CÁC THIÊN THẦN BẢN MỆNH ĐÌNH CÔNG TRÊN THIÊN ĐÀNG

Chúa Giêsu cất giọng: “Hãy yên lặng, Micae tối nay con hãy mau họp tất cả các thiên thần bản mệnh ở đây.  Chúng ta sẽ lắng nghe những than phiền của họ.”  Buổi tối, thánh Micae xếp đặt các ngôi sao trong bầu trời theo một trình tự từ nhỏ đến lớn: các thiên thần bản mệnh được gọi về trời, hướng Tây, vào lúc trăng bắt đầu mọc.

Các thiên thần bản mệnh đã lên gặp Chúa.  Khi tất cả ngồi trên các tầng mây, tạo thành một số lượng lớn không đếm xuể.

Chúa Giêsu tiến lên giữa họ: “Hỡi các thiên thần, Ta biết các con muốn đình công.  Điều đó thực sự không hợp lý.  Vậy có điều gì không hay?”

Họ la lên: “Chúng con thấy chán nản về công việc bạc bẽo của chúng con!  Chúng con không thể làm được nữa! Chúng con muốn trở về thiên đàng!  Trên trần gian chúng con quá cô đơn!”

Chúa Giêsu ngạc nhiên hỏi: “Cô đơn trên trần gian ư?  Nhưng các con đã làm gì cho nhân loại?  Mỗi người các con không có một người bạn mà chúng con gắn bó ngày đêm sao?”

zzMột tổng thần vừa đứng dậy vừa nói: “Lạy Chúa! Điều làm chúng con bị cô đơn là loài người không biết đến chúng con.”

Một thiên thần khác thêm vào: “Quả thật, nhân loại đã lôi kéo nhau vào trong những cuộc rộn ràng điên rồ mà không bao giờ có lấy một chút quan tâm đến chúng con. Có ai nghĩ rằng có một thiên thần luôn theo sát bước chân của họ không?”

Đến lượt một thiên thần Sêraphim tóc hoe, đứng lên nói: “Chính con, con là thiên thần bản mệnh của Gioan, người ta luôn thấy chú bé nghịch ngợm, và đứng trên bờ tường sắp đổ nát, hoặc trên một sà lúp sửa soạn lật đổ, hay trên một cành cây mỏng manh.  Tuy nhiên, nhờ con mà nó chưa gặp một điều bất trách.  Một ngày kia, nó bị ngã xuống nước, chính con đã ra tay để nó móc vào rễ cây.  Có ngày nó bị lao đầu từ trên cây táo xuống, con đã trải áo của con xuống đất để làm giảm bớt sự va chạm.  Chú bé Gioan đã đứng dạy không bị sao cả.  Chúa nghĩ rằng nó sẽ cảm ơn con ư?…  Nó không hề nghĩ tới con.”

Khi thiên thần Sêraphim im lặng, một thiên thần áo trắng, thắt lưng vàng phát biểu.  Ngài nói:“Con có sứ vụ bảo vệ Lisa, một cô bé khờ khạo luôn băng qua đường mà không nhìn phải trái.  20 lần con đã kéo tay áo nó lại lúc mà một chiếc xe điện hoặc xe hơi sắp cán nát nó.  Người ta hỏi nó: nhờ phép lạ nào mà nó được đưa ra đúng lúc, vậy mà không bao giờ có ai nghĩ rằng con đã ở bên nó trong sự việc ấy.”

Một thiên thần mặc áo choàng xanh da trời đã thở than một cách chán nản: “Ôi! các trẻ em đều phụ bạc!”

Một thiên thần khác buồn rầu chậm rãi nói: “Chúng cũng không nhận ra giọng nói của chúng con trong lúc chúng con thì thầm bên tai chúng lời khuyên tốt lành.”

Thiên thần Kêrubin nói: “Đối với con, còn tệ hại hơn nữa, Loulou bạn đồng hành của con cũng không biết có con không.  Mẹ nó chưa bao giờ nói điều đó cho nó biết.”

Những phàn nàn vẫn tiếp tục kéo dài, với giọng điệu dai dảng đó.  Bỗng nhiên, thấy một nhóm thiên thần tỏ ra buồn bã, mệt mỏi hơn các thiên thần kia, Chúa Giêsu hỏi họ: “Còn các con hỡi các thiên thần, các con muốn nói gì?”

zzCác thiên thần đáng thương trả lời với một giọng trầm khàn: “Ôi lạy Chúa!  Nỗi bất hạnh của chúng con còn vượt quá những điều mà Chúa vừa nghe thấy!  Chúng con là những thiên thần bản mệnh của người lớn.”

Vua vũ trụ trở lên căng thẳng.  Người xoáy bộ râu cằm lộ vẻ bối rối.  Một sự trầm lặng nặng nề trên cõi thiên đàng.  Cuối cùng, sau một lúc lâu, Chúa Giêsu nói: “Hỡi các thiên thần, điều các con nói cho Ta đủ làm Ta chán nản.  Cha đã sai các con đến với các thụ tạo yếu hèn để giúp đỡ chúng trong cuộc hành hương ngắn ngủi ở trần gian.  Nhưng sự việc tỏ ra quá đau buồn.  Ta không còn tâm tư để buộc các con làm việc đó quá lâu nữa.  Vậy các con có thể trở về thiên đàng.”

Qua câu nói vừa rồi vui mừng bọc lộ vang ra từ muôn đôi cánh, và các tầng trời thiên đàng đang rung lên.  Nhưng bỗng Đức Thánh Trinh Nữ xuất hiện giữa đám đông: “Tới phiên ta, ta muốn nói.”

Như ai cũng biết, Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ từ chối Mẹ, Ngài nói: “Vâng, thưa Mẹ.”

Quay hướng về các thiên thần bản mệnh, Mẹ nói với họ: “Hỡi các thiên thần bản mệnh, còn hơn cả con Ta nữa, ta thấy chán nản về cuộc đình công mà các con dự định.  (Đức Trinh Nữ đã biết rõ rằng các trẻ em ở trần gian sẽ bị mất, không còn các thiên thần bản mệnh nữa!)  Ta muốn các con, vì đặc ân cuối cùng, các con trở lại nhiệm sở của các con trọn một ngày nữa.  Trong thời gian này chúng ta sẽ tổ chức một cuộc bỏ phiếu, và tối mai các con hãy trở về để bỏ phiếu thuận hay chống lại cuộc đình công bi thảm này, nếu đa số thì thắng.”

Lập tức các thiên thần bản mệnh, quỳ rạp trước nhan Chúa Giêsu và Mẹ Người mà xin bay về trần gian lần nữa.

Đêm đó Nữ Vương các tầng trời đã rời thiên đàng và thực hiện một cuộc kinh lý lạ thường.  Âm thầm vào từ nhà này sang nhà khác, vì duy chỉ có Thần Ánh Sáng mới biết được việc này.  Mẹ cúi xuống từng giường của các trẻ em đang ngủ và thì thầm vào tai chúng điều gì đó.  Mẹ thích chọn những em bé, những người lớn thì ‘nặng tai’ hơn.  Mẹ đã làm như thế cho đến hết vòng trần gian.

Sáng hôm sau, khi thức dậy, các trẻ em trần gian biết rằng chúng có một giấc mơ!  Giấc mơ nào?… không ai nhớ đúng cả.  Nhưng bỗng chúng biết rằng mỗi người trong chúng đều có bên cạnh một thiên thần, họ sẽ buồn rầu, chán nản và ra đi nếu như người ta không có lấy một chút yêu mến họ.  Thế là các trẻ em trần gian bắt đầu chắp tay lại và nói: “Hỡi thiên thần bản mệnh của con, xin đừng đi!  Con yêu mến Ngài, vì Ngài đã cứu con thoát khỏi nhiều thảm họa.  Con xin Ngài luôn mãi phù hộ con.”

Tối hôm đó có nhiều cuộc đi lại giữa thiên đàng và trần gian.  Các thiên thần bản mệnh hôm trước quá sa sút, quá mệt mỏi; bây giờ với vẻ mặt rạng rỡ họ đã bỏ lá phiếu của họ vào thùng và trở lại trần gian với tiếng vỗ cánh vui tươi.  Lúc đến mở thùng phiếu, ông Chủ Vũ Trụ đã ngạc nhiên!  Hôm trước các thiên thần đã bằng mọi giá bỏ mặc trần gian, thì bây giờ, tất cả đã tuyên bố chống lại cuộc đình công.

Đó là phương cách mà Đức Trinh Nữ Maria đã dùng để hơn một lần cứu thoát nhân loại bất hạnh.

Hỡi các bạn nhỏ, chuyện này có xảy ra vào thời của các con không?  Các con có nhận ra sự viếng thăm của Đức Trinh Nữ trong giấc ngủ của các con không?…  Có lẽ không.  Nhưng hãy coi chừng!  Thiên thần bản mệnh của các con cũng sẽ rất buồn và sẽ muốn rời xa các con nếu các con quên họ.

Trích từ “L’Oratoire kỷ yếu về thánh Giuse ở Mont royal, Montréal”

 

SỐNG THÂN MẬT VỚI CHÚA

Thập Giới (Mười Điều Răn) giải quyết các mối quan hệ.  Điều răn 1 tới 4 về mối quan hệ với Thiên Chúa.  Điều răn 5 tới 10 về mối quan hệ của chúng ta với tha nhân.  Chúng ta được khuyên phải kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, vì mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa rất quan trọng, nhưng điều đó thực sự nghĩa là gì?  Làm sao chúng ta có được mối quan hệ mật thiết với Đấng tạo dựng vũ trụ?  Rất khó duy trì mối quan hệ mật thiết với gia đình và bạn bè, dù chúng ta có thể chạm vào họ.  Thế thì thật khó quan hệ mật thiết với Thiên Chúa là Đấng vô hình chăng?

Văn hóa của chúng ta cần một số anh hùng tâm linh.  Ai là những Môsê của chúng ta ngày nay?  Ai là những ngôn sứ Giôsua của chúng ta?  Ai là những Phaolô của chúng ta?  Nếu những vị đó được người ta coi là bạn thì sao?  Tôi đang tìm những người thể hiện sự vĩ đại của thiên chúa trong cuộc sống của họ.  Vì thế, làm sao chúng ta khiêm nhường xin Chúa trở thành vĩ đại trong chúng ta?  Hãy bắt đầu bằng cách nhận biết Thiên Chúa quan trọng hơn bất kỳ thứ gì khác.  Mối quan hệ của bạn đối với Thiên Chúa sẽ ảnh hưởng mọi mối quan hệ khác trong cuộc sống.  Hãy bắt đầu từ đó!

Rất thú vị để nhận biết rằng 4 điều răn đầu tiên nói về việc nhận biết Thiên Chúa.  Ông bà Adam và Eva đã đi nói chuyện với Thiên Chúa tại Vườn Địa Đàng. Tội của họ đã khiến họ cảm thấy xa cách Thiên Chúa và sợ đối diện với Ngài.  Từ đó tới nay, Thiên Chúa đã cố gắng cho con cái Ngài biết cách có được mối quan hệ với Ngài như trong Vườn Địa Đàng.  Đó là lý do mà 4 điều răn đầu tiên liên quan Thiên Chúa.  Các điều răn này mặc khải quyền ưu tiên số một của Thiên Chúa.  Ngài yêu thương bạn, muốn đồng hành và trò chuyện với bạn.

Đây là 4 cách nối kết với Thiên Chúa:

zz1. “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta”(Xh 20:3). Có Thiên Chúa, có mọi người và mọi thứ.  Điều đầu tiên Thiên Chúa muốn chúng ta biết là không có gì quan trọng hơn việc nhận biết Ngài.  Nhận biết Thiên Chúa có là ưu tiên số một trong đời bạn?  Mối quan hệ của bạn với vợ/chồng sẽ thế nào nếu bạn muốn biết vợ/chồng mình nhiều hơn là muốn biết Ngài?  Con cái của bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu bạn muốn dành thời gian cho bạn bè nhiều hơn?  Ưu tiên số một là bạn phải nhận biết Thiên Chúa.  Mối quan hệ thân mật với Thiên Chúa bắt đầu từ đó.

2. “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ”(Xh 20:4). Đó là cách tốt để xác định cái gì thực sự là ngẫu tượng.  Thiên Chúa “đào” những thung lũng lớn mà không cần dùng máy móc hoặc thuốc nổ.  Bạn có thể đào được hố sâu bao nhiêu?  Mối quan hệ thân mật với Thiên Chúa nghĩa là bạn nhận biết rằng thật tốt lành biết bao khi có được những gì Ngài ban hơn là những gì bạn có thể tự mình làm. Bạn cứ cố gắng leo lên những nấc thang thành công và Thiên Chúa sẽ nói với bạn rằng chẳng có gì đáng giá trên cao đó.  Mối quan hệ thân mật với Thiên Chúa nghĩa là hiểu được rằng Ngài muốn trao ban cho bạn những điều tốt nhất, nhưng Ngài không thể ban nếu bạn cứ ráng đuổi theo những thứ nhỏ nhặt ở đời này.  Có bao nhiêu chất bẩn trong móng tay của bạn?  Bạn cần thứ gì để đào xới và trườn bò ra khỏi “hố tham vọng” đó?

3. “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng”(Xh 20:7). “Danh Dức Chúa” nghĩa là tính cách của Ngài, bản chất của Ngài.  Thiên Chúa chí thiện. Lạm dụng Danh Ngài không chỉ là những gì bạn có thể nói trong cơn giận dữ, mà còn là giới thiệu sai về Ngài cho người khác biết.  Chúng ta thường xuyên lạm dụng Danh Ngài.  Đó là khi chúng ta nghi ngờ sự hiện diện của Ngài, đó là lúc chúng ta để cho sự yếu đuối của chúng ta che khuất sự vĩ đại của Ngài, đó là lúc chúng ta đòi hỏi sự vinh quang vốn dĩ thuộc về Ngài – tức là chúng ta tìm vinh danh mình khi làm việc đạo đức.  Nếu chúng ta muốn cải thiện mối quan hệ thân mật với Thiên Chúa, đừng giới thiệu sai Ngài cho người khác biết!

4. “Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh”(Xh 20:8). Chúng ta cần có những “đêm hẹn hò” nếu chúng ta muốn duy trì quan hệ hôn nhân tốt, dù là vợ chồng.  Nếu bạn muốn có mối quan hệ thân mật với Thiên Chúa, hãy dành riêng một khoảng thời gian dành cho Ngài.  Chỉ mình Ngài thôi. Thật tuyệt vời biết bao với những “đêm hẹn hò” như vậy, tức là cầu nguyện trước khi bạn đi ngủ.  Hãy nhớ Chúa Nhật là ngày thánh, hãy bỏ mọi công việc khác để tập trung vào Thiên Chúa và tận hưởng niềm hạnh phúc khi trò chuyện với Ngài.  Mối quan hệ nào cũng cần có thời gian thân mật.  Vậy tại sao bạn không dành riêng cho Thiên Chúa ngày Chúa Nhật?

Với 4 cách này, hy vọng bạn sẽ nhận biết Thiên Chúa càng ngày càng tốt hơn.

Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ beliefnet.com

*************************************

Lạy Cha Đức Giêsu Kitô và cũng là Cha chúng con,

Chúng con đặc biệt xin Cha kết hợp chúng con với đời sống Đức Giêsu theo một phương diện đặc biệt:  xin chuẩn bị cho chúng con sẵn sàng kết hợp với lời nguyện của Ngài.

Đức Giêsu Kitô là Đấng hết lòng thờ phụng Thiên Chúa trong thần trí và trong sự thật, Người là Đấng trung gian duy nhất chuyển đạt lời nguyện chúng con lên ngai tòa ân sủng.

Chúng con hợp nhất trong Thần trí Đức Giêsu, xin Người dạy bảo chúng con biết noi gương Người, luôn cầu nguyện không mệt mỏi, kiên trì, tin tưởng khiêm cung, trong thần trí và trong sự thật, với một tấm lòng chân thành thương yêu tha nhân, nếu thiếu tình yêu ấy, không lời nguyện nào có thể làm thỏa lòng đẹp ý Cha.

Nguyện xin Đức Kitô dạy chúng con biết xin Cha những điều mà chính Người hằng tâm niệm ấp ủ.

Lạy Cha, xin Cha ban cho chúng con tinh thần cầu nguyện, trầm mặc và kết hợp với Cha.

Karl Rahner

 

HAI KHUÔN MẶT TRÁI NGƯỢC NHAU

Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: Một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.

Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau. Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.

zzLadarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật.  Ông nhà giàu cũng chết.  Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.

Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.  Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.

Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.

Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.

Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.

Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.  Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).

******************************

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con.  Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.  
Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác.  Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao.  Amen!

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu

 

BỎ QUA OÁN HỜN

zzMột thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ, có hai người con trai sinh đôi.  Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình.  Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó.  Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất.

Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng.  Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.

Người em hỏi người anh: “Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không?”

Người anh đáp: “Không.”  Tuy thế người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi: “Anh không thể không đụng đến nó.  Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được!  Chắc chắn anh phải thấy nó!”

Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em.  Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ.  Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào.  Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ.  Họ không thèm nói với nhau một lời nào.  Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng.  Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ.

Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng.  Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng:  “Anh đã ở đây bao lâu rồi.”  Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời.  Vị khách nói tiếp: “Tôi phải nói với anh điều này.  20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này.  Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày.  Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài.  Những năm qua tôi không thể quên điều đó.  Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi.”

Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.

Anh ta đề nghị: “Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không?”  Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng.  Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa.  Phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau.  Điều này không dễ dàng nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn.  Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến.

Sưu tầm

***************************************

Tha đi anh.
Hãy để sự hiềm khích và báo thù cho người hèn mọn.
Vết thương và nọc độc của lời hằn thù
Không xứng với con cái Ánh sáng…
Tha đi anh.
Hãy tìm sự cao thượng, tha thứ là đó.
Tìm sự cao thượng, là sống với đại nhân:
những người có lòng quảng đại,
những người có tư cách và can đảm.
Hãy tha thứ,
Hãy để mạch nước hằng sống tuôn trong anh,
để nước chảy và rửa để luyện lòng trí anh.
Như vậy, anh sẽ được bình an.
Như vậy, nắm tay anh sẽ dịu dần
Và anh sẽ thấy tay anh mở ra
để gặp gỡ và tha thứ.
Một tay có thể mang gánh nặng của người khác,
Một tay có thể gạt lệ người khiêm tốn,
Một tay thắm đượm tình anh em,
Tay con người đưa để bắt tay nhau
Và giống tay Chúa.

Hiền Hoà chuyển dịch

TỪ CHUYỆN TÌNH CỦA MÁTTHÊU

zzCó những cặp trai gái yêu nhau qua “tiếng sét ái tình” nghĩa là lúc đầu thì mạnh mẽ không thể tưởng tượng nổi nhưng sau đó thường là tan vỡ.  “Người tình Giêsu” đã “đá lông nheo” chàng trai Mátthêu! Đây quả là một “tiếng sét ái tình” trong chuyện tình mà ông thuật lại trong sách Tin Mừng của mình. Cuộc tình này lại quá bền vững.  Tại sao thế?

Mátthêu bị tiếng sét ái tình của người yêu Giêsu đã dám bỏ tất cả nghề nghiệp, tài sản, vợ con để đi theo Chúa.  Quả là ông rất liều mạng.  Tất nhiên, con người Giêsu quá hấp dẫn, lời mời gọi quá chân tình đã đánh thẳng vào trái tim khô cứng của Mátthêu xưa nay chỉ nghĩ đến tiền bạc vật chất và những chữ nghĩa vô hồn trên bàn làm việc của ông.  Sức mạnh tình yêu của Giêsu đã lôi kéo Mátthêu không thể cưỡng lại được nữa.  Dẫu sao Chúa cũng không dập tắt tự do của Mátthêu đâu.  Ông có đứng dậy đi hay không vẫn là quyền của ông thôi, nhưng cho đến phút này thì Mátthêu phải đứng dậy chứ.  Còn biết nghe ai và theo ai hơn Giêsu nữa.  Ông nhận ra Giêsu là “người tình” duy nhất trong đời mình đây rồi.  Chẳng có người tình nào hay hơn nữa. V ì người tình Giêsu sẽ chữa lành linh hồn ông (x. Mt 9, 9-13).

Cơ hội ngàn năm đến với Mátthêu đúng lúc đúng chỗ.  Ông bị “gãi đúng chỗ ngứa!”  Chỗ ngứa ngáy đó là tình trạng tâm linh của ông.  Đã đến lúc ông phải khát khao điều chi đó vượt lên trên tiền bạc vật chất.  Đã đến lúc ông muốn làm việc với con người thật sự chứ không phải với bàn giấy.  Người tình Giêsu đã đáp ứng nỗi khao khát mong chờ ấy của Mátthêu.  Người tình Giêsu đã tạo điều kiện cho ông có “công ăn việc làm” khác trước.  Từ nay, Mátthêu được ghi danh vào “hãng”, “công ty” làm việc mới của Giêsu cùng với danh sách 11 “công nhân” khác.  Mátthêu sung sướng thật.

Hằng ngày Chúa vẫn đi ngang qua cuộc đời chúng ta và cất tiếng gọi “hãy theo Ta”.  Chúng ta có nghe được tiếng Chúa chăng, hay là những mối bận tâm về tiền bạc vật chất, công ăn việc làm, thú vui đam mê và sự cuốn hút của chức vị, quyền lợi gìm chặt chúng ta lại làm mình không đứng dậy theo Chúa được?  Chắc chắn Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mọi sự như các thánh tông đồ (như Máthêu) ngày xưa.  Nhưng Chúa đòi chúng ta hãy dứt bỏ cung cách làm ăn bất chính, kiểu cách cư xử bất nhân với đồng loại.  Thay vào đó là lối làm ăn chân chính, ngay thẳng, thật thà và biết tôn trọng quyền lợi phẩm giá của người khác.

Tất cả chúng ta đều là những con người tội lỗi.  Nhưng tất cả đều được Chúa kêu gọi vì “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính mà là để kêu gọi người tội lỗi”.  Chính khi được Chúa kêu gọi chúng ta mới có cơ hội và khả năng để đựơc biến đổi chính mình như Mátthêu trở thành chứng nhân cho Chúa bằng đời sống chứng tḠvà bằng ngòi bút của mình.

Máthêu đã được đồng bàn với Chúa. Chúng ta cũng vậy.  Chính Chúa dọn bữa tiệc và mời chúng ta đồng bàn trong Bí tích Thánh Thể; được chia sẻ sự sống Thần Linh và bản tính Thiên Chúa với Ngài. Hạnh phúc biết bao ân huệ lớn lao này.

Mátthêu đã tìm được chỗ dựa an toàn trong cuộc đời nhờ biết can đảm bước theo Chúa Giêsu khi dám từ bỏ tất cả những thứ cậy dựa khác mang tính trần thế.  Chúng ta hay tìm chỗ dựa nơi tiền bạc, quyền lực, thân xác,… mà quên tìm dựa đầu vào trái tim Chúa nơi chất chứa tình yêu thương.  Trái tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng sẽ ban cho chúng ta sự bình an thực sự.

Chúa Giêsu là vị thầy thuốc cao tay tuyệt vời đến chữa trị bệnh tật thể xác và tâm hồn.  Vị thầy thuốc này vẫn xuất hiện trong cuộc đời chúng ta từng giây phút.  Ngài vẫn canh chừng, che chở, bảo vệ và luôn muốn lôi kéo chúng ta ra khỏi sự nguy ngại của tội lỗi làm suy yếu đời sống con người cả về nhân bản lẫn tâm linh.  Hãy nhận ra dấu hiệu mời gọi của Ngài.  Hãy can đảm để cho Ngài chữa trị thì chúng ta mới là những con người lành mạnh về mọi mặt được.

Bước theo Ngài có nghĩa là được sống và cảm nhận sự sống và tình yêu của Ngài.  Hạnh phúc đích thực là ở chỗ đó.  Nhưng cũng đòi hỏi sự liều lĩnh và dấn thân cao độ vì ở trong tư thế như vậy là đang trở thành người môn đệ thực thụ của Giêsu rồi.

Hành trình đáp trả, dấn thân và đi theo của Mátthêu cũng là của mỗi người Kitô hữu hôm nay mỗi ngày.  Quyết định dứt khoát, mau mắn khi nhận ra tiếng gọi của Chúa là chọn lựa sáng suốt, đáng mừng.  Đừng để cho những quyến luyến tầm thường khác kém giá trị hơn níu kéo ta lại để rồi quay lưng với “người tình Giêsu” thì thật uổng phí, đau xót và bất hạnh.

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

 

 

LÀM TÔI CHO CHÚA

Mạnh Thường Quân nuôi hơn 3000 thực khách nên chi phí rất nhiều, bổng lộc không đủ chi dụng, phải dựa vào tiền thuê đất đai ở Bích Thành do vua phong, nhưng có một năm không thu được tiền về, mới cử Phùng Hoan đi đòi.  Trước khi đi Phùng Hoan hỏi rằng: “Khi tôi trở về, ông có muốn tôi đem quà gì về không?”  Mạnh Thường Quân ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Thì ông cứ xem ở đây thiếu thứ gì thì đem về,” Phùng Hoan đến Bích Thành mới biết năm đó bị thiên tai mất mùa, nông dân thiếu lương thực ăn khổ cực hết chỗ nói.  Phùng Hoan bèn tập họp họ lại, rồi đốt hết mọi giấy tờ vay nợ, khiến mọi người vô cùng cảm động.  Phùng Hoan trở về nói lại đúng sự thực.  Mạnh Thường Quân nổi giận: “Trước khi đi ông nói sẽ đem quà về, nay ở đâu?”  Phùng Hoan đáp: “Ông đã nói ở đây thiếu gì thì mua về, nhưng tôi thấy ở đây chẳng thiếu gì cả, chỉ thiếu có tình nghĩa mà thôi, nay tôi đã đem tình nghĩa về đây.”  Mạnh Thường Quân nghe vậy khóc cười không được, liền phất tay áo đi ra.

Hai năm sau, Tề Dẫn Vương tin nghe lời bịa đặt của hai nước Tần, Sở, rất lo lắng Mạnh Thường Quân công cao lấn chúa, gây uy hiếp tới vương vị của mình, bèn thu ấn tể tướng của Mạnh Thường Quân. Các môn khách thấy vậy, đều theo nhau bỏ đi, duy chỉ có Phùng Hoan là còn ở lại.  Mạnh Thường Quân đành trở về cố cư ở Bích Thành.  Dân trong thành nghe tin ông trở về, liền dắt già cõng trẻ ra ngoài 100 dặm để đón.  Mạnh Thường Quân nhìn thấy cảnh tượng này, rơm rớm nước mắt nói với Phùng Hoan: “Tình nghĩa mà ông đã đem cho tôi, nay tôi đã thực sự cảm nhận được rồi”.

************************************

zzTrong Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu kể dụ ngôn người quản gia bất lương khôn khéo, biết dùng tiền của gian lận để mưu cầu chốn nương thân.  Sau cùng Người cảnh báo, không ai có thể làm tôi hai chủ được, vừa làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của.

Làm tôi cho bản ngã

Trong cuộc mưu sinh, nhiều khi tiền của bỗng dưng trở thành ông chủ cai quản cuộc đời.  Cho nên thi sĩ Horace từ xa xưa đã cảnh báo không thừa: “Tiền bạc là đầy tớ tốt và là ông chủ xấu.”  Nếu lệ thuộc vào nó, coi nó là ông chủ, là cứu cánh cuộc đời, kể như đánh mất nhân tính tốt lành, mà trở nên biển lận và tham lam.

Tuy nhiên, xã hội bao đời vẫn không hề phủ nhận sức mạnh, lẫn tầm ảnh hưởng vô song của nó. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền.”  Hay là “Nén bạc đâm toạc tờ giấy.”  Nếu không có sẵn quyền cao chức trọng, mà lắm tiền nhiều của, thì người ta cũng vẫn được nể nang, trọng vọng, cũng có thể ngoi dần lên vị thế cao, lên hàng khanh tướng. “Có tiền mua tiên cũng được” kia mà!

Thực ra, người ta mê tiền bạc, vì nó không chỉ giúp nuôi sống bản thân và gia đình, mà còn có thể củng cố, biến đổi cơ cực, gian lao, vất vả, thành nhàn hạ, sung túc, biến đổi thân phận tầm thường thành người danh giá, biến sự rủi ro, yếu đuối thành may mắn và quyền lực.

Chung quy, người ta làm nô lệ cho tiền của, vật chất, vì chúng phục vụ lại cho chính bản thân.  Có nghĩa là con người làm tôi mọi cho chính bản ngã, cho ngay chính mình.  Con người tự tôn thờ mình, chứ chẳng cần đoái hoài, tôn thờ thần thánh nào khác.

Vì thế, Đức Giêsu muốn giải thoát con người khỏi ách nô lệ tiền của, thoát ra khỏi cái tôi vị kỷ, khi khuyên nhủ đem nó phục vụ tha nhân: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí.” (Lc 12, 33) Chính là của để dành cho đời sau.

Làm tôi cho Chúa

Người quản lý bất lương khôn khéo dùng tiền của bất chính mua cho mình sự bảo hiểm an cư sau này. Còn Phùng Hoan đổi tiền bạc, của cải lấy tình nghĩa cho Mạnh Thường Quân.  Cả hai người đều có thể giúp cho người Kitô hữu, cảnh tỉnh và nhận thức hơn về sự chọn lựa giữa cái bấp bênh, hư nát với cái ổn định, bền bỉ, giữa phù vân và vững chãi, giữa nhất thời và vĩnh cửu.

Thông thường, ai cũng đều mong muốn, ưa chuộng tự do, đều muốn tự mình quyết định mọi việc, mọi tình huống, mọi nơi, mọi lúc.  Nhưng lại cũng rất dễ mù quáng trở nên nô lệ vào vật chất, thói quen, đam mê, nô lệ vào tiện nghi, nô lệ vào quan niệm và dư luận xã hội, nô lệ vào khuynh hướng hưởng lạc, duy vật, hay rõ ràng là nô lệ vào nền văn minh sự chết.

Thoát ra khỏi vòng kiểm tỏa, nô lệ tiền tài, của cải vật chất, cũng là thoát ra khỏi cái vỏ ốc ích kỷ, vô cảm, bất khoan nhượng, bất nhân, bất nghĩa, để có thể yêu thương, tha thứ và phục vụ tha nhân, thì mới có thể làm tôi cho Chúa, theo Chúa và thờ phượng Ngài.

Do vậy, điều kiện tiên quyết theo Chúa, chọn Chúa làm sản nghiệp, là phải từ bỏ mọi sự, vật chất danh lợi, thậm chí bỏ cả chính mình, chấp nhận đau thương, khổ ải, vác thánh giá bổn phận, trách nhiệm, lý tưởng để theo Đức Giêsu.

Làm tôi cho Chúa có nghĩa thoát khỏi xiềng xích nô lệ vật chất, thế gian, từ bỏ con đường bằng phẳng, dễ dãi, trơn tru, từ bỏ những gì thân xác ham muốn, thích thú, hay thỏa mãn, mà đi theo con đường chông gai, thử thách, nhọc nhằn, đau đớn, bầm dập, tả tơi cả thân xác lẫn tinh thần.

Làm tôi cho Chúa cũng còn có nghĩa xả kỷ vị tha, quên mình giúp người, sống cho người, sống vì người, tìm thấy Chúa hiện diện trong người khốn cùng, nghèo nàn, bênh hoạn, bơ vơ bị bỏ rơi.

Làm tôi cho Chúa nhất thiết cần trở nên chứng nhân đích thực của Đức Giêsu Chịu Đóng Đinh, trở nên đồng dạng, đồng hình và cùng đồng hành với Người trong sứ vụ Đi Gieo Tin Mừng.

“Con đừng lấy làm lạ, lúc theo Chúa, con nghe tiếng gọi của khoái lạc, của danh vọng, của cả bản thân, cha mẹ, quyến rũ con bỏ đường theo Chúa.  Cứ tiến lên, Chúa đã nói trước: “Ai cầm cầy còn ngoảnh mặt lui, không đáng làm môn đệ Ta!” (Đường Hy Vọng, số 71)

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thoát khỏi xiềng xích của cải, tiền bạc, danh lợi, chức quyền, từ bỏ tất cả để theo Chúa.  Xin giải thoát khỏi những đòi hỏi, cám dỗ, đam mê của thân xác, khỏi những quan niệm, thành kiến thế gian.  Xin giải phóng con khỏi cái tôi ích kỷ, vị kỷ, để con biết nhìn đến tha nhân, yêu thương và phục vụ những nhu cầu cấp bách của anh chị em.

Lạy Mẹ Maria, xin cải hóa tâm hồn chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa chước cám dỗ, khỏi say mê những thứ phù phiếm, giúp chúng con biết khước từ tất cả những chướng ngại vật, để có thể hiến dâng theo Chúa.  Xin cho chúng con được hiệp thông cùng Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ, hầu xứng đáng làm tôi tớ Chúa luôn mãi.  Amen!

AM Trần Bình An

TRĂNG VÀNG MÙA THU

Mùa thu đã về!  Vẻ đẹp của mùa thu được ghi dấu bởi những chiếc lá vàng rơi lãng đãng, trong làn sương mù bàng bạc và làn gió se se lạnh đầu ngày.

Vẻ đẹp của mùa thu còn đi liền với ánh trăng.  Mặc dù mặt trăng xuất hiện quanh năm, nhưng trăng mùa thu mới mang một vẻ đẹp huyền bí, tạo nên một nét đẹp vừa thanh tao vừa lãng mạn, nhất là ở miền quê, là nơi không có nhiều ánh sáng của đèn điện.  Ánh trăng thu dịu êm và tươi mát, tạo cho ta một cảm giác thư thái thanh bình.  Sau một ngày lao động mệt nhọc, vầng trăng thu giúp ta lấy lại sức khỏe thể xác và tinh thần.  Trăng thu đã gợi hứng cho các thi sĩ tạo nên những áng thơ bất hủ.  Hàn Mặc Tử, một thi sĩ công giáo, đã gắn bó cả cuộc đời mình với trăng và với thơ.  Trong cuộc đời và sự nghiệp của người thi sĩ này, trăng là bạn và là nguồn cảm hứng để ông sáng tác.  Ông không thể thiếu trăng trong cuộc đời.  Đối với ông, trăng gợi hứng để cầu nguyện, trăng giúp ông nâng tâm hồn lên với Chúa và giúp ông trở về với đời sống nội tâm.  Trăng còn là người bạn tri kỷ, là nơi ông trút bầu tâm sự những lúc ông bị căn bệnh phong quái ác hành hạ.  Trăng như một người tình vừa hư vừa thực, vừa trần tục vừa thanh tao.  Trăng là nơi gửi gắm yêu thương và cũng là nơi ông thể hiện sự dỗi hờn.  Yêu trăng đến mức say trăng và nhìn đâu cũng thấy trăng, có lẽ điều này chỉ có nơi Hàn Mặc Tử.  Cũng như thi sĩ, thiên nhiên vũ trụ đều ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của trăng:

zz“Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, Chị Hằng ơi”
(Bẽn lẽn)

Ở nước ta và ở Trung Quốc, tết Trung thu được tổ chức vào rằm tháng 8 âm lịch.  Ngày tết này cũng được gọi là tết Trông Trăng.  Từ thành phố tới thôn quê, mỗi nơi mỗi vẻ, những cuộc múa lân được tổ chức rộn ràng, với tiếng trống thùng thình vang dội, thu hút nhiều trẻ em và người lớn tham gia.  Những bài hát mang nội dung ca ngợi mặt trăng mà người ta gọi với cái tên rất thân thương là “Chị Hằng”.  “Chị Hằng” được coi như người thân của mọi người, rất xinh đẹp và thân thiện, lại là người tốt bụng hay tặng quà cho các bé ngoan. Người ta tổ chức cỗ trung thu gồm bánh, kẹo và trái cây các loại.  Các em thiếu nhi thì vui mừng nhảy múa ca hát, tới khuya thì cùng “phá cỗ”, tức là mọi người cùng thưởng thức mâm cỗ đã chuẩn bị.  Tết Trung thu là tết của người lớn cũng như của trẻ em.  Đây là dịp biểu lộ sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ đối với con cái, là ngày hội ngộ gia đình trong bầu khí thân thương, hài hòa.

Nếu người Việt Nam và người Trung Hoa tổ chức lễ Trung thu vào ngày rằm tháng tám âm lịch để ca ngợi vẻ đẹp của vầng trăng, thì người công giáo cũng tôn vinh Đức Mẹ Maria vào ngày 15 tháng 8 dương lịch.  Trong thi ca công giáo, Đức Mẹ được sánh ví như vầng trăng tuyệt vời.  Đức Mẹ không chỉ là vầng trăng cho một số dân tộc mà là vầng trăng cho cả nhân loại.  Nơi Mẹ, chúng ta tìm thấy tất cả những ưu điểm của vầng trăng như sự dịu mát, thanh bình, hướng tâm, thánh thiện:

Mẹ là suối mát trinh nguyên giữa sa mạc hoang.
Mẹ là trăng thanh đêm về chiếu sáng mênh mang.
Mẹ là tiếng hát ru êm giữa đêm hè vắng.
Mãi mãi Mẹ là mây trời biển rộng thênh thang

(Dao ca Mẹ dịu hiền – Văn Chi)

Hơn thế nữa, Mẹ Maria còn là Đấng che chở và phù giúp chúng ta trong cuộc sống dương thế đầy gian nan vất vả.  Chúng ta đều biết, mặt trăng là một tinh tú ở gần trái đất.  Nó không có khả năng phát sáng, mà nó tiếp nhận ánh sáng từ mặt trời giống như bao vì tinh tú khác.  Nhờ việc tiếp nhận này, mặt trăng được sưởi ấm và tích tụ ánh sáng để chiếu soi ban đêm, khi mà mặt trời bị khuất dạng bởi trái đất xoay vần.  Vì thế mà ánh trăng luôn dịu dàng, thanh thoát và chiếu sáng vào ban đêm.  Mẹ Maria là một thụ tạo hoàn hảo của Thiên Chúa.  Mẹ nhận ánh sáng Chân Lý từ Đức Giêsu Kitô, là Mặt Trời Công Chính để rồi Mẹ thông truyền cho thế gian.  Ánh sáng của Chúa Giêsu là tình yêu, lòng nhân hậu, sự từ tâm, tình huynh đệ, lòng bao dung tha thứ, lòng trung thành và khiêm nhường… Đức Giêsu là Ánh Sáng Thật, Ánh Sáng Bởi Ánh Sáng, tức là nơi Người phản ánh hình ảnh của Chúa Cha là cội nguồn ánh sáng.  Ánh Sáng này đã đến thế gian để phá tan tăm tối mịt mù, để xóa bỏ hận thù ghen ghét, và khai mở một thế giới yêu thương.  Tất cả giáo huấn của Chúa trong Tin Mừng đều nhằm đến nội dung căn bản này.  Như thế, đón nhận Đức Giêsu là đón nhận ánh sáng từ trời, nhờ đó ta nhận ra con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực.

Là người Kitô hữu, chúng ta cũng được tiếp nhận ánh sáng thiêng liêng từ Chúa Giêsu, qua Giáo Hội.  Trong nghi thức rửa tội, vị linh mục chủ sự trao cho thụ nhân một cây nến sáng và nói: “Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô, con hãy luôn sống như con cái của sự sáng, để được bền vững trong đức tin, khi Chúa đến, con xứng đáng ra nghinh đón Người với toàn thể các thánh trên trời” (Nghi thức Rửa tội).  Cũng như Đức Maria, Vầng Trăng Thu tuyệt hảo, đã đón nhận ánh sáng từ Đức Giêsu là Mặt Trời Công Chính để giải ánh vàng êm dịu cho trần gian, chúng ta, các Kitô hữu, cũng được đón nhận ánh sáng từ Đấng Cứu độ, để thông truyền cho cuộc đời, góp phần đẩy lui bóng tối là sự hận thù ghen ghét và dối gian.

Chúng ta đang chuẩn bị đón tết Trung thu, bầu khí rộn ràng của ngày hội vui này đang lan tỏa trong cộng đồng xã hội.  Ước chi mỗi tín hữu biết ca tụng quyền năng Thiên Chúa khi ngắm vầng trăng vàng mùa thu, đồng thời nhận ra sự che chở yêu thương của Đức Mẹ, Vầng Trăng Vĩnh Cửu.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

 

PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO

Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ khi vào nhà thờ, nhìn lên thánh giá, thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa.  Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy?  Một số nơi đã đặt tượng Chúa Phục Sinh trên thánh giá.  Hẳn nhà thờ sẽ tươi hơn, ít gây sốc hơn, mầu nhiệm phục sinh được nổi bật hơn…  Nhưng chúng ta vẫn không được quên Chúa chịu đóng đinh.  Không có cái chết ấy thì cũng chẳng có ơn cứu độ.  Không có thánh giá thì cũng chẳng có phục sinh.

Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập.  Chúng ta suy tôn chính Ðấng đi đóng đinh vào thánh giá.  Ngài là Ðấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người, là “Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20).  Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết, nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu: Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian người Con Một, Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em.  Ðau khổ và cái chết là cái giá phải trả cho một tình yêu.

zzTình yêu lớn nhất là tình yêu hiến mạng.  Thập giá là một thất bại của Tình Yêu.  Quà tặng của Cha bị loài người từ khước: Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh.  Quà tặng của Con bị loài người rẻ rúng: Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba.  Thiên Chúa thất bại vì Ngài khiêm tốn.  Ngài để cho con người có tự do chối từ.  Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối…  Nhưng thập giá lại là một thành công của Tình Yêu.

Nơi thập giá, tội ác con người lên đến cao điểm.  Cũng nơi thập giá, Tình Yêu Thiên Chúa lên đến tột cùng.  Và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết, ánh sáng thắng bóng tối, tha thứ thắng hận thù.  Cha không đưa Ðức Giêsu xuống khỏi thập giá, nhưng đưa Ngài ra khỏi nấm mồ hiu quạnh.  Thất bại của thập giá đã biến thành chiến thắng.  Thập giá trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời.

Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo.  Thánh Giá có mặt cả trên nến phục sinh.  Thánh Giá ở trên thân xác ta, mỗi lần ta làm dấu, nhưng Thánh Giá còn ở với người Kitô hữu suốt đời:  “Ai muốn theo Tôi hãy vác thánh giá mình mà theo Tôi”.

Ðừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa.  Ðừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái.  Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội, dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiệm.  Ước gì chúng ta thấy được ý nghĩa của khổ đau nhờ tin tưởng nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu.

***********************************************

Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả, đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con, và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá, bao lâu tuỳ ý Cha định liệu.

Xin đừng để con trở nên chua chát nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.  Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha, đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.

Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha, lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha.  Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng.  Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối, nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý, nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi.

(Karl Rahner)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

 

KHOAN DUNG

Bạn thân mến,

Có bao giờ bạn bị lạc mất một món đồ mà phải vất vả đi tìm không?  Lúc chưa kiếm được thì tâm trạng bạn ra sao?  Có bồn chồn nóng nảy, bực mình cay cú không?  Còn khi tìm được rồi thì bạn cảm thấy thế nào nhỉ?  Có thấy vui và nhẹ nhõm không?

Tuần trước tôi để cái thẻ nhớ của máy chụp hình trong chiếc áo khoác ngoài mà quên bẵng đi.  Rồi cứ loay hoay cả buổi đi tìm.  Moi móc từng góc cạnh của căn phòng nhỏ để tìm cho bằng được.  Tìm mãi không ra, cứ ngỡ rằng đã mất, mãi cho đến khi tình cờ đem quần áo đi giặt, lục túi áo mới bắt gặp nó.  Tôi thở phào nhẹ nhõm!

Mất cái thẻ nhớ của máy hình thì tôi có thể mua mấy cái khác thay thế.  Nhưng tôi quyết tâm kiếm cho được vì trong đó có chứa một vài tấm hình phong cảnh tôi chụp ở VN.  Những tấm hình đó có đầy ở trên internet, có khi còn đẹp hơn là hình tôi chụp nữa.  Nhưng đây là những tấm hình quan trọng, có giá trị với tôi nên tôi đã vất vả đi tìm.

zzBài Tin Mừng hôm nay cũng nói lên một tâm tình tương tự như thế.  Ba dụ ngôn của Tin Mừng Luca chương 15 nói về con chiên lạc, đồng bạc bị mất, và người con đi hoang.  Cả ba dụ ngôn đều nói lên trọn vẹn tâm tình của một Thiên Chúa yêu thương và nhẫn nại.  Cả ba đều diễn tả niềm vui khi tìm được cái đã mất.  Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh vào hai cụm từ được lập đi lập lại: “mất” (Hy lạp: apollymi) và “tìm đuợc” (heuriskô) và sự  vui mừng khi tìm thấy điều đã thất lạc.

Này nhé, trong dụ ngôn con chiên lạc, ta nghe thấy: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?  Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.  Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó!’”

Cũng tương tự như thế trong dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, ta lại nghe: Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.”

Và trong dụ ngôn người cha và hai đứa con, ta cũng nghe: Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.  Và họ bắt đầu ăn mừng…  Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”

Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, điểm nhấn là hai dụ ngôn đầu chứ không phải là dụ ngôn thứ ba vốn đã được đọc trong Chúa nhật thứ IV Mùa Chay năm nay.  Ở đây nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa cho từng cá nhân.  Lòng khoan dung của Thiên Chúa, chứ không phải thái độ ăn năn thống hối của tội nhân, là đề tài Hội Thánh mời chúng ta cùng suy tư.

Con chiên, đồng bạc và người con thứ bị thất lạc trong những hoàn cảnh khác nhau.  Con chiên đi lạc vì nó không định hướng được với đàn.  Có thể vì nó u mê đi lạc, có thể vì nó ham ăn quên cả đường về, hay có thể vì nó vấp ngã đâu đó, bị cả đàn bỏ lại đằng sau.  Còn đồng bạc không tự mình đi, nhưng có thể nó bị mất vì rơi rớt đâu đó.  Có khi nó bị lẫn lộn trong hàng trăm thứ vật dụng cỏn con.  Nhưng đồng bạc lại không thể kêu lên như con chiên để người chủ đi kiếm.  Nó phải an phận trong bóng tối cho đến khi ai đó tìm thấy được.  Còn người con thứ thì có đủ tự do chọn lựa, nhưng anh ta đã chọn lầm và đã phải trả một giá đắt cho sự sai lầm của mình.  Thông thường chúng ta nghĩ rằng anh ta ra đi vì ham chơi đua đòi, muốn độc lập, hoặc bất mãn với cha mình.  Nhưng biết đâu đó là vì hoàn cảnh mà anh ta phải ra đi.  Có thể vì cuộc sống ở gia đình quá ngột ngạt buồn tẻ, có khi vì bị người anh ganh tị chèn ép.  Dù sao anh ta cũng đã bỏ nhà ra đi, và đối với gia đình làng xóm, anh ta đã thất lạc.

Dù đến từ nguyên nhân nào, sự thất lạc cũng đều gây cho người bị mất mát một nỗi xót xa nuối tiếc.  Một con chiên, có thể là một con chiên nhỏ trong đàn, có đáng giá là bao mà người chăn phải vất vả đi tìm cho kỳ được?  Một đồng bạc, chỉ là một đồng trong chuỗi tiền dùng làm đồ trang sức, có giá trị thế nào để người đàn bà phải đốt đèn quét nhà tìm cho kỳ được?  Phải chăng hai dụ ngôn này cho thấy hình ảnh của mỗi người chúng ta trong ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa?

Từ cấp số 100 đến cấp số 10, Thiên Chúa luôn quan tâm đến từng cá nhân và quý trọng từng người một, như họ là những người duy nhất.  Không phải bởi vì 99 con chiên không lạc mà Ngài bỏ qua một con nhỏ nhoi.  Không phải vì 9 đồng bạc còn đó mà Ngài bỏ mặc một đồng bị rơi vào xó xỉnh nào đó.  Càng tha thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu, thì càng thôi thúc kiếm tìm bấy nhiêu.  Càng quý trọng vật bị mất bao nhiêu, thì càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất khi tìm gặp lại bấy nhiêu.

Đó cũng là tâm tình của người cha.  Ông vui mừng khôn tả khi thấy bóng con thất thểu từ đằng xa.  Ông quên hết những ưu phiền sầu muộn, những sỉ nhục dằn vặt mà đứa con thứ đã để lại cho ông khi nó đòi chia của rồi ra đi.  Ông quên hết tất cả.  Ông tha thứ tất cả.  Bây giờ chỉ còn lại trong ông là nỗi vui mừng hoan hỉ vì “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.”  Niềm hân hoan sung sướng là tiếng cười dòn dã, là lời khoe báo tin vui cho mọi người.

Thiên Chúa của chúng ta là thế đó.  Như lời thánh vịnh mô tả “Ngài chậm giận và chan chứa tình thương.  Ngài không xử với ta như ta đáng tội.  Và không trả cho ta theo giá của ta” (TV 103).

Như người chăn chiên tìm lại được con chiên bị lạc, như người phụ nữ kiếm được đồng bạc bị mất, như người cha mở tiệc, giết bê béo ăn mừng, Thiên Chúa hân hoan vui mừng khi một người con của Ngài ăn năn trở về hơn là bao người lành thánh.  Và Ngài mong ước chúng ta chia sẻ niềm vui này với nhau.  Trong dụ ngôn thứ ba người cha kiên nhẫn mời người anh cả bước vào bàn tiệc để cùng chung vui với cha, với em.

Ba dụ ngôn của Tin Mừng Luca chương 15 là câu trả lời của Đức Yêsu cho những lời phàn nàn và ganh tị của người Biệt Phái.  Nhưng đó cũng là những lời cảnh tỉnh cho chúng ta hôm nay.  Thông thường mỗi khi phạm tội, chúng ta có khuynh hướng khoan hồng nhân nhượng với chính mình, nhưng lại ít khoan dung với kẻ khác.  Qua ba dụ ngôn này Đức Yêsu nhắc nhở chúng ta về lòng thương xót vô lượng của Thiên Chúa, cho chúng ta và ngay cả cho những người chúng ta không chấp nhận trong cuộc sống của mình – những người mà chúng ta coi là con chiên lạc hay người con hoang đàng.

Trong cuộc sống chúng ta hôm nay có biết bao người sa đọa, lầm đường lạc lối.  Như người con thứ, họ cũng đã phải trả một giá khá đắt cho những sai lầm của họ.  Nhưng liệu chúng ta có sẵn sàng đón nhận họ trở về?  Liệu chúng ta có là những chướng ngại vật ngăn cản họ đến với Chúa Cha?  Liệu thái độ xét đoán và óc phê bình của chúng ta có làm họ chùn bước để trở về với Thiên Chúa qua Hội Thánh?  Liệu chúng ta có tập mở rộng lòng thương xót, đồng cảm để đón nhận họ như người anh chị em cùng một Cha trên trời?

Lòng quảng đại và khoan dung của chúng ta là thước đo mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa.  Chúng ta cần tập lòng khoan dung để có thể đón nhận người anh chị em lầm đường lạc lối với lòng thương xót, như lòng từ bi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.  Và như thế, chúng ta tiếp tay với Thiên Chúa để chia sẻ sự tha thứ và hoà giải trong thế giới hôm nay.

Lạy Chúa, xin cho con biết mở lòng khoan dung với anh em con như Chúa đã khoan dung nhân hậu với con.

Antôn Bảo Lộc

 

NHỮNG CON SỐ BẢY MAY MẮN

zzTừ Kinh Thánh cho đến sòng bạc, con số 7 thường được xem là con số may mắn, hoàn hảo và kỳ diệu. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy tha thứ bảy mươi lần bảy cho những ai lỗi phạm đến mình.  Rõ ràng Ngài có ý muốn bảo chúng ta tha thứ đến vô cùng.  Sách Sáng Thế nói về bảy ngày tạo dựng, Kinh Thánh nói về bảy tổng lãnh thiên thần, và Sách Khải Huyền nói về Bảy dấu niêm phong Mặc Khải.  Kinh Thánh đầy dẫy con số bảy.  Phải mất vài trang để liệt kê ra cho hết.

Những gì có trong Kinh Thánh Kitô giáo cũng có trong các văn hóa khác.  Có bảy phúc thần trong thần thoại Nhật Bản, các Phật tử tin rằng khi mới hạ sinh, Đức Phật bước bảy bước.  Trong đạo Do Thái, có bảy ngày than khóc, buổi giảng kinh hàng tuần cũng được chia thành bảy phần riêng biệt, có bảy phúc lành được đọc lên trong đám cưới Do Thái, tân lang và tân nương mừng hạnh phúc trong vòng bảy ngày, và có bảy cảm xúc căn bản hướng đến Thiên Chúa.  Trong truyền thống Hồi giáo, có bảy thiên đàng bảy thế gian, bảy ngọn lửa trong địa ngục, bảy cửa lên thiên dàng, và bảy cửa xuống địa ngục.

Và còn có nhiều điều có liên hệ với con số 7: Có bảy châu lục trên thế giới, bảy màu cầu vồng, bảy ngày trong tuần, bảy nốt nhạc căn bản, bảy ngôi sao trong chòm Đại Hùng, và bảy thiên thể thấy được bằng mắt thường.  Số bảy là mã điện thoại ở Nga.  Ở Bắc Mỹ, các giải bóng chuyền, bóng rỗ, và hockey chính đều chia cuộc đua vô địch thành loạt bảy trận, và nhiều vận động viên ưu tú chọn số bảy làm con số áo, kể cả Mickey Mantle.  Các sòng bạc cũng rất thích con số 7.  Xếp được một hàng số bảy là cách chơi của rất nhiều trò may rủi.

Chúa Giêsu, Đạo Do Thái, Hồi giáo, Phật giáo, tự nhiên, cách xếp tuần, mã điện thoại của Nga, các giải thể thao chính, Mickey Mantle, và các sòng bạc – và bây giờ là một điều khác nữa!  Chẳng tình cờ khi người ta dùng rất nhiều số bảy:

Ví dụ như chúng ta có đủ kiểu số bảy trong thần học và trong giáo hội:

Thần học Kitô giáo nói về bảy Ơn Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan, Hiểu biết, Lo liệu, Sức mạnh, Thông minh, Đạo đức, và Kính sợ Thiên Chúa.  Về Bảy mối tội đầu: Kiêu ngạo, Ghen tỵ, Giận dữ, Biếng nhác, Tham lam, Ham ăn, và Dâm dục; cũng như về bảy nhân đức tương ứng: Khiêm nhường, Rộng rãi, Nhẫn nhịn, Siêng năng, Nhân từ, Tiết độ, và Trong sạch.  Giáo hội cũng nói về bảy lời cuối cùng của Chúa Giêsu: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”; “Thật, ta bảo thật, hôm nay, ngươi sẽ được ở cùng ta trên thiên đàng”; “Lạy Cha, con xin phú linh hồn trong tay Cha”; “Thưa bà, này đây là con bà… Đây là mẹ con”; “Lạy Cha, sao Cha bỏ con?”; “Ta khát”; “Mọi sự đã hoàn tất”.

Mohandas Gandhi cũng nói về bảy Tội lỗi của xã hội: Chính trị không nguyên tắc, không làm mà có ăn, buôn bán vô đạo đức, hưởng lạc vô lương tri, tri thức thiếu nhân cách, khoa học thiếu nhân đạo, và tôn kính Thượng đế mà không chịu hy sinh.  Và về điều này, Công giáo La Mã cũng đã có Bảy Luận đề về Huấn Giáo Xã hội của Giáo hội Công giáo: Mạng sống và phẩm giá con người; yêu cầu đối với gia đình, cộng đồng, và bổn phận; quyền và trách nhiệm; chọn người nghèo và người cô thế; giá trị của lao động và quyền của người lao động; tình đoàn kết; và chăm lo cho những gì được Thiên Chúa tạo dựng.

Giáo hội Công giáo La Mã có Bảy Bí tích: rửa tội, thêm sức, Thánh Thể, giải tội, xức dầu bệnh nhân, truyền chức thánh, và hôn phối.  Bảy Việc thương người: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho kẻ cơ nhỡ trú ngụ, thăm viếng người ốm, thăm viếng tù nhân, và chôn xác kẻ chết.  Và kèm theo là Bảy Việc thương người phần hồn: Sửa dạy kẻ ngu muội, lấy lời lành mà khuyên người, răn bảo kẻ có tội, nhịn kẻ mất lòng ta, tha kẻ dễ ta, yên ủi kẻ âu lo, và cầu cho kẻ sống và kẻ chết.  Hơn nữa, Giáo hội Công giáo La Mã còn tôn kính Bảy sự thương khó Đức Mẹ: Lời tiên tri của ông Simeon, chạy nạn đến Ai Cập, lạc mất Chúa Giêsu trong đền thánh, gặp Chúa Giêsu trên đường Núi Sọ, Chúa Giêsu chết trên thập giá, nhận xác Chúa Giêsu trong tay, chôn cất Chúa Giêsu vào huyệt đá.

Và tất nhiên, vẫn chưa hết, chúng ta còn có Bảy Kỳ quan thế giới, dù bây giờ người ta đang tranh cãi nhau xem chính xác nên chọn cái nào làm kỳ quan: Một số đồng ý với danh sách cũ, Bảy kỳ quan của thế giới cổ đại, số khác lại ủng hộ Bảy kỳ quan của thế giới hiện đại, số khác lại nói về Bảy kỳ quan của thế giới Đương đại, và số khác nữa lại nhất quyết rằng những kỳ quan thật sự của thế giới này được dựng nên bởi tự nhiên và liệt kê ra Bảy kỳ quan Tự nhiên của thế giới.

Vậy đâu là danh sách xác đáng đây?  Những cái nào mới đúng là Bảy kỳ quan thế giới?

Gần đây trên Internet có xuất hiện câu chuyện thế này:  Một giảng viên yêu cầu các học sinh nêu tên Bảy kỳ quan thế giới.  Một số, chắc chắn có nhờ vào các phương tiện điện tử, nhanh chóng đưa ra những danh sách khác nhau.  Tuy nhiên, một cô gái trẻ, không dùng đến những tìm kiếm trên mạng như thế, đã tự viết ra danh sách của mình.  Bảy kỳ quan thế giới, theo kết luận của cô là:  NHÌN, CẢM, NẾM, NGỬI, SỜ, THỞ và YÊU.  Tôi tin rằng, danh sách đó, thắng vượt tất cả mọi danh sách khác và chứa đựng đủ tất cả bí tích thiêng liêng.

Fr. Ron Rolheiser