KẺ TỬ TỘI THẤT HỌC TRỞ THÀNH MỘT CÂY BÚT LỪNG DANH

“Tương lai mỗi tội nhân là một vị thánh.  Quá khứ mỗi vị thánh là một tội nhân.”  Saint Augustine

Không phải kẻ nào mang án tử hình cũng hoàn toàn tuyệt vọng, mất đi niềm tin về sự sống còn của mình. Thảm trạng cùng nhục cảnh tù đày nhiều lúc lại là môi trường, cơ hội tốt để con người có thể phát huy, ghi lại những suy tư, những khổ ải, gian truân mà họ đã kinh qua, chiêm nghiệm… Tác phẩm của họ thường được người đọc ưu ái đón nhận và được xem, liệt vào hàng kiệt tác trong các lãnh vực báo chí, văn học, chính trị……

Cuộc đời của Wilbert Rideau (WR) mang nhiều sắc thái đặc thù, đầy hấp lực và là một tấm gương trong sáng. Nhờ những nỗ lực vươn mình hướng thiện không ngừng mà ông, từ một kẻ sát nhân, mang án tử hình, bị thất học, trong thời gian chờ ngày lên đoạn đầu đài đã chịu khó tự học, đọc sách để trở thành một nhà báo, nhà văn được nhiều giải thưởng và sự nể trọng, ưu ái của mọi giới, mọi người.

Wilbert Rideau (WR) sanh ngày 13 tháng 3 năm 1942 trong một gia đình da đen nghèo, bất ổn tại Louisiana.  Cha mẹ li dị, lúc nhỏ ông thường phải nhịn đói đi học và bị nạn kỳ thị chủng tộc đè bẹp xuống tận đất đen.  Năm 13 tuổi ông bỏ học đi lêu lổng, 16 tuổi làm công việc dọn dẹp cho một tiệm tạp hoá.  Năm 19 tuổi cướp ngân hàng.  Khi bị phát hiện, để thoát thân WR đã bắt cóc ông giám đốc và 2 nữ nhân viên làm con tin. Cả 3 đều là người da trắng. Trên đường đào tẩu, khi ra tới vùng ngoại ô thì cô Julia Ferguson cho xe chạy chậm lại và họ tìm cách trốn thoát.  Kêu dừng lại không được, Wilbert đã nã hết 6 viên đạn và làm 3 người bị thương. Khi Julia gượng đứng dậy thì WR dùng dao đâm vào ngực cô. Theo lời của cảnh sát thì cô này gượng dậy để xin tha mạng. Còn theo lời khai của Wilbert thì ông dự tính sau khi đến nơi có thể thoát thân ông sẽ thả họ về. Việc giết cô Julia chỉ là hành động thiếu suy nghĩ trong lúc lo sợ, bối rối.

Bị buộc tội cố sát và kết án tử hình 3 lần vào các năm 1961, 1964, 1970, với các bồi thẩm đoàn toàn người da trắng. Nhưng các phán quyết trên đều lần lượt bị các Toà Thượng Thẩm, Toà Phá Án liên bang tiêu hủy bởi vì các tiến trình xử án này đều bị xem là bất hợp lệ, sai lầm, thiếu vô tư. Sau đó không lâu, vào năm 1972 Toà Thượng Thẩm lại tuyên bố hình phạt tử hình là vi hiến. Nhờ vậy WR thoát chết, trở thành tù nhân chung thân khổ sai và năm 1973 ông được đưa ra khỏi khu biệt lập dành cho những người chờ ngày ra pháp trường thọ lệnh hành quyết.

Cảm thấy ân hận về tội lỗi của mình Wilberg bất đầu miệt mài tự học và đọc sách. Ông đọc một cách say mê các sách về tôn giáo, thánh kinh mà luật lệ nhà giam cho phép cũng như những thể loại, đề mục khác bị cấm. Qua sách vở cũng như sự thân cận, trợ giúp của những người trong trại tù ông thấy xã hội, đời sống quanh ông đầy dẫy những nhân vật anh hùng và người tốt bụng. Trường hợp kề cận bên ông nhất là những nhân viên cải huấn – những người có nhiệm vụ canh chừng ông, cải tạo ông lại là người thường lén lút cung cấp sách vở bị cấm đoán cho ông trau dồi kinh sử và mở mang kiến thức. Tưởng cũng cần nói thêm là những người tạo dựng con đường thăng tiến cho Wilbert ở đây đều là người da trắng. Điều này đã giúp Wilbert thay đổi hẳn nhãn quan của mình. Có lẽ đối với ông, đó là một dấu mốc quan trọng, mới mẻ. Ông nhìn cuộc đời và con người bằng một lăng kính trong sáng hơn. Những ý niệm vẩn đục, mơ hồ cũ đã hoàn toàn tan tác theo sương khói.

Sau một thời gian tự học hỏi, ông thấy hứng thú trong việc sáng tác và bắt đầu viết.

Nhiều nguồn tin cho biết trong suốt 44 năm trong trại giam ông luôn giúp đỡ các bạn tù khác và tuân thủ luật lệ, qui điều nghiêm ngặt và cũng chưa bao giờ bị sai phạm.

Với những hoạt động, đóng góp tích cực, không ngừng như vậy ông đã được trao tặng nhiều giải thưởng và tuyên dương danh dự của các giới chức hành pháp, tư pháp, hiệp hội báo chí, luật gia, truyền thông, truyền hình…

Trong thời kỳ sửa soạn việc tuyển chọn giải Oscar năm 1999 cho cuốn Life Sentences ông là chủ đề trong các bài tường thuật, phỏng vấn trên các đài Good Morning America, CBS, Fox, CNN… trên các báo nội địa Hoa kỳ và các quốc gia khác như Anh, Pháp, Đức, Úc, Hoà Lan, Bỉ… Trong hơn 30 năm qua ông luôn là đề tài chính cho vô số bài viết lưu truyền khắp nơi.

Ngoài 2 cuốn Life Sentences, ông còn thực hiện nhiều phim tài liệu, tranh ảnh, videotape cho các lớp học… Riêng cuốn phim tài liệu The Farm chẳng những trúng giải trong kỳ đại hội Sundance 1998 mà còn được đề bạt giải Oscar.

***************

Nhờ sự tranh đấu của nhiều lực lượng, hội đoàn hỗ trợ để xin cải danh tội trạng, đặc biệt là sự can thiệp, tiếp tay của NAACP và Educational Fund cùng sự bào chữa của luật sư Johnnie Cohran ông được giảm án và tức khắc được trả tự do ngày 15 tháng 01 năm 2005 vì thời gian ông ở tù đã gấp đôi hình phạt dành cho tội ngộ sát. Nhiều người cho rằng ông phải nằm khám 44 năm có thể vì ông là một tù nhân đặc biệt và quá nổi tiếng,

Sau khi gặp lại gia đình ông cho biết: tôi phải tập làm quen với ý nghĩ được tự do. Tôi phải tập thích ứng với một thế giới tương đối khác biệt với thế giới trước ngày tôi vào tù….

WR đang định viết sách và muốn chuộc lại lỗi lầm, cũng như làm những việc hữu ích cho đời, cho những người đã đặt kỳ vọng, niềm tin nơi ông bao nhiêu năm qua có thể nhìn thấy. Mới đây, có nguồn tin cho rằng Rideau sắp ký một hợp đồng đầu tiên trị giá năm trăm ngàn Mỹ kim. Bây giờ, với trình độ cao và nhiều kinh nghiệm, mỗi ngày được tự do đi lại, có nhiều thời giờ nghỉ ngơi, làm những điều mình ưa thích, tâm nguyện chắc hẳn là một niềm vui vô bờ cho riêng ông: một-người-về-từ-cõi-chết.

http://www.viet.no/content/view/243/87/

Phan Bá Thụy Dương

***************

Lạy Cha nhân ái, cuộc đời con lao đao nhiều bất hạnh, những bất hạnh thật nhỏ bé, con đã từng vấp ngã, những cái té nhẹ nhàng, con đã từng phạm tội nhưng chưa bao giờ bị bắt, thế mà con không ngớt kêu trời trách phật, oán Chúa bỏ nhà thờ mỗi khi gặp chuyện không vừa ý.  Xin cho con biết đứng lên sau mỗi lần vấp ngã như người tử tội trên, đừng bao giờ nản lòng vì những tội lỗi xấu xa của mình. Xin cho con luôn biết phấn đấu trước mọi nghịch cảnh và đặt trọn niềm cậy trông nơi Chúa.  Amen!

CÁT BỤI

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi.

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.

Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày.

Mặt trời nào soi sáng tim tôi
Để tình yêu xay mòn thành đá cuội
Xin úp mặt bùi ngùi
Từng ngày qua mỏi ngóng tin vui.

Cụm rừng nào lá xác xơ cây
Từ vực sâu nghe lời mời đã dậy
Ôi cát bụi phận này
Vết mực nào xóa bỏ không hay…

Trịnh Công Sơn

*********************************

ZZHàng năm Giáo Hội dành ra ngày thứ tư Lễ Tro để nhắc nhở con cái về thân phận con người.  Một ít tro được rắc lên đầu bôi lên trán, hai ngày giữ chay, bốn mươi ngày sống tinh thần Mùa Chay.  Lời mời gọi xám hối hãy xé lòng, đừng xé áo.  Lời nhắc nhở bố thí, cầu nguyện, cảnh giác những cơn cám dỗ trong cuộc sống….. một vài điều gọi là nhắc nhở phận người chóng nhớ mau quên.  Có là ai, có là gì… cũng phải tuân theo định luật tự nhiên!  Có bao nhiêu, có thế nào… rồi cũng xuôi tay chẳng mang được chi!

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng ưu tư khắc khoải về thân phận con người:  Là ai? Từ đâu đến?  Đi về đâu?  “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?” ông nhận ra phận người đến từ bụi đất, mang kiếp sống mong manh vắn vỏi.  Hạt bụi nhỏ bé trong vũ trụ bao la, bất lực trước định luật tự nhiên của tạo hoá, bị lôi cuốn theo con tạo xoay vần cuộc sống.  Sau “một mai vươn hình hài lớn dậy” để sống kiếp cát bụi phù du tạm bợ, dù muốn hay không, chấp nhận hay chống đối, hạt bụi lại rũ áo ra đi về với thân phận bụi đất của mình.  “Để một mai tôi về làm cát bụi,” thế là hết, là xong một kiếp người.

Vẫn biết bụi đất một mai sẽ trở về với cát bụi.  Vẫn biết nơi đến, chốn về như nhau: tất cả chỉ là phù du, vô nghĩa.  Nhưng trong lòng ông, từ vực sâu nghe lời mời đã dậy” đang mong chờ một điều gì đó thâm sâu hơn, cao qúy hơn những gì tầm thường, đang cuốn hút hạt bụi xoay vòng trong cơn lốc đảo điên.  Hình như đôi tai tâm hồn ông đã nghe được lời mời gọi thiêng liêng nào đó.  À, thì ra cát bụi mệt nhoài sau những chuỗi ngày mặt trời soi một kiếp rong chơi,” sau những tháng năm hòa mình vào những tiếng động gõ nhịp không nguôi” của cuộc đời, sau bao nhiêu năm làm kiếp con người,” bỗng chợt nhận ra thiếu vắng một cái gì đó trong cuộc sống.  Hạt bụi nhỏ bé như pha lê được mặt trời soi sáng để rồi trái tim khát khao tin yêu thổn thức “xin úp mặt bùi ngùi, từng ngày qua mỏi ngóng tin vui.”

Là tin vui gì?  Ai có thể mang cho đến cho đất trời tin vui bất diệt?  Mỗi hạt bụi trong vũ trụ bao la đang chờ đợi một tin vui khác nhau.  Có hạt mong được chiếu sáng lấp lánh dù là hư ảo chớp nhoáng.  Hạt mong được tích lũy thêm những lớp đất cát phù du, dù bụi sẽ chẳng mang được chi khimột mai về làm cát bụi.”  Hạt khác thích cả đời rong chơi dưới ánh mặt trời.  Hạt lại thích hưởng thụ cho bõ kiếp phù sinh vắn vỏi.  Có hạt mong được nâng đỡ những hạt bụi khác mảnh mai yếu kém hơn.  Hạt lại mong cho đi chính mình để làm mem, làm muối ướp mặn cho đời.  Tin vui mà nhạc sĩ họ Trịnh, bạn và tôi đang mong chờ là tin vui gì?

Con Một Thiên Chúa đã từ bỏ vương quyền trên chốn trời cao, nhập thể làm người chỉ với một khát vọng duy nhất, là mang Tin Vui đến cho con người, cho những hạt bụi bé nhỏ dấu yêu.  Trong Ngài, bụi đất trở thành vô giá.  Với Ngài, đất bụi trở thành bất tử.  Nhờ Ngài, bụi đất nếm mùi thiên thu vĩnh cửu.  Nhưng, phũ phàng thay không phải tất cả hạt bụi đều chấp nhận Ngài!

Tin Vui dù muộn nhưng không bao giờ trễ.  Chẳng phải ai cũng được phúc đón nhận Tin Vui từ thưở bình minh.  Dòng đời ngược xuôi tuy vất vả nhưng hào nhoáng, tuy tạm bợ nhưng đầy hấp dẫn, tuy nhiều đau khổ nhưng không thiếu niềm vui giả tạo.  Không dễ gì mà cát bụi chấp nhận phận mình từ thưở mới vươn hình hài lớn dậy.”  Nhạc sĩ tài ba họ Trịnh đã đi sâu vào cuộc sống, khi ông kinh nghiệm bản thân từ từ đi qua ba giai đoạn của đời người:   Với thời trai trẻ hăng say yêu đời, dù biết phận mình là cát bụi, nhưng đó là tiếng hò reo mừng vui: Ôi cát bụi tuyệt vời!”   Cuộc sống dần trôi, với bao đắng cay chất đầy lên đôi vai gầy, mà ý nghĩa cuộc đời vẫn biệt tăm, ông buông một tiếng thở dài chán chườngÔi cát bụi mệt nhoài!”   Tiếp tục cuộc hành trình vô định của con người, sắp đến đích mà không biết nơi đến là đâu, kết thúc bài nhạc là một lời chua chát xuôi tay tuyệt vọng:Ôi cát bụi phận này!”

Con người, chỉ khi “chợt một chiều tóc trắng như vôi” mới giật mình nhìn lại mình, vội vàng đi tìm ý nghĩa cuộc sống.  Khi nhìn “lá úa trên cao rụng đầy” với “cụm rừng nào lá xác xơ cây” lòng người mới chùng xuống, băn khoăn lòng hỏi lòng, chiếc lá vàng kia đi về đâu?  Phận người có gì hơn một chiếc lá vàng, một hạt bụi không?  “Trăm năm vào chết một ngày,” đời người ky cóp, một ngày xuôi tay!

Mùa Chay gợi lại hình ảnh người Cha nhân lành trong ngụ ngôn đứa con hoang đàng, lúc nào cũng thấp thỏm trước ngõ, chờ mong đứa con đi xa trở về!  Muộn nhưng không bao giờ trễ!  Đừng để đến khi “vết mực nào xóa bỏ không hay…..” thì buồn thay cho một kiếp người!  Sống vô duyên, chết phận bạc!

********************************

 Lạy Chúa, trong Mùa Chay thánh này xin cho con cất bước trở về với Chúa khi còn có thời gian chuẩn bị.  Bốn mươi ngày Mùa Chay nhắc con nhớ đến những từ ngữ xa lạ:  ăn chay, bố thí, cầu nguyện.  Xin cho con biết cho đi một phần những gì con đang có, để giúp những hạt bụi khác cảm nếm hương vị tình yêu trong cuộc sống.  Xin giúp con một lần ăn chay với cả tâm hồn yêu thương, để nhìn ra được tình yêu của Thiên Chúa với thân phận bụi đất nghèo hèn.  Xin cho con biết tỉnh thức cầu nguyện để đừng bám vào những hạt bụi bọt bèo khác mà chỉ bám vào Đấng đã tạo thành con người từ cát bụi, Đấng đã truyền hơi thở mình vào bụi đất vô tri, để trở thành con người mang hình ảnh Ngài.  Hạt bụi bám vào Ngài chắc chắn sẽ không bị “vết mực nào xóa bỏ không hay…..” vào chốn hư không đời đời. 

Lạy Đấng Vĩnh Cửu, cuộc sống lúc bấy giờ sẽ không còn là phù du vô nghĩa, không còn là những tiếng kêu tuyệt vọng từ đáy vực sâu, mà là những tiếng kêu ngạc nhiên hoan lạc, những bản tình ca bất tận ca ngợi tình yêu Thiên Chúa bao la.  Ôi cát bụi tuyệt vời!  Ôi con người tuyệt vời!

Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8:5)

Lang Thang Chiều Tím
Mùa Chay 2007