ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA

Trong Đệ Nhị Thế Chiến, anh là một thanh niên đã sống một cuộc sống cuồng loạn trong một trang trại.  Cuối cùng anh đã lập gia đình và ổn định cuộc sống.  Vào thời điểm đó, anh được hoán cải và bắt đầu thay đổi cuộc sống.

Mấy năm sau đó, nói chính xác hơn là vào năm 1942, anh nhận được lệnh gọi nhập ngũ qua bưu điện. Anh phải đi khám sức khỏe để tòng quân.  Sau khi khám sức khỏe, anh trở về nhà.  Anh nhận thấy chiến tranh là một hành động vô luân và thật là sai lầm khi phải cầm súng.  Anh đi gặp một vị linh mục để xin ý kiến và ngài cho biết đó là bổn phận phải chiến đấu để bảo vệ tổ quốc.  Anh cảm thấy không thỏa mãn với lời khuyên bảo đó.

Anh đến gặp Đức Giám Mục và ngài cũng nói như vị linh mục vậy.  Đức Cha cho biết đó là một cuộc chiến tranh để bảo vệ tổ quốc, chống lại một chính thể độc tài vô thần, nên anh có bổn phận phải gia nhập quân ngũ.  Lời khuyên bảo đó cũng không có sức thuyết phục anh.

Anh vẫn tin tưởng chiến tranh là điều không chính đáng, không thể biện minh được.  Vì thế thật sai lầm đối với anh là một Kitô hữu phải đi đánh giặc. Vợ anh và nhiều bạn hữu của anh cũng khuyên nhủ anh nên hợp tác với chính quyền.

Sau cùng, anh nhận được lệnh của quân đội buộc anh phải trình diện nhập ngũ.  Anh quyết định thông báo cho biết là anh không tuân lệnh.  Do đó anh bị bắt, bị xét xử theo quân luật, bị kết tội mưu phản và nhận lãnh bản án tử hình.

Chính Phủ Đức Quốc Xã đã thi hành bản án ngày 9 tháng 8 năm 1943 tại Bá-linh.  Anh là người Áo, với danh xưng là Franz Yeagersteter.  Không giống như vị linh mục và giám mục đã khuyên bảo, anh xác tín việc tham gia vào cuộc chiến của Hitler là điều vô luân và anh đã chết vì niềm tin của mình.

Ngày anh lên đoạn đầu đài, anh đã viết một lá thư trần tình cho biết tại sao anh đã hành động như thế.  Anh viết: “Tôi tin tưởng đó là điều Chúa đã kêu gọi tôi làm và tôi đã dâng hiến cuộc đời của tôi như một hy lễ đền tội cho Đức Quốc Xã.  Tôi ngước mắt nhìn trời là nơi tôi sẽ tới và rồi từ đó tôi sẽ  nhìn xem các con tôi trong tương lai và được biết chúng sẽ hỉểu tại sao cha chúng đã làm điều đó.

**********************************

Để khuyên bảo những Kitô hữu vào buổi ban đầu, Thánh Phaolô đã nói: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống cùng Người.  Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người.” (2Tm 2:11-12).  Thánh Phaolô đã nói như thế, do kinh nghiệm bản thân.  Ngài đã chịu đựng nhiều gian khổ trước khi làm nên những việc lớn lao.

Như người ta thường nói: “Một con tim nhút nhát không thể nào chinh phục được quả tim vàng.”  Kitô giáo không phải là một tôn giáo dành cho những con tim nhút nhát.  Chúng ta phải chịu đựng nhiều hy sinh gian khổ trong cuộc đời thường, đầy chông gai thử thách, trước khi có thể vào Nước Thiên Chúa.

Đó là định luật của cuộc sống, vừa khắt khe vừa hùng tráng.  Không thể có triều thiên mà không có thánh giá, không thể có chiến thắng mà không đổ mồ hôi, máu và nước mắt.  Không thể có Chúa nhật Phục Sinh mà không có Thứ Sáu Tuần Thánh, không thể có sống lại nếu không có chết đi.

Khi đọc câu chuyện trên, có thể bạn không thích người đó vì anh không chiến đấu cho một cuộc chiến chính đáng, và đó cũng là cuộc chiến chính đáng đối với Đức Quốc Xã.  Mọi cuộc chiến được xem là chính đáng vì lý do luân lý, đối với những người chiến đấu cho những cuộc chiến đó.  Họ đã chiến đấu ở nước Áo để bảo vệ Kitô giáo, chống lại chế độ Cộng Sản vô thần của Nga Sô Viết.  Đó là điều chính quyền tuyên truyền cho dân chúng và nhiều người đã tin theo.

Nhưng thử nói lại điều đó cho những nạn nhân các lò hỏa thiêu của Đức Quốc Xã và những người đã mất tất cả trong Đệ Nhị Thế Chiến, chắc chắn không lọt tai chút nào.  Sự đứng lên chống lại cuộc chiến đó của Franz Yeagersteter khiến chúng ta ngày nay ca tụng anh là người anh hùng cao cả.

Không có chỗ để thỏa hiệp ở đây.  Một người có thể giữ ngày Sabbat cho dẫu không ai tuân giữ hết, hoặc xem lễ Chúa nhật cho dẫu bạn bè từ khước.  Người ta có thể sống quảng đại, quan tâm và vị tha đối với người khác, hoặc thảo kính và phụng dưỡng cha mẹ trong tuổi già.

Người ta có thể không làm chứng gian, không nói dối, trộm cắp hay ngoại tình.  Người ta có thể không bị lãng phí bởi nếp sống tiêu thụ và giới trẻ có thể khước từ việc nghiện ngập, xì ke, ma túy và dấn thân vào những tương giao đặt cơ sở trên những nguyên tắc luân lý vững chắc.

Người ta có thể đương đầu với những trào lưu thế tục, cho dẫu phải đứng lên một mình, hơn là chạy theo quần chúng.  Bạn có thể ngẩng đầu lên cao trong khi những người chung quanh cúi thấp đầu xuống.  Người ta có thể sống cũng như mọi người nhưng lại khác biệt mọi người, tức là “hòa nhi bất đồng”.  Người ta có thể đi con đường hẹp, ít người đi và có thể trở thành một nhà lãnh đạo hơn là người theo bén gót.

Người ta có thể sống và chết cho một lý tưởng cao đẹp, như sống cho Chúa Kitô trong một bối cảnh trần tục.  Khi chúng ta vấp ngã, và điều đó thường xuyên xảy ra, chúng ta có thể chỗi dậy, với ơn Chúa phù trợ, bằng lời cầu nguyện hằng ngày để tiếp tục đoạn đường kế tiếp.

Tuy nhiên những điều đó sẽ không xảy đến, nếu chúng ta không chấp nhận cho mình một kỷ cương và sức mạnh nội tâm, cũng như có ý muốn chấp nhận gian khổ để được dẫn tới Vương Quốc của Chúa.

**********************************

Lạy Chúa, xin ban cho con thêm sức mạnh và can đảm để dám đồng hành với Chúa, dám sống và chết cho niềm tin của mình.  Amen!

Huong Vinh

CHUYỆN THÀNH NA-IN

zzLc 7:11-17

Một buổi sáng khi mặt trời đã vắt vẻo trên đỉnh đồi cao, nắng bình minh chiếu chan hòa xuyên qua những kẽ lá đầu cổng thành Na-in, một thành nhỏ miền Galilê nước Do thái, tiếng chim hót ríu rít chào mừng một ngày mới bắt đầu.  Trời trong veo lững lờ vài đám mây xanh biếc hứa hẹn một ngày đẹp.  Quyện trong tiếng chim hót là tiếng lao xao của một đám đông đang theo chân một cỗ quan tài.  À, một đám tang buồn!  Thật ra có đám tang nào mà không buồn?  Có cuộc tiễn biệt nào mà không nước mắt, đau thương?  Có mất mát nào mà không gây đau lòng cho kẻ còn sót lại?  Nhưng đám tang này lại buồn hơn mọi đám tang khác bởi lẽ người nhắm mắt xuôi tay còn quá trẻ.  Anh chưa làm nên công danh sự nghiệp, chưa có gì để lại cho đời ngoài một bà mẹ goá nghèo xơ xác.  Gia tài duy nhất của mẹ anh cũng chính là anh. Vậy mà anh nỡ lòng ra đi mang theo bao niềm hy vọng cậy trông của người mẹ tuổi đã về chiều.  Người chết xong phận mình nhưng người còn ở lại thì sao?

Đám tang nghèo quá, tiêu điều quá!  Đám tang đi trong thinh lặng buồn tênh: không kèn, không trống, không vành khăn tang, chỉ có tiếng khóc nỉ non của bà mẹ già thay cho tiếng kèn đưa tiễn người đi.  Giọt lệ buồn chảy dài trên đôi má nhăn nheo hốc hác đang khóc thương cho người con bạc phận hay khóc than cho chính thân mình?  Ôi, số phận sao khắc nghiệt thế!  Sao người nằm đó lại là con tôi?  Hai bàn tay khốn khổ xưa đã chôn chồng, nay lại chôn con, đến phiên mẹ ra đi thì bàn tay nào sẽ chôn mẹ?  Con ơi…..!  Tiếng lá vàng khóc lá xanh rơi nghe não nề mủi lòng làm sao!  Hòa theo tiếng kể lể của người mẹ già là những tiếng sụt sùi cảm thông của bà con láng giềng.  Người ta tới để tiễn biệt chàng thanh niên về nơi chín suối, đến để chia sẻ số phận hẩm hiu của người mẹ già góa bụa từ nay bơ vơ không nơi nương tựa ủi an.

Đám tang lặng lẽ u buồn ra đi đến gần cửa thành gặp một đám đông khác đông hơn, ồn ào hơn, náo nhiệt hơn đang ùn ùn kéo vô thành.  Đám đông đang hăm hở theo chân một người mang tên Giêsu, là người nổi tiếng thời bấy giờ, một ngôn sứ đầy uy thế trong lời nói cũng như việc làm trước mặt Thiên Chúa và toàn dân.  Một đám đông buồn gặp đám đông vui!  Đám đông ồn ào vui nhộn dạt ra để dành chỗ cho đám tang đi qua với những cặp mắt tò mò hiếu kỳ.  Đám tang à?  Vài người nhún vai:

–  Có gì lạ đâu!

Đám tang của một thanh niên trẻ ư?  Vài cái chép miệng xót thương:

–  Ừ, đáng thương thiệt, nhưng mà… phận bạc vắn số thì chịu thôi, rồi ai cũng phải chết, không sớm thì muộn!

Để lại một bà mẹ già goá bụa không nơi tựa nương sao?  Thêm đôi ba cái lắc đầu tội nghiệp:

–  Ừ, tội quá, nhưng chắc có lẽ tại tội của bà ta hay tội của cha mẹ bà ta nên bây giờ bà phải lâm cảnh đáng thương như thế!

Những người khiêng xác kẻ chết lặng im tiếp tục cuộc hành trình.  Người mẹ khổ đau không màng gì đến thế giới bên ngoài, không để ý gì đến những lời nói vô tình độc địa bên tai, thân già như cành lá liễu trong gió thu chiều, cứ rũ xuống đất mà không sao đứng thẳng lên được.  Những người làng xóm tốt bụng đi xung quanh xốc vào hai bên nách đỡ cho bà khỏi té quỵ xuống đường và dìu bà kéo lê trên cát đằng sau cỗ quan tài cho đến nơi chôn cất người con thân yêu!

Cảnh đau lòng ai oán đó đập vào mắt vị ngôn sứ, Ngài bàng hoàng đứng sững lại người như chết trân, khuôn mặt đầy xúc động với cặp mắt nhắm nghiền như không dám chứng kiến thêm cảnh mẹ khóc con.  Với đôi môi cắn chặt vào nhau tím ngắt như cố nén tiếng thở dài não ruột đang xiết chặt trái tim tan nát, Ngài loạng choạng tiến lại gần người mẹ khổ đau.  Mọi người tò mò ngạc nhiên không hiểu vì sao vị ngôn sứ lại xúc động đến thế!  Ngài đã nhìn thấy trước cảnh gì rồi chăng?

–  Đứng lại!

Một giọng nói trầm ấm vang lên mang nhiều âm chất ra lịnh.  Cả hai đám đông cùng ngỡ ngàng nhìn nhau không hiểu chuyện gì xảy ra.  Ai đứng lại?  Người chết hay kẻ sống?  Những người khiêng quan tài như bị thôi miên tự động dừng chân.  Bước chân người đàn bà đau khổ cũng khựng lại, bà ngước khuôn mặt dại khờ với hai hàng lệ chưa khô nhìn lên.  Ánh mắt già nua chớp chớp.  Qua làn nước mắt nhạt nhoè bà nhìn thấy khuôn mặt hiền từ nhân hậu mập mờ trước mắt.  Ai thế?  Bà không hề quen biết người này!  Bà lắc đầu đưa tay dụi mắt.  Bạn của con trai bà ư?  Không thể nào.  Bà biết mặt những đứa bạn của con trai dấu yêu.  Một vị kinh sư hay Pharisêu đại diện tôn giáo đến đây để chia buồn với bà ư?  Không đời nào. Có bao giờ họ đoái hoài đến nỗi đau của những người nghèo cùng đinh trong xã hội như mẹ con bà.

Mặt bà ngây ra, ánh mắt ngơ ngác.  Như đoán được tâm trạng của bà, đám đông lao nhao lên với những câu trả lời mà bà nghe tiếng được tiếng mất:

–  Giêsu!  Giêsu Nadarét!  Giêsu con vua Đavít!

À, bà nhớ ra rồi, cách đây không lâu trong dân chúng có đồn về một người mang tên Giêsu, người Nadarét xứ Galilê, Người đã trừ quỷ, chữa lành nhiều bệnh tật, đả phá những lề luật cứng ngắc trong xã hội, rao giảng về Tình Yêu, Nước Thiên Chúa và niềm hạnh phúc vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại khổ đau.  Bà nghe nói ông Giêsu đó có một trái tim nhân hậu, thương yêu trẻ thơ, những người nghèo và đặc biệt là những người bất hạnh cô nhi quả phụ như bà.  Bàn tay ông chạm đến ai là cuộc đời người đó đổi thay!  Ánh mắt ông đi liền với trái tim!  Là ông ta đây sao?  Tuy chưa hề được gặp mặt ông lần nào nhưng bà đã nghe về ông ta rất nhiều.  Bây giờ con người nổi tiếng đó đang đứng trước mặt bà đây, bằng xương bằng thịt.  Nhưng để làm gì cơ chứ?  Con bà đã chết rồi, chết thật rồi!  Bà đang đi chôn nó đây, còn gì nữa đâu để mà xin!  Còn gì nữa đâu để mà chữa lành!

Vị ngôn sứ tiến đến bên bà, ông đưa tay nhè nhẹ lau những giọt lệ trên khuôn mặt gầy guộc đầy những nếp nhăn.  Khuôn mặt Giêsu lộ đầy vẻ xúc cảm thương mến, đôi môi run run mấp máy như muốn thốt nên lời an ủi mà không sao thoát ra thành lời.  Rồi bất chợt Giêsu dang rộng hai cánh tay ôm choàng bà vào lòng bất kể tục lệ khắt khe thời đó không cho phép người đàn ông ôm hôn người đàn bà ngoài đường phố, bất kể quần áo bà tang thương rách nát dơ bẩn, bất kể đến thân phận hèn kém nghèo khó của bà.  Có lẽ Giêsu biết vết thương lòng bà sâu quá không lời nào có thể xoa dịu được.  Bà nhắm mắt lặng im bất động để cho Giêsu ôm mình vào lòng, vỗ về như người cha vỗ về đứa con thơ.  Rồi bà nấc lên thành tiếng, nước mắt trào ra, dòng lệ tưởng đã cạn khô sau khi khóc chồng và sau mấy ngày ngồi bên xác con nay có người khơi dậy, lại ào ào tuôn trào như hai dòng suối.  Bà gục đầu vào vai Giêsu oà khóc, khóc thật to như đứa con nít, khóc như chưa bao giờ được khóc, khóc cho vơi đi những sầu khổ chất chứa trong lòng, khóc như sợ từ nay sẽ không còn ai lau khô giọt nước mắt cho bà nữa.  Hai tay bà vòng ra sau ôm choàng lấy Giêsu chặt cứng như ôm đứa con trai thân yêu vào lòng, như sợ Giêsu sẽ vuột mất khỏi tầm tay bà.  Chưa ai ôm bà như thế bao giờ!  Chưa ai an ủi bà bằng cách này!  Chưa có ai rung cảm với nỗi đau bà đang thấu chịu như ông Giêsu này!  Bà nức nở thì thầm:

–  Giêsu ơi, ông có biết tôi đau khổ lắm không? Ngài có cảm nhận được nỗi đau của tôi không?

 Đáp trả lại lời bà là những tiếng nhịp tim đập thổn thức trong lòng Giêsu mà bà cảm nhận được qua cánh tay hùng mạnh đang xiết chặt lấy bà.   Nhịp tim đó đang hòa chung nhịp với trái tim tan nát của bà, hai con tim cùng chung một nhịp đập!  Ôi, sao mà ngọt ngào quá!  Đây là gì nếu không phải là tình thương?  Ông Giêsu này là ngôn sứ ư?  Nếu đúng thế thì ông ta quả là ngôn sứ của tình thương!

Rồi vẫn giọng nói trầm ấm đó nhẹ nhàng thì thầm bên tai bà những lời an ủi dịu ngọt:

zz–  Thôi, bà đừng khóc nữa! (Lc 7:13b)

Đợi vài phút cho những xúc cảm lắng xuống nơi cung lòng người mẹ đau khổ, Đức Giêsu buông bà ra, chậm rãi tiến về phía quan tài, sờ vào đó và nói:

–  Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! (Lc 7:14a)

Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.  Người mẹ kinh hãi trợn tròn đôi mắt giật lùi ra phía sau mấy bước.  Đám đông hoảng hốt ồn ào láo nháo:

–  Chuyện gì thế, chuyện gì thế? Người chết sống lại ư?  Ôi, Lạy Chúa tôi!

Và họ bắt đầu náo loạn xô đẩy chen lấn về phía trước để coi cho được khuôn mặt người chết, để chính mắt kiểm chứng phép lạ hi hữu trong đời: người chết chuẩn bị đem chôn nay được sống lại.

Đức Giêsu dìu anh thanh niên đứng dậy, gỡ anh ra khỏi những băng vải liệm quấn quanh người, cầm tay anh dắt về phía người mẹ, trao anh lại cho bà và nói:

–  Bà xem, con bà đang sống đây!

Bà ấp úng ngỡ ngàng trước một niềm vui bất ngờ ngoài sức tưởng tượng như thế, miệng bà ú a ú ớ trước món quà quá lớn lao được trao ban lần thứ hai từ tay Thượng Đế.  Tim bà như ngừng đập, lưỡi bà cứng đơ không thốt lên được một lời cám ơn!  Bà có xin đâu mà được nhận lãnh một phép lạ cả thể như thế!  Đúng hơn bà không dám xin, không dám mơ đến khi đối diện với Giêsu vì bà biết con bà chết đã được mấy ngày rồi.  Đó là điều “không thể được” khi xin cho một kẻ chết sống lại.  Trong nỗi đau, bà quên đi rằng đã có lần vị đại ngôn sứ Elia đã kêu xin cùng Thiên Chúa cho con trai một bà goá sống lại.  Đối với Thiên Chúa, không có gì là “không thể” làm được.

Thấy bà góa cứ đứng trân trân như hóa đá, Đức Giêsu dịu dàng cầm lấy tay người thanh niên đặt trong lòng bàn tay sần sùi nhăn nheo của người mẹ.  Ngài xiết chặt hai bàn tay một già một trẻ trong lòng bàn tay mình âu yếm đưa lên môi hôn, mắt Ngài thương mến nhìn hai mẹ con như chúc phúc cho cảnh vui vầy đoàn tụ của gia đình bà.  Hai mẹ con bà goá ôm chầm lấy nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc trào dâng!  Bà thầm thì bên tai con:

–  Quả thật, ông Giêsu này đích thực là Con Thiên Chúa.

 Quay về phía Giêsu và đám đông, bà đứng thẳng người mạnh mẽ tuyên xưng:

–  Vâng, bây giờ tôi biết ông chính là Giêsu, Con Thiên Chúa Hằng Sống, và lời Đức Chúa do miệng ông phán ra là đúng!

Đám đông và những người hàng xóm tốt bụng sau giây phút ban đầu kinh sợ giờ đây họ bu xung quanh hai mẹ con bà goá la hét mừng rỡ trước cảnh đoàn viên, họ nhẩy lên hò reo chúc tụng Thiên Chúa:

–  Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (Lc 7:16).

Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận thời đó.  Họ lại tiếp tục hò la lớn tiếng:

–  Chúc tụng Thiên Chúa của Tình Yêu, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, Đấng đã lau khô những giọt lệ chảy trong bóng đêm. Chúc tụng Thiên Chúa của Tình Yêu, Đấng đã luôn an ủi vỗ về những người đau khổ.  Chúc tụng Thiên Chúa Tình Yêu, Alleluia, Alleluia!

Những lời này về Đức Giêsu sau được loan truyền khắp tứ phương thiên hạ cho loài người được nhận biết chúng ta có một người Cha yêu thương ở trên trời, đó là Thiên Chúa Tình Yêu!  Alleluia, Alleluia!

 Lang Thang Chiều Tím

CUỘC HẸN BẤT NGỜ

 (Lc 7:36-50)

Ngôi nhà khang trang nằm cuối con đường lớn duới hai dàn thiên lý với bóng mát giăng đầy lối đi hôm nay bỗng tưng bừng náo nhiệt khác thường.  Gia nhân kẻ ra người vô tất bật chuẩn bị cho bữa tiệc thịnh soạn tiếp đón những bậc vị vọng trong vùng tối nay.  Chủ nhân Simon là một vị Biệt phái (Pharisee) nổi tiếng đạo đức khắt khe, giữ mình nghiêm nhặt những luật lệ tỉ mỉ.  Với kiến thức uyên thâm về Kinh Thánh cộng thêm sự hiểu biết về giáo huấn Moses, ông đã từng được mời giảng dạy nhiều lần ở đền thờ Giêrusalem trong những ngày lễ lớn.  Ngoài địa vị một người lãnh đạo tinh thần được mọi người kính nể, chủ nhân cũng là một người khá giả với tiền dư bạc để, với hàng chục tôi tớ phục dịch trong nhà.

Mặt trời chiếu chênh chếnh về hướng Tây, các người Biệt phái và kinh sư với những tua áo dài lụng thụng, mặt mày nghiêm trang đạo mạo bắt đầu lục đục kéo đến.  Theo phong tục Do Thái thời ấy, chủ nhân thường để vài chum nước trước cửa để đầy tớ hoặc chủ nhà rửa chân cho khách tùy theo lòng hiếu khách của gia chủ.  Trong một bữa tiệc trang trọng như đêm nay, được mời đến dự tiệc là một vinh dự lớn lao cho khách được mời nên Simon thiết nghĩ – chủ nhân không cần phải hạ mình làm công việc hèn kém đó.  Dân đen dễ mấy ai có được sự hân hạnh như thế?  Biết rõ điều này nên khách được mời chẳng ai dám trách móc hay kêu ca về thái độ đón tiếp của chủ nhân, trái lại họ còn ngẩng cao đầu hãnh diện trước những ánh mắt kính nể thèm muốn của đám gia nhân khi bước chân vào nhà.

Duy có một vị khách cao lớn vạm vỡ, dáng phong sương trong bộ quần áo cũ kỹ bám đầy bụi đường, khuôn mặt trầm ngâm lặng lẽ lách qua những khuôn mặt hớn hở đang đứng hàn huyên chờ rửa chân.  Một vài gia nhân tròn mắt ngạc nhiên khi nhận ra vị khách này.  Đó không ai khác hơn là vị ngôn sứ Giêsu mà họ thường thấy đám đông bu quanh mỗi khi Ngài xuất hiện.  Một con người đã làm ngả nghiêng đất trời Do Thái trong những tháng ngày gần đây bằng những giáo huấn đặc biệt và những phép lạ chưa từng thấy.  Một tôn sư (rabbi) đã từng gây náo động trong giới Biệt phái Kinh sư vì các hành vi thân thiện công khai với những kẻ tội lỗi, đàng điếm.  Vài gia nhân lăng xăng chạy đi lấy gàu múc nước và thau để rửa chân cho vị khách đặc biệt này.  Lạ thay, khách lắc đầu xua tay ra dấu không cần thiết rồi âm thầm bước vào bên trong.

Ngôi nhà giờ đã tràn đầy tiếng cười nói, tiếng người chào hỏi nhau, tiếng trò chuyện râm ran đó đây làm không khí thêm phần sôi nổi, hứa hẹn một buổi tiệc đầy hấp dẫn.  Sau khi khách đã an vị với tư thế nằm dài, đầu tựa vào gối bên những chiếc bàn, chủ nhân vẫn với khuôn mặt kênh kiệu cố hữu đi xung quanh nhà điều khiển gia nhân mang thức ăn lên cho khách.  Những chiếc bình rượu bắt đầu được rót ra mời khách, những chiếc ly được nâng lên hoà với lời chúc tụng chủ nhân vang lên rôm rả.

Bỗng có những tiếng chân chạy huỳnh huỵch, tiếng xô đẩy nhau từ phía cửa ngoài vang lên như tiếng người đang vật lộn chen lẫn những tiếng la hoảng hốt cắt ngang không khí vui vẻ buổi tiệc: “Ê… ê… đi đâu vậy?” … “bắt lấy nó,”… “tóm cổ nó”…

Cả phòng tiệc ngơ ngác hướng về phía cánh cửa không hiểu chuyện gì xảy ra.  Một vị khách đến trễ ư?  Sao mà đến một cách lộn xộn ồn ào đến thế!  Nhưng, cả chủ lẫn khách đều ồ lên một tiếng kinh ngạc khi thấy bóng dáng một phụ nữ xinh đẹp xuất hiện ngay ngưỡng cửa.  Nàng đứng đó, trong bộ quần áo đơn sơ mộc mạc của người thiếu nữ Xion, tay cầm bình bạch ngọc qúy, tay đưa lên vuốt lại mái tóc dài óng ả vừa mới bị xổ tung ra đang quyện bay trong gió chiều.  Hơi thở nàng dồn dập sợ hãi, cặp mắt to đen láy ẩn trên khuôn mặt kiều diễm xanh mét vẫn chưa hết vẻ hồi hộp, một vài vệt xước dài trên cánh tay trắng ngần do vết tích của cuộc xô xát vừa qua.  Một nam gia nhân tay cầm chiếc khăn voan choàng đầu vừa mới giật được từ dải tóc mây mượt mà đang lăm le tiến lên tính tóm cổ vị khách không mời mà tới này.  Chủ nhân bình tĩnh đưa tay ra dấu cho anh ta đứng lại.  Khách tuy không được mời nhưng đã lọt vào nhà trong thì để đích thân ông giải quyết.

Một vài tiếng kêu sửng sốt, mọi người bắt đầu ngồi lên khi nhận ra người phụ nữ này: một kỹ nữ nổi tiếng của thành phố.  Một con người tội lỗi trụy lạc bất cần đời: cô là kẻ thù của các bà có chồng, người tình công khai của những thanh niên sống buông thả, bạn tình trong bóng đêm của những tay đạo đức giả hình.  Không ai hiểu con người như vậy đến đây để làm gì giữa buổi tiệc chỉ toàn đàn ông đứng đắn đang bàn luận về những chuyện đạo đức.  Chủ nhân chậm rãi tiến đến trước mặt nàng, đứng khoanh tay giang chân áng lối vô, hất hàm gằn giọng từng tiếng một:

–     Cô tìm ai ở đây?

Vài khuôn mặt nghiêm trang đạo mạo bỗng giật mình đổi sắc khi nghe câu hỏi.  Cô gái không trả lời, ngướng cổ nhìn vào bên trong, đôi mắt dáo dác lo âu liếc một vòng quanh bàn tiệc như kiếm người thân quen, như đã hẹn hò với ai ở đây từ trước.  Khổ nỗi, người ấy không biết đến cuộc hẹn đêm nay!  Nàng sợ hãi không biết mình sẽ phải làm gì nếu không tìm được người mình hằng mong đợi mà nàng nghe nói sẽ đến đây, trong bữa tiệc cao sang trọng đại này.  Nàng nhủ thầm “Không biết những con cọp đói đạo đức kia sẽ làm gì mình nhỉ?  Chắc mình sẽ bị nhục mạ vì làm ô danh chốn thanh cao thánh thiện, có thể thêm một trận đòn nhừ tử cũng nên và bị tống cổ ra ngoài như một con chó con đi lộn chuồng.”  Nàng nuốt nưóc miếng một cách khó khăn.  Tình yêu đã ban cho nàng thêm sức mạnh phi thường, giúp nàng có thêm can đảm để tiếp tục tìm kiếm.

Ánh mắt nàng bỗng loé lên tia mừng vui khi bắt gặp vị khách đặc biệt đang nằm âm thầm cuối phòng.  Đây rồi, đây đúng là người mà nàng muốn tìm!  Nàng không trả lời chủ nhà, nhẹ nhàng lách mình lỏn qua khe hở chiếc áo đen lùng thùng của vị chủ nhân đáng kính, rồi luồn mình lách qua những chiếc ghế cái bàn, bước chân thoăn thoắt tiến về phía vị ngôn sứ.

Ngôn sứ Giêsu ngạc nhiên chống tay ngồi lên nhìn nàng, Ngài cũng không hiểu người phụ nữ xinh đẹp này muốn gì nơi mình.  Ngài ngơ ngác trước cuộc hẹn bất ngờ đêm nay.  Ánh mắt tuy có thoáng vẻ ngỡ ngàng nhưng ân cần săn đón không chút khinh khi miệt thị, Giêsu âu yếm nhìn nàng như ngầm hỏi: “Ta có thể giúp gì cho chị?”  Không lời trách móc hạch hỏi, cũng chẳng lời thăm hỏi khách sáo, bốn mắt lặng lẽ nhìn nhau như đã quen biết từ muôn kiếp trước.  Cả phòng tiệc im như tờ, mọi người nín thở chờ đợi, bao cặp mắt tò mò đổ dồn về phía cuối phòng.

Rồi như không chịu được trước cái nhìn rộng lượng bao dung của người đối diện, nàng bật lên tiếng nấc nghẹn ngào, gục xuống nức nở trên đôi chân lấm đầy bụi đường.  Đôi bờ vai mảnh mai rung lên từng hồi, hai dòng lệ nóng tuôn trào như suối đổ lên đôi bàn chân xa lạ.  Qua dòng lệ nhạt nhòa, quãng đời nhơ nhuốc như cuốn phim từ từ hiện lên trong tâm trí nàng.  Nàng thổn thức ăn năn.  Lần đầu tiên trong đời nàng qùy xuống khóc dưới chân một người đàn ông.  Lần đầu tiên trong đời nàng ý thức trọn vẹn cuộc đời tội lỗi sa đọa của mình.  Nàng không đủ can đảm để nhìn lên, cũng chẳng dám mở miệng xin tha thứ!  Hối hận trào dâng khi nàng, một kỹ nữ tiếng tăm, được chạm đến con người thánh thiện nhân từ này.  Giờ đây, nàng thật sự hối hận vì cuộc đời đã qua, nàng biết mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa khi sử dụng sắc đẹp trời ban để chống lại Ngài, làm ô uế phẩm giá chính mình và danh dự gia đình.  Nàng tự hỏi, có muộn màng không khi nàng muốn làm lại cuộc đời mới như lời rao giảng Tin Mừng của ngôn sứ Giêsu?  Có còn cánh cửa nào mở ra cho con người tội lỗi nhuốc nhơ như nàng nữa không?

Vị ngôn sứ ngồi lặng yên mặc cho những giọt lệ ăn năn đang chảy trên bàn chân mình mang theo những hạt bụi đường xa.  Ngài không rút chân về để bảo vệ phong tục của cha ông, không rút chân về để bảo vệ thân mình khỏi bị ô uế.  Ngài ngồi lặng thinh chịu đựng những cái nhìn toé lửa căm ghét của các vị kinh sư đạo đức.

ZZKhi dòng lệ ăn năn vơi dần, nàng kéo dải tóc mây như làn suối óng ánh, mái tóc ngày nào chỉ dùng để làm duyên, để bới tóc kiểu này mốt nọ giúp nàng thêm phần quyến rũ, khêu gợi thì nay lại được dùng như mảnh vải tơ xổ ra lau khô đôi chân trần, giúp nàng nói lên tấm lòng thương mến của mình với vị ngôn sứ mà nàng hằng kính yêu.  Nàng nâng niu lau nhẹ những giọt nước mắt còn đọng lại trên những vết trầy xước của đôi bàn chân chai sạm, rồi hai tay cung kính nhẹ đưa lên môi hôn.  Nước mắt lại tiếp tục lăn xuống trên khuôn mặt sám hối khi cặp môi tội lỗi được chạm vào thánh tích.  Nàng xúc động chiêm ngắm bàn chân vị ngôn sứ, đôi bàn chân khô cằn đầy những đường nứt ngắn dài toác miệng, những vết gai xước còn chưa khô màu máu như một minh họa cho đôi bàn chân lang thang quá nhiều.

Đặt bàn chân xuống, nàng lặng lẽ cầm lấy bình bạch ngọc qúy kính cẩn đổ lên chân Đức Giêsu, từng giọt dầu thơm hòa với dòng lệ nóng từ từ chảy xuống.  Nàng lấy tay nhè nhẹ xoa đều lên đôi chân Giêsu như một lời thì thầm xin tha thứ.  Rồi “xoảng….” một tiếng chát chúa vang lên, chiếc bình bạch ngọc quý giá vỡ tan nát.  Những gì đẹp đẽ, những gì quý giá giả tạo, những gì nàng đã một thời theo đuổi…. giờ không còn nữa, nàng như không muốn giữ lại vết tích của quãng đời đã qua.  Khi chiếc bình bị đập vỡ thì mùi dầu thơm trước đây chỉ thoang thoảng, giờ hương thơm nồng nực bay tỏa khắp phòng.

Những khuôn mặt hồi hộp căng thẳng trong phòng tiệc đang chờ đợi một màn kịch hấp dẫn xảy ra, giờ đây từ từ đổi qua thất vọng và khó chịu.  Sao một người tự xưng mình là Con Thiên Chúa lại để thân mình ra ô uế khi để một kỹ nữ chạm vào mình như thế kia nhỉ?  Bất mãn nhất có lẽ là chủ nhà.  Giá trị đạo đức của cha ông từ bao đời đã bị xúc phạm ngay trong ngôi nhà thánh thiện này.  Ông hậm hực nhủ thầm:

–     Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” (Lc 7:39)

Đức Giêsu như đọc thấu tư tưởng các ông, Ngài còn lạ gì hạng người giả hình này.  Nhẹ nhàng đưa mắt nhìn thẳng vào khuôn mặt cau có đầy vẻ bực tức, Ngài nói:

–     Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông.

Ông thưa:

–     Dạ xin thầy cứ nói:

Đức Giêsu khoan thai hỏi:

–     Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai.  Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?” (Lc 7:41-42)

Đưa ánh mắt ngờ vực nhìn vị khách đặc biệt trong bữa tiệc tối nay, Simon nhíu mày suy nghĩ: không biết có cái bẫy nào giăng sẵn đằng sau câu hỏi đơn sơ này không?  Dù muốn hay không, dù chưa nghĩ ra câu trả lời thích hợp, ông vẫn phải trả lời.  Mọi người đang hồi hộp theo dõi cuộc đối thoại thú vị, ông đành ấp úng nói sự thật:

–     Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.

Ngôn sứ Giêsu cười nhẹ, khẳng định:

–     Ông xét đúng lắm!

Cúi nhìn xuống người phụ nữ tội lỗi nãy giờ vẫn ngồi nép dưới chân mình như đứa con nhỏ sợ hãi nép vào người mẹ tìm chỗ tựa nương, Ngài đưa mắt nhìn nàng đầy yêu thương quý trọng.  Đẹp quá hình ảnh một con chiên lạc tìm về với đàn, một kẻ tội lỗi sa đọa đi tìm sự tha thứ, hình ảnh mà Ngài tha thiết chờ mong kiếm tìm!  Ngẩng lên, bắt gặp khuôn mặt hống hách, cái nhìn hằn học chứa đầy sự ghen ghét của vị gia chủ đạo đức, Đức Giêsu khoan thai từng chữ:

–     Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau.  Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi.  Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi.  Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.  Còn ai được tha ít thì yêu mến ít (Lc 7:44-47).

Người kỹ nữ tròn xoe mắt ngước nhìn lên, tâm thần bị rúng động mạnh.  Sao vị ngôn sứ này hiểu rõ tâm can nàng?  Sao Ngài lại dám thẳng thắn phơi bày những điều thầm kín sâu sa tận đáy lòng nàng ở đây?  Lòng yêu mến của một con điếm thì có giá trị gì mà Ngài đề cao?  Lấm lét nhìn qua những khuôn mặt đạo đức xung quanh, nàng hồi hộp chờ đợi một sự bùng nổ chống đối.

Còn Simon tái mặt, người chao đảo đứng không vững.  Trước mặt bao người tiếng tăm đạo đức, cái ông Giêsu này lại dám so sánh ông, một thầy Biệt phái đạo hạnh mẫu mực, với một con điếm nổi tiếng trác táng ai cũng biết đến.  Chưa hết, trong cuộc so sánh bất cân xứng đó, ông bị hạ 3-0 một cách phũ phàng không chút xót thương, không một điểm vớt vát danh dự.  Đúng là không biết điều!  Ông lắp bắp tính nói vài lời nhưng… chỉ ú ớ được vài tiếng.  Biết nói gì bây giờ?

Đức Giêsu chẳng buồn nhìn đến con cọp đang bị thương gầm gừ đứng đó như một kẻ bại trận, Ngài cúi xuống đặt tay trên vai người phụ nữ đang run rẩy trong cuộc tranh luận mà bất ngờ nàng là kẻ chiến thắng.  Như không màng đến quá khứ tội lỗi của nàng, Ngài dịu dàng bảo:

–     Tội của chị đã được tha rồi (Lc 7:48).

Cả bàn tiệc láo nháo, bấy giờ không chỉ một con cọp bị tấn công mà câu nói đó đã làm hàng chục con cọp cao ngạo khác cùng bị thương tổn.  Tất cả gầm gừ ngồi bật dậy như muốn ăn tươi nuốt sống hai người, ánh mắt căm giận vì sự lộng ngôn của người mà họ chẳng rõ là ai.  Không hẹn mà gặp, tất cả cùng chung một hạch hỏi:

–     Ông này là ai mà lại tha được tội? (Lc 7:49)

Đức Giêsu phủi áo đứng dậy chẳng buồn giải thích hoặc dạy dỗ như Người vẫn thường làm với đám đông.  Ngài đưa tay nâng người phụ nữ tội lỗi đứng thẳng lên như trả lại cho nàng vị trí nhân cách của một con người mà nàng đã tự đánh mất lâu nay, như muốn khẳng định cho tất cả biết rằng phẩm giá của nàng không thua kém gì mấy vị đạo đức ở đây.  Nhẹ nhàng lau những giọt lệ còn đọng lại trên khuôn mặt xanh mét sợ hãi như người cha âu yếm chùi nước mắt con thơ, vị ngôn sứ đầy lòng xót thương cảm thấy mình có trách nhiệm phải bảo vệ con chiên lạc vừa tìm về đàn thoát khỏi hang cọp này.  Ngài dắt nàng đi qua những chiếc bàn ngổn ngang, bước qua những khuôn mặt đỏ tía đang gầm gừ tức tối.  Họ bình thản đi ra bên ngoài bỏ lại phiên chợ ồn ào sau lưng, bỏ lại dĩ vãng một thời đã qua!

Gió về đêm thổi thốc lên mát rượi làm tung dải tóc mây bay phất phơ trong gió.  Khí trời thanh khiết, những vì sao lung linh trên trời cao như đang nhảy múa chào đón bước chân trở về của đứa con lạc loài.  Đã đến giờ chia tay, vị ngôn sứ đã đưa nàng đi qua đoạn đường hiểm nguy nhất, giờ đến phiên nàng phải tự bước đi trên con đường nàng đã can đảm chọn để theo Ngài.  Con đường tuy hẹp đầy những chông gai thử thách, nhưng mang lại cho nàng niềm hạnh phúc ngọt ngào, cho nàng cảm nếm hương vị tình yêu thánh thiêng, giúp nàng sống một cuộc sống tốt đẹp hơn, xứng đáng với lòng vị tha, và tình yêu của ngôn sứ Giêsu dành riêng cho nàng.

Dưới ánh trăng, nàng thấy hình ảnh mình lấp lánh phản chiếu trong ánh mắt yêu thương dịu hiền của vị ngôn sứ khả kính.  Nàng mỉm cười, nụ cười đầu tiên từ khi bước chân vào bàn tiệc, lòng tràn đầy tự tin yêu đời vì biết rằng từ đây nàng sẽ không còn cô đơn và lữ hành một mình nữa.  Nàng đã liều lĩnh không hẹn mà đến, Giêsu nhân hậu vẫn mở rộng vòng tay đón tiếp nàng cách nồng nhiệt, đã rộng lượng tha thứ cuộc đời đa truân lầm lỡ của nàng.  Giờ thì tạm chia tay đó nhưng nàng xin hẹn Ngài cuộc gặp mặt lần sau.  Ngày đó, Giêsu sẽ ra tận cổng nhà cha Ngài để đón nàng, sẽ trao tặng nàng món quà sự sống vĩnh cửu như lời Ngài đã hứa ban.

Giêsu cầm đôi bàn tay nhỏ bé trong lòng bàn tay mình như chúc lành cho nàng trong cuộc đời mới, như muốn truyền thêm cho nàng sức mạnh và lòng can đảm trên bước đường sắp đến.  Giọng Ngài trầm ấm dưới ánh trăng:

–     Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an! (Lc 7:50)

Nàng luyến tiếc bước đi, đầu ngoái lại tay đưa lên vẫy chào lần cuối người nàng kính yêu.  Giêsu mỉm cười nhân hậu đưa tay lên vẫy vẫy.  Những giọt nước mắt hạnh phúc lăn dài trên má, nàng xin ghi khắc mãi hình ảnh này trong tim, sẽ mang theo suốt đời lời chia tay cuối cùng “Chị hãy đi bình an!”  Gió thổi nhè nhẹ như lập lại bên tai lời chúc bình an của Đấng giàu lòng xót thương.

Lang Thang Chiều Tím
June 2007