ÁNH MẮT YÊU THƯƠNG

zzMỗi khi đọc câu chuyện ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông Giakêu trên cây sung.  Ánh mắt ấy có sức mạnh kỳ lạ.  Ánh mắt ấy chất chứa bao tâm tình.  Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn biến đổi.

Đó là ánh mắt quan tâm.  Chúa Giêsu vào thành Giêricô.  Giêricô là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất.  Một đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu.  Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ.  Nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa.  Thật lạ lùng.  Giữa đám đông mênh mông ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn.  Giữa muôn người, Chúa chỉ tìm Giakêu.  Lại còn biết rõ tên ông.  Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu, dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn.  Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa.

Đó là ánh mắt khiêm nhường.  Hãy tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu.  Chúa nhìn lên.  Giakêu nhìn xuống.  Thật là một cảnh tượng phi thường.  Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên mới gặp ánh mắt người thấp bé.  Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân.  Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời.  Tạo hóa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo.  Đấng Cứu Độ phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu.  Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha.  Thật là một sự khiêm nhường thẳm sâu.  Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.

Đó là ánh mắt tha thứ.  Nguyên một việc quan tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi.  Huống hồ Chúa còn khiêm tốn ngước nhìn lên.  Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ lời muốn đến thăm nhà ông.  Giakêu chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm Giakêu.  Giakêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi Giakêu.  Giakêu chưa mời thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà.  Giakêu chưa xin lỗi thì Chúa đã tha thứ.  Ánh mắt tha thứ mới khoan dung độ lượng và ấm áp làm sao.  Giakêu chắc chắn tràn đầy niềm hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.

Đó là ánh mắt tin tưởng.  Chúa Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng.  Tin tưởng nên không nhìn về quá khứ mà chỉ hướng về tương lai.  Chúa quên hết tội lỗi của ông.  Hơn thế nữa Chúa tin rằng ông sẽ nên người tốt.  Chúa tin rằng ông sẽ làm lại cuộc đời.  Chúa tin vào tương lai của ông.  Nên Chúa đã nhìn ông.  Nên Chúa tha thứ cho ông.  Nên Chúa kết thân với ông.  Trước ánh mắt tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết làm lại cuộc đời.

Đó là ánh mắt yêu thương.  Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu.  Chúa quan tâm tới Giakêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc.  Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai.  Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng.  Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông, như người mẹ không khi nào nói rằng con mình xấu, dù nó phạm tội trăm lần.  Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.  Ngập tràn trong yêu thương, trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương.  Đời ông được đốt cháy trong yêu thương.  Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa.  Vì yêu mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại.  Yêu thương nên đền bù thiệt hại.  Yêu thương nên chia sẻ chân thành.

Lạy Chúa, Chúa luôn nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết nhìn vào mắt Chúa, nhận ra tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc đời như ông Giakêu.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

NHỮNG NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG

zzViệc đi thăm những công viên quốc gia ở Mỹ là một trải nghiệm không thể quên được.  Nhưng việc khám phá ra một trong những công viên đó còn đáng nhớ hơn nhiều.  Ở những con đường dành cho những vận động viên đi bộ đường dài, chúng ta sẽ thấy nhiều chỉ dẫn được xếp đặt cẩn thận để giúp cho họ đi dễ dàng hơn.  Trên những con đường đó, chúng ta sẽ thấy nhiều cột định vị.  Ở những đoạn dốc khó đi, chúng ta sẽ thấy các bậc thang được đục ra từ những hòn đá lớn.  Ở những chỗ đầm lầy, chúng ta sẽ thấy những viên đá được kê sẵn để người đi bước qua dễ dàng.  Ở những đoạn nguy hiểm, chúng ta sẽ thấy những bảng cảnh báo được đặt sẵn.

Nhờ vào sự sắp xếp cẩn thận đó, các vận động viên thậm chí không chuyên nghiệp có thể an toàn băng qua rừng sâu và địa hình núi non hiểm trở.  Khi đi trên đường đó, ta sẽ ngạc nhiên thấy một sự chuẩn bị rất công phu.  Ta sẽ dễ dàng nhận ra một điều: không có những con đường như thế thì một vận động viên bình thường cũng sẽ hoàn toàn thất bại.

Các vị Thánh đã làm những điều tương tự như thế cho chúng ta.  Họ đã dọn sẵn đường đi cho chúng ta. Các Ngài đã đặt những dấu hiệu để báo trước cho chúng ta.  Các Ngài là những người đi tiên phong để dẫn đường cho chúng ta, những người dẫn đường tuyệt vời.  Các Ngài đã chỉ cho chúng ta thấy người bình thường như chúng ta vẫn có thể thực hiện được nhiều điều lớn lao cốt làm đẹp lòng Thiên Chúa. Họ là những tấm gương sáng ngời về sự cương quyết, hiến dâng và hy sinh.

Người Kitô hữu cần noi theo các vị Thánh đó.  Một số các vị ấy đã hoàn thành tốt sứ mệnh.  Một số khác đã vấp ngã, đã lầm lỡ, đã thất bại nhưng cuối cùng các Ngài đã đi vào chính lộ.  Tất cả các vị Thánh ấy đã cố gắng trải rộng tình yêu và lòng dũng cảm trong chính nơi con người các Ngài.

Tất cả tấm gương tốt đều không bị bỏ qua trong danh sách các vị Thánh.  Tất cả các Ngài đều ở giữa chúng ta, thậm chí ngay trong thời của chúng ta.  Các vị Thánh cả nam lẫn nữ và những câu chuyện của các Ngài đã hướng dẫn chúng ta đi trên hành trình cuộc đời.  Đó là những câu chuyện về lòng mến Chúa yêu người – là hai giới răn cao trọng nhất đã được kết hợp thành một giới răn duy nhất mà tầm quan trọng của nó thật phi thường.

Chúng ta có thể đón nhận nguồn động viên, sự khích lệ từ các Thánh đã đi trước chúng ta và dọn đường cho chúng ta.  Mỗi vị đã dọn một con đường cho chúng ta đi qua dễ dàng hơn.  Khi chúng ta nếm trải sự chán nản, cảm giác thất bại thì cũng là lúc các Ngài nói với chúng ta: “Chúng ta luôn ở bên con.  Đừng bỏ cuộc.”

Tuy nhiên, chúng ta thường có khuynh hướng đặt các Thánh lên vị trí cao qúy đến mức chúng ta cảm thấy xứng đáng khi tự bào chữa về việc noi gương sống của các Ngài.  Trong trường hợp đó, sự sùng kính các Thánh sẽ trở nên một chướng ngại hơn là một sự giúp đỡ.

Các vị Thánh như những mẫu gương cho chúng ta noi theo.  Vì các Ngài trước kia cũng là những người tội lỗi.  Các Ngài là những người luôn nhắc chúng ta nhớ về cuộc sống thế gian này.  Các Ngài đã thắp lên lòng nhiệt huyết nơi chúng ta, hướng dẫn, khích lệ chúng ta và cho chúng ta niềm hy vọng. Dĩ nhiên các Ngài cũng là những người trung gian cầu bầu cho chúng ta bên tòa Chúa.

Nhưng các Ngài không thể nào làm thay những việc bổn phận chúng ta phải làm.  Các Ngài không dạy cho chúng ta phương pháp nào ngắn gọn để giúp ta tránh khỏi những vấn đề khó khăn hay dễ dàng đi qua con đường hẹp.  Chúng ta đừng mong chờ người khác làm việc thay cho chúng ta trong khi chúng ta lại không tự mình nghiêm túc rèn luyện.  Chính chúng ta phải đi trên con đường đó, phải đi bằng chính đôi chân của mình.  Các vị Thánh chỉ giúp chúng ta thêm lòng can đảm để vượt qua khó khăn mà thôi.

Phaolô Nguyễn Hồ Hữu Thành – Phỏng dịch từ New Sunday Holyday

 

 

 

XÉT RỒI CHỈ ĐOÁN

zzTiếng Việt có một cụm từ rất hay: xét đoán.  Tôi thích dùng hai chữ này theo lối hài hước, đó là xét một vấn đề cho thật  kỹ, rồi cuối cùng, cũng chỉ đoán mà thôi.  Nếu kết luận chỉ là đoán, thì thường không chính xác.  Biết không chính xác nhưng nhiều người vẫn thích dùng.  Vì nghề này không cần bằng cấp, không cần giấy phép nên người ta có thể hành nghề khắp nơi.  Trong khi cụm từ “xét nghiệm,” cần công thức hóa học, và phải có bằng cấp, nên chỉ có thể được thực hành ở những nơi được phép.

Tiếng Việt còn có cụm  từ “xét nét,” ám chỉ về người quá khó tính, người hay “vạch lá tìm sâu” nơi người khác.   Người có tính xét nét thì cũng có khuynh hướng xét đoán một cách chủ quan.  Vì không có công thức như làm xét nghiệm, nên dễ kết luận sai lầm.  Bài toán xét rồi cũng chỉ đoán này dễ sai, nên tôi cần cẩn thận.

Chợ Và Đền Thờ

Phúc Âm có câu chuyện tương tự.  Người thu thuế và người biệt phái cả hai cùng lên đền thờ.  Người biệt phái kể công, người thu thuế sám hối.  Người biệt phái chỉ trích, người thu thuế  thinh lặng.  Người thu thuế xét mình dùm cho người khác, còn người thu thuế xét mình cho riêng ông.  Vì lo xét cho người khác nên ông quên xét lòng ông.  Điều buồn, là cuối cùng người biệt phái đoán sai.

Ông đoán người thu thuế là người khó được Chúa chấp nhận, vì có tội lỗi công khai, và dân chúng loại trừ.  Thế nhưng, phúc âm kể thật hay.  Trong chính giây phút mà người biệt phái chỉ trích người thu thuế, thì ở cuối đền thờ, và ngay trong tâm hồn của người thu thuế đang diễn ra một mùa sám hối trọn vẹn, và ơn Chúa đang tuôn đổ trên ông.  Không chờ đến ngày mai, không chờ cho ánh mặt trời lên, ơn thánh đến ngay lúc đó.

Ơn hoán cải của một con người diễn ra như một huyền nhiệm và không ai, dù là giới lãnh đạo tôn giáo, cũng không thể nắm bắt được điều gì đang diễn ra trong lòng của một con người.  Do đó tôi cần cẩn thận khi đánh giá một con người qua hình thức và ngay cả qua những hành vi bên ngoài của họ.

Một chi tiết thật hay khác của câu chuỵện đó là sự có mặt của người thu thuế nơi đền thờ.  Lẽ ra người biệt phái phải thắc mắc tại sao người thu thuế lại có mặt ở đây?  Thông thường, mấy người thu thuế đâu có vào đền thờ cầu nguyện.  Họ lo bận rộn đi thu tiền ngoài chợ.  Vì đa số người dân không có học, thiếu tính toán, nên mấy người thu thuế hay thêm bớt con số để kiếm tiền thêm bỏ túi, chứ lên đền thờ đâu có chút lợi nhuận nào.

Hôm nay người thu thuế có can đảm bước chân đến đền thờ, có nghĩa là lòng sám hối của anh đã trải dài từ những ngày tháng trong cuộc sống rồi.  Những đêm dài thao thức của lòng sám hối nơi anh không có phát thanh trên đài, nên không ai nhận ra, và  người biệt phái không nghe được tin vui này.  Không biết được tin vui sâu thẳm của lòng sám hối, nên ông vẫn nghĩ rằng chỉ có thái độ công chính mới làm cho đời vui.

Ông sai hai bài toán về cuộc sống: 1) xét sai về tâm hồn người khác; 2) sống niềm vui giả tạo trong thái độ công chính.  Cả hai bài toán, hôm nay tôi cần tránh.

Nguyễn Thảo Nam

http://tinvahyvong.blogspot.com/

NGƯỜI PHARISÊU VÀ NGƯỜI THU THUẾ

zzDụ ngôn này nhắc nhở tôi câu chuyện về một người đàn ông khoe khoang như sau: nếu trên trần thế này chỉ còn lại hai người tốt mà thôi thì đó chính là tôi và con trai của tôi. Nhưng nếu chỉ còn lại một người tốt, thì chắc chắn người đó phải là tôi!

Người Pharisêu tự thấy mình cũng như người đàn ông đó, nổi tiếng và gương mẫu về mọi phương diện, từ đầu đến chân, trên mọi người khác. Thật thế, ông ta đã nói: “Tôi lương thiện và ai giống tôi?”

Điều nguy hiểm khi đọc dụ ngôn này là chúng ta tự khen ngợi mình không giống như người Pharisêu kia, cũng như người này tự khen ngợi mình không giống như người thu thuế.  Nếu chúng ta dám nhìn kỹ hơn, tôi thiết tưởng có rất nhiều điều giống với người Pharisêu ở trong tất cả chúng ta. Vấn đề là giống bao nhiêu mà thôi.

Vào một ngày nắng đẹp trời, một con voi ngâm mình trong một cái hồ ở trong rừng sâu. Một con chuột đến bờ hồ và yêu cầu con voi ra khỏi hồ. Con voi hỏi: “Tại sao?” Con chuột nói: “Tôi sẽ nói cho bạn biết tại sao, khi bạn ra khỏi hồ.” Vì vậy con voi đã ra khỏi hồ và nói: “Tao ra khỏi hồ rồi đó. Vậy mầy muốn gì?” Con chuột đáp: “Tôi chỉ muốn xem có phải bạn đã mặc bộ đồ tắm của tôi không.”

Tất cả chúng ta là những tay tổ trong nghệ thuật phóng đại sự kiện tự quan trọng hoá mình.

Tự ca ngợi mình không phải là ca ngợi

Chúa Giêsu đã dùng những kỹ thuật gây nên sửng sốt.  Qua câu chuyện này, thính giả của Ngài đều nhận biết một nhân vật là tốt, còn nhân vật kia thì xấu.  Nhưng Chúa Giêsu đã làm cho họ sửng sốt bằng cách kết án nhân vật tốt và ca ngợi nhân vật xấu.

Để hiểu câu chuyện gây nên sửng sốt đến mức độ nào cho những người nghe nói lần đầu tiên, chúng ta phải nhận thức rằng người Pharisêu ở đây không phải là một kẻ giả dối.  Ông ta thực sự tốt hơn những người khác.  Ông đã đi quá xa hơn những gì ràng buộc ông ta.  Ông ăn chay hai lần một tuần không phải là điều bắt buộc đối với ông.  Người Pharisêu cũng không bắt buộc phải dâng cúng cho Chúa một phần mười tài sản của mình.  Tất cả những điều đó đều tốt và đáng ca tụng nữa.

Rõ ràng công bằng mà nói thì người thu thuế là một nhân vật hoàn toàn xấu.  Vào thời Chúa Giêsu, thuế má được thâu bởi những nhà kinh doanh địa phương. Những thuế đó được ấn định bởi những người La-mã mà dân chúng ghét cay ghét đắng, nhằm hỗ trợ cho quân đội chiếm đóng.

Một khi người La-mã đã lấy đủ phần mình, họ không phải quan tâm tới số hoa hồng mà người thu thuế thêm vào.  Những người này đã bày đủ thủ đoạn làm tiền để ăn chặn của dân chúng càng nhiều càng tốt.  Chính những người thu thuế đó mới đáng ghét và bị tất cả những người tử tế lánh xa.

Trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người thu thuế tự gọi mình là “kẻ tội lỗi” (Lc 18, 13).  Như thế ông ta đã nói lên một điều hoàn toàn đúng sự thật.  Vậy tại sao người thu thuế – không phải người Pharisêu – đã ra về được chứng minh là công chính trước mặt Thiên Chúa.

Sự phản bội

Người Pharisêu đến đền thánh, không phải để cầu nguyện nhưng để khoe khoang, để cho Chúa biết ông ta tốt chừng nào, để cổ võ chính hình ảnh của ông.  Lời cầu nguyện của ông đầy những chữ “tôi”, “tôi” và “tôi”.  Đó là “tự kỷ trung tâm” (tự cho mình là trung tâm điểm của vũ trụ), thay vì đặt để Thiên Chúa làm trung tâm điểm.

Chúng ta nên cảnh giác đừng chỉ ngón tay vào người Pharisêu. Đó là một thói quen rất nguy hiểm. Điều đó có nghĩa là ba ngón tay kia chĩa lại chúng ta!

Lấy thí dụ đi xem lễ Chúa nhật.  Tại sao tôi đi xem lễ?  Động cơ nào đã thúc đẩy tôi?  Có phải tôi đến để thoả mãn Chúa hay chỉ để thoả mãn tôi?  Có phải tôi đến nhà thờ để được khuyên giải và an ủi? Để vinh danh Chúa hay tự vinh danh tôi?  Để làm vui lòng Chúa hay làm vui chính tôi?  Có phải tôi đã làm đúng, nhưng động cơ thúc đẩy tôi lại sai?

T.S. Eliot trong vở kịch “Murder in the Cathedral” (“Án Mạng trong Nhà Thờ Chính Tòa”) đã đề cập đến việc làm thì đúng, nhưng động cơ thúc đẩy thì sai, nên cuối cùng là một hành động “phản bội”.

Chúng ta thường nghe nhiều người than phiền như sau: “Tôi đi xem lễ nhưng chẳng được ích gì. Tôi không thể chịu đựng được vị linh mục.  Bài giảng chán ngấy.  Tôi không thể nghe ca đoàn hát.  Tôi không thể chịu được tiếng ồn ào.  Tôi không thể chịu đựng trẻ con.”  Tất cả đều là “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đúng họ là những chuyên gia về “cái tôi”!

Những người khác không cùng nhau đến nhà thờ không phải vì bị chống đối; họ không bị đá bị đuổi, đứng trên phương diện đạo giáo.  Giờ đây, nếu tôi đến dự lễ hay không đến “vì tôi, cho tôi, để tôi được nhận nhưng không cho đi”, tức nhiên có điều gì đó tự bản chất đã sai lầm rồi. Tôn giáo chân chính là tôn giáo lấy Thiên Chúa làm trung tâm, chứ không phải lấy tôi làm trung tâm (“tự kỷ trung tâm”).

Sự khác biệt giữa “TÔI” và “CHÚA”

Lời cầu nguyện của người Pharisêu nhằm đề cao “cái tôi”, trong khi lời cầu nguyện của người thu thuế nhắm đến “Thiên Chúa”.  Người Pharisêu nói: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình…” (Lc 18, 11). “TÔI!”  Còn người thu thuế chỉ nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13). “CHÚA!”

Điều khác biệt giữa sự tiếp cận “CÁI TÔI” và sự tiếp cận “THIÊN CHÚA” trong bất cứ tương quan nào, dù ở trên trời hay dưới đất, là điều khác biệt giữa sự kiện sống cho chính mình hay cho kẻ khác, giữa sự vị kỷ hay vị tha, giữa sự ấu trĩ hay đã trưởng thành.  Chính người thu thuế, chứ không phải người Pharisêu đã đi về nhà được công chính hoá trước mặt Thiên Chúa.

Có một câu chuyện nói về một cậu bé đi xem lễ sáng sớm Chúa nhật.  Mẹ cậu cho cậu hai đồng tiền bằng bạc và nói: “Một đồng cho con, còn đồng kia con dâng cho Chúa,” tức là bỏ trong giỏ khi thu tiền trong nhà thờ.  Cậu bé cầm chặt hai đồng tiền trong nắm tay, khi bắt đầu đi đến nhà thờ.  Trong khi băng qua đường, cậu bé vấp ngã trượt chân và té.  Tự nhiên theo bản năng, cậu bé mở tay ra để chống đỡ cho khỏi bị ngã và hai đồng tiền vuột khỏi tay cậu.  Một đồng lăn tới nằm ở lề đường, còn đồng kia lăn xuống đường mương.  Cậu nhặt đồng tiền ở lề đường lên và nhìn xuống đường mương.

Đột nhiên một cuộc chiến đấu dữ dội nổi lên bên trong con người của cậu.  Sau một lúc do dự, cậu đút nhanh đồng tiền nhặt được vào túi, nhìn lên trời và nói: “Chúa ôi, con rất lấy làm buồn, đồng tiền của Chúa nằm dưới đường mương rồi!”

Không biết câu chuyện đó có xác thực không?  Nhưng cũng có thể lắm.  Tất cả đều tùy thuộc vào “cái tôi” và có thể trở thành điển hình cho toàn bộ việc tiếp cận của chúng ta với Thiên Chúa.  “Tôi”, chỉ “tôi” thôi, luôn luôn là “tôi” và không ai khác.  Một chân lý chứa đựng nhiều điều trong câu chuyện có tính cách bông đùa đó!

Người thu thuế “đã hiểu điều đó một cách đứng đắn.”  Việc tiếp cận của ông với Thiên Chúa là lương thiện, khiêm tốn và được công chính hoá.  Giờ đây sự tương quan giữa ông với Đấng Tạo Hoá được trực tiếp, thẳng tắp và một cuộc sống mới đã bắt đầu đối với ông.

Vincent Travers

TRUYỀN GIÁO – MỘT HÀNH TRÌNH SỐNG ĐỨC TIN

Cách vài ngày, tôi đọc được một câu chuyện thương tâm về cái chết của cô Eleonora Cantamessa, đã đánh động tôi trước tấm gương hy sinh cao cả của cô ta.  Tôi xin lược thuật lại câu chuyện sau đây.

Vào đêm Chúa Nhật ngày 8.9.2013, vào lúc 11g đêm, cô Eleonora Cantamessa 44 tuổi vừa mới đi chơi với một người bạn.  Trong lúc trên đường trở về nhà, cô nhìn thấy một tai nạn đụng xe, một người đàn ông bị thương nằm trên đường và có một số xe dừng lại quanh đó.  Vì là một bác sĩ, cô đã lập tức dừng xe lại để giúp đỡ nạn nhân băng bó vết thương.  Nạn nhân là một thanh niên Ấn Độ, tên là Baldev Kumar đang nằm quằn quại trên vũng máu vì bị đánh vào đầu bằng những thanh sắt.

Điều cô ta không ngờ, kẻ hành hung chính là người em trai của người bị nạn, hắn ta hãm hại người anh mình vì sự tranh giành lợi lộc và chức tước cùng với 4 người đồng bọn.  Trong lúc cô Eleonora đang tìm cách băng bó vết thương cho Balvev, thì tên Vicky em của người bị nạn đã phóng xe tới cán lên cả hai người chết và gây thương tích cho 6 người khác.

Bác sĩ Eleonora Cantamessa là một bác sĩ sản khoa làm việc tại bệnh viện Sant’Anna di Brescia và có một văn phòng tư ở phố Trescore Balneario.  Cô điều trị miễn phí cho người nghèo, trong đó có cả những người Ấn Độ di dân.  Cái chết của cô Cantamessa đã làm rúng động xã hội Ý.  Thị Trưởng Alberto Finazzi đã tuyên bố một ngày để tang cho cô.  Tổng Thống Giorgio Napolitano và Thủ Tướng Enrico Letta cũng đã gửi vòng hoa phúng điếu.

Đám tang của cô có rất đông người tham dự, đứng chật các đường phố vì trong nhà thờ không còn chỗ ngồi.  Cộng đoàn người Ấn Độ cũng mặc quốc phục, họ giương cao biểu ngữ: “Cộng đoàn Ấn Độ chúng tôi cùng xin chia sẻ nỗi đau của gia đình”.

Trước nỗi đau cái chết của người con gái, nhưng gia đình của cô không giận dữ và oán giận.  Ông Mino, bố cô Eleonora Cantamessa đã nói: “Tất cả mọi sự đều nằm ở trong kế hoạch của Thiên Chúa.  Bây giờ, chính là lúc chúng ta xin ơn Chúa cứu chuộc và tái sinh cho các thủ phạm trong lúc này và sau khi thụ án.”  Để tiếp nối những nghĩa cử của cô Eleonora đối với trẻ em nghèo, gia đình đã yêu cầu mọi người không mua hoa phúng điếu mà hãy dùng tiền đó để làm việc từ thiện.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gửi bức thư chia buồn với gia đình cô, Giám Mục Luciano Monari, địa phận Brescia, đọc bức thư đó trong đám tang, ngài viết: “Cô Cantamessa đã kết thúc cuộc sống nơi trần thế trong lúc thực hiện nghĩa cử cuả một người Samaria nhân lành “.

zzNgày thứ Tư vừa qua tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã dừng lại thật lâu để an ủi gia đình của cô Eleonora Cantamessa.  Ngài vỗ về lên má của bà mẹ đầy nước mắt.  Sự ân cần của Đức Thánh Cha đã gây tác động mạnh mẽ cho gia đình, như lời bà Mariella Cantamessa đã tâm sự với báo Osservatore Romano rằng: “Chúng tôi có cảm tưởng khi được Đức Thánh Cha an ủi chia sẻ là chính lúc khuôn mặt của Eleonora, tuy đã mất nhưng đang được Ngài vuốt ve vậy.  Chúng tôi tuy mang một nỗi buồn lớn lao nhưng cũng tự hào đã chứng kiến một hành động hào hiệp của người Kitô giáo.  Chúng tôi không oán trách bất cứ ai về cái chết của Eleonora, Thiên Chuá có kế hoạch riêng cuả Ngài mà Eleonora đã chấp nhận và thực hiện và hy sinh cả mạng sống của mình.  Bây giờ, việc quan trọng là truyền đạt thông điệp của sự vị tha, ngay cả việc phải giúp đỡ các gia đình Ấn Độ đang lâm vào thảm kịch này.”

Với thông điệp này, tôi thiết nghĩ, họ là những chứng nhân sống động trong thời này.  Cụ thể, cô Eleonora Cantamessa được xem như là người Samaria nhân hậu.  Việc làm của cô thể hiện lòng nhân ái của con người trước người bị nạn cần được giúp đỡ, nhưng không phải ai cũng có thể làm được như cô ta.  Song song với việc làm của cô, chính là nơi cô đã sống và hành động theo Lời Chúa dạy với một trái tim và tấm lòng nhân ái.  Cô biểu hiện đời sống đức tin mạnh mẽ qua việc làm của mình, là đốm sáng cho chúng ta nhận ra khuôn mặt của Chúa Giê-su.

Từ câu chuyện cảm động này, chúng ta có thể nhận ra thông điệp rõ nét hơn về hành động đức tin của người Ki-tô hữu.  Đặc biệt với Chúa Nhật Truyền Giáo, Giáo hội mời gọi chúng ta mạnh dạn dấn thân trong việc rao giảng Tin Mừng, như là lời mời gọi cấp bách trong năm sống Đức Tin này.

Với trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta được nghe câu hỏi của Chúa Giê-su: ” Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”  Đức tin là điều kiện tiên quyết cần có để chúng ta sống và rao truyền Lời Chúa, mà đức tin đó đi đôi với việc làm.  Có thể chúng ta nói về đức tin rất mạnh mẽ, nhưng chúng ta không dám sống cho đức tin của mình.  Có lẽ, có nhiều nguyên do khác nhau.  Nhưng một trong những nguyên do đó là, con người đang chạy theo bởi các trào lưu học thuyết ảo và lối sống hưởng thụ ngày nay đã áp đặt lên tư tưởng của chúng ta.  Hay nói cách khác, đời sống đức tin đang tha hóa bởi não trạng của sở hữu và quy về chủ nghĩa cá nhân.  Cho nên, có một lỗ hổng rất lớn giữa hiểu biết và đón nhận đức tin.

Câu hỏi của Chúa Giê-su có thể đặt lại vấn đề cho mọi người chúng ta là những người mang danh Đức Kitô.  Chúng ta đã và đang làm gì cho Nước Chúa được lớn lên và Lời Chúa đến với mọi người.  Hơn nữa, chúng ta không thể rao truyền đức tin mà không sống và hành động đức tin của mình.

Ngày Khánh nhật Truyền Giáo là dịp để cho chúng ta nhìn lại hành trình sống đức tin của mình.  Và qua đó, chúng ta tiếp tục sứ mạng của người Ki-tô và hãy noi gương của các nhà truyền giáo vĩ đại đã sống và chết cho giá trị Tin Mừng.

Thánh Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su truyền giáo qua lời câu nguyện và hy sinh nơi Dòng kín.  Thánh Phan-xi-cô với cuộc đời đi rao giảng cho các dân tộc Châu Á, nhờ đó nhiều người trở về với Chúa và nhận biết Đức Kitô.  Mẹ Têrêsa Calcutta truyền giáo qua việc phục vụ cho người nghèo và những người bị bỏ rơi.  Các thánh tử đạo Việt Nam chết để mang lại hạt giống đức tin trên quê hương Việt Nam.

Là con cháu của các ngài, nhiệm vụ của mỗi người chúng ta hôm nay là giữ lấy kho tàng đức tin và mạnh dạn dấn thân loan truyền Tin Mừng.  Như lời Chúa nói: “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng khắp thế gian, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con giữa cuộc đời nổi trôi để con có thể sống và làm chứng cho Đức Kitô đã chết cho chúng con, và sự phục sinh của Ngài mang lại cho chúng con niềm hy vọng và hạnh phúc đời sau.  Amen!

Rev. John Nguyen

 

VINH QUANG VĨNH CỬU

zz“Đây là tất cả những gì cần thiết để trở thành một môn đệ của Chúa Giêsu; đó là từ chối chính mình, và từ bỏ những gì con người mình ưa thích.  Chúng ta có mong muốn được hưởng ơn Cứu Độ không? Như vậy thì chúng ta cần phải chinh phục tất cả để được đảm bảo tất cả.  Tồi tệ nhất là một linh hồn cho phép thân xác hướng dẫn nó bằng tình yêu tự kỷ!

Hãm mình có hai cách: Bề trong (interior) và bề ngoài (exterior).  Hãm mình bên trong thì chinh phục được đam mê, và đặc biệt là những đam mê chiếm hữu chúng ta nhiều nhất.  Ai không thể vượt qua được những đam mê ấy thì có nguy cơ bị mất.  Ngược lại, ai chinh phục được nó sẽ dễ dàng chinh phục được tất cả những yếu điểm còn lại.  Tuy nhiên, có một số người bị ảnh hưởng bởi những điểm yếu khác, nhưng họ nghĩ họ là những người tốt vì họ không bị ảnh hưởng bởi những điều xấu mà họ thấy nơi người khác.  “Nhưng những gì sẽ ảnh hưởng đến điều này?”  Thánh Cyril nói: “một khe hở nhỏ cũng đủ để đánh chìm con thuyền.”  Lắm lúc chúng ta dùng biện pháp vô ích và nói “Tôi không thể tránh tật xấu này,” một ý chí kiên quyết sẽ vượt qua tất cả, khi chúng ta biết dựa vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, điều mà chúng ta chẳng bao giờ thiếu.”
– Thánh Alphonsus Maria de Liguori –

Trong thơ của Thánh Phaolô gởi Timôthê (Tm 2:8-13), ngài nói đến Lời Chúa chẳng bao giờ là xiềng xích trói buộc con người, nhưng Lời Chúa dẫn chúng ta đến một vinh quang vĩnh cửu.  Chính Chúa Giêsu sẽ là người dẫn chúng ta đến vinh quang vĩnh cửu ấy.  Vậy, chúng ta hãy dừng lại chốc lát và ngồi lại với chính mình để cảm nhận trong con tim của mình xem “vinh quang vĩnh cửu” đó có ý nghĩa gì với mỗi người chúng ta.  Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều về “vinh quang vĩnh cửu;” tuy nhiên, chúng ta có thể đã nghe nhiều nhưng có bao giờ cảm nghiệm được ý nghĩa của lời đó bao giờ chưa?  Hay chúng ta có bao giờ thắc mắc về ý nghĩa của sự “vinh quang vĩnh cửu” mà Giáo Hội luôn nhắc đến không?  Chúng ta có thể nghe lời dạy đó bằng tai, biết bằng trí óc, nhưng sự hiểu biết về những điều Chúa dạy thật sự đến từ con tim của chúng ta.  Chỉ có Chúa mới dạy cho chúng ta hiểu những gì Ngài dạy trong con tim của mình.

Nói như vậy thì “vinh quang vĩnh cửu” có phải là một cái gì đó mà chúng ta chỉ có thể cảm nhận được khi chúng ta lìa trần, hay là chúng ta có thể cảm nhận được điều đó ngay khi chúng ta còn sống? Khi nói đến “vinh quang”, chúng ta có lẽ nghĩ đến ánh sáng chói ngời.  Chúng ta nghĩ đến những vinh dự trước đám đông hay được tôn vinh.  Còn “vĩnh cửu” thì trường tồn hay bất diệt. Để giúp chúng ta hiểu về sự “vinh quang vĩnh cửu”, chúng ta hãy dùng câu chuyện sau đây:

Có một câu chuyện thần bí về một giáo sĩ Do Thái và các học trò của ông.  Một ngày kia khi thầy trò đi dạo, người thầy hỏi, “Làm thế nào chúng ta có thể biết được lúc nào là bình minh – lúc mà đêm kết thúc và ngày bắt đầu?”

Không ai dám trả lời câu hỏi ấy ngay, và họ tiếp tục đi.  Một trong những đệ tử trả lời: “Có phải khi mình có thể phân biệt được giữa con sói và con cừu từ một khoảng cách không xa lắm không?
“Không,” người thầy trả lời.  Một khoảng thinh lặng dài tiếp theo.

“Có phải khi chúng ta có thể phân biệt được cây nho và bụi gai,” một người học trò khác mạnh dạn trả lời.

“Cũng không phải,” vị thầy trả lời.

“Hãy dạy cho chúng con biết câu trả lời ấy,” một học trò lên tiếng, “Làm sao có thể biết được lúc nào là bình minh đã xua tan bóng đêm?”

“Bình minh đến với mỗi người chúng ta,” người thầy già khôn ngoan nói, “khi chúng ta nhìn vào khuôn mặt của một người khác và – nhờ ánh sáng đến từ bên trong chúng ta – nhận ra rằng ngay cả một người lạ cũng là anh chị em của chúng ta.  Cho đến khi đó, nó vẫn là đêm.  Cho đến khi đó, đêm vẫn còn ở với chúng ta.”

Thứ ánh sáng tự bên trong mà có thể xua tan bóng đêm ấy trong câu chuyện chính là ánh sáng chiếu rọi từ “vinh quang vĩnh cửu” của Đấng đã chiến thắng sự tối tăm và đang hiện diện trong chính mỗi người chúng ta qua mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể.  Bởi thế sự “vinh quang vĩnh cửu” không phải là một cái gì đó mà chúng ta phải đợi để có thể nhận ra được khi lìa trần nhưng chúng ta có thể sống ngay từ bây giờ, và qua ánh sáng đó chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa trong mỗi người.  Ánh sáng đó chính là bình minh trong con tim của chúng ta.  Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ khi chúng ta còn sống cũng là Thiên Chúa chúng ta mong mỏi được gặp khi chúng ta lìa trần, và Ngài luôn chia sẻ tất cả những gì là của Ngài cho tất cả mọi tạo vật, kể cả “vinh quang vĩnh cửu” ấy của Ngài.

Nhưng để được hưởng ánh sáng chiếu rọi từ “vinh quang vĩnh cửu” ấy, chúng ta cần phải từ bỏ con người mình (chết đi cái tôi), từ bỏ ánh sáng đến tự chính mình vì thứ ánh sáng ấy không phải là ánh sáng thật và tinh tuyền vì nó mang nhiều màu sắc.  Những màu sắc ấy là những gì chúng ta thâu lượm được trên con đường làm người của mình, chẳng hạn như những ham muốn có được những gì chúng ta muốn, hoặc thấy những ai mình ưa thích thì tốt còn những ai làm gì đến mình thì mình gọi họ bằng những lời lẽ không xứng đáng, hoặc chúng ta nhìn người khác mầu da bằng những ánh mắt khinh chê, hoặc chúng ta nhìn người khác với sự đam mê thầm kín.

Như chúng ta cũng đã biết, ánh sáng mang mầu sắc luôn che khuất ánh sáng thật mặc dầu ánh sáng thật luôn hiện diện ở đó, và ánh sáng thật chỉ có thể được lộ diện khi mọi màu sắc được tắt đi.  Thật sự màu sắc không phải là thật, vì nếu không có ánh sáng, thì không có màu sắc vì màu sắc là phản ánh của ánh sáng.  Thánh Phaolô nói “nếu chúng ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta” – nếu chúng ta còn để ánh sáng màu sắc của mình chiếu rọi thì ánh sáng tinh tuyền của Thiên Chúa sẽ bị che lấp; “nếu chúng ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín vì Người không thể từ bỏ chính mình” – ánh sáng thật của Thiên Chúa luôn hiện diện mặc dù lắm lúc chúng ta chọn để cho màu sắc của chúng ta chiếm hữu lấy tâm hồn mình hoặc dùng ánh sáng của chính mình để tự toả sáng và lấp đi ánh sáng của Chúa, nhưng Thiên Chúa không có thể rút Ngài ra khỏi những gì Ngài đã tạo dựng vì chính Ngài là ánh sáng thật duy trì mọi tạo vật, và không có Ngài thì không có gì hiện hữu, không có Ngài sẽ không có ánh sáng, không có bình minh trong lòng con người.

Vì thế, chúng ta cần xin ơn để được chết đi chính con người mình để chúng ta được sống trong sự “vinh quang vĩnh cửu” của Thiên Chúa, để chúng ta được sống trong ánh sáng của Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.  Ước gì chúng ta biết từ bỏ chính mình và những gì mình ưa thích, qua đó chúng ta biết tắt đi những màu sắc bằng cách không nhìn người khác với những đam mê riêng tư hoặc thành kiến của mình, nhưng nhìn mọi người bằng ánh sáng thật phản ánh từ “vinh quang vĩnh cửu” của Thiên Chúa.

Củ Khoai, 10/2013

TINH THẦN TRUYỀN GIÁO

zz“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”.  Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.

Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người.  Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ.  Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan.  Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?

Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp.  Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.

1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn.  Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.

Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”.  Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào.  Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó.  Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp!  Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo.  Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.

Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch.  Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo.  Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo.  Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa.  Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội.  Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.

2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống,” đó là kinh nghiệm trồng cây.  Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình.  Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.

Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng.  Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?

Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.

Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn.  Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu.  Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.

Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy.  Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.

Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người.  Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.

Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.

ĐGM Vũ Duy Thống

CHÚA GỬI THÁNH NỮ TERESA AVILA ĐẾN HỎA NGỤC

zzMột thời gian lâu sau khi Chúa đã ban cho tôi nhiều hồng ân mà tôi đã trình bày, cùng với một số ân huệ cao siêu khác nữa, thì một hôm đang khi cầu nguyện, đột nhiên không biết làm sao tôi thấy mình nhào thẳng vào hỏa ngục.  Tôi nhận thức đó là ý Chúa muốn cho tôi thấy cái chỗ ma quỷ đã dọn sẵn cho tôi trong hỏa ngục, và tôi đáng vào chỗ ấy vì tội lỗi của tôi.

Cảnh tượng này diễn ra trong giây lát, nhưng thiết nghĩ, dù có sống bao nhiêu năm đi nữa, tôi cũng không thể quên đi được.  Lối vào hỏa ngục coi giống như ngõ hẻm dài và hẹp, hay như một đường hầm ẩm thấp, tối tăm, chật chội, ngập tràn một thứ bùn hôi thối, dơ bẩn và lúc nhúc những rắn độc.  Cuối đường là một cái hốc rất chật hẹp khoét vào tường, và tôi bị dồn nén trong cái hốc đó.  Tả như vậy thì còn là dễ chịu so với những gì thực sự tôi cảm thấy ở đó, vì tôi không có cách nào diễn tả cho đủ.

Quả thật, những đau khổ, khốn nạn tôi phải chịu lúc đó, tôi không thể nào diễn tả được trong muôn một: mà cũng không ai có thể hình dung được chút nào.  Tôi cảm thấy một thứ lửa thiêu đốt linh hồn tôi mà tôi không thể diễn tả bản chất nó như thế nào.  Trong khi thân xác tôi cũng phải chịu những đau đớn thật là khủng khiếp.

Trong đời tôi, tôi đã chịu những đau đớn dữ dội nhất, chẳng hạn như giây thần kinh co rút trong suốt thời kỳ tôi bị tê bại, mà theo các bác sĩ, đó là những đau đớn tột bực, và còn nhiều thứ đau đớn khác nữa, mà một số do chính ma quỷ gây nên cho tôi, như đã nói.  Nhưng tất cả những đau đớn ấy không là gì cả, so với thứ đau đớn tôi cảm thấy trong lúc ở hỏa ngục.  Càng không thể nói gì về nỗi kinh hoàng bởi biết rằng những đau đớn ấy sẽ kéo dài vô tận và không bao giờ nguôi ngoai.  Dẫu vậy, tất cả những đau đớn này vẫn không là gì so với cơn hấp hối của linh hồn.

Linh hồn như bị bóp nghẹt, khắc khoải, kinh hoàng và sầu khổ vô hạn, một thứ sầu khổ tuyệt vọng và cùng cực không thể diễn tả.  Nói rằng nỗi đau đớn ấy giống như linh hồn bị liên lỉ xé rời khỏi xác thì còn quá êm dịu, vì nói như thế có thể có nghĩa là một người nào khác đoạt lấy sự sống của mình; còn trong trường hợp này, chính linh hồn tự xé nát mình ra từng mảnh.

Thật sự, tôi không thể tìm được lời lẽ nào để diễn tả thứ lửa nội tâm và sự tuyệt vọng đó, một thứ tuyệt vọng ray rứt não nề còn hơn những cực hình và đau đớn cay đắng nhất.  Tôi không thấy ai gây nên những khổ cực ấy, nhưng tôi cảm thấy như vừa bị thiêu đốt, vửa bị phân ra từng mảnh.  Tôi xin nhắc lại: yếu tố làm cho linh hồn khốn cực nhất là thứ lửa nội tâm và nỗi tuyệt vọng kia.  Trong chốn cực hình, không mảy may hy vọng khuây khỏa đó, nằm không được mà ngồi cũng không được, vì không có chỗ.  Tôi bị nhét vào đó như trong cái lỗ khoét vào tường, mà mặt tường thì coi khủng khiếp biết bao!  Cảnh tượng này đè nặng trên tôi làm cho tôi nghẹt thở hoàn toàn.  Không có ánh sáng.  Mọi sự đều ở trong tối tăm dầy đặc.  Điều tôi không sao hiểu được là dẫu không có ánh sáng, vẫn có thể nhìn thấy mọi sự gây nên đau khổ cho mình trước mắt.

Lúc ấy Chúa không muốn cho tôi gì hơn nữa về hỏa ngục, nhưng trong một thị kiến khác, tôi đã thấy những hình phạt hãi hùng để phạt một vài nết xấu.  Nhìn vào những hình phạt ấy, tôi thấy còn khủng khiếp hơn nhiều; nhưng vì tôi không phải chịu những hình phạt ấy, nên tôi ít sợ hãi hơn.  Còn trong thị kiến trước, trái lại, Chúa đã muốn cho tôi thực sự cảm thấy bằng lòng trí, những cực hình và thống khổ ấy như thể chính thân xác tôi đã phải chịu những cực hình ấy vậy.  Tôi không hiểu việc ấy xẩy ra làm sao, nhưng tôi nhận thức rõ ràng, đó là một ân huệ lớn lao và chính là ý Chúa muốn cho tôi nhìn tận mắt cái vực thẳm mà Lòng Thương Xót Chúa đã cứu tôi thoát khỏi.

Những sách vở mô tả cảnh tượng hỏa ngục chẳng là gì cả, so với chính sự thật.  Người ta không thể hình dung ra được thứ hình khổ nào tương tự (như đôi khi tôi vẫn tưởng tượng, dù chỉ họa hiếm, vì con đường sợ hãi không thích hợp cho linh hồn tôi).  Những cảnh tượng ma quỷ xâu xé người ta và nhiều thứ khổ hình khác như tôi đã đọc thì cũng chẳng là gì so với cực hình này.  Đó là hai thực tại khác nhau như bức họa so với chính sự thật.  Bất cứ sự thiêu đốt nào trên mặt đất này đều chẳng là gì so với chính lửa hỏa ngục.

Tôi khiếp đảm khi chịu tất cả những khổ hình này và dù đã gần sáu năm trôi qua, mà khi viết những dòng này, tôi vẫn cảm thấy dường như tôi đang ở đó, nỗi sợ hãi xâm chiếm hết con người tôi, làm tôi lạnh toát.  Không khi nào nhớ lại cảnh tượng này mà tôi lại không thấy những đau khổ thử thách và bất cứ những gì chúng ta có thể chịu trên mặt đất này đều chẳng là gì cả.

Vì thế, về phương diện nào đó, tôi nghĩ chúng ta phàn nàn là phi lý.  Tôi xin nhắc lại: thị kiến đó là một trong những hồng ân đặc biệt nhất Chúa đã đoái thương ban cho tôi, và hồng ân ấy đã sinh ích lớn lao nhất cho tôi.  Nó vừa chữa tôi khỏi sợ hãi trước những đau khổ buồn phiền và những phản kháng của người đời, vừa tăng cường sức mạnh cho tôi để chịu đựng tất cả với niềm tri ân cảm tạ Thiên Chúa, vì tôi tin chắc rằng chính Người đã cứu tôi thoát khỏi những khổ hình kinh khiếp và vô tận ấy. Tôi nói lại, là từ đó, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng đối với tôi, so với chỉ một giây lát của cực hình tôi đã trải qua trong thị kiến.  Tôi bàng hoàng nhớ lại trước kia, sau khi đọc nhiều sách trình bày những hình phạt hỏa ngục, mà tôi chẳng hề biết sợ như đáng phải sợ, và tôi cũng chẳng có một ý niệm xác đáng về những hình khổ ấy.  Vậy thì lúc ấy tôi ở đâu?  Làm sao tôi có thể thản nhiên trong những gì lôi cuốn tôi vào chốn khủng khiếp như thế?  Lạy Thiên Chúa của con, chúc tụng Chúa đời đời!  Thật rõ ràng là Chúa yêu con hơn con yêu chính mình con nhiều biết bao!  Lạy Chúa, chẳng phải là đã bao phen Chúa giải thoát cho con khỏi tù ngục ghê sợ ấy và rồi con lại lao mình vào đó nghịch với ý Chúa đó sao?

Thị kiến này còn gây cho tôi một nỗi đau đớn rất sâu xa vì thấy vô số linh hồn phải trầm luân, cách riêng là những người ly giáo Luthêrô, vì họ đã chịu phép rửa tội và trở nên chi thể của Giáo Hội.

Thị kiến cũng gợi cho tôi ước muốn mãnh liệt được nên hữu ích cho các linh hồn: tôi sẵn sàng chết muôn ngàn lần để giải thoát dù chỉ được một trong những linh hồn khốn khổ ấy khỏi cực hình khủng khiếp kia.

Tóm lại, trên trái đất này, khi chúng ta trông thấy ai, nhất là những người thân yêu của chúng ta phải chịu đau khổ thử thách nặng nề hay đau đớn dữ dội, thì tự nhiên chúng ta đã động lòng thương, và nếu thấy họ đau đớn quá mức, thì ta lại càng cảm thương hơn.  Vậy thì còn ai có thể đứng dửng dưng nhìn một linh hồn phải chịu cực hình khủng khiếp trên mọi khủng khiếp ấy?  Không một trái tim nào lại không tan vỡ khi nhìn thấy nỗi đau đớn ấy.  Vì ngay những đau đớn ở thế gian này, chúng ta biết là có ngày sẽ hết và sẽ chấm dứt với cái chết, mà chúng ta cũng còn xúc động cảm thương sâu xa.  Phương chi những nỗi đau đớn kia, vô cùng vô tận, thì sao chúng ta lại có thể thản nhiên nhìn ma quỷ hằng ngày lôi cuốn vào đó biết bao linh hồn!

Thị kiến này cũng làm cho tôi có một ý định dứt khoát rằng trong vấn đề tối quan trọng là việc cứu rỗi các linh hồn, chúng ta chỉ được phép thỏa mãn với điều kiện làm hết mọi việc phải làm, làm hết mọi việc chúng ta có thể làm.  Nguyện xin ban ơn cho chúng ta thực hiện được ý định đó.”

(Trích chương 32 của tác phẩm Thánh Têrêsa Avila, Tiểu Sử và Tự Thuật.)

NỢ LÀ MỘT QUÀ TẶNG

Khi nói tới từ ‘Nợ’, có lẽ, ta vẫn nghĩ tới những món nợ: nợ ngân hàng bao nhiêu tiền, nợ gia đình này gia đình kia bao nhiêu ký thóc-ký gạo, nợ mấy ngày công mấy tháng lương, nợ người này người kia mấy cây vàng… Và có nợ thì phải lo để trả; trả không xong thì đâm lo lắng, buồn phiền, có khi mất ăn mất ngủ, thậm chí còn chạy để “trốn nợ”.  Như vậy, nợ ở đây như là một “gánh nặng” đè trên vai con người.

Đã gánh thì nặng là điều chắc chắn rồi!  Và khi trả được nợ ta như trút được một gánh nặng trên vai! Nhưng cái nợ cứ muốn kết bạn với ta; khổ nỗi ta thì chẳng muốn chút nào!  “Chả nhẽ” suốt cuộc đời này ta phải mang trên vai một “người bạn” mà ta chẳng hề quý, chẳng hề thích sao?  Giả như ta có “quẳng gánh nặng đi để vui sống” thì ta có thực sự vui, thực sự hết gánh nặng không?  Và lúc ấy ta là ai?  Ta không phải là một người trốn nợ sao?  Nếu vậy từ “trách nhiệm” trong cuộc đời còn ý nghĩa gì?

Nếu nợ là một gánh nặng, ngày sống của ta sẽ rất nặng nề, với hàng khối công việc, với những mệt mỏi về thể xác, với những người tôi chẳng hề muốn gặp nhưng vẫn cứ phải đối diện hàng ngày, với những “món quà” dù không muốn cũng phải nhận…

Thế nhưng, dù nợ có là gánh nặng nó cũng giúp ta biết sống trách nhiệm với cuộc đời: trách nhiệm với những điều ta đã làm, tức vay thì phải trả!  Ấy vậy, nếu chỉ dừng lại ở mức độ trách nhiệm với cuộc đời tức phải lo mà trả nợ thôi thì cuộc đời vẫn luôn là một gánh buồn phiền đung đưa trĩu nặng trên vai.

zzCuộc đời sẽ bớt nặng, tươi vui và rực nắng hơn khi ta sống tâm tình ‘Nợ là một quà tặng’:  Nợ một ánh mắt, một nụ cười; nợ một cái bắt tay, một lòng cảm thông,… nợ bạn bè, cha mẹ, người thân trong những lúc nâng đỡ sẻ chia vui buồn… nợ cái hơi ấm tuổi còn trong nôi…  Có khi là nợ một lời nói nhẹ nhàng, dễ thương và ngọt ngào của một ai đó…  Quả thực, cuộc sống luôn cho ta những món nợ như là những quà tặng.  Nếu ngày nào ta cũng sống với tâm tình “nợ” như là một món quà, là một sự trao tặng ta nhận được từ người yêu thương, chắc hẳn cuộc đời của ta thật đẹp, thật đáng quý và thật nhẹ nhàng!

Ấy vậy mà đi qua một con đường hoa đẹp, chiêm ngắm cảnh bình minh hay hoàng hôn, ngửi mùi hương nhè nhẹ của những cánh hoa vừa mới nở buổi sớm, tản mạn với nhau những câu chuyện đầu năm… có khi nào ta zznghĩ mình đang nợ một ai đó ngoài tiền bạc không nhỉ?  Hay có khi nào ta nghĩ mình “nợ cuộc đời từng tia nắng mai” như nhạc sĩ Nguyễn Nhất Huy đã đặt tâm tình “nợ” của ông trên giai điệu bài hát “Vẫn nợ cuộc đời” không?

Vì cuộc đời “có những khi ước mơ chưa đầy mà đã vội vơi đi rồi”, nên nợ không chỉ cho ta thấy trách nhiệm nhưng còn là biết ơn cuộc đời! “Cảm ơn đời mỗi sáng mai thức dậy, ta có thêm một ngày nữa để yêu thương”; và “nếu còn một ngày để sống” tôi sẽ chọn một ngày sống với tâm tình biết ơn đời, “đời cho ta” biết bao điều cao đẹp!  Biết đâu chính khi ta biết ơn đời, ta sẽ có được một thái độ ngạc nhiên.  Ngạc nhiên để khám phá quà tặng cuộc đời.  Ngạc nhiên thấy “nợ” cho ta “liên hệ” gắn bó với cuộc đời, gần gũi với tha nhân!

Nắng Sớm

ĐÓN, GẶP VÀ BIẾT ƠN

zzChuyện đời thường, muốn thăng quan tiến chức, chúng ta nghĩ đến việc “biết điều” nơi phong bì cửa sau.  Tệ nạn này không khó bắt gặp trong xã hội.  Khi mọi sự đã “mã đáo thành công” thì “cò” cũng được đền ơn cân xứng.  Phủi tay, xem như ân oán sòng phẳng, mọi chuyện chẳng có gì xảy ra.  Trớ trêu thay, nhiều Kitô hữu lại áp dụng lối suy nghĩ này với ơn lành của Thiên Chúa.  Khi gặp cảnh gian nan bĩ cực, họ qui định cho Thiên Chúa thời gian và hành vi cụ thể, đòi buộc Thiên Chúa phải làm thế này, thế kia trong lúc này, lúc nọ. Ngược lại, họ luôn hứa sẽ “trả công” Thiên Chúa cách cân xứng bằng cặp đèn cầy, mấy chiếc ghế đá, vài bao xi-măng… Ở đây, tôi không vội lên án hay dè bỉu thái độ này.  Chúng ta cùng suy niệm Tin Mừng Luca chương 17 được đọc trong Chúa nhật 28 Thường Niên C để cùng rút ra những bài học quí giá trong cung cách xin ơn và biết ơn Chúa.

Đức Giêsu đang lên Giêrusalem. Theo Tin Mừng Luca, “lên Giêrusalem” nghĩa là đi vào con đường cứu độ, con đường của khổ giá.  Theo thói thường, khi lâm nạn, chúng ta không mảy may để ý đến người khác, thân mình lo chưa xong thì làm sao mà lo chuyện bao đồng?  Gặp một người trong tình trạng “lá lành đùm lá rách”, chúng ta dễ dàng bĩu môi: “Khôn nhà, dại chợ. Ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng.  Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng”.  Phải chăng, Tin Mừng hôm nay giới thiệu một gương mặt của Chúa Giêsu “lắm chuyện”?  Khác với thói đời, mặc dù đang bước trên hành trình thương khó, Đức Giêsu không ích kỷ.  Ngài nán lại chữa lành mười người phong hủi.  Không phải Ngài nhiều chuyện, Tin Mừng chỉ rõ: họ đón chờ Ngài và van xin (x.Lc 17,12-13).  Đúng người, đúng việc, Đức Giêsu không để nỗi lo lắng, bi thương mình đang mang chi phối lòng xót thương.  Ngài vẫn giữ được sự tỉnh táo, sáng suốt, giàu tình thương và đã chữa lành.  Không phải vô tình mà Thánh sử Luca nhiều lần nhắc đến động thái “lên Giêrusalem”.  Lên Giêrusalem nghĩa là qui chiếu về mối dây cứu độ, mối dây hiệp thông.  Khi phạm tội nguyên tổ, loài người cắt đứt mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, với muôn vật muôn loài.  Giờ đây, Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến qua lòng xót thương, đỉnh điểm là biến cố Vượt Qua ở Giêrusalem nối kết từng chi tiết một: con người lại được chia sẻ vinh quang với Thiên Chúa.  Trong trường hợp gặp gỡ mười người phong: sự đổ vỡ trong tương quan giữa người Do Thái và Samari, sự khinh miệt của người lành với người bệnh phong, đặc biệt như nguyên tổ là sự trốn tránh của người tội lỗi với Thiên Chúa, mọi vết nứt, đứt gãy được trám lại thật khít cách hoàn hảo qua biến cố chữa lành của Đức Giêsu.  Đức Giêsu là Thiên Chúa, sẵn sàng đối thoại với người tội lỗi và dùng quyền năng chữa trị cả tinh thần, thể xác và linh hồn những người phong hủi.  Ngài cũng là người Do Thái tiếp xúc với người Samari, hành động này vượt qua mọi rào cản ngăn trở giữa hai dân tộc tồn tại cả ngàn năm lịch sử.  Ngài không mắc bệnh phong, qua việc tiếp xúc với bệnh nhân phong đã đập tan thành kiến ô uế tệ hại.  Chỉ một lần gặp gỡ, mọi mối hiệp thông lại gắn kết.  Còn chần chờ gì nữa, Kitô hữu cũng phải vượt qua hàng rào thành kiến để mở rộng vòng tay bác ái của Thiên Chúa.

Cả mười người cùng đợi chờ, đón đường và van xin Đức Giêsu.  Khi rơi vào cùng một nhịp đập của sự khinh chê, cách ly, tất cả họ như thể trở nên gắn kết thành một.  Sức mạnh của thành kiến xã hội đã đẩy tất cả họ vào con đường cùng, nhưng cũng chính sức mạnh ấy làm cho họ nhận ra tính thống nhất của sự đoàn kết của xã hội người phong.  Điều này giúp chúng ta học được bài học của sự liên kết.  Quả thực, dù đau khổ, bi ai cách mấy, nếu chúng ta cùng hợp sức như nhóm người này để đợi chờ, đón đường và van xin, thể nào Thiên Chúa cũng dùng ngón tay Người mà chạm đến chúng ta.  Điểm khởi đầu này chẳng hề phân biệt giai cấp, tầng lớp, thể chế xã hội hay tôn giáo.  Chắc chắn, mười bệnh nhân cùng mong chờ một điềm lạ vĩ đại nơi những lời lẽ vĩ đại xuất phát từ một người vĩ đại: “Thầy Giêsu” (17,13).  Phải thực sự gọi là trớt quớt: Đức Giêsu xuất hiện không hào quang, không mây, không chớp, lời lẽ chữa lành không dài dòng, văn hoa, màu mè.  Chỉ một lời, một lời thôi: trình diện tư tế.  Nản lòng lắm chứ!  Theo Torah (Lề Luật Do Thái) chỉ khi nào lành sạch hoàn toàn, nghĩa là không còn chút nào bệnh tật, khi đó bản thân bệnh nhân mới được trình diện tư tế về hiện trạng lành mạnh của mình.  Sau đó tế lễ lên Thiên Chúa như một bằng chứng thanh sạch và tỏ lòng biết ơn.  Đằng này, thân mười như một: lở loét, ô uế, mà Đức Giêsu lại bảo họ trình diện tư tế.  Lố bịch!  Thiết nghĩ, Đức Giêsu đang dồn những người này vào con đường chết, vào thế bí, thế hiểm.  Ai ngờ, đây lại là đường hy vọng, đường thoát hiểm, con đường sống.  “Chơi với Chúa” đòi hỏi phải chấp nhận đánh-cuộc cuộc-đời mình.  Ngày nay, Chúa không dùng việc hiện ra như một hành vi thường xuyên mách bảo phải làm thế này, thế kia.  Những gì cần nói, Ngài đã mạc khải tất cả nơi Thánh Kinh.  Khi trình diện tư tế, mười bệnh nhân đã thể hiện niềm tin mãnh liệt vào Lời Chúa.  Nếu chúng ta cũng học hỏi, cũng tin vào Lời Chúa, Thánh Kinh và thực hành niềm tin ấy thì chính chúng ta cũng cảm nếm được sự bình an đích thực như thể một phép lạ của Thiên Chúa. “Hãy nếm thử và nghiệm xem” (Tv 33).

Suy niệm đoạn Lời Chúa này không thể bỏ qua chi tiết một phần mười.  Thánh sử Luca viết rất rõ: “đang khi đi thì họ được sạch” (17,14b).  Phải chú ý rằng: họ được lành trước khi gặp tư tế.  Có hai điểm cần quan tâm: thứ nhất không phải vì trình diện mà tư tế chữa lành họ; thứ hai họ vừa sạch phong hủi, lúc ấy vẫn chưa gặp tư tế, nghĩa là theo Luật tình trạng của họ mới sạch chứ chưa lành lặn hoàn toàn.  Chín người kia phải thực hiện từng con chữ được ghi chép trong Luật.  Cả chín người như mong mỏi gặp cho kỳ được tư tế để nhận được xác quyết của tư tế là họ lành sạch trăm phần trăm thì mới nghĩ đến việc biết ơn.  Riêng người Samari, người ngoại giáo, anh ta không ràng buộc mình nơi con chữ của Lề Luật.  Trước sau gì, anh ta cũng gặp tư tế như Lời Đức Giêsu đã truyền, nhưng ngay lúc này, anh phải vội vã quay lại để gặp người chữa lành cho anh. Anh sợ rằng: Người sẽ đi mất, Người đem ánh sáng cho cuộc đời anh, Người tái sinh anh trong trần đời này sẽ không còn đứng lại đó để anh kịp nói lên lòng tri ân.  Hành động vội vã quay lại này không mang hình thức của lòng biết ơn đơn thuần nhưng là lòng biết ơn tận thâm tâm.  Anh khao khát, nao nức gặp Người để tri ân.  Đến với Chúa với lòng ước ao, khao khát Chúa, chính là hành vi tri ân hoàn hảo: “Lễ toàn thiêu và lễ xóa tội, Chúa không đòi. Con liền thưa: Này con xin đến” (Tv 39,7-8).

Thay lời kết, tôi muốn nhìn lại ba bài học quí giá sau khi suy niệm đoạn Tin Mừng này.  Trước tiên, tôi được mời gọi đón nhận sự khác biệt của người khác, không co tròn trong vỏ ốc tự tôn, phải mạnh dạn phá vỡ thành kiến để Thiên Chúa dễ dàng dùng tôi như “khí cụ bình an của Ngài” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi).  Thứ đến, nơi nghịch cảnh cuộc đời, Thiên Chúa như đang chơi trò đánh đố niềm tin của con người.  Tôi được tiếp thêm sức mạnh nơi đời sống cộng đoàn Kitô hữu, qua kinh nguyện, sự chia sẻ, cảm thông để vững tin rằng: Chúa không bỏ rơi tôi. Nếu tôi mạnh dạn trở thành khí cụ bình an của Chúa cho tha nhân, thì chắc chắn: Chúa cũng sẽ gửi một khí cụ bình an khác đến với tôi.  Cuối cùng, như người Samari, một hình ảnh tuyệt vời của lòng khao khát tri ân, chúng ta cùng hiệp thông xin Chúa đong đầy lòng khao khát tạ ơn Chúa nơi mỗi người chúng ta.  Amen!

Lg.hungson@gmail.com