trẻ chăn chiên: Lucia (10 tuổi), Francisco (7 tuổi) và Jacinta (6 tuổi).

Nhưng nhiều người cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra chỉ là trò hề, do ba đứa trẻ nhà quê bịa đặt ra để gạt gẫm người khác, hay do thủ đoạn của những người lớn đứng phía sau giật dây để nhắm tới một mục đích chính trị hay kinh tế nào đó.

Chính bà mẹ Lucia cũng hoàn toàn nghi ngờ, đến nỗi bà còn đánh đập con gái mình vì cho rằng Lucia nói dối.

Để đánh tan sự nghi ngờ và bất tín của thiên hạ, nhất là để mọi người tin nhận biến cố Fatima là sự thật, trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917, Vị Thiên Nữ đã hứa là vào ngày 13.10.1917, sẽ có một phép lạ vĩ đại xảy ra trước sự chứng kiến của mọi người.

Lời hứa này còn được Vị Thiên Nữ nhắc lại vào ngày 19.08.1917 và vào ngày 13.09.1917.

Vâng, trong lần hiện ra vào ngày 13.09.1917, sự thông báo của Vị Thiên Nữ về một phép lạ vĩ đại sẽ xảy ra vào ngày 13 tháng 10 tới, cũng được ba trẻ nói cho mọi người hay.  Vì thế, đúng vào ngày đó, đã có khoảng từ 50 đến 70.000 người đã tấp nập đổ xô về Fatima, trong số họ, gồm có đủ mọi hạng người, từ các tín hữu, những người tò mò cho đến cả những người nghi ngờ chống đối.

Nhiều phóng viên của những tờ báo lớn ở Bồ Đào Nha cũng đều có mặt trong lần hiện ra hôm đó.  Nhưng có lẽ những phóng viên này chỉ muốn đến để soạn sửa cho bản tin ăn khách sẽ được đăng ở trang nhất trên các tờ báo của họ trong số ra ngày mai với tít lớn: “Sự thất bại ê chề của hiện tượng Fatima,” hay: “Nhân loại văn minh của thế kỷ XX vẫn còn bị những chuyện hoang đường lừa đảo” kèm theo những bài bình luận đầy giọng mỉa mai châm biếm tôn giáo, nếu như phép lạ đã được loan báo trước, không xảy ra.  Nhưng vào ngày 13.10.1917, mọi sự đã xảy ra hoàn toàn khác với ý nghĩ của những nhà báo này: Phép lạ cả thể đã thực sự xảy ra; mặt trời đã quay cuồng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người có mặt hôm đó.

Một vị giáo sư là chứng nhân hiện tượng lạ lùng hôm đó

zzỞ đây, chúng ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học tự nhiên đại học Coimbra, kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó.  Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự chú ý của mọi người:

“Hôm đó, tôi đến nơi vào giữa trưa.  Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt, mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập cả cảnh vật.  (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều.  Trong vài giây lát trước đó, mặt trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bỗng chốc nó chiếu sáng qua đám mây.  Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô hình nào đó cuốn hút vậy.  Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời.  Nó trông giống như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi, nhưng không làm lóa mắt.  (…) Nhưng mặt trời vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che khuất sau một đám mây.  Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu trời.  Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động rất nhanh.  Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi sao.  Cái đĩa lửa quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt hôm đó, bỗng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh.  Mặt trời cứ tiếp tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời nó tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa không lồ.  (…) Tất cả những hiện tượng này, tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả.  Tôi cũng hoàn toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.”[1]

Phải chăng đám đông bị thôi miên?

zzHàng chục ngàn người đều đổ nhìn về phía mặt trời đang quay lộn kỳ lạ.  Về phép lạ mặt trời quay, có lẽ sẽ có người cắt nghĩa ngay rằng vì đã được báo từ trước, và đám đông đã đến Fatima với một tâm trạng quá nóng lòng hồi hộp chờ đợi.  Vì thế, khi có một hiện tượng bất bình thường nào đó nơi mặt trời xảy ra, họ đã vội cho là phép lạ, và rồi sự công nhận đó cứ lan tỏa ra nhanh trong đám đông một cách vô ý thức như một dòng điện vậy, tương tự như phản ứng của các khán giả ngồi xem đá banh trong một sân vận động khi có cầu thủ đá thủng lưới đối phương.

Nhưng sự cắt nghĩa đó sẽ hoàn toàn trở nên buồn cười và không thể đứng vững được khi sự kiện cụ thể xảy ra trong thực tế, đó là người ta có thể quan sát và nhìn thấy được phép lạ mặt trời quay trong chu vi rộng 1550 cây số vuông.

Rất nhiều nhân chứng đã từ xa chứng kiến được phép lạ mặt trời, lại là những người vô tín ngưỡng, những người đã từng phê bình và cười chê những khách đến Fatima hôm đó như những kẻ “nhẹ dạ cả tin.”  Trong số những người quan sát được phép lạ mặt trời từ xa, chứ không có mặt tại Fatima, đã cho ý kiến như sau:

Linh mục Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54  km.  Tất cả đều tưởng ngày tận thế đã đến.

Cha Lourenco tường thuật lại như sau: “Tôi nghĩ rằng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia.  Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả.  Mặt trời vào lúc bấy giờ trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của mình, và bỗng chốc nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa.  Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm tận.  Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại; còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường.  Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…

Lúc bấy giờ có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười nhạo những người tới Fatima là “những kẻ ngu ngốc,” cốt chỉ để xem một đứa bé gái nhà quê.  Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời.  Ông ta bắt đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.”[2]

Một hiện tượng không thể cắt nghĩa được

Qua sự trình bày của tất cả mọi nhân chứng có mắt hôm đó khi xảy ra phép lạ mặt trời quay, người ta có thể nói được rằng phép lạ cả thể đó có bốn đặc điểm khác nhau:

  1. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào một vật sáng chói lọi, mà họ cho là mặt trời, chứ họ không cần phải đeo kính râm hay bất cứ phương tiện bảo vệ mắt nào cả.
  2. Vừng sáng chói lọi đó đã tỏa ra những tia sáng mầu sắc rực rỡ xuống trên mặt đất, đến nỗi mọi cảnh vật đều bị nhuộm mầu hết.
  3. Vừng sáng chói lọi rực rỡ đó rơi xuống trên đám đông.
  4. Chỉ trong vòng mấy phút mà cả vùng đất Fatima đang bùn lầy dơ bẩn, bỗng chốc trở thành khô cứng, và áo quần của đám đông trên dưới 60 ngàn người từng bị cơn mưa cả buổi sáng làm ướt đẫm, cũng hoàn toàn khô ráo bình thường.

Đúng vậy, chỉ trong vòng khoảng 10 phút đồng hồ mà cả mặt đất lầy lội cũng như quần áo ướt át của đám đông bỗng chốc khô ráo hoàn toàn.  Đó quả là một điều đã minh nhiên nói lên rằng ngoài phép lạ siêu nhiên ra, không thể tìm ra được lời giải thích theo phương diện tự nhiên được.

Nỗi lo lắng của Mẹ Maria cho con cái loài người

Nếu thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã từng ước ao là khi được về trên trời, thánh nữ sẽ trở thành tình yêu đầy sáng tạo để cứu giúp mọi người, thì nay Fatima và nhất là phép lạ mặt trời quay, là một bằng chứng hùng hồn của tình yêu đầy sáng tạo của Mẹ Maria đối với con cái loài người chúng ta, dĩ nhiên, trên hết là bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa.

Bởi vậy, chúng ta hãy nghiêm chỉnh đón nhận dấu chỉ của sự lo lắng của Mẹ Thiên Chúa; đúng như lời chị Lucia đã cảnh báo: “Fatima luôn luôn mang tính cách thời sự cao điểm của nó.”  Bởi vì, đối với Thiên Chúa, thời giờ là vô tận; nhưng đối với phàm nhân chúng ta, thời giờ luôn có giới hạn của nó.  Và giới hạn đó không ai biết được dài ngắn, lâu mau.  Vì chưa bao giờ có ai biết được mình sẽ được sinh ra lúc nào, và cũng rất ít ai biết được mình sẽ chết lúc nào.  Ngày tận cùng của mỗi người sẽ xảy đến một cách bất chợt, không ngờ trước được, tương tự như một kẻ trộm vậy (x.  Mt 24,37-44).  Do đó, Đức Giêsu đã căn dặn chúng ta: “Các con phải canh chừng, phải tỉnh thức, vì các con không biết khi nào thời ấy đến!” (Mc 13,33).

Nhưng dĩ nhiên, sự tỉnh thức và canh chừng mà Chúa nói đây, không có nghĩa là sự ngồi chờ cách thụ động, vô vi; nhưng là một sự tỉnh thức đầy sáng tạo, nghĩa là một sự tỉnh thức chờ đợi đầy tính năng động mà Mẹ Maria đã chỉ cho chúng ta tại Fatima cách đây đúng 90 năm về trước.  Đó là:

  • Mỗi người phải ăn năn sám hối và cải thiện cuộc sống cá nhân của mình;
  • Hằng ngày hãy siêng năng và sốt sắng lần hạt Mân Côi;
  • Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, như Chúa muốn.

Nếu được thế, thế giới sẽ được hòa bình, nhiều dân tộc sẽ tránh khỏi cảnh bị diệt vong và nhiều linh hồn sẽ không bị trầm luân trong hỏa ngục đời đời.

LM Nguyễn Hữu Thy
Nguồn: vietboston.com

Xin xem thêm:  SỨ ĐIỆP FATIMA

SỨ ĐIỆP FATIMA

[1] Trích trong: Fonseca, “Maria spricht zur Welt”, Fatimas Geheimnis und weltgeschichtliche Sendung, Prof. Dr. L.Gonzaga da Fonseca. Paulusverlag Freiburg Schweiz, 98/99.

[2] Trích trong: “Meet the Witnesses”, John Haffert, World Apostolate of Fatima, 64.