LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm Vọng Phục Sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục Sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô Phục Sinh hiện ra.  Từ những lần thấy Đức Kitô Phục Sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:

  1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường

Đức Kitô Phục Sinh không còn bị giới hạn trong không gian.  Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau.  Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người.  Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới.  Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài.  Người xuất 329hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp.  Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo.  Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài.  Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài.  Đức Kitô Phục Sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Đức Kitô Phục Sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian.  Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya.  Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng.  Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày.  Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối.  Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt.  Không có thời gian nào Người không ở bên ta.

Đức Kitô Phục Sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định.  Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.  Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá.  Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa.  Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi.  Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.

  1. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô Phục Sinh khơi dậy niềm bình an, tin tưởng

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô Phục Sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con.”  Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần.”

Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo.  Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình.  Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước.  Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình.  Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần.  Sau khi gặp Đức Kitô Phục Sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến.  Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.

  1. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu Phục Sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ.  Các môn đệ tuyệt vọng.  Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường.  Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì.  Họ như đã chết với Thầy.  Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi.  Đức Kitô là linh hồn của họ.  Linh hồn đã ra đi.  Xác sống sao được.

Khi Đức Kitô Phục Sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.

  1. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô Phục Sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh

Đức Giêsu Phục Sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ.  Đức Kitô Phục Sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời.  Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó.  Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bất chấp trời đã tối đen.  Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh.  Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.”

Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh.  Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng.  Vì Đức Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ.  Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng.  Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta.  Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên.  Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.

Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: Trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời.  Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú mẹ.  Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách.  Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ.  Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường.  Người ở bên ngưỡng cuộc đời bế tắc không lối thoát.

Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người.  Hãy khao khát đón chờ Người.  Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người.  Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào.  Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.

Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn.  Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

PHỤC SINH LÀ GÌ?

328Phục Sinh là người chết sống lại, hay là sự sống lại từ cõi chết (chứ không phải luân hồi hay đầu thai kiếp khác).  GLGHCG điều 997 định nghĩa: “Sống lại là gì?  Trong sự chết, linh hồn lìa xa thân xác, xác con người ta sẽ hư nát trong khi linh hồn tới gặp Thiên Chúa và chờ đợi tới lúc tái hiệp nhất với thân xác được tôn vinh của mình.  Với sức Toàn năng của mình, Thiên Chúa sẽ vĩnh viễn trả lại sự sống bất diệt cho thân xác của chúng ta bằng cách kết hiệp chúng với linh hồn của chúng ta do quyền năng của Chúa Giêsu Phục Sinh.”

Công đồng Latêranô thứ tư (1215) dạy rằng khi Thiên Chúa trở lại lần thứ hai tất cả mọi người, dù đang ở trong địa ngục cũng sẽ đuợc sống lại cùng với thân xác của họ, để chịu sự phán xét của Thiên Chúa về những việc họ đã làm khi còn sống (lúc này chưa có tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, đến 08-12-1854 mới có).  Theo ngôn ngữ của tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính thì sự sống lại được gọi là sự sống lại của thân xác, vì hai lý do.  Thứ nhất, linh hồn được phát xuất từ Thiên Chúa nên bất tử, do đó không thể gọi là sống lại; thứ hai, theo lạc thuyết mà Thánh Phao-lô đã chỉ trích: “Trong số những người đó có Hy-mê-nê và Phi-lê-tô.  Hai người này đã đi trệch đường chân lý, khi nói rằng sự phục sinh đã xảy ra rồi và như vậy họ phá đổ đức tin của một số người” (2Tm 2:17-18).  Lạc thuyết này cho rằng theo Thánh Kinh thì sự sống lại không phải là thân xác được sống lại, nhưng là sự sống lại của linh hồn từ sự chết trong tội, và linh hồn ấy được vào trong sự sống của ân sủng.  Chúng ta phải loại trừ lạc thuyết này, vì nó sai trật hoàn toàn với tín điều xác loài người ngày sau sống lại của Giáo Hội Công Giáo chúng ta.

Đối với Chúa Giêsu, Ngài có hai bản tính.  Dĩ nhiên với bản tính thần linh làm sao sự chết có thể đụng đến được.  Ngài sống lại vì bản tính, thân xác loài người của Ngài.  Chính thân xác loài người của Ngài sống lại là bảo đảm và bằng chứng rõ ràng cách tuyệt đối cho niềm tin của người Kitô hữu chúng ta. Ngài đã chứng tỏ có uy quyền trên mọi sự dữ, tội lỗi và kể cả tử thần.  Ngài sống lại và sau đó về trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, nghĩa là Ngài rất quyền uy và đã đem theo cả thân xác phàm trần lên Thiên quốc.  Trước kia Chúa phán “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13), nhưng nay thân xác phàm trần hèn hạ, ô uế của chúng ta cũng sẽ được diễm phúc tiến vào Thiên quốc, vì Ngài đã hứa: “… vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.  Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:2-3).

Vào thế kỷ 13, Thánh Tôma A-qui-nô (Tiến Sĩ Hội Thánh) được chỉ định để giải thích ý tưởng thần học của Kinh Tin Kính.  Căn cứ từ Thư Thứ I Corintô 15: 42-44 của Thánh Phaolô Tông Ðồ, Ngài đã nêu lên nhiều đặc tính sau khi sống lại.  Bốn trong số đó là:

1/ Không bị chi phối bởi cảm xúc (Impassibilitas): Không biết đau đớn; không cần những nhu cầu cho thể lý như ngủ nghỉ, lương thực.

2/ Sự trong suốt sáng láng (Claritas): Sự trong suốt sáng láng hoàn hảo của linh hồn được thể hiện trên những nét đặc trưng của thân xác.  (Có lẽ đây là lý do khiến các tông đồ không thể nhận ra Chúa ngay, đòi hỏi phải có thời gian mới quen mắt).

3/ Sự nhanh nhẹn (Agilitas): Có thể di chuyển nhanh như sự suy tưởng, nghĩa là nghĩ đến nơi nào là xuất hiện tại nơi đó tức thì.  Chúa Kitô đã đến hoặc đi trong tích tắc.

4/ Tính huyền ảo (Subtilitas): Có khả năng đi xuyên qua các vật thể cứng mà không để lại dấu vết.  Chỉ có Thiên Chúa mới biến đặc tính này thành phép lạ: Đó là Ngài có thể ăn uống, đụng chạm đến người khác bằng xuơng bằng thịt thật sự.

Nhân tiện xin nêu thêm một đặc điểm về tuổi tác khi sống lại.  Thánh Tôma-A-qui-nô viết: “Tất cả đều được sống lại ở độ tuổi hoàn hảo, lý tưởng, đó là tuổi ba mươi hai hoặc ba mươi ba.  Bởi vì những ai chưa đạt đến độ tuổi này, tức là chưa có những đặc tính hoàn hảo, lý tưởng của độ tuổi đó, và những người già cả thì đã bị mất đi những đặc tính này.  Do đó trẻ em và những người trẻ tuổi sẽ được bổ sung những đặc điểm họ thiếu, còn những người già cả sẽ được phục hồi những đặc tính đã mất: “Cho tới khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Ðức Kitô” (Eph 4:13).  Ðiều này có lẽ đã được chứng minh mỗi lần Ðức Mẹ hiện ra như ở Lộ Ðức, Fatima và các nơi khác v.v… đều được chứng thực là một phụ nữ trẻ, đẹp (khi Ðức Mẹ từ trần cũng đã già lắm, it ra cũng 60 hay 70 tuổi chứ không còn trẻ đẹp).

Tóm lại, chính Thần Khí của Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu sống lại, thì cũng chính Thần Khí ấy sẽ làm cho chúng ta sống lại.  Và nếu Thiên Chúa đã đem cả thân xác nhân loại của Ngài vào Thiên quốc, thì chúng ta cũng tràn ngập hy vọng, hân hoan, chắc chắn sẽ được gặp và ở với Ngài trên Thiên quốc như Ngài đã hứa.

Sưu tầm

http://www.dccthaingoai.com

 

***************************************

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

 

ĐỨC GIÊSU VẪN SỐNG

411Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó.  Chị cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết mồ nơi an táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia.  Chị chạy về báo tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan.  Hai môn đệ này tới, và cũng nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa.  Tin mừng Gioan cho thấy “người môn đệ đến trước,” đã thấy và đã tin (Ga 20:8); tuy nhiên tin mừng lại không cho thấy ông tin điều gì.  Theo tin mừng Maccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc 16:9-14).

Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài.  Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ, Thomas không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông.  Tám ngày sau, khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin.  Phục Sinh, là điều vượt trên kinh nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục Sinh, cũng là điều dễ hiểu.  Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống lại.  Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được.  Ngài hiện ra và biến đi, không gì ngăn cản được Ngài.

Những người được Đức Giêsu phục sinh như Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ.  Đức Giêsu Phục Sinh thì không như vậy.  Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp Ngài mà thôi.  Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv 1:3); nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh nữa.  Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài.  Đức Giêsu Phục Sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết.  “Phúc cho những ai không thấy mà tin.”  Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin.  Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao.  “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí” (1Cor 12: 3).

Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự do.  Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu Phục Sinh, không đạt được tính buộc người ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4.  Người ta vẫn tự do để tin Đức Giêsu Phục Sinh hay không.  Tin cũng là biết.  Hai anh chị yêu nhau, người này nói yêu người kia, và người kia cần tin.  Tin vào người khác, là một cách biết người đó.  Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và nếu không tin thì không thể biết được vậy.

Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh.  Sau đó những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ.  Các tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự thật.  Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng.  Lời chứng đáng tin nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều mình khẳng quyết là sự thật.  Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.

Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều bình thường.  Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn.  Kitô hữu không ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh.  Kitô hữu cũng biết rằng họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn.  Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu.  Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta.  Muốn tin Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.  Tin Đức Giêsu Phục Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được.  Đó là hồng ân của Thánh Thần.

Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin.  Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh.  Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện.  Không sẵn sàng đổi đời để thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.

Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng là những người ý thức mình được ơn đặc biệt.  Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân vô cùng lớn.  Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên Chúa, và về con người.  Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng.  Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng, Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.

LM Giuse Phạm Thanh Liêm

SỰ THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU THEO THÁNH GIOAN

Mỗi năm vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, giáo hội chúng ta đều đọc Sự thương khó của Chúa Giêsu theo thánh Gioan.  Như chúng ta biết, phúc âm của thánh Gioan viết sau các phúc âm khác, có lẽ khoảng bảy mươi năm sau khi Chúa Giêsu chết, các năm tháng này đã cho thánh Gioan nhiều thì giờ chiêm nghiệm về cái chết của Chúa Giêsu, nêu bật lên một số khía cạnh mà các phúc âm khác không nêu rõ bằng.  Những khía cạnh đặc biệt đó là gì?

323Lời kể của thánh Gioan về cái chết của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến cuộc xét xử.  Phần lớn tập trung vào cuộc xét xử chúa Giêsu và phán quyết cuối cùng là lên án tử hình.  Nhưng nó được viết một cách tài tình.  Gioan viết về cuộc xét xử Chúa Giêsu theo một cách mà, trong khi Chúa Giêsu là người đang bị xử tội, thì tất cả các người khác đều đang bị xét xử ngoại trừ Ngài.  Philatô đang bị xét xử, các nhà cầm quyền Do Thái đang bị xét xử, các vị tông đồ và môn đệ của Giêsu đang bị xét xử, đám đông đứng xem xử tội đang bị xét xử, và chúng ta những người nghe câu chuyện này bị xét xử.  Riêng một mình Chúa Giêsu là không bị xét xử, dù cuộc xử tội của Người là cuộc xử tội của mọi người khác.  Vì vậy mà khi Philatô hỏi Chúa Giêsu:  Sự thật là gì?  Thì sự im lặng của Chúa Giêsu đã đưa Philatô ra xét xử bằng cách ném lại sự im lặng cho chính ông, sự thật của chính ông.  Với chúng ta cũng vậy.

Tiếp theo, thánh Gioan nhấn mạnh vào thiên tính của Chúa Giêsu trong câu chuyện về sự Thương khó của Ngài.  Như chúng ta biết, phúc âm của thánh Gioan nhấn mạnh về sự hiện hữu trước của Chúa Giêsu với thiên tính của Người nhiều hơn là nhân tính.  Điều này soi sáng trong toàn bộ câu chuyện: Trong phúc âm thánh Gioan, Chúa Giêsu dù đang bị đóng đinh trên thập giá nhưng Người luôn luôn chủ động.  Người không hề e sợ, không tỏ vẻ yếu đuối, mang thập giá của chính mình, chết một cách thanh thản và được chôn như một vị vua (với dầu thơm và dầu lô hội, áo liệm ướp hương nhu).  Giêsu của thánh Gioan không cần bất kỳ ông Simon vùng Cyrene nào mang giúp thánh giá, cũng không hề khóc lóc trong đau đớn và bị bỏ rơi.  Thánh Gioan viết sự Thương khó của Chúa từ góc độ thiên tính của Ngài.

Sau đó thánh Gioan sử dụng một số hình ảnh có tác động mạnh để giúp nhấn mạnh những điểm này.

Thánh nhân viết Giuđa và quân lính đến bắt giữ Giêsu mang theo “đèn lồng và đuốc.”  Người định nêu một nét khôi hài mạnh mẽ như sau:  Giêsu là ánh sáng của thế gian và không thể không nhận thấy nét khôi hài ở đây, những kẻ chống đối người, những kẻ đến tìm người mà phải tự dẫn đường bằng thứ ánh sáng nhân tạo yếu ớt – đèn lồng và đuốc.  Bên cạnh những điều khác, điều này cho thấy bọn họ yêu thích bóng tối hơn ánh sáng và họ biết những gì họ đang làm chỉ làm được ban đêm vì nếu làm dưới ánh sáng mặt trời, chuyện này sẽ bị phơi bày một cách nhục nhã.  Những thế lực chống đối Chúa cần phải có lớp che đậy là bóng đêm và ánh sáng nhân tạo.

Kế đó, vào cuối cuộc xét xử, Philatô đưa Giêsu ra trước đám đông và hỏi họ có muốn công nhận Người là vua của họ hay không.  Bọn họ đáp lại: “Chúng tôi không có vua nào, trừ Xêda!”  Về mặt lịch sử, đối với người theo đạo Do Thái, nói như vậy vào thời Chúa Giêsu giống như chối bỏ hy vọng của họ về Đấng Thiên Sai.  Điều này cũng đúng với chúng ta:  Bất cứ khi nào chúng ta không thừa nhận quyền năng của Chúa nơi con người đang bị đóng đinh trên thập giá kia, chúng ta đang chối bỏ hy vọng cứu rỗi của chính mình và công nhận quyền năng của thế gian này, đối với chúng ta, là thực tại sâu sắc nhất.

Ngoài ra, câu chuyện thương khó của thánh Gioan nhấn mạnh Chúa Giêsu bị kết án tử hình vào chính ngọ, chính cái giờ trước ngưỡng cửa của lễ Vượt Qua khi các thầy tư tế trong nhà thờ bắt đầu giết cừu tế lễ.  Rõ ràng có thể suy luận ra:  Giêsu chính là con cừu tế lễ thật sự đã chết để chịu tội.

Cuối cùng, trong câu chuyện về sự thương khó của thánh Gioan, sau khi Chúa Giêsu chết, binh lính đến và lấy mũi giáo đâm mạn sườn Người.  Ngay lập tức máu và nước chảy ra.  Đây là hình ảnh giàu ý nghĩa:  Trước hết, nó tượng trưng cho sự ra đời.  Khi đứa trẻ chào đời, máu và nước đều chảy ra.  Đối với thánh Gioan, cái chết của chúa Giêsu là sự chào đời của một điều gì đó mới mẻ trong đời sống chúng ta.  Đó là điều gì?

Các Kitô hữu đôi khi quá vội vàng coi hình ảnh này là ngụ ý về các bí tích của lễ Rửa Tội và Thánh Thể, dòng máu chảy là tượng trưng cho Thánh Thể và dòng nước tượng trưng cho Rửa Tội.  Có thể điều này thật sự có ý nghĩa, nhưng trước hết có một điều còn quan trọng căn bản hơn hình ảnh đó:  Máu tượng trưng cho dòng sự sống trong chúng ta.  Nước vừa xoa dịu cơn khát vừa rửa sạch bụi bặm khỏi thân thể chúng ta.  Điều mà thánh Gioan muốn nói qua hình ảnh này là những người chứng kiến cái chết của chúa Giêsu nhận ngay lập tức tình thương mà Giêsu đã thể hiện qua việc chết theo cách đó đã tạo ra một nguồn năng lượng và tự do mới trong cuộc đời của họ.  Họ cảm thấy vừa có một nguồn năng lượng vừa là một sự gột rửa, máu và nước, tuôn chảy từ cái chết của Giêsu.  Cốt yếu, họ cảm thấy một quyền năng chảy từ cái chết của người vào cuộc đời họ giúp họ sống bớt sợ hơn, ít mặc cảm tội lỗi hơn, nhiều niềm vui hơn, và nhiều ý nghĩa hơn.  Điều này vẫn còn đúng với chúng ta ngày nay.

Câu chuyện thương khó của thánh Gioan đem tất cả chúng ta ra xét xử và đưa ra một phán quyết giải phóng chúng ta khỏi những xiềng xích sâu xa nhất của mình.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 

RỬA CHÂN

321Khi tham dự phụng vụ ngày Thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta hãy suy niệm những bài học Chúa Giêsu đã làm.

Rửa là hành động làm cho sạch.  Cái gì cũng phải rửa mới sạch, thân xác cần được rửa đã đành, chính tâm hồn cũng cần được rửa để làm sạch những “vết nhơ.”

Rửa chân là bổn phận phục vụ và là công việc của tôi tớ (hoặc nô lệ).  Ngày xưa, tôi tớ phải rửa chân cho chủ.  Rửa chân là một cách phục vụ của tôi tớ.  Chúa Giêsu là Thầy và là Chúa nhưng Ngài đã hạ mình để làm việc của tôi tớ mà rửa chân cho người khác, dù Ngài đã xác định: “Tôi tớ không trọng hơn chủ” “kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi.”  Trước khi các Giáo hoàng ký các văn bản, truyền thống Giáo hội có “cách nói” khiêm nhường thật tuyệt vời: “Tôi tớ của các tôi tớ.”

Có lẽ chân đi nhiều nên phải rửa.  Tay muốn phạm tội mà chân không đi thì cũng… “bó tay.”  Rửa chân còn có nghĩa là yêu thương, khiêm nhường, phục vụ và tha thứ.

Rửa Chân Là Yêu Thương

Trong Phúc âm, thánh Gioan ghi chép lại nghi lễ rửa chân do chính Chúa Giêsu thực hiện vào đêm cuối đời Ngài trên thế gian.  Đây là điểm khác so với các Phúc âm nhất lãm.  Rửa chân người khác là hành động yêu thương.  Nghi thức rửa chân chỉ có trong Phúc âm của thánh Gioan – là “chàng trai trẻ” tự xưng “người môn đệ Chúa yêu” và vì thế mà thánh Gioan cũng rất thích nói về tình yêu.  Người rửa chân là “người thực hành yêu thương,” còn người được rửa chân là “người được yêu thương” – và cũng có trách nhiệm yêu thương người khác.

Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8).  Tình yêu ấy là Lòng Thương Xót vô biên của Ngài, là khối tình cuồng si không ai hiểu thấu: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10).  Tình yêu có lý lẽ riêng của con tim mà lý trí không thể hiểu hết, nó có những nghịch lý vừa “kỳ diệu” vừa “dễ thương” và khả dĩ chấp nhận.  Thánh Gioan phân tích: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Ngài nơi chúng ta mới nên hoàn hảo (1 Ga 4:12).  Đại văn hào Victor Hugo cũng có ý tưởng độc đáo: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa.  Chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chết vì yêu lại là sống trong tình yêu.  Quá ngược đời, và lạ thật!  Người đời còn nhận ra như vậy, huống chi Thiên Chúa.

Rửa Chân Là Khiêm Nhường

Người có lòng yêu thương thì luôn sống khiêm nhường.  Mà khiêm nhường chính là nền tảng mọi nhân đức.  Rửa chân người khác là động thái chứng tỏ sự khiêm nhường, khi chúng ta làm vậy là chúng ta vâng lời mà thực hành mệnh lệnh Chúa Giêsu đã truyền dạy.  Chúa Giêsu quan tâm công việc mà người ta cho là hèn hạ đó, thế nên chúng ta cũng phải noi gương mà làm với sự vui vẻ và lòng khiêm nhường, khi đó chúng ta sẽ cảm nghiệm được ý nghĩa sâu xa để hiểu đúng và làm đúng.  Ý nghĩa sâu sắc này sẽ giúp chúng ta nhận ra tầm quan trọng của gương Chúa Giêsu đối với chúng ta ngày nay.

Có vẻ lạ khi 3 tác giả phúc âm kia (Mátthêu, Máccô và Luca) tập trung vào Bánh và Rượu mà Chúa Giêsu biến thành Mình Máu Ngài lúc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể vào chiều tối ngày Thứ Năm Tuần Thánh, buổi tối cuối cùng của đời Ngài.  Tông đồ Gioan lại có cái nhìn hoàn toàn khác. Chúng ta biết rằng “người môn đệ Chúa yêu” ghi lại đầy đủ các hành động và lời nói của Chúa Giêsu, còn các tác giả kia không ghi lại.  Câu trả lời có thể đơn giản là Gioan cảm thấy nghi thức rửa chân cần được thuật lại trong Tân ước.  Mặt khác, Gioan có thể nhận thấy có sự nối kết trực tiếp giữa việc rửa chân và “việc làm khác thường” của Đức Kitô trong cuộc đời Ngài, trong cái chết của Ngài và sự sống đời sau.

Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã noi gương Chúa Giêsu một cách trọn vẹn, không chỉ rửa chân cho người khác mà còn cúi xuống hôn chân người được rửa chân.  Một động thái “kỳ lạ” gây ấn tượng rất sâu sắc, nhưng thật là dễ thương!

ĐGH Phanxicô, lúc còn là Hồng y Bergoglio TGM của TGP Buenos Aires, ngài cũng đã rửa chân và hôn chân người được rửa.  Một biểu hiện của đức khiêm nhường và tôn trọng nhân vị của người khác.  Ngài chỉ thở bằng một lá phổi từ hồi thiếu niên, nhưng ngài vẫn khỏe mạnh vì lá phổi đó hít thở không-khí-yêu-thương của Đức Kitô.  Ngài sống giản dị, thương người nghèo, tự nấu ăn và không có xe đưa rước, sống cầu nguyện, điều đó cho thấy ngài là một người thánh thiện.

Ngày nay khó tìm được những linh mục, giám mục và hồng y sống khó nghèo như vậy.  Không can đảm thì không thể sống nghèo và sống phục vụ trong yêu thương!  ĐGH Phanxicô đã và đang làm gương cho mọi người là HÀNH ĐỘNG chứ không NÓI SUÔNG, nhất là đối với những người Công giáo, và đặc biệt là đối với các giáo sĩ.

Rửa Chân Là Phục Vụ

Người có lòng khiêm nhường thì luôn sẵn sàng phục vụ người khác.  Chúa Giêsu xác định: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20:26).  Ngài không nói cho có lệ, không nói suông, mà chính Ngài đã nêu gương và xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụhiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45).

Nghi thức rửa chân được ghi lại trong Ga 13:1-17 cho chúng ta một cái nhìn mới về tính cách của Đấng Cứu Độ.  Khi nào chúng ta áp dụng bài học “độc nhất vô nhị” này trong đời sống, chúng ta sẽ có thể hiểu hơn về lý do có người vẫn cố gắng đi tìm hạnh phúc mà chưa đạt được trọn vẹn, còn có người lại may mắn đầy ắp niềm vui sướng – như người Việt Nam nói: “Sướng từ trong trứng sướng ra” hoặc “đẻ bọc điều.”  Đây cũng là một bí ẩn mầu nhiệm của cuộc đời, một dạng “vô cực.”

Chúa Giêsu đã làm công việc mà người ta cho là hèn hạ, đó là rửa chân, nhưng không phải là rửa chân cho người trên mà là rửa chân cho người dưới quyền mình.  Rõ ràng là Ngài không muốn được phục vụ mà chỉ muốn phục vụ.  Tuy nhiên, đó cũng chính là mệnh lệnh của Ngài: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa.  Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.  Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-16).

Thánh Luca cũng nói đến việc đó trong buổi tối lễ Vượt Qua: “Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất.  Đức Giêsu bảo các ông: Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân.  Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.  Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai?  Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ (Lc 22:24-27).

Qua hành động, Chúa Giêsu cho thấy rõ rằng Ngài không đòi hỏi chúng ta làm gì cho Ngài, dù Ngài là Thủ lĩnh và Đại huynh của chúng ta, đáng lẽ Ngài phải được người khác phục vụ, thế mà Ngài lại phục vụ họ – tức là chúng ta, và Ngài không chỉ muốn mà còn bắt buộc chúng ta phải vui vẻ phục vụ nhau.  Như vậy, chắc chắn sự phục vụ là thực chất của việc lãnh đạo.

Chúa Giêsu thích phục vụ, cả đời Ngài rong ruổi khắp nơi để phục vụ người khác – đặc biệt là những người nghèo khổ.  Điều này được xác định qua mẩu đối thoại giữa Chúa Giêsu và tông đồ Phêrô trong trình thuật Ga 13:6-10: “Chúa Giêsu đến chỗ ông Phêrô, ông liền thưa với Ngài: “Thưa Chúa, Thầy mà lại rửa chân cho con sao?”  Chúa Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.”  Ông Phêrô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!”  Nhưng Chúa Giêsu nói ngay: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.”  Sợ không được chung phần, ông Phêrô phấn khởi: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân mà cả tay và đầu con nữa.”  Chúa Giêsu cười rất hiền: “Ai đã tắm rồi thì không cần phải rửa nữa, toàn thân người ấy đã sạch.”  Và Ngài “láy” một câu quan trọng: “Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!”

Rửa Chân Là Tha Thứ

Người mau mắn phục vụ thì dễ dàng tha thứ.  Vì cảm nghiệm được ơn tha thứ nên muốn tha thứ, muốn rửa mình và rửa người khác.  Ở đây, động từ “rửa” không chỉ là làm cho sạch mà còn là tha thứ.  Phàm cái gì bẩn thì phải rửa, dù bẩn theo nghĩa đen hay nghĩa bóng.  Thánh vương Đa-vít cũng đã cầu nguyện: “Xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:4).

Rửa sạch là việc cần làm ngay, tha thứ cũng là việc cần làm càng sớm càng tốt và càng nhiều càng tốt.  Có lần ông Phêrô hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” (Mt 18:21).  Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22).  Không chỉ vậy, chúng ta còn phải yêu thương, tha thứ, cầu nguyện và làm ơn cho cả kẻ thù nữa (Mt 5:44; Lc 6:27).  Khó quá, nhưng không được phép không làm!

Tha thứ mỗi ngày 1 lần cũng khó rồi, nhất là khi “sự xung đột” trầm trọng, huống chi mỗi ngày tha thứ 7 lần.  Giáo hoàng Phêrô nghĩ mình có thể tha thứ 7 lần là “khá” lắm rồi, ai dè…!

Chúng ta thực sự may mắn nên có thể tạ ơn vì luôn tận hưởng hồng ân tha thứ mỗi khi chúng ta cần đến Lòng Thương Xót của Chúa.  Nếu chúng ta không biết tha thứ thì chúng ta là người đầy tớ không biết thương xót đồng loại (x. Mt 18:23-35), nghĩa là chúng ta vừa ích kỷ vừa độc ác nên không thể được Thiên Chúa tha thứ!

Lòng Chúa Thương Xót quá lớn nên ơn tha thứ của Ngài cũng vô cùng, vẫn cầu xin Chúa Cha thương chính những kẻ đã dã tâm giết chết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).

Lạy Chúa, xin rửa chúng con được sạch.  Xin giúp chúng con biết chân thành yêu thương, luôn sống khiêm nhường, vui vẻ phục vụ và mau mắn tha thứ cho nhau như Con Một Ngài.  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con.  Amen.

Trầm Thiên Thu

 

NGƯỜI CHA CỦA ĐỨC GIÊSU

318Nếu bạn hỏi mười người xem, ngoài Ðức Mẹ, vị thánh lớn nhất đối với họ là ai, thì có sáu đến bảy người sẽ nói rằng đó là thánh Giuse.

Nhưng nếu đề nghị họ kể bạn nghe những điều thánh Giuse đã làm, thì rất ít người có thể nói một cái gì mới lạ: họ sẽ bảo rằng thánh Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu, hoặc kể vài chuyện truyền kỳ về ngài mà ta không biết đúng sai đến độ nào: ví dụ như câu chuyện chàng thanh niên Giuse được chọn làm hôn phu của cô Maria vì cây gậy của chàng trổ hoa…

Ta hãy trở lại Kinh Thánh để xem các tác giả viết gì về thánh Giuse.

Thánh Mat-thêu giới thiệu như sau: “Bà Maria, thân mẫu của Ðức Giêsu, đính hôn với ông Giuse, nhưng trước khi chung sống thì đã có thai bởi phép Chúa Thánh Thần.  Ông Giuse, vốn là người công chính, không muốn tố cáo bà công khai, nên định bỏ bà kín đáo.  Ông tính làm như vậy thì có sứ thần của Chúa đến báo mộng rằng: “Này Giuse, đừng sợ rước Maria về…” Thức giấc, ông Giuse vâng theo sứ thần Chúa dạy, rước vợ mình về nhà.” (Mt 1, 18-24)

Bạn thuộc đoạn văn trên nằm lòng đến độ tôi rất ngại ngùng khi phải chép lại.  Mọi chuyện đã rõ:  Thánh Giuse có do dự đấy, nhưng thiên sứ đã đến sắp xếp mọi việc và đâu lại vào đấy, đúng với “chương-trình-mầu-nhiệm-của-Thiên-Chúa”

Mọi chuyện có thực sự xảy ra dễ dàng như thế không?

Tôi không chắc đâu.

Hình ảnh thánh Giuse luôn luôn là một cụ già râu tóc uy nghi, một người cha nhân lành và không biết thế nào là đam mê của tuổi trẻ.

Xin bạn nhớ cho: Cô Maria lúc ấy là một thiếu nữ vào độ tuổi 15-17, thế thì chàng hôn phu không thể là một ông già.  Chàng Giuse lúc bấy giờ là một chàng trai đầy sức sống ở lứa tuổi đôi mươi.  Chàng và Maria yêu nhau thắm thiết.  Cặp tình nhân đẹp tuyệt vời, nhất là ở nét đẹp tâm hồn.  Giuse thật hạnh phúc và bình an: Một người như Maria thì không thể có gì bất trắc xảy ra khiến cho cuộc sống gia đình tương lai họ bị đe dọa.

Thế mà đùng một cái: Người hôn thê thánh thiện của chàng lại mang thai!  Giuse có giàu óc tưởng tượng đến đâu cũng không thể hình dung nổi một tiếng sét giữa trưa hè chói chang như thế!

Thế nhưng, sự việc đã hiển nhiên như vậy đó.  Dù vậy, tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trỗi vượt.  Ông không hề quay lại bản thân để cảm thấy mình bị lừa dối, bị xúc phạm, mà chỉ hướng về người yêu để tiếp tục tin rằng người hôn thê mình trong sạch vẹn tuyền.  Ông không hề tra hỏi dằn xé Maria một lời.  Ông im lặng ôm lấy nỗi đau và âm thầm trả Maria về với bí mật của cô.

Bạn sẽ bảo rằng tình yêu này đã được tưởng thưởng, bởi vì sau đó, sứ thần đã đến trình bày mọi sự.  Bạn có đi quá xa thực tế chăng?

Kinh Thánh ghi rõ: “Sứ thần đến báo mộng…”  Bạn thử sống lại hoàn cảnh của Giuse lúc ấy xem.  Bạn có một người hôn thê, bỗng nàng có mang, bạn nằm mộng thấy thiên thần bảo rằng hôn thê mình chưa bao giờ liên hệ với một thanh niên nào và bào thai trong lòng là do phép lạ Thiên Chúa.  Khi thức giấc, bạn có tin không?  Tôi thì dứt khoát không.

Thế mà Giuse đã làm gì nào?  “Thức giấc, Giuse vâng theo sứ thần, rước vợ mình về nhà.”  Ðơn giản chỉ có thế.  Ðơn giản đến độ vô lý.

Vâng, thế đấy.  Giuse vâng phục thánh ý Chúa một cách chóng vánh, quyết liệt và dứt khoát đến độ vô lý.  Ông chỉ cần một dấu hiệu cỏn con là đọc được thánh ý Chúa và thực thi ngay lập tức:  Đó là lý do mà ông được gọi là “người công chính.”

Còn bạn và tôi thì sao?

Chúng ta có tự coi mình là công chính chăng?  Chúng ta có sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa qua một dấu hiệu thật nhỏ và tuân theo mà không bàn cãi chăng?  Hay chúng ta chờ đợi những phép lạ nhãn tiền và sau đó, lý luận, mặc cả trước khi hành động?

Người công chính” Giuse suốt đời là một người luôn thức tỉnh trước thánh ý Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.  Bằng chứng?  Bằng chứng là mỗi lần Chúa tỏ ý, là mỗi lần ông nằm mộng.

Ngoài lần nằm mộng ở Nazaret, thì ít nhất còn ba lần khác:

– Ở Bêlem: Sứ thần đến với ông Giuse báo mộng rằng: Hãy chỗi dậy, đem Hài nhi trốn sang Ai-cập… (Mt 2, 3)

– Ở Ai-cập: Sứ thần hiện ra báo mộng cho ông Giuse ở bên Ai-cập, bảo rằng: Hãy chỗi dậy, đem Hài nhi về Israel… (Mt 2, 19)

– Ở Giuđê: Khi biết Akêlao thay Hêrôđê thì ông sợ, thế là theo như lời Thiên Chúa báo mộng, ông lánh sang vùng Galilê (Mt 2, 23)

Sở dĩ Giuse xác tín rằng các giấc mộng của mình đúng là thánh ý Chúa, ấy là vì cứ mỗi lần nằm mộng, là mỗi lần ông phải quyết định ngược lại với mọi toan tính của mình.

Khi ông dự định âm thầm rời bỏ Maria thì Thiên Chúa bảo ông ở lại với hôn thê mình.

Ngược lại, khi ba vị đạo sĩ đến xác nhận vương quyền của Hài nhi và hẳn là người cha nuôi nghĩ rằng mình sẽ có thể thoải mái ở lại Bêlem cho đến khi con mạnh mẹ khỏe, thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay, giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc; không phải về quê nhà, mà sang Ai-cập để sống kiếp lưu đày.  Ông nghĩ gì khi trước mặt là đường dài vạn dặm, mà vợ yếu con sơ?  Ông nghĩ gì khi ngày mai, ở xứ lạ quê người, tương lai ông cũng tối đen như trời khuya hôm ấy?

Thánh Kinh nói rất gọn: “Giuse chỗi dậy, đem Hài nhi và Mẹ trốn sang Ai-cập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2, 13).  Lại thật đơn giản.  Ðơn giản đến độ vô lý.

Sau những ngày đầu khó khăn ở Ai-cập, giờ đây, Giuse hẳn đã sắp xếp ổn định cuộc sống gia đình.  Thế nhưng, một lần nữa, Chúa lại bảo ông phải bỏ tất cả mà ra đi.  Ông nghĩ gì khi nhìn lại cơ ngơi mà ông đã xây dựng từ hai bàn tay trắng?  Ông nghĩ gì khi nhìn về cái quê hương đã muốn giết hại con mình, rồi giờ này ông lại phải trở về mà không biết sẽ cư ngụ nơi đâu?  Nhưng Giuse vẫn là Giuse. “Giuse chỗi dậy đem Hài nhi và Mẹ về đất Israel” (Mt 2, 21).  Cũng lại đơn giản đến độ vô lý.

Tất cả những truân chuyên mà Giuse gánh chịu, rốt cuộc để làm gì?  Phải chăng vì lợi ích bản thân?  Tuyệt nhiên là không.  Tất cả là để bảo vệ Hài nhi, mà có lần trong mộng, ai đó đã bảo rằng Hài nhi ấy sẽ là vị cứu tinh dân tộc.  Giuse không bao giờ đặt lại vấn đề.  Không bao giờ ông cho rằng con trẻ gây cho ông quá nhiều rắc rối.  Ông chỉ một mực canh giữ con trẻ, người con do Thánh Thần, trong mọi toan tính hằng ngày.

Bạn và tôi có sẵn sàng trả giá để cho Chúa Giêsu luôn mãi sống trong mình chăng?  Hay nhiều khi quá mệt mỏi, ta chỉ muốn yên thân lo toan chuyện của mình và bỏ mặc dung mạo Chúa Giêsu ra thế nào thì ra?

Giuse đã trả mọi giá để giữ gìn Giêsu, nhưng đôi khi sức người cũng có hạn.  Trong chuyến đi Giêrusalem, năm con trẻ 12 tuổi, ông đã để Giêsu vuột khỏi tầm tay.  Ba ngày ròng, ông kiếm tìm.  Ba ngày ròng, ông bà “đau khổ tìm con”.  Và khi tìm thấy thì ông được gì?  Một gáo nước lạnh tạt vào mặt: “Sao lại phải tìm con? Cha mẹ không biết là con phải ở trong nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49).

Cậu bé ấy khi ra đời, chỉ là một hài nhi nằm gọn trong máng cỏ.  Mười hai năm trời chịu kham chịu khổ để cho cậu khôn lớn thế này.  Mười hai năm trời yêu thương để thêm da thêm thịt cho cậu thành một thiếu niên nặng cân như thế.  Mà tình thương thì có nặng gì cho cam, phải tốn bao nhiêu tình thương, cậu mới được như ngày hôm nay…!  Thế mà gặp một câu trả lời…!  Ông không hiểu gì cả, nhưng ông vẫn đón nhận lặng thinh.

Và đấy cũng là chiều kích bất ngờ của thánh Giuse.  Trong suốt bốn cuốn Tin Mừng, không thấy ghi lại một câu nói nào của thánh Giuse.  Ðức Maria được xem là mẫu mực của sự thinh lặng nguyện cầu, Người luôn ghi nhận và suy niệm trong lòng, thế nhưng cũng có 6 lần, Người lên tiếng.  (2 lần ngày truyền tin, 1 lần trước Ysave, 1 lần khi tìm lại trẻ Giêsu, 2 lần trong tiệc cưới Cana).  Còn thánh Giuse thì tuyệt đối không hề nói một lời.  Ngay cả lần tìm lại con ở đền thờ, thì cũng chính người mẹ lên tiếng: “Sao con lại làm như thế, cha con và mẹ đã đau khổ tìm con” (Lc 2, 48)

Trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, phụ nữ là hạng người không đáng kể.  Phúc âm thánh Mat-thêu ghi lại hai lần Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, lần đầu để nuôi 5000 người, không kể đàn bà và trẻ con, lần thứ hai 4000 người, không kể đàn bà và trẻ con (x. Mt 14, 21; 15, 38).  Giuse biết mình là chủ gia đình, nhưng người lên tiếng, vẫn là Maria.

Giuse sống cuộc sống càng ngày càng mờ để cho Ðức Giêsu càng ngày càng sáng.  Ông sống mờ nhạt đến độ những người trong thị trấn Nazaret không buồn nhớ đến tên ông, mà chỉ gọi là “ông thợ mộc.”

Theo thánh Mat-thêu và Mac-cô, khi Ðức Giêsu trở về Nazaret sau những ngày rao giảng, người đồng hương bàn tán: “Ông ấy không phải là con ông thợ mộc và bà Maria sao?” (Mt 13, 55; Mc 6, 3).  Sau này, khi viết lại Phúc âm, thánh Luca hẳn đã thấy cái chua chát đó nên đã sửa lại: “Ông ấy không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 23).

Dù sao đi nữa, sự âm thầm của Giuse quả là một đặc trưng của thánh nhân.  Âm thầm đến độ mà khi Ðức Giêsu bắt đầu lên tiếng trong đời sống công khai, thì Giuse không còn được nhắc đến mảy may; thậm chí thánh nhân chết lúc nào, thế nào, ở đâu thì cũng chẳng ai nói đến.  Trong cuộc đời công khai của Chúa thì thánh Giuse, người cha của Ðức Giêsu, có vẻ như bị xem nhẹ hơn cả bà gia của Phêrô hay đứa con gái của Zairô.

Nhưng chính điều đó đã biến thánh Giuse thành một vị đại thánh, bởi vì ngài đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động.

Gioan Tẩy giả đã khiêm tốn rao giảng: “Chúa phải lớn lên và tôi phải nhỏ lại.”  Thánh Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời.

Tiếng “xin vâng” của Ðức Mẹ ở Nazaret và tiếng “xin vâng” của Chúa Giêsu ở Getsêmani đã được hòa âm trong trọn cuộc đời thánh Giuse.

Và Thánh Giuse sẽ mãi mãi là tấm gương cho bạn và tôi.

Tấm gương của một con người luôn luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa, và khi nghe được thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.

Tấm gương của một con người luôn luôn làm đủ mọi cách để gìn giữ Chúa với mình, và nếu chẳng may lạc nhau thì đi tìm Chúa không ngơi nghỉ cho đến khi gặp lại.

Tấm gương của một người “công chính,” chỉ làm có mỗi một điều là trình bày Chúa Giêsu cho mọi người, rồi âm thầm xóa mình đi khi Chúa bắt đầu lên tiếng với các linh hồn.

 

Trần Duy Nhiên

 

HOAN HÔ – ĐẢ ĐẢO

317Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: Phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.

Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến.” Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.

Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ Sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.

Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của dân Do Thái: Hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: “Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: Vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: Đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu.”

Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.

Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô “vạn tuế” để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.

Sưu tầm

******************************

Cành lá hôm nay rộn tiếng “Hoan hô”!
Cành lá hôm sau reo vang “Đả đảo”
Ôi! Con người ngàn năm tráo trở
Trong đó có con… xin tha thứ lỗi lầm!!!

Amm

NỮ TỬ TỘI VÀ VỊ THẨM PHÁN BẤT ĐẮC DĨ

Ngày xửa ngày xưa… tại một đất nước Do thái xa xôi, nơi mà thân phận người phụ nữ bị đối xử rẻ mạt coi khinh trong một xã hội với bao phong tục tập quán khắc nghiệt.  Trong vô số mớ luật lệ của Môise để lại, có một luật định dành cho những vụ án ngoại tình, người đàn ông và người đàn bà có chồng bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình thì cả hai sẽ bị ném đá cho đến chết (Lv 20:10; Ðnl 22:22).  Và theo sách Đệ Nhị Luật những ai bắt được quả tang sẽ là người phải ném viên đá đầu tiên khai mào cuộc xử tử kẻ có tội.

Bình minh vừa ló dạng nơi Đền Thờ ở Giêrusalem, người ta đã thấy một đám đông đang vây quanh một vị kinh sư đến từ Galilee.  Họ đã nghe đồn thổi về tiếng tăm của vị này với bao phép lạ lẫy lừng, và những lời giảng dạy đầy quyền uy.  Vị kinh sư Giêsu ngồi xuống giữa đám đông và bắt đầu giảng dạy về Nước Trời, về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.  Dân chúng đổ xô kéo đến ngày càng đông hơn, họ im lặng chăm chú lắng nghe như muốn nuốt lấy từng lời, từng chữ đầy nghĩa yêu thương của Ngài.

Bỗng một đám đông khác ồn áo náo nhiệt, với những tiếng la hét ầm ĩ từ đâu ùn ùn kéo lại, phá tan bầu không khí thánh thiêng.  Chuyện gì thế?  Họ ngơ ngác nhìn nhau dò hỏi…  À, thì ra đám đông ồn ào đó đã bắt được quả tang một người phụ nữ đang ngoại tình, những kẻ chiến thắng hớn hở kéo lê nàng trên đất như kéo một chiến lợi phẩm, lăm lăm tiến về phía vị Ngôn sứ Giêsu.  Người thiếu phụ tội nghiệp ghì người lại như muốn dùng chút hơi tàn yếu đuối, chống lại sức mạnh của đám đông đang lôi mình đi sềnh sệch.  Nhưng sức nàng cự sao được với sức mạnh của bao thanh niên trai tráng.  Khi tới trước mặt Giêsu, họ thảy nàng ra lăn long lóc giữa đám đông nhờ Ngài xét xử.  Một vị Pha-ri-sêu đứng tuổi với chòm râu dài nghiêm nghị bước ra giữa đám đông, hất hàm cao giọng hỏi:

–  “Thưa Thày, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.  Trong sách Luật, ông Môise truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.  Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”

Họ nói thế chỉ nhằm thử Người thôi, đám đông ai ai cũng biết số phận hẩm hiu của người phụ nữ kia đã được định đoạt rồi.  Chẳng phải đám đông đang háo hức hùa nhau đi xem thi hành án tử, như đi trẩy hội đó sao?  Chẳng phải ai ai cũng đang lăm le trên tay những hòn đá đó ư?  Họ lôi nàng về đây như một con mồi, để câu thêm một con nhạn sa lưới.  Biết đâu một mũi tên lại bắn được hai con chim.  Lại trừ khử được cái gai nhọn dưới con mắt của các vị kinh sư đạo hạnh, và những người Pha-ri-sêu đức độ.  Để coi, phen này một người nổi tiếng hay xót thương cho những mảnh đời bất hạnh như ông Giêsu này, có dám lên tiếng bênh vực cho người phụ nữ tội lỗi đó không?  Nếu tha cho nàng thì ông đã chà đạp và chống lại luật lệ của Môise, và họ sẽ dùng nó để tố cáo kẻ phản bội cha ông.  Còn nếu Giêsu đồng ý kết án nàng.  À…, ra thế… thiên hạ phen này sẽ sáng mắt ra để thấy ông ta cũng tầm thường như bao nhiêu người khác mà thôi.  Những lời giáo huấn của ông về lòng nhân từ xót thương chỉ là sáo rỗng, giả hình và đầy mâu thuẫn.

Vị Ngôn sứ đang rao giảng về Nước Trời bỗng dưng trở thành vị quan tòa bất đắc dĩ.   Ngài ngao ngán nhìn đám đông xung quanh như dò hỏi vì lý do nào mà mình lại được đặt vào vị trí này, rồi Ngài lại hướng tia nhìn về phía người nữ tử tội!  Trông nàng thật thê thảm, áo quần tang thương rách nát quấn vội quanh người, như chỉ vừa đủ để che những chỗ cần phải che.  Mái tóc dài xoã tung rũ rượi, chân tay, mặt mày lem luốc trầy trụa.  Nàng ngồi co rúm lại như một con chó con, mặt cúi gằm xuống đất, những sợi tóc dài lấm đầy cát, bê bết đầy nước mắt quyện lẫn mồ hôi.  Có lẽ nàng xấu hổ lắm!  Nhìn nàng sợ hãi và cô đơn trước đám đông hung dữ, như muốn ăn tươi nuốt sống nàng, chẳng ai buồn thắc mắc người đàn ông cùng nàng phạm tội ngoại tình đâu?  Sao không thấy đám đông kéo người đàn ông đó ra đây để cùng xử luôn?  Luật định rằng phải xử tử cả hai mà?  Chẳng lẽ nàng phạm tội ngoại tình một mình sao?

Đám đông phấn khích hò la vang dội, như khán giả trước hai đội không cân sức đang thi đấu đến hồi gây cấn.  Một đội chỉ có một người với khuôn mặt bình thản, hơi thở đều đặn, ánh mắt vẫn không ngừng nhìn chăm chú xót thương người phụ nữ, đang cúi gằm mặt giữa đám đông.  Cũng là phận người mà!  Sao nỡ đày đọa nhau?  Có ai chưa từng bao giờ phạm tội trong kiếp người yếu đuối không?  Xen lẫn trong tiếng hò reo, người ta nghe ra một tiếng thở dài xót xa!  Đối đầu là một đội quân hùng hậu, phất phới những tà áo đen rộng thùng thình của các vị đạo sĩ, với những khuôn mặt dương dương tự đắc đang chờ câu trả lời.  Có vẻ như phen này, họ nắm chắc phần thắng trong tay rồi.

**********************
Mời các bạn ngắm nhìn trong đám đông những khuôn mặt giận dữ đằng đằng sát khí, với những cặp mắt đỏ ngầu, miệng đang la hét hò reo, tay lăm lăm cầm viên đá đang chờ…., chờ gì?  Đợi gì?  Chờ một viên đá được ném ra khai mạc án tử, đợi một hiệu lệnh nổi lên là những hòn đá lớn bé sẽ được tung ra ào ào…

            Tôi là ai trong đám đông đang la hét reo hò ầm ĩ đó?  Là người đạo đức giữ đúng những luật lệ, luôn ăn ngay ở lành, ghét sự ác nên thấy sự phản bội, tôi muốn kết án?  Là người công chính, chưa bao giờ phạm tội, nên thấy sự tội lỗi xấu xa, tôi muốn diệt trừ?

            Tôi là ai khi cùng đám đông gào thét hò la?  Là một người đàn ông từng theo đuổi và muốn chiếm đoạt nàng nhưng không được, nay thấy nàng ngoại tình với người khác, tôi giận dữ căm ghét, không ăn được thì đạp đổ, thương tiếc gì hạng người đàn bà đó?  Là một người phụ nữ từng ghen ghét vì sắc đẹp của nàng, từng hậm hực tức tối khi thấy ong bướm lả lơi quanh nàng, với tôi đây là cơ hội tốt nhất để diệt trừ hạng người đàn bà lẳng lơ như nàng?

            Tôi là ai đang trong cơn cuồng nộ giận dữ?  Là một người chồng chung thủy bị phản bội, tôi căm hận người vợ lăng loàn và muốn nàng phải trả giá cho tội lỗi của mình dù đám con sẽ bị mất mẹ?  Là một người cha gương mẫu, người chủ của một gia đình danh gia vọng tộc, tôi không thể chấp nhận đứa con gái hư hỏng mất nết làm nhục gia phong của gia đình, nó cần phải chết để danh dự gia đình được bảo toàn, sĩ diện của tôi vẫn được coi trọng?

314            Tôi là ai mà tay lăm lăm hòn đá chỉ chực chờ ném ra?  Là một người vợ hiền đảm đang của một gia đình tan nát chỉ vì những người thứ ba vô đạo đức như ả này, nên bây giờ tôi muốn nàng phải chết một cách đau thương nhục nhã cho hả cơn giận?  Hay tôi cũng giống như chị ta, từng ngoại tình, gian dâm… chỉ khác là chưa ai biết được, nên tôi phải la thật to, hét thật lớn, để đám đông tưởng rằng tôi vô tội, để bạn bè nghĩ tôi cũng ghét phường tội lỗi vô liêm sỉ đó.  Ồ, tôi phải hét lớn hơn nữa chứ nhỉ!

            Tôi là ai mà đang hí hửng vui thích với hòn đá trong tay?  Ồ, không!  Tôi chỉ đi theo đám đông thôi, đám đông ném đá thì tôi ném đá, đám đông bỏ đá xuống, thì tôi cũng quăng cục đá đi.  Phải chăng tôi là một người không ý thức, chỉ a dua theo người khác, thiếu sự hiểu biết, và không có quan niệm sống đúng đắn.  Vậy tôi có phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình không?  Ồ, không! tôi không biết.  Có lẽ là đám đông phải chịu trách nhiệm, tôi chỉ làm theo thôi mà!

            Tôi là ai trong vụ án xử tử hình lưu động này?  Phải chăng chỉ là khách qua đường thấy chuyện hay hay thì đứng lại xem, và khi vở kịch vãn tuồng thì tôi bỏ đi?  Không chút xót thương với người bị kết án, cũng chẳng buồn quan tâm đến vị quan toà bất đắc dĩ Giêsu là ai?  Sẽ xét xử bản án này ra sao?  Ai là đối tượng chính mà các nguyên cáo kinh sư và Pharisêu muốn khử trừ trong vụ án này?

            Tôi là ai trong đám đông cuồng điên đó?  Tôi có phải chịu trách nhiệm cho hành động của tôi không?  Xin mời các bạn tự hỏi lòng mình và tự tìm cho mình câu trả lời.

**********************

Vị thẩm phán bất đắc dĩ Giêsu nhẹ lắc đầu thở dài lặng im cúi xuống, lấy ngón tay di di viết trên đất những dòng chữ ngoằn ngoèo khó hiểu.  Chẳng ai hiểu Ngài muốn viết gì?  Cũng chẳng ai đọc được những dòng chữ đó.  Và cũng chẳng ai hiểu Ngài đang muốn làm gì hay nói gì với đám đông?  Câu giờ chăng?  Đang ở thế bí không lối thoát chăng?  Các vị kinh sư và Pharisêu bắt đầu sốt ruột.  Một vị bô lão bước ra giữa, bắt đầu tằng hắng và gằn giọng lập lại câu hỏi lần nữa:

–  “Thưa Thày, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.  Trong sách Luật, ông Môise truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.  Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”

Đức Giêsu từ từ ngước mắt nhìn lên một vòng những khuôn mặt chung quanh.  Từ những khuôn mặt giận dữ mất bình tĩnh của đối phương, đến những khuôn mặt phấn khởi hí hửng chờ đợi màn kịch kết thúc của những kẻ vô tình, xen lẫn là những khuôn mặt căng thẳng lo âu sợ hãi của người thân và bạn bè tội nhân.  Cả đám đông im phăng phắc nín thở chờ đợi.  Ngài nhắm mắt, nhẹ lắc đầu chán nản.  Họ muốn có một câu trả lời cụ thể.  Tha hay giết, thế thôi!  Bởi tha hay giết, đều là con đường chết của vị quan tòa bất đắc dĩ trong vụ án này.  Hít một hơi dài, Ngài từ tốn cất tiếng nói:

            –  “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”

Cả đám đông bỗng đứng ngây ra như phỗng, lặng im phăng phắc.  Họ không chờ câu trả lời này.  Đó là tha hay giết?  Không rõ ràng!  Không dứt khoát!  Câu trả lời lại không nhắm vào tội nhân đang chờ bản án, mà lại nhắm vào họ, những người đang có quyền kết tội, nhắm vào trái tim chai đá của họ, như muốn khơi dậy lương tâm đã ngủ quên nhiều năm của họ.  Chẳng ai bảo ai tất cả đều cúi xuống đất né tránh cái nhìn của người mà họ đã trót dại đặt vào vị trí thẩm phán.  Chẳng ai có đủ can đảm để cất tiếng hoạnh hoẹ nữa, bởi ai là người dám tự xưng mình là sạch tội?  Vị quan tòa bất đắc dĩ lẳng lặng cúi xuống và tiếp tục ngón tay nguệch ngoạc trên đất những nét chữ ngoằn ngoèo.

Từng hòn đá, từng hòn đá rơi xuống đất, những bàn tay trước đây nắm chặt cục đá bao nhiêu, giờ từ từ thả lỏng ra, những viên đá vô hồn rơi loảng xoảng xuống nền đất, hết viên này… đến viên khác… tiếng đá chạm vào nhau lách cách… nghe như một khúc nhạc reo vui.  Những bước chân nặng nề, giằng co, lôi kéo trước kia, giờ đây nhẹ nhàng lặng lẽ rút lui… từng bước…, từng bước chân bỏ đi… Những bước chân chậm chạp và tiếng gậy lóc cóc của những vị cao niên bỏ đi trước, rồi đến bước đi chầm chậm vững chắc của tuổi trung niên, rồi bước chân thoăn thoắt của đám thanh niên và sau cùng đến những bước chân chim của những em bé tò mò đi theo đám đông coi xử án cho vui.  Đám đông bỏ đi với những khuôn mặt, và những tâm sự ngổn ngang khác nhau trong tâm hồn mỗi người, kẻ buồn người vui, kẻ khóc người cười.  Họ bỏ đi mang theo những nỗi niềm ăn năn hay những tính toán khác cho bàn cờ sắp tới.  Không ai biết được họ đang suy nghĩ gì!

Trái tim người nữ tử tội bật lên khúc nhạc hoan ca khi bước chân cuối cùng bỏ đi…  Chỉ còn lại một đôi chân trần duy nhất trên nền đất đen sần sùi!  Nàng bò lết lại dưới đôi chân người cuối cùng đó!  Mạng sống nàng lệ thuộc vào người này!  Nàng sẽ được tha bổng hay lại là một bản án khác?  Trái tim nàng đập loạn xạ, căng thẳng chờ đợi.  Nàng luống cuống không biết phải làm gì, nói gì hay xin gì.  Thời gian như kéo dài ra.  Bỗng một giọng nói trầm bổng cất lên trong không gian, đưa nàng về với thực tại:

–  “Này chị, họ đâu cả rồi?  Không ai lên án chị sao?”

Với ánh mắt lo sợ hồi hộp người nữ tử tội từ từ nhìn lên.  Bốn mắt chạm nhau, hai tâm hồn khác biệt, một tội lỗi xấu hổ ăn năn, một thánh thiện rộng lượng nhìn nàng tha thứ, như khích lệ trấn an nàng đừng sợ, ánh mắt như muốn ôm nàng vào lòng để ủi an, để xoa dịu nỗi đau thể xác cũng như tâm hồn nàng!  Ánh mắt như xót xa cho thân phận con người yếu đuối, dễ sa ngã!  Ôi, ánh mắt nhân từ của vị quan tòa bất đắc dĩ!  Sao không một lời trách móc?  Ngài có quyền đó mà.  Nàng bối rối lắp bắp trả lời:

            –  “Thưa…. ông, thưa…. Không có ai cả.”

Rồi nàng lại thổn thức xấu hổ cúi gằm mặt xuống đất.  Nàng không đủ can đảm để tiếp tục nhìn vào ánh mắt của vị thẩm phán nữa, không đúng hơn là vị Ngôn sứ được dân chúng kính trọng.  Nàng không biết gì nhiều về con người ông Giêsu này.  Nàng nhớ loáng thoáng xóm giềng nói ông ta là một người nhân từ, chữa lành nhiều người, hay ăn uống chung với những người thu thuế, không kết án những người tội lỗi.  Nhưng có thể đó là tại ông chưa gặp trường hợp một người bị bắt quả tang phạm tội tày trời như nàng.  Nàng biết tội mình, chỉ vì một phút yếu lòng nhẹ dạ, bởi một lòng tin đặt không đúng chỗ, tại một tình yêu hoang tưởng ngây ngô nghe theo những lời đường mật, bởi chạy theo những phù phiếm xa hoa của thế gian.  Nàng không dám biện hộ, cũng chẳng dám xin ơn tha thứ, hay lòng cảm thông.  Nhưng lòng nàng khao khát nóng bỏng, muốn xin ơn tha thứ dù biết mình chẳng xứng đáng.  Nàng muốn có một cơ hội để làm lại cuộc đời, để chuộc lại lỗi lầm đã qua, liệu có quá muộn màng hay không?  Lòng thì đã mở ra, nhưng làm sao để có thể mở miệng xin ơn tha thứ được?  Khó quá Chúa ơi!

Người nữ tử tội ngại ngùng sợ hãi cúi mặt xuống đất thầm thì: “Giêsu ơi!  Con không xứng đáng với ánh mắt bao dung đó, con không đáng để được hưởng ơn tha thứ, nhưng… nhưng…. con rất cần sự thứ tha… để trở về với gia đình, trở về với chính con, trở về với cuộc đời mà con đã trót lỡ đánh mất!”

            –  “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!  Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”

Một phút bàng hoàng ngỡ ngàng, lời xin tha thứ vẫn chưa thoát ra khỏi cửa miệng mà!  Rồi niềm vui vỡ oà, nàng bật lên khóc nức nở, gục mặt xuống trên đôi chân vị thẩm phán đã cứu mạng mình!

Nước mắt xối xả tuôn rơi trên bàn chân vị ân nhân, len lỏi qua những ngón chân trần, chảy xuống trên nền đất.  Vui quá sao tôi lại khóc?  Nàng khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc.  Những giọt nước mắt bị cầm nín bấy lâu vì sợ hãi xấu hổ, vì lo lắng cho cái chết oan nghiệt của chính mình, vì sợ không có cơ hội gặp lại những người thân yêu giờ có dịp tuôn trào.  Nàng vội vàng lấy mái tóc lòa xòa lau đi những giọt nước mắt trên đôi chân trần ấy.  Giọt nước mắt của sám hối ăn năn, giọt nước mắt xót xa cho quá khứ tội lỗi, giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi khi được cứu sống.  Qua màn lệ nhòe nhoẹt, nàng thấp thoáng thấy cuộc đời mới đang mở ra trước mắt.  Vâng, lạy Thầy Chí Thánh Giêsu, con sẽ nhất quyết làm lại cuộc đời, sẽ từ bỏ cuộc đời tội lỗi để trở về với gia đình, về với đường ngay nẻo chánh.  Con không biết người ta gọi Ngài là ai, nhưng riêng con qua cuộc gặp gỡ này, con gọi Ngài là Thiên Chúa nhân từ, Thiên Chúa của lòng tha thứ xót thương, Thiên Chúa của Tình Yêu.

Vị thẩm phán nhân từ chậm rãi đứng lên cởi áo khoác ngoài của mình ra, Ngài nhẹ nhàng cúi mình xuống choàng lên tấm thân rách nát đang run lẩy bẩy, như choàng lên người nàng một tấm áo nhân phẩm mới.  Rồi Ngài dìu nàng đứng lên, nàng vịn vào đôi bàn tay đó, như một điểm tựa vững chắc để lấy thêm sức mạnh, rồi loạng choạng đứng lên, chới với như trong mơ với những gì xảy ra quá nhanh ngoài sức tưởng tượng của nàng.   Đức Giêsu đưa tay nhẹ lau những giọt máu đang rỉ ra từ những vết trầy xước trên đôi tay gầy guộc.  Không nghe thấy tiếng trách móc, không tiếng hạch hỏi tại sao, cũng không một lời kết án!  Nàng lắc đầu, hoa mắt, đôi tai ù lên, lờ mờ nửa tin nửa ngờ.  Vị Ngôn sứ đưa tay vén những lọn tóc nhớp nhúa dính đầy cát, và nước mắt trên khuôn mặt xanh lè của nàng, như người cha vỗ về an ủi đứa con thơ trong cơn sợ hãi.  Ngài dìu nàng đi về hướng thôn xóm và ôn tồn lập lại:

            –  “Con về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”

Dòng nước mắt lại xối xả lăn xuống như mưa, người nữ tử tội trẻ lại nức nở quỳ sụp xuống hôn lên đôi chân của vị ân nhân lần cuối như thay cho lời tạ ơn.  Bỗng nàng đưa tay bụm lấy miệng chặn tiếng nấc thoát ra từ đáy lòng, rồi chạy ù về phía cuối chân trời, không một lời giã biệt.  Nàng không đủ can đảm để nói lời xin lỗi, càng không đủ sức để nói hai chữ cám ơn.  Ngôn từ không đủ để diễn tả hết tâm tình tạ ơn và lòng xấu hổ ăn năn vì tội lỗi nhơ nhuốc của nàng.  Nhưng nàng biết, vị ân nhân Giêsu nhìn xuyên thấu tâm hồn nàng.  Nàng chỉ biết tạ ơn trời đất đã cho nàng cơ hội sống sót để chuộc lại lỗi lầm của mình.  Cám ơn tấm lòng quảng đại đầy yêu thương của vị thẩm phán bất đắc dĩ Giêsu đã cho con một cơ hội để làm lại cuộc đời mình.  Cám ơn Đức Chúa Cha đã gởi Người Con Dấu Yêu xuống thế gian này để làm ấm lại tình người.  Cám ơn những người anh em đã không kết án con.  Cám ơn những bàn tay đã buông bỏ những viên đá vô tri xuống.  Xin cám ơn tất cả!  Con xin ghi khắc trong tim câu dặn dò đầy yêu thương của Chúa Giêsu Kitô:

 “Con hãy về đi và đừng phạm tội nữa!”

Vâng con sẽ về trong bình yên và sẽ cố gắng không bao giờ vấp phạm nữa!

Lang Thang Chiều Tím
Mùa Chay Năm Thánh Lòng Thương Xót 2016

NGẪM NGHĨ VỀ MỘT MÙA CHAY NỮA

zzzKhi nói đến Mùa Chay, người ta thường hay đề cập đến những từ như ăn chay, giữ chay, hoán cải, trở về, cầu nguyện, sám hối, bố thí, chia sẻ bác ái cho người nghèo kèm theo.  Nhưng tất cả những điều đó chỉ là những phương thế để dẫn đến một mục đích tối hậu là “đói khát Thiên Chúa.”

Là người giáo dân, khi nghe cụm từ “đói khát Thiên Chúa,” tôi thấy thật lạ tai!  Tôi thầm nghĩ chỉ có các tu sĩ, linh mục và những ai muốn làm… thánh sống, mới có khát khao ấy, chứ còn mình – với tâm hồn lạnh tanh, làm sao có tâm trạng đó được!

Tuy nhiên, sau một thời gian ngẫm nghĩ cặn kẽ, với nhiều Mùa Chay tiếp nối, nhờ ơn Chúa, tôi chợt khám phá ra, khao khát Thiên Chúa phải trở nên mẫu số chung và là lẽ sống của mọi Kitô hữu.  Câu chuyện sau đây đã giúp tôi tỉnh ngộ:

Thuở xưa, vua Salomon nổi tiếng thông minh, đã đưa ra một câu đố cho quan cận thần: Tìm đâu ra một chiếc vòng mà khi nhìn nó, người hạnh phúc hóa ra u buồn; người đau khổ nhìn nó thì lại thấy niềm vui?

Nghe vua nói thế, quan sa sầm nét mặt, vì biết đó là một bài toán khó có lời giải đáp vẹn toàn.  Quan lên đường chu du khắp năm châu bốn bể mong tìm ra chiếc vòng kỳ diệu.  Lang thang từ các làng mạc đến chốn thị thành nhiều tháng ngày, cực nhọc trăm bề, mà vẫn vô vọng, chưa tìm ra lời giải đáp nào cho nhà vua, khi kì hạn đã gần hết.

Bỗng một hôm, khi đến một làng, ông gặp một ông lão ngồi bán đồ linh tinh ở ven làng.  Ông lão ngồi bán nhưng như không bán, ông cứ đưa mắt nhìn xa xôi, rồi nhắm mắt trầm tư trong tư thế thiền!

Quan ghé vào tai ông lão hỏi nhỏ:

– Ông ơi!  Ông có bán chiếc vòng nào, khi nhìn nó, người vui hóa buồn; người buồn hóa vui không ông?

Lão ông không nói gì, lẳng lặng mở chiếc túi vải đeo bên mình ra và lấy một chiếc vòng bên trên có hàng chữ: “điều đó rồi cũng qua đi,” rồi trao cho ông quan.

Thì ra là như vậy, tất cả mọi sự ở trên đời này rồi cũng trôi qua.  Dẫu là sướng vui hay vất vả, đau khổ, tất cả rồi cũng sẽ tan bay.  Chỉ có Thiên Chúa mới chính là suối nguồn hạnh phúc chân chính và vĩnh cửu.

Bằng cách này hay cách khác, hành động của mọi người đều nhằm mưu cầu hạnh phúc đời này và cả đời sau, như niềm tin đa số tín hữu.  Mùa Chay cho ta cơ hội để tái định hướng hạnh phúc mà mình đang tìm kiếm.  Đây là mùa sống chậm, để sống đậm chiều kích tâm linh, nâng cao chất lượng nội tâm.  Mùa Chay cũng là thời gian phục hồi, bồi dưỡng tâm hồn.  Là lúc “thuận tiện,” là “giờ cứu độ” để ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa Phục Sinh và kết hiệp với Chúa Kitô Phục sinh.

Hành trình hoán cải và canh tân trong Mùa Chay gồm các bước sau:

  • Ý thức tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa
  • Hối hận tội mình đã phạm: Ray rứt, đau buồn (nhưng không mặc cảm tội lỗi)
  • Gặp gỡ Thiên Chúa trong nội tâm
  • Quyết tâm thú nhận tội – đón nhận Bí tích Hòa giải
  • Thực sự sửa đổi đời sống (thường ta hay quên bước này)

Thế nên, tâm trạng đói khát Thiên Chúa không thể chỉ là tâm trạng của riêng giới nào, mà phải là tâm trạng của con cái Chúa, thái độ của những ai muốn đi theo làm môn đệ của Đức Giêsu Kitô.

Lạy Chúa,
Bước vào Mùa Chay thánh này, con mang theo gì?
Nếu không phải là những hành lý nặng nề của con,
Với tâm tư nặng trĩu những lo toan, gánh bổn phận hàng ngày
Cơn mê bã lợi thú, danh vọng phù hoa đang bủa vây
Chúa ơi!  Chúng giăng bẫy rình rập con tứ phía
và kiềm hãm con tiến bước đến bên lòng Chúa khoan nhân.

Con vẫn biết: chúng chỉ là phù vân và sẽ qua đi
Nhưng thú-lợi-danh mạnh mẽ lôi kéo con từng giờ
Và vẻ bề ngoài của chúng thật hấp dẫn, êm ái!
Trong quá khứ, con đã không đủ sức để vượt thắng chúng.
Con đã sa lưới kẻ thù, vấp ngã thê thảm, té đau từ trên cao.

Chúa ơi!  Chẳng lẽ Mùa Chay này cũng sẽ trôi qua vô vị
và con lại tiếp tục ra đi với hai bàn tay lấm lem?

Tâm hồn con đang tan nát, rã rời, 
như kẻ dở sống, dở chết,
khi kẻ nội thù như sư tử đang rình rập, chờ dịp cấu xé con.

Giờ đây, con chỉ có thể trông mong Chúa xót thương 
Và cậy dựa vào quyền năng của Chúa.
Con không dựa dẫm vào người đời,
vì họ không thể giúp con tránh xa tội.

Chúa ơi!  Xin cứu giúp con người đầy yếu đuối của con. 
Xin ban ơn hoán cải, để con cương quyết dứt bỏ tội lỗi,
Can đảm khước từ bóng tối
Và vui sống như con cái của sự sáng
Xin đừng để cho bất cứ điều gì chiếm hữu lòng con,
ngoại trừ một mình Chúa.
Hãy cho con không ngừng đói khát Chúa,
Hạnh phúc đích thực và trường tồn của đời con!

Thiên Ân

KHÔNG CẦN BIẾT EM LÀ AI

Xã hội càng văn minh, phụ nữ càng được giải thoát, và ngược lại.  Ðó là thước đo mức tiến bộ nhân loại.  Ngày xưa, ngay trong dân Chúa, số phận phụ nữ cũng không khá hơn các dân khác.  Câu truyện ném đá người phụ nữ ngoại tình trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình.

Theo Kinh thánh, trong vụ án ngoại tình, cả hai đồng phạm đều phải đưa ra ném đá (Lv 20:10; Ðnl 22:22).  Thế nhưng, những nhà lãnh đạo Do thái đã cố tình coi thường luật này.  Họ chỉ bắt người phụ nữ, mà không tố cáo người đàn ông tòng phạm.  Các người lãnh đạo đã dùng người phụ nữ này như một chiếc bẫy lừa Ðức Giêsu.  Nếu Người không đồng ý ném đá, họ sẽ tố cáo Người vi phạm luật Môsê.  Nếu Người không đồng ý, chưa chắc họ đã nghe theo Người, trái lại có thể họ vịn vào cớ đó để lên án và ném đá cả Chúa lẫn người phụ nữ ngoại tình.  Nếu Người khuyến khích họ xử tử nàng, họ sẽ báo cáo cho quân Rôma biết Người chống lại lệnh cấm người Do thái thi hành án tử hình (Ga 18:31).  Nếu thế, còn đâu hình ảnh nhân hậu của Người trong lòng dân?  Những người lãnh đạo Do thái thâm độc thật!

zzBên ngoài, họ có vẻ là những người tha thiết với Luật Môsê và bảo vệ công lý.  Nhưng thực ra, họ muốn thử thách đức nhân hậu và lòng bác ái của Người.  Làm sao vừa giữ vững công lý vừa duy trì được lòng nhân ái đối với mọi người?  Thật là một bài toán hóc búa.  Vậy mà, Người đã tìm thấy đáp số rất tài tình.  Chỉ cần một câu hỏi gọn nhẹ, nhưng xoáy sâu vô nội tâm, Người đã có thể phá tan hàng rào pháp lý và đám đông dầy đặc đang thét gào chung quanh.  Tất cả lời tố cáo đều im bặt trước câu thách đố: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8:7).  Một tiếng sét xé ngang bầu trời ồn ào hôm đó và đâm thấu tận tim đen đám đông.  Tất cả đã từ từ rút đi sau một giây hồi tâm.  Như thế, Chúa vừa cứu được người phụ nữ ngoại tình, vừa làm cho đám đông, nhất là giới lãnh đạo, trở về với sự thật lòng mình.  Họ lần lượt ra đi như một lời thú tội.  Thế là họ mắc vào bẫy chính mình đã giương lên.  Còn Chúa, Người chẳng cần giương bẫy, nhưng đã bắt được cả hai con chim.

Khi trở thành nạn nhân của những mưu thâm chước độc, con người biến thành phương tiện cho con người.  Người phụ nữ ngoại tình chỉ là một phương tiện được dùng để tố cáo và lên án Ðức Giêsu mà thôi.  Người không bao giờ xử dụng con người làm phương tiện cho mình.  Trái lại, không những lấy con người làm trung tâm cho sứ mệnh của mình, Người còn tự biến mình thành “con đường” (Ga 14:6) cho con người đến với Chúa Cha.  Người đã hy sinh tất cả cho con người.  Con người trở thành mục đích cho toàn thể công trình sáng tạo và cứu độ.  Thật thế, vì là “hình ảnh Thiên Chúa” (St 1:27), con người được Thiên Chúa đặt ở “trung tâm và tột đỉnh mọi loài thụ tạo.” Chúa đã thấy tất cả phẩm giá lớn lao đó nơi người phụ nữ ngoại tình, dù tội nàng có lớn tới đâu.  Trái lại, những nhà lãnh đạo Do thái đã đồng hóa con người với tội lỗi, nên nàng không còn lý do hiện hữu trên cõi đời này nữa.  Tội nhân không còn cơ hội để làm lại cuộc đời.

Trong suốt thời gian căng thẳng giữa rừng người khát máu, Chúa Giêsu luôn bình tĩnh và sáng suốt để tìm đường thoát hiểm cho người phụ nữ nạn nhân và cho chính mình.  Người giúp đỡ cô, nhưng không hề bênh vực cho tội ngoại tình của cô.  Bằng chứng, sau khi “tòa án nhân dân” đã giải tán, Người không quên căn dặn: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11).  Còn lời nào cương nghị và đầy nhân ái hơn?

Chính vì thế, tội nhân đã tìm đến với Ðức Giêsu để tìm một cơ hội lớn trở về với Thiên Chúa.  Không còn con đường nào khác!  Không những phẩm giá họ được nhìn nhận, nhưng họ còn được đưa vào mối tương quan với Thiên Chúa.  Vì được dựng nên “giống hình ảnh Thiên Chúa,” (St 1:27) nên “tự bản chất, con người hiện hữu trong tương quan chủ yếu và sâu xa nhất với Thiên Chúa.”  Như thế, trước sức mạnh tình yêu, tội lỗi không thể hủy diệt bản chất đó của con người.  Tình yêu nối lại mối dây thân tình sâu xa giữa con người với Thiên Chúa.  Tình yêu đó chỉ có thể tìm thấy nơi Con Người Ðức Giêsu trên Thánh Giá.

Tình yêu mạnh hơn sự chết.  Không phải chỉ bằng lời nói, nhưng bằng hành động, Ðức Giêsu đã cứu con người không những thoát khỏi đám đông khát máu, nhưng khỏi bàn tay ác thần hung bạo.  Người giải thoát không những thể xác khỏi cái chết đời này, nhưng cả linh hồn khỏi cái chết đời sau.  Chính vì Người đã chết, toàn thể nhân loại được cứu sống và đi sâu vào tình yêu Chúa Cha.  Cái chết trên thập giá trở thành cần thiết cho sự sống nhân loại.  Khi cứu sống nhân loại, Người không nhìn vào tội ác họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng nhìn vào chính con người với tất cả giá trị cao cả của họ nơi Thiên Chúa.  Chính vì hạnh phúc và phẩm giá con Thiên Chúa của họ, nên Chúa đã chấp nhận tất cả.

Khi thấy nhân loại phạm tội, Người đã không tra cứu sách luật hay Kinh thánh.  Trái lại, Người nhìn sâu vào lòng nhân từ của Chúa Cha và hình ảnh của Cha nơi nạn nhân, để đem lại một chiều kích mới mẻ và toàn triệt cho lề luật.  Con người đã không có được cái nhìn như thế, nên mới dễ bạo động.  Chính Người cũng đã trở thành nạn nhân của đám đông bạo động.

Ðám đông thời ấy và đám đông thời nay có khác nhau không?  Giả sử, đứng giữa “tòa án nhân dân,” Chúa Giêsu cũng đặt vấn đề tương tự như thế, liệu có ai dừng tay và bỏ đi không?  Dầu sao đám đông thời Chúa Giêsu vẫn còn lương tâm và biết nhìn nhận sự thật.  Ðám đông ngày xưa vẫn can đảm hơn đám đông ngày nay.  Còn ngày nay, biết bao người đã chết oan vì lương tâm không còn hoạt động nơi đám đông.  Chẳng hạn, biết bao nạn nhân vô tội đã gục ngã trong những vụ cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc Việt.  Sự thật thuộc về đám đông chuyên môn “lấy thịt đè người.”  Dù biết mình sai, họ vẫn không có can đảm nhìn nhận sự thật và không dám rút lui vì sợ bẽ mặt.  Trái lại, họ còn dựa vào sức mạnh vũ khí, nhà tù, quyền lực để áp đảo tiếng nói lương tâm và chà đạp sự thật.

Cuộc đấu tố ngày xưa ở Bắc Việt và những cuộc bắt bớ các nhà tranh đấu cho dân chủ trong nước hiện nay có khác việc lên án phụ nữ ngoại tình trong Tin Mừng hôm nay không?  Có khác chăng là phụ nữ ngoại tình có tội thật, còn những người bị đấu tố và các nhà đấu tranh cho nhân quyền ở trong nước có tội gì?  Phải chăng hành động theo tiếng lương tâm là một thứ tội?

Ai dám bênh vực họ đây?  Ngày xưa, Chúa Giêsu đã mạnh mẽ bênh vực và tìm cách giải thoát phụ nữ ngoại tình, mặc dù biết nàng là người có tội.  Hôm nay, Nhiệm Thể hay Hiền Thê của Người là Giáo Hội không đủ can đảm bênh vực cả những người vô tội hay sao?  Phật Giáo Thống Nhất có những vị lãnh đạo cao cấp như Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ dám hy sinh cả đời để tranh đấu cho tự do tôn giáo.  Còn Giáo Hội Công Giáo Việt nam, Hàng Giáo Phẩm đang ở đâu?

Lạy Chúa, từ trước tới nay, con đã làm gì khi anh em xúc phạm đến con?  Con luôn muốn công lý phải được thi hành.  Lúc nào con cũng có đủ lý do biện hộ cho việc phục thù của con.  Chắc chắn hôm nay Tin Mừng đòi hỏi con phải cúi xuống tĩnh niệm, trước khi đụng đến tha nhân.   Xin cho con luôn sẵn sàng dành cho anh em một cơ hội.   Xin hãy mở trái tim con ra để mọi người thấy tình yêu Chúa đang sôi sục trong con.  Amen!

Đỗ Lực