TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN?

Tháng 11, Giáo Hội dùng cả tháng để cầu nguyện cho các linh hồn, được bắt đầu bằng Lễ Các Đẳng Linh Hồn vào ngày 2 tháng 11.  Nhiều nơi trên thế giới vẫn gọi tháng 11 là tháng cầu cho các đẳng linh hồn.

Tại sao chúng ta cần cầu nguyện cho các linh hồn?  Khi họ còn sống, họ đã làm gì mà khi chết đi chúng ta phải cầu nguyện cho họ?

Đức Tin của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng, Con người sau khi chết sẽ xảy ra ba tình trạng; Được lên Thiêng Đàng, xuống Hoả Ngục hay vào Luyện Hình (Luyện Ngục).

Thiên Đàng, khi một người sống theo luân lý Công Giáo, luôn kính sợ Thiên Chúa và sống theo giới răn của Ngài.  Thiêng Đàng là phần thưởng Thiên Chúa dành cho họ vì công trạng và sự mong ước khi họ còn sống.  Thiên Đàng là hạnh phúc bất diệt, là sự sống đời đời và là sự hiệp thông trọn hảo với Thiên Chúa, các Thiên Thần, và các Thánh.

Hỏa Ngục, là những người khi còn sống, đã từ chối ân sủng của Thiên Chúa.  Những người ta biết tỏ tường điều tốt xấu nhưng vẫn phạm tội chống lại Thiên Chúa và tha nhân để chọn điều xấu.  Hoả Ngục là những người biết được lòng yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa nhưng vẫn khước từ và không bao giờ hoán cải.

Luyện Ngục, đó là những người sau khi chết, được Chúa hứa ban Thiên Đàng nhưng vẫn phải cần một thời gian thanh luyện vì có những tội lỗi họ đã phạm khi còn sống.  Giáo Lý Công Giáo định nghĩa Luyện Ngục là “Những người chết trong ân sủng và tình thân nghĩa với Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, thì tuy họ chắc chắn sẽ được cứu độ muôn đời, họ còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào hưởng niềm vui thiên đàng” (số 1030).

Có một điều là những linh hồn nơi luyện hình không thể cầu nguyện cho chính họ, và họ phải hoàn toàn nhờ vào lòng thương xót và lời cầu nguyện của những người đang còn sống.

Khi một người đã qua đời, chúng ta cũng không thể biết được chính xác linh hồn đó sẽ lên Thiên Đàng, hay xuống hoả ngục, hay sẽ vào chốn Luyện hình vì có những công trạng hay tội lỗi mà chỉ có mình Thiên Chúa và linh hồn đó biết mà thôi, vì vậy việc cầu nguyện cho người qua đời là hết sức cần thiết.

Ngay từ thuở đầu, Giáo Hội luôn cầu nguyện cho những người qua đời, đặc biệt trong Thánh Lễ và các phụng vụ chung.  Trong Thánh Lễ, tất cả các Kinh Tạ Ơn đều có phần cầu nguyện cho các linh hồn. Kinh Tạ Ơn II ghi rằng: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa.  Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng Tôn Nhan Chúa.”  Cũng vậy, trong Phụng Vụ các Giờ Kinh dành cho các tu sĩ và giáo sĩ đọc hàng ngày, đều có lời cầu nguyện dành cho người qua đời đặc biệt là phần Kinh Chiều.  Kinh Chiều Chúa Nhật I ghi rằng: “Vì lòng từ bi cao cả Chúa, xin thương đến những người đã qua đời,và cho họ được vào an nghỉ trong Nước Chúa.”

Tuy nhiên bổn phận của chúng ta là những người Kitô Hữu chúng ta cũng phải đọc kinh cầu nguyện cho các Linh Hồn, tại sao?

Lửa Luyện Tội là có thật: Ở Roma, tại Nhà Thờ Thánh Tâm có một viện bảo tàng trưng những chứng tích các linh hồn hiện về xin cầu nguyện cho họ.  Các chứng tích cho thấy trên các sách kinh, khăn bàn thờ, hay trên mặt bàn bị cháy nám in hình bàn tay hay các ngón tay.  Họ hiện về xin cầu nguyện cho họ để mau thoát lửa luyện tội và để lại các chứng tích như một bằng chứng.  Các Thánh hiện về cũng cho biết, lửa Luyện tội cũng không khác mấy so với lửa Hoả Ngục.

Họ là người thân yêu của chúng ta: Những người qua đời, chắc chắn trong số là những người thân yêu của chúng ta, ông bà cha mẹ anh chị em bạn hữu của chúng ta.  Họ đã là một phần không thể thiếu trong cuộc đời của chúng ta, nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục, chúng ta phải biết cầu nguyện cho họ.  Mặc dù nếu chúng ta không có bà con bạn bè thân thuộc, chúng ta cũng phải cầu nguyện cho các linh hồn, vì qua bí tích Rửa Tội, tất cả đều là anh chị em của chúng ta.

ĐGH Phanxicô đã nói trong một buổi trưa đọc Kinh Truyền Tin: “Truyền thống Giáo hội luôn thúc giục chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời, đặc biệt là dâng lễ cầu cho họ.  Đó là cách giúp đỡ tốt nhất mà chúng ta có thể làm cho các linh hồn, nhất là các linh hồn bị bỏ rơi.  Nền tảng của việc cầu nguyện cho các linh hồn là tình hiệp thông trong Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.

Thân phận chúng ta: Cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện hình cũng là một cách để nhớ đến thân phận của chúng ta.  Có thể khi nhắm mắt lìa đời chúng ta cũng sẽ vào Luyện Hình để chịu sự thanh luyện của Thiên Chúa.  Vì vậy khi cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta được mời gọi để sống tốt hơn và thánh thiện hơn đời sống Kitô hữu của chúng ta để ước mong khi chết chúng ta được Chúa cho hưởng phúc Thiên Đàng.

Tập cho con cái biết cầu nguyện: Cầu Nguyện cho các linh hồn và tập cho con cái cầu nguyện cầu nguyện cho các linh hồn là điều hết sức cần thiết cho con cái sau này.  Nếu chúng ta không cầu nguyện cho các linh hồn và không tập cho con cái cầu nguyện cho các linh hồn thì khi chúng ta nằm xuống, ai sẽ cầu nguyện cho chúng ta?

Sinh Ơn Ích cho chính chúng ta: Cầu nguyện cho các linh hồn không những giúp các linh hồn mau hưởng phúc Thiên Đàng nhưng còn sinh ơn ích cho chúng ta.  Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta không những trở nên những người gần gũi với Thiên Chúa, là những người biết nghĩ đến và yêu thương người khác, là người sống vị tha và không ích kỷ.  Những việc làm này đều được Thiên Chúa ghi nhận và chúc phúc cho đời sống của chúng ta.

Niềm Vui cứu rỗi: Cầu nguyện cho các linh hồn thật sự mang rất nhiều hiệu quả thiết thực.  Chắc chắc các linh hồn trong luyện ngục sẽ được “rút ngắn” thời gian thanh luyện vì lời nguyện của chúng ta.  Chúng ta hãy thử tưởng tượng một ngày nào đó chúng ta được gặp anh chị em của chúng ta trên Thiêng Đàng và biết rằng chính những lời nguyện và hy sinh của chúng ta đã giải thoát họ sớm chốn Luyện Hình.  Khi chúng ta vào Thiêng Đàng rất nhiều linh hồn đến cảm ơn chúng ta vì những lời nguyện và hy sinh nhỏ chúng ta đã làm cho họ.

Rất dễ làm: Cầu nguyện cho các linh hồn không những rất dễ và lại còn có nhiều cách khác nhau.  Đọc kinh Vực Sâu, một vài kinh Kính Mừng hay một vài kinh Lạy Cha, ngắn hơn thì đọc kinh cầu các Linh Hồn (Chúng con cậy vì danh Chúa….) trước khi ngủ hay trong lúc đi bộ.  Sốt sáng hơn thì đọc một chuỗi mân côi cầu nguyện cho các Linh Hồn.  Chúng ta có thể xin lễ cầu nguyện cho các linh hồn và cùng hiệp thông với Linh mục trong Thánh Lễ đó.  Hy sinh, hãm minh và làm việc bác ái để cầu cho họ là những điều rất cần thiết.  Thăm viếng Nghĩa Trang và phần Mộ của người thân yêu đặc biệt là trong tháng 11, Mùng 2 Tết và ngày Giỗ của họ là những điều rất ý nghĩa và thiết thực.

Các Linh Hồn luôn mong chờ những lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé của chúng ta.

Lạy Nữ Vương Cát Minh, Xin cứu các linh hồn nơi chốn luyện tội.

Lm. Giuse Trần Thăng Hưng, O. Carm.

 LÁ THƯ NGỎ GỬI BÀ GÓA NGHÈO

Bà Đại Tâm kính mến!

Tôi là dân Galilê về thủ đô dự lễ.  Tình cờ tôi thấy Thầy Giêsu ca tụng tấm lòng to lớn của bà.  Vì thế tôi mạn phép đặt tên cho bà là Đại Tâm.  Bà hiểu tôi rồi chứ.  Bây giờ xin mời bà nghe tôi kể chuyện.

Ở ngoài Bắc, dân chúng say mê thầy Giêsu như một siêu sao.  Người đi đến đâu, thì dân đeo theo tới đó.  Người ta chen lấn nhau, để được Người đặt tay trị bệnh.  Lắm lúc Người không còn thời giờ ăn uống và nghỉ ngơi.  Có khi vừa ăn vừa giảng.  Giảng mải mê đến mức độ ổ bánh mì cầm ở tay, mà lâu lắm mới cắn được một miếng.  Khi nào đuối sức quá, thì Người phải trốn sang bên kia sông Giođan, hoặc lên tận miền cực Đông Bắc, vùng núi Hermon để nghỉ ngơi đôi chút.

Vừa về tới thủ đô, tôi vội vã đi tìm Thầy Giêsu.  Tìm mãi chả thấy.  Bỗng thấy Người ngồi trên bậc thềm.  Rất đăm chiêu.  Thấy người nghiêm nghị quá, tôi không dám lại gần, chỉ đứng xa xa mà chiêm ngưỡng.  Người quan sát thiện nam tín nữ bỏ tiền vào thùng công đức.  Dường như Ngài hiểu hết tâm tư của người dâng tiền.

Có những người Do Thái kiều từ nước ngoài trở về.  Quanh năm họ sống trên mảnh đất của người ngoại.  Hằng ngày họ giao tế với người không cắt bì.  Họ giàu lắm, nhưng lương tâm họ không lúc nào mà không cắn rứt.  Họ mang mặc cảm tội lỗi đầy mình.  Hôm nay về quê hương, họ bỏ tiền vào thùng công đức thật nhiều, vừa có ý đền tội, vừa có ý khoe: khoe đạo đức; khoe giàu sang.  Thầy Giêsu nhìn họ bằng nét mặt vô tư.

Có những bà mệnh phụ giàu sang: vòng vàng đeo rủng rỉnh; lại có vài cô hầu đi theo.  Họ đứng bên thùng tiền, nói chuyện với nhau thật rôm rả, moi tiền trong bóp ra một cách chậm rãi, bỏ tiền vào thùng một cách trang trọng và nhiều lần.  Khách bàng quan nhìn họ bằng cặp mắt thèm thuồng và kính trọng.  Nét mặt của Thầy Giêsu cứ vô tư.

Có những chàng thanh niên tay này cầm ổ bánh mì, miệng nhai nhóp nhép; tay kia cầm đồng tiền bỏ vội vào thùng, rồi quay ngoắt một cái.  Vừa chạy đi vừa cười toe toét, y như một trò chơi vô duyên.  Không ai nói gì, vì đấy là chuyện bình thường.  Thầy Giêsu cúi đầu, cắn môi tỏ vẻ buồn phiền.

Có một ông trung niên, khăn áo chỉnh tề, dõng dạc đi tới trước thùng tiền.  Mọi người lui ra để nhường chỗ.  Ông moi từ hầu bao ra bảy đồng tiền bóng láng, xếp một hàng ngay ngắn trên mặt thùng, rồi nhón từng đồng, nhẹ nhàng bỏ vào thùng.  Bỏ xong đồng tiền thứ bảy, ông dang tay cầu nguyện một lúc lâu, rồi trang trọng lui gót.  Mọi người cúi đầu chào.  Ông mỉm cười, giơ tay vẫy chào.  Thầy Giêsu xòe hai bàn tay bưng vội lấy mặt.  Dường như Ngài thổn thức…

Có một người đàn bà rụt rè đi tới.  Khăn áo lùng bùng, cũ kỹ, nhưng không tồi tàn.  Bà cầm giữa hai ngón tay một đồng xu mỏng dính, nhét vào kẽ thùng công đức, rồi thẹn thùng rút lui.  Thầy Giêsu đứng bật dậy, tập trung lập tức mười hai đệ tử đang đứng xớ rớ xung quanh đó.  Người dang tay chỉ về phía người đàn bà đang lủi vào đám đông, phấn khởi tuyên bố: “Đó là người dâng cúng nhiều nhất.  Người giàu có bỏ vào thùng nhiều tiền lắm, nhưng dù nhiều thì cũng chỉ là tiền lẻ trong sinh hoạt của gia đình thôi.  Còn bà góa ấy tuy chỉ bỏ vào thùng một đồng xu thôi, nhưng đồng xu ấy là tất cả những giọt mồ hôi của một ngày tất bật lao động, là nồi cơm mỏi mắt trông chờ của một gia đình.”

Mười hai đệ tử kiễng chân và rướn người để tìm người đàn bà ấy.  Còn tôi thì ba chân bốn cẳng, rượt theo người đàn bà ấy.  Người đàn bà ấy chính là bà đấy…

Tôi lặng lẽ và lẽo đẽo theo bà cho tới tận xóm ổ chuột.  Bà chui vào căn chòi tồi tàn.  Còn tôi thì đi từ đầu đến cuối xóm.  Nhà nào tôi cũng vào, để điều tra lý lịch của bà.  Tôi phải hiểu thật nhiều về bà, để hiểu thật nhiều về Thầy Giêsu của tôi.

Bà Đại Tâm kính mến!

Bây giờ bà đang lúi húi bên bếp lửa, trong cái chòi tồi tàn ở xóm ổ chuột.  Còn tôi thì đang ngồi xếp bằng trên giường nệm của một nhà trọ.  Tôi không muốn ăn, vì không thấy đói.  Tôi không muốn ngủ, vì lòng trí tôi không chịu ngưng đọng.  Tôi muốn nghĩ thật nhiều: nghĩ về Thầy Giêsu trong bối cảnh đại lễ tại thủ đô; nghĩ về bà, một người “Bần cư trung thị, vô nhân vấn” (người nghèo ở giữa chợ, chẳng ai thèm hỏi), thế mà lại được sư phụ Giêsu tôn vinh như một hoa hậu, như một siêu sao.

Ở ngoài Bắc dân chúng đeo theo Thầy Giêsu trùng trùng điệp điệp.  Thế mà hôm nay về thủ đô tôi thấy Ngài ngồi thơ thẩn một mình.  Ngài rảnh rỗi đến độ ngồi xem người ta bỏ tiền vào thùng.  Quần chúng đi lại nườm nượp, đi qua ngay trước mặt Ngài, mà cứ phớt lờ như không biết.  Tức quá, tôi mở ngay một cuộc điều tra.  Ra ngoài phố, gặp ai tôi cũng hỏi.  Hỏi từ ông kinh sư, đi đứng đàng hoàng như ông thiên triều, cho tới người hành khất ngồi co ro, dúm dó như con khỉ già sắp chết.  Chừng đó tôi mới hiểu.

Sau sự cố Thầy Giêsu cho ông Ladarô chui ra từ hầm mộ, nơi ông được an táng đã bốn ngày, thì uy tín của Thầy bao trùm trên mọi tâm tư của toàn thể dân cư ở thủ đô Giêrusalem.  Uy tín của Ngài lên cao bao nhiêu, thì uy quyền của thượng tế Caipha và Công nghị xuống thấp bấy nhiêu.  Bị dồn vào chân tường, Caipha ra vạ tuyệt thông cho bất cứ ai tin theo Thầy Giêsu.  Bị vạ tuyệt thông đồng nghĩa với bị truất quyền tín đồ và công dân Do Thái.  Một nỗi sợ bao trùm.  Mọi lương tâm áy náy.  Thương Thầy Giêsu quá, nhưng lại sợ vạ tuyệt thông quá thể.  Đành cắn răng, cúi mặt làm thinh.

Thầy Giêsu cô đơn giữa một rừng người hâm mộ.  Chuyện ngược đời.  Nhưng đời là thế và vẫn thế.  Tức quá, tôi đi tìm Thầy Giêsu và phỏng vấn Ngài.  Ngài không buồn không tủi, trả lời một cách bình thản: “Chúa Cha đã an bài hết rồi.  Tôi sẽ bị bắt, bị hành hạ, bị giết.  Nhưng ngày thứ ba tôi sẽ sống lại.”  Tôi nghe Thầy tâm sự mà như vịt nghe sấm.  Không dám hỏi, vì không muốn tỏ ra là mình dốt.  Tôi để đấy, để ngẫm nghĩ từ từ.  Sau chừng mười giây im lặng, tôi chuyển đề tài phỏng vấn sang hướng khác.

Tôi hỏi: “Tại sao một người đàn bà nghèo mạt chỉ bỏ vào thùng công đức một đồng xu quèn, mà Thầy hứng chí và ca tụng rùm beng làm chi vậy?”  Thầy âu yếm nhìn tôi và tâm sự rất lâu.  Giọng nói ôn tồn và ánh mắt trìu mến của Thầy làm tôi xúc động đến ứa lệ.

Bây giờ tôi mới biết Thầy yêu người nghèo da diết.  Thầy sống nghèo như người nghèo và với người nghèo để chia sẻ kiếp sống lầm than của họ.  Thầy tự đồng hóa với họ để dạy loài người một bài học: yêu người nghèo là yêu Chúa, khinh dể người nghèo là xúc phạm đến Chúa.  Ngài quyết tâm nâng đạo yêu người lên ngang tầm với đạo yêu Chúa.  Ngài kể lại cho tôi nghe dụ ngôn “Ngày thẩm phán cuối cùng.”

Con Người ngự trên ngai phán với người lương thiện rằng: “Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa.  Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc…”  Mọi người lương thiện đều trợn mắt lên tỏ vẻ bỡ ngỡ cực kỳ: “Chúa ơi, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, thấy Chúa khát mà cho uống đâu…”  Đức Vua từ trên ngai vui sướng dang tay, niềm nở giải thích ngay tức thời: “Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, thì là làm cho chính Ta.”  Người lành kéo nhau vào thiên đàng vừa đi vừa bỡ ngỡ nhìn nhau.

Sau đó Đức Vua dòm sang bên trái, gay gắt phán với bọn ác nhân rằng: “Hỡi quân bị nguyền rủa, hãy cút đi mà vào lò lửa đời đời dành sẵn cho Ác Quỷ.  Ngày xưa Ta đói mà không cho ăn; Ta khát mà không cho uống…” Hàng ngàn cánh tay vung lên phản đối ầm ĩ: “Chúng tôi có thấy Chúa bao giờ đâu mà Chúa bảo chúng tôi không cho Chúa ăn, không cho Chúa uống…?” Chúa nghiêm nghị trả lời: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những kẻ nhỏ nhất đây, thì là đã không làm cho Ta…”  Bọn ác nhân khóc òa lên một cách tuyệt vọng.

Bà Đại Tâm ơi, sau khi Thầy Giêsu ngỏ bày hết nỗi lòng của Ngài đối với người nghèo, Ngài xúc động nhắc đến bà, quý mến bà như cục vàng trong hũ, như ngàn hoa trên rừng Xuân.  Chỉ vì cái tấm lòng của bà: cao quý quá, chân thành quá.  Đối với Thầy Giêsu, cái tâm ấy là tuyệt vời.  Cái tâm ấy mà ẩn chứa trong thân phận nghèo khổ như bà, thì là trên tuyệt vời.

Bà Đại Tâm ơi! Mừng cho bà!

Lm Piô Ngô Phúc Hậu

NIỀM VUI KHI TRAO TẶNG

Thời nào cũng thế, người ta có thói quen nhận xét và đánh giá một người ở sự giàu có phong lưu, thể hiện qua phong cách chưng diện và đồ dùng.  Cũng vậy, trong thời đại hôm nay, khi mà nhiều người lấy kim ngân làm thước đo cho mọi giá trị, những nhận định về một người lại càng lầm lẫn hơn.  Người ta chú trọng đến sự giàu có bề ngoài mà ít để ý đến giá trị đích thực của một con người.  Lời Chúa hôm nay muốn giúp chúng ta nhìn rõ hơn, để rồi trong mối tương quan thường ngày, chúng ta trân trọng những giá trị cao cả, mà lại ở dưới một vỏ bọc xem ra là rất bình dị đơn sơ.

Lời Chúa hôm nay nói đến hai người phụ nữ góa bụa.  Một người ở thành Sarepta thời ngôn sứ Elia, một người thời Chúa Giêsu.  Mỗi người một cách, cả hai đều quảng đại và chân thành.  Trong truyền thống Do Thái thời xưa, người phụ nữ góa bụa bị coi như đồ bị chúc dữ (x. Tb 3,7-9).  Họ phải chấp nhận rất nhiều thiệt thòi trong đời sống hằng ngày và trong những sinh hoạt cộng đồng.  Góa bụa đã là điều đau khổ và bất hạnh, người đàn bà góa trong Tin Mừng còn được diễn tả là người nghèo.  Cái nghèo của bà được thể hiện qua cách bà len lén đến gần hòm tiền công đức của Đền Thờ.  Cái nghèo cũng thể hiện qua số tiền mà bà đã bỏ vào đó, chỉ có hai đồng tiền kẽm, trị giá bằng một phần tư đồng xu Rôma.  Tuy vậy, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, số tiền nhỏ mọn bà này dâng, lại là số tiền có giá trị lớn hơn cả.  Chúa Giêsu đã giải thích: vì bà này đã rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào hòm tiền công đức tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.  Chúng ta chú ý tới câu nhấn mạnh của Chúa ở chữ “tất cả” mà chúng ta vừa nghe.  Người đời vẫn nói: của cho không bằng cách cho.  Với hai đồng kẽm, người đàn bà góa nghèo đã dâng vào Đền thờ cả tấm lòng, kèm theo đức thờ phượng và tâm tình yêu mến.

Các nhân vật được nêu trong Bài đọc I và bài Tin Mừng thuộc hai thái cực đối lập, khi xét theo địa vị xã hội.  Một bên là những người biệt phái và những kinh sư, bên kia là những người đàn bà góa bụa nghèo khổ.  Biệt phái và kinh sư là những người uyên bác về trí tuệ, hoàn hảo trong tư cách thể hiện; những bà góa mang thân phận hẩm hiu, vừa nghèo về tiền bạc, lại không có chỗ trong các buổi hội họp và sinh hoạt cộng đồng.  Ấy vậy mà những người uyên bác lại bị Chúa trách mắng nghiêm khắc, và những người góa bụa bị mọi người quên lãng thì lại được Chúa khen.  Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước đều diễn tả Thiên Chúa là Đấng yêu thương bênh vực những người góa bụa, cô nhi và kẻ cô thân cô thế.  Ngài là chỗ dựa cho họ.  Các ngôn sứ và các tác giả thánh vịnh còn khẳng định rõ: ai đối xử bất công với những người thiệt thòi này sẽ bị Thiên Chúa báo oán.  Người phụ nữ quê ở Sarépta đã quảng đại với ngôn sứ Elia, đến nỗi chỉ còn một chút bột cuối cùng cũng dành cho vị ngôn sứ.  Lòng quảng đại của bà đã được Chúa thưởng công tức khắc.  Khi nhắc lại cách công đức của bà góa nghèo, Chúa Giêsu khẳng định: cùng với tặng vật, người cho cần có một tấm lòng.  Người muốn chúng ta nhìn nhận một người không dựa vào những gì là bề ngoài, nhưng nơi tấm lòng của họ.  Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay cũng thế, có những trái tim nhân hậu, những tấm lòng quả cảm và những nhân cách cao thượng được ẩn giấu nơi những bề ngoài đơn sơ chất phác và khiêm tốn bình dân.  Mọi người đều đáng tôn trọng quý mến, vì trước mặt Chúa, hết thảy đều bình đẳng.  Mọi người đều được dựng nên giống hình ảnh của Chúa.  Ai cũng được mời gọi sống thánh thiện, và sống thánh thiện tức là nên giống Chúa, vì Chúa là Đấng Chí thánh và là nguồn mạch của sự thánh thiện.

Lời Chúa hôm nay vừa lưu ý chúng ta hãy thay đổi cách nhận định về một con người hay một sự việc, vừa nhắc bảo chúng ta, nghĩa cử chia sẻ luôn có giá trị trước mặt Chúa và giúp bản thân chúng ta nên hoàn thiện.  Chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh.  Chúa dạy chúng ta: cho thì có phúc hơn nhận.  Những gì chúng ta giúp đỡ người bất hạnh, sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an thanh thản trong tâm hồn.  Nghĩa cử chia sẻ của chúng ta giống như lửa, càng cho đi, càng lan rộng mà không hề mất đi.  Niềm vui của những tấm lòng rộng rãi sẽ luôn tồn tại và được nhân lên mãi.

Tác giả thư Do Thái mời gọi chúng ta hãy chiêm ngưỡng Đức Giêsu Thượng tế.  Người đã hy sinh vì tội lỗi nhân loại.  Người đã mang trên thân mình tất cả những đau khổ đáng lẽ chúng ta phải chịu, để nhờ đau khổ của Người mà chúng ta được hạnh phúc và bình an.  Noi gương Chúa, chúng ta hãy hy sinh, chia sẻ, cho đi chính sức lực, thời gian, tinh thần, vật chất, để đem lại cho cuộc sống này nhiều niềm vui.

Kính thưa anh chị em, chúng ta đã bước sang tháng Mười một dương lịch, là tháng cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục.  Thiên Chúa là Đấng Chí thánh.  Con người muốn đến gần Chúa thì phải được thanh tẩy khỏi những gì bất xứng.  Những ai khi kết thúc cuộc đời trần thế, mà còn vương vấn tội nhơ, thì cần được thanh tẩy.  Luyện ngục cũng là bằng chứng về lòng thương xót của Chúa.  Ngài không nỡ trừng phạt các tội nhân, nhưng thanh tẩy họ để họ nên tinh tuyền, xứng đáng vào hưởng hạnh phúc vinh quang của Ngài.  Cầu nguyện cho những người đã khuất, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra sự mong manh của kiếp người.  Dù sang trọng giàu có hay nghèo hèn lận đận, cuộc sống cũng chỉ như một hơi thở thoáng qua, như một đoá hoa vô thường.  Con người chỉ sống một lần.  Nếu cuộc sống là một cuộc hành trình, thì hành trình nào cũng có đích điểm, tức là có hồi kết thúc.  Cầu nguyện và suy tư bên mộ những người thân, mỗi chúng ta hãy lắng nghe lời nhắn nhủ của những người đã khuất bóng.  Cuộc đời của họ có biết bao điều muốn nói với chúng ta.  Tiền nhân đã dạy: “Hổ chết để lại da, người ta chết để lại tiếng.”  Có những người sau cuộc sống trần gian, tên tuổi của họ được lưu mãi đến thiên thu.  Có những người khi sống độc ác gian hùng, tên họ cũng được nhắc lại, nhưng như một nỗi kinh hoàng ám ảnh.  Người tín hữu Công giáo tin rằng, những ai sống ngay chính thánh thiện, danh thơm của họ không chỉ lưu lại cho hậu thế, mà còn được Thiên Chúa khắc ghi vào sổ Sự Sống.  Tháng Mười một vừa là tháng thể hiện lòng hiếu thảo tri ân, cũng là lúc chúng ta suy tư về ý nghĩa cuộc đời.  Thông điệp của những nấm mộ, là lời mời gọi sống thánh thiện chân thành, trân quý mọi giá trị của cuộc sống và luôn sẵn sàng cho cuộc lên đường về với Vĩnh Cửu.

Một tác giả đã viết:  Khi một người chết đi, anh ta nắm trong tay chỉ những gì mình đã cho đi khi còn sống.  When a man dies he clutches in his hands only that which he has given away during his life time (Sưu tầm).

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nhớ: kiếp sống con người chỉ như làn gió thoảng qua.  Duy chỉ những đức hạnh và những việc thiện hảo là vĩnh cửu vững bền.  Xin cho chúng con luôn biết cậy dựa vào Chúa là lý tưởng và cùng đích của cuộc đời, để chúng con chiến thắng những cám dỗ, vượt qua mọi rào cản và trọn đời theo Chúa.  Amen.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

NGUỒN NƯỚC MẮT

Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh.  Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ.  Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.

Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang.  Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.

Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm.  Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang.  Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu.”

Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang.  Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.

Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.

Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:

Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.

Khám phá ra chân lý

Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết.  Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi.  Sự chết là một sự thật không cần bàn tới.  Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.

Bất cứ ai, rồi cũng phải chết.  Cái chết đáng sợ.  Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ.  Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.

Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.  Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó.  Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói.  Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.

Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.

Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.  Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ.  Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.

Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi.  Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh.  Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.  Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).

Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng.  Ai cũng phải chết.  Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ.  Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai.  Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục.  Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương.  Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng.  Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật.  Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.

Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang.  Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.

Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.

Khám phá ra hy vọng

Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về.  Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó.  Người đó cầu nguyện cho họ.  Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.

Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ.  Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc.  Người đau ốm mới cần.  Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ.  Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).

Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ.  Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.

Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương.  Họ sám hối.  Họ cảm thấy mình được tha thứ.  Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ.  Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ.  Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót.  Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.

Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt.  Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.

Khám phá ra chính mình

Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người.  Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn.  Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.

Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo.  Nhìn ảo về mình.  Nhìn ảo về những công việc của mình.  Nhìn ảo về người khác.  Nhìn ảo về cuộc đời.

Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:

Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.

Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương.  Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).

ĐGM Gioan B. Bùi Tuần

CÓ THỂ NÊN THÁNH BẰNG CON ĐƯỜNG SIÊU TỐC KHÔNG?

Do sức ép của công việc và quỹ thời gian hạn hẹp, nhiều người muốn cái gì cũng phải siêu tốc: ấm đun nước siêu tốc, xe siêu tốc; tốc độ của những chiếc máy vi tính, chiếc điện thoại, những con đường đều phải là siêu tốc.  Người ta quảng cáo các máy tập thể dục, thuốc giảm cân, giảm béo siêu tốc, nhưng người ta không hề nói gì đến những chế độ ăn kiêng kèm theo, khiến nhiều người cho rằng những chiếc máy và những viên thuốc đó là giải pháp không tốn công sức, thời gian.  Bữa ăn trong gia đình cũng phải chịu cảnh siêu tốc: cửa hàng tiện lợi, thức ăn chế biến sẵn tại siêu thị, thức ăn nhanh (fast food) được mua về cho gia đình để khỏi mất giờ chế biến, bữa cơm trong gia đình cũng vội vàng, tranh thủ thời gian.  Tuy nhiên, dù tranh thủ rút ngắn mọi thứ, kể cả bữa ăn cũng bị rút ngắn như thế, nhưng dường như người ta cũng không dành thêm được giờ nào cho gia đình và cho nhau.

Lối sống siêu tốc ngày hôm nay cũng đang ảnh hưởng trên suy nghĩ và đời sống đạo của các tín hữu.  Người ta đến với Chúa cũng siêu tốc, mất sự kiên trì trong cầu nguyện, mất sự bền bỉ, trung thành trong đời sống đức tin, trong thực hành đạo.  Nhiều người muốn có một con đường, một cách thức siêu tốc để nên thánh mà không mất nhiều thời gian, không phải đi qua những con đường gập ghềnh, gian khó tập luyện mà vẫn đạt được Nước Trời.  Như vậy, liệu có thể theo Chúa bằng con đường siêu tốc không?  Có thể nên thánh bằng những con đường, những phương tiện thoải mái không?

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, là tất cả những tín hữu đã hoàn tất tốt đẹp hành trình trần thế, đã về tới quê Trời trong niềm vui và hạnh phúc.  Các thánh không chỉ là những người được tôn phong, được kính nhớ, mà trong đó còn có cả những người thân của chúng ta, những người chưa bao giờ được tôn phong công khai, những người sống âm thầm không ai biết đến…, nhưng tất cả họ đã đạt tới mục đích của cuộc đời là hạnh phúc Nước Trời, đã nên thánh, thì đều được Giáo Hội mừng chung vào ngày hôm nay.

Mừng lễ Các Thánh, các bài đọc Lời Chúa cho chúng ta thấy một điều chắc chắn rằng: Sẽ không bao giờ có những con đường siêu tốc để nên thánh, cũng không thể có những con đường tắt để đạt tới Nước Trời.  Mà trái lại, muốn vào được Nước Trời, muốn đạt được hạnh phúc đời đời thì không có con đường nào khác ngoài con đường của Tin Mừng, con đường của Tám Mối Phúc.

Bài đọc một cho thấy, số những người đã hoàn tất hành trình trần thế đạt được Nước Trời là con số đông không thể đếm nổi, thuộc mọi nước, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ.  Họ đứng trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế mà tung hô, ca tụng Thiên Chúa.  Mặc áo trắng là hình ảnh cho thấy họ đã có một cuộc sống thanh sạch, đã được thanh luyện và không còn bận vướng, hoen ố bởi những tội lỗi, dục vọng và đam mê.  Cành lá thiên tuế là cành lá được trao cho những người chiến thắng.  Như thế chứng tỏ rằng, những người mặc áo trắng này đã trải qua những cuộc chiến đấu với ma quỷ, xác thịt, thế gian, đã trải qua những thử thách trong cuộc sống và đã chiến thắng.  Họ là những người từ trong đau khổ lớn lao mà đến.  Họ đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.  Họ là những con người trung thành với Con Chiên là Đức Giêsu Kitô, đã hết lòng yêu mến, gắn bó với Ngài, đã tẩy rửa cuộc đời mình bằng máu của Ngài, nên giờ đây, họ đã được trở nên tinh tuyền và được gia nhập vào hàng ngũ các thánh đến trình diện trước mặt Thiên Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho chúng ta con đường để nên thánh, để đạt tới hạnh phúc nước trời, đó là con đường của Tám Mối Phúc.  Không có niềm vui, hạnh phúc nào mà không phải đánh đổi bằng hy sinh, không có thành công nào mà không phải trả giá.  Cũng vậy, chúng ta sẽ không thể đạt được niềm vui và hạnh phúc Nước Trời nếu không chấp nhận hy sinh, cũng như không thể nên thánh mà không phải trả giá bằng sự kiên trì.  Tám Mối Phúc là những cách thức, là những con đường và là điều kiện bắt buộc cho tất cả những ai muốn tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời.

Tám Mối Phúc không phải là một thứ quảng cáo siêu tốc, không phải dạng mì ăn liền, mà là những đòi hỏi, buộc mỗi người phải kiên trì thực hiện từng ngày, từng ngày trong suốt cuộc đời.  Nó không phải là một sự buông chiều theo trào lưu dễ dãi của xã hội, mà là một thách thức, một đòi hỏi phải lội ngược dòng, phải dám sống khác, sống tốt hơn, sống siêu thoát, từ bỏ nhiều hơn.  Nếu như người đời ngày nay tìm kiếm sự giàu sang phú quý, con người bị quay quắt với ước mơ làm giàu, thì mối phúc thứ nhất đòi mọi người phải có tinh thần nghèo khó.  Đòi buộc này không có nghĩa là kẻ theo Chúa phải là những kẻ khố rách áo ôm, bữa no bữa đói, mà là tất cả mọi người, dù họ đang được thuận lợi giàu có, hay đang nghèo hèn khốn khó, thì cũng cần phải có một tâm hồn nghèo khó.

Người có tâm hồn nghèo khó là người khiêm nhường, cậy trông, tín thác vào Thiên Chúa, không tự cao tự đại khi thành công, cũng không thất vọng khi gặp thất bại.  Người có tâm hồn nghèo khó không để cho của cải vật chất làm chủ đời mình, cũng không để cho tiếng tăm, danh vọng điều khiển cuộc sống mình, nhưng vẫn luôn sống đơn giản, nghèo khó, biết quan tâm đến người khác để đồng cảm, thông cảm và sẻ chia.  Hơn nữa, người có tinh thần nghèo khó là người dám chọn Thiên Chúa là gia nghiệp, là tương lai, là hy vọng, là Đấng giải thoát cuộc đời của mình, dám để cho Thiên Chúa điều khiển và dẫn lối cuộc sống mình.  Như thế thì đòi hỏi của mối phúc thứ nhất không làm nghèo con người, nhưng trái lại, làm phong phú, giàu có trong tâm hồn của con người.

Cùng vậy, trong một xã hội đầy dẫy bạo lực, giết chóc, tranh chấp như ngày nay, chúng ta được mời gọi sống hiền lành.  Trong khi người đời tìm kiếm sự thoải mái dễ dãi, tìm kiếm những cuộc vui mau qua, thì chúng ta lại được mời gọi đón nhận những đau khổ trong tâm hồn để được Thiên Chúa ủi an.  Vì Thiên Chúa luôn để tai nghe tiếng kêu cầu của những người đau khổ trong tinh thần và trong thể xác, ra tay bênh đỡ những người cậy trông, tin tưởng vào Chúa.  Trong khi người đời chạy theo lợi nhuận, gian tham, dối trá, gian ác, bất công, dửng dưng, vô cảm, thì chúng ta được mời gọi tìm kiếm và khát khao sự công chính, nuôi dưỡng lòng xót thương trắc ẩn.  Trong khi xã hội cổ võ một lối sống buông thả, những quan hệ dễ dãi, sự hận thù trả thù, thì chúng ta được mời gọi để sống trong sạch, trở thành những người xây dựng hòa bình.

Như thế, con đường của Tám Mối Phúc không phải là con đường siêu tốc dễ dãi, cũng không phải là những chiếc xe gường nằm thoải mái.  Có người đặt vấn đề: Với dòng chảy như thác lũ của lối sống thực dụng, liệu người Kitô hữu có thể lội ngược dòng đời này hay không?  Chúng ta có thể nên thánh trong thế giới phàm tục hôm nay hay không?

Thưa, chắc chắn là có, chúng ta có thể lội ngược dòng và có thể nên thánh trong thế giới hôm nay, chỉ có điều là chúng ta có dám quyết định hay không mà thôi.  Lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay là một minh chứng cho chúng ta.  Vì có rất nhiều vị thánh không xa lạ với chúng ta, họ sống cùng thời, cùng hoàn cảnh với chúng ta và họ đã thành công, thì chúng ta, với ơn Chúa và sự cố gắng kiên trì, chúng ta cũng sẽ thành công.  Họ không chỉ là những linh mục hoặc tu sĩ, mà đa số họ là những người sống đời sống gia đình, họ cũng đông con nhiều cháu, cũng vất vả mưu sinh, có những người đã có những địa vị cao trong xã hội, có những người nổi tiếng, và có nhiều người cha người mẹ, người vợ người chồng rất đỗi bình thường, họ đã có quyết tâm, đã có chọn lựa đúng và họ đã thành công.

Chúng ta dám quả quyết rằng, chúng ta có thể thể nên thánh, có thể sống theo các Mối Phúc Thật dù có phải lội ngược dòng, vì chúng ta còn có Chúa luôn trợ giúp chúng ta, Ngài luôn ở bên để đồng hành, để tiếp sức cho chúng ta.  Ngài cho chúng ta lương thực bổ dưỡng là Thánh Thể của ngài, Ngài dùng Bí Tích giải tội để băng bó, an ủi, chữa lành chúng ta mỗi khi chúng ta bị thương tích.  Khi biết khiêm tốn đón nhận sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thành công.

Xin Các Thánh Nam Nữ trên trời phù hộ cho chúng ta trên hành trình trần thế này để chúng ta có thể đạt được Nước Trời và chia sẻ niềm vui, hạnh phúc Chúa ban cho người chiến thắng cùng với các Ngài.  Amen!

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Khi nói đến giới răn hay huấn lệnh là nói đến sự bó buộc.  Quả vậy, một huấn lệnh thường mang nội dung yêu cầu phải làm hoặc cấm làm một điều gì đó.  Như thế, phải chăng kính mến Chúa là một điều buộc?  Nếu coi việc kính mến Chúa là một điều buộc, thì chẳng còn phải là một tình yêu tự nguyện, mà khi không xuất phát từ tự nguyện, thì chẳng còn phải là tình yêu, hay có chăng thì đó chỉ là tình yêu gượng ép.

Bài đọc thứ nhất (sách Đệ nhị Luật) và bài Tin Mừng theo thánh Máccô hôm nay nói với chúng ta về các huấn lệnh.  Trong số các huấn lệnh của Thiên Chúa thời Cựu ước, ông Môisen đã nhấn mạnh tới một lệnh truyền căn bản: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái, cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài.”  Những lời trên đây thực ra không phải là một điều áp đặt.  Đây là những lời đề nghị hay một lời mời gọi, kèm theo lời hứa cho một tương lai tốt lành.  Người tin Chúa không bị ép buộc, nhưng khôn ngoan suy nghĩ để lựa chọn và quyết định: nếu yêu mến Chúa và tôn kính Ngài, thì họ sẽ được Chúa chúc lành cho trong mọi ngày của đời sống dương thế, được trường thọ và hạnh phúc.  Tác giả Thánh vịnh 17 (Phần Đáp ca) cũng diễn tả lý do yêu mến Chúa, là vì Ngài là sơn động cho ta trú ẩn.  Ngài là đá tảng, là chiến luỹ và là vị cứu tinh đối với những ai cậy trông phó thác nơi Ngài.

Hỡi Israen, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy, anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em.”  Qua những lời này, ông Môisen muốn khẳng định với những người Do Thái: những mệnh lệnh Chúa truyền dạy không thể chỉ được lắng nghe, nhưng phải được thực hành. Một số người Do Thái đạo đức quá chú trọng đến tuân giữ Lề luật một cách tỉ mỉ, mà lại lãng quên việc thực thi tinh thần của Lề luật.  Vì vậy, Chúa đã khiển trách họ: “Dân này chỉ tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).  Thực hành lời Chúa dạy là bảo đảm cho chúng ta được hạnh phúc đời này và đời sau.  Lời hứa miền đất tràn trề sữa và mật, trong truyền thống Do Thái, là niềm hy vọng nuôi dưỡng niềm tin của dân riêng Chúa đã chọn.  Đối với người Kitô hữu, đó chính là hạnh phúc đời đời Thiên Chúa ban cho những ai thực thi lòng mến Chúa yêu người.

Thực ra mến Chúa yêu người không phải là hai giới răn tách biệt, nhưng là một giới răn duy nhất, như hai mặt của một tấm huy chương.  Lòng mến Chúa phải được chứng minh bằng việc yêu người.  Tình mến mọi người phải được dựa trên nền tảng lòng mến Chúa, vì đó là lòng mến vô vị lợi, không dựa trên những tiêu chuẩn trần gian, không phân biệt và không biên giới.  Thánh Gioan đã khẳng định với chúng ta: ai nói mến Chúa mà không thực hành đức thương yêu với tha nhân thì là kẻ nói dối, vì tha nhân là những người nhìn thấy mà họ không thương yêu, thì làm sao họ mến Đấng mà họ không nhìn thấy?  (x. 1 Ga 4,20).

Người tín hữu có một mẫu gương về lòng mến hoàn hảo, đó là Đức Giêsu Kitô.  Người là vị tư tế thánh thiện, vô tội tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời.  Trên cây thập giá Đức Giêsu đã minh chứng tình mến đối với Chúa Cha và tình mến đối với nhân loại.  Tác giả thư gửi tín hữu Hípri đã chứng minh Chúa Giêsu là vị tư tế tối cao.  Ngày hôm nay, vị Tư tế đó vẫn đang chuyển cầu cho chúng ta (Bài đọc II).

Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất.  Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi.  Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng.”  Đây là lời kinh mà những người Do Thái đạo đức phải tụng mỗi ngày, để rồi lời ấy vang lên trong mọi giây phút của cuộc sống.  Lời ấy cũng là động lực chi phối mọi lời nói, hành vi và ý tưởng của những ai muốn tuân giữ lề luật.  Đây cũng là câu Lời Chúa được chọn để đọc trong giờ Kinh Phụng vụ vào tối thứ Bảy hằng tuần.  Xin cho lời kinh ấy luôn vang vọng trong tâm trí và cuộc đời chúng ta, để khởi đi từ lòng mến Chúa, chúng ta sẽ thực thi đức yêu người.

Hôm nay là ngày vọng lễ Các Thánh.  Các thánh là những người mến Chúa yêu người.  Các ngài đã trải qua nhiều gian nan thử thách, nhưng vẫn một lòng tín trung.  Có nhiều vị thà hy sinh mạng sống còn hơn là bỏ Đạo.  Có nhiều vị chấp nhận một cuộc sống trầm lặng trong suy tư cầu nguyện.  Có nhiều vị thánh đã trải qua một cuộc sống rất đơn sơ bình dị, như một người cha, một người mẹ trong gia đình, một công dân của xã hội, một người phong lưu hoặc một người nghèo khó.  Tất cả các thánh đều có một điểm chung: đó là lòng mến Chúa yêu người.  Thánh Phaolô đã khẳng định: Ai yêu thương, thì đã chu toàn lề luật (Rm 13,8b).  Nên thánh chính là thực thi giới răn mến Chúa yêu người.

Lạy Chúa là nguồn mạch sự thánh thiện, xin che chở nâng đỡ chúng con trong hành trình cuộc đời, cũng là hành trình nên thánh.  Amen.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU

(Lễ Kính hai thánh Tông đồ Simon và Giuđa Tađêô – October 28)

Đọc danh sách tên Nhóm Mười Hai mà Chúa Giêsu chọn trong số những người đi theo Người để đặt làm Tông đồ hẳn chúng ta kinh ngạc và khó tìm ra tiêu chí chọn tập thể cộng tác viên thân cận của Người.  Dĩ nhiên Chúa Giêsu không chọn gọi cách ngẫu nhiên hay tùy hứng nhưng cách ý thức trong sự tự do và tinh thần trách nhiệm.  Tin Mừng tường thuật: “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi lên núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm để cầu nguyện cùng Thiên Chúa.  Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6,12-13).

Dưới cái nhìn nhân loại, mười hai vị trong danh sách được liệt kê, hình như chẳng có một ai đáp ứng được nhiều tiêu chí để chọn vào hàng tu sĩ hay giáo sĩ của Giáo Hội Công Giáo ngày nay.  Về mặt học vấn thì xem ra chỉ một hai vị biết đọc, biết viết.  Về mặt đạo đức thì có lẽ cả tập thể mười hai đều dưới trung bình: không biết ăn chay và cũng chẳng biết cách cầu nguyện.  Tham lam chức quyền thì không sót một ai.  Ba năm theo Thầy thường tranh giành với nhau về cái chức làm đầu trong tập thể (x. Lc 9, 46).  Bên cạnh đó có nhiều vị lại có cá tính không mấy hay cách rõ nét.

Hai anh em nhà Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đã từng được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là “thiên lôi con” (Mc 3,17).  Và hôm nay, ngày 28 tháng 10 Giáo Hội kính nhớ hai vị là Simon và Giuđa Tađêô mà một trong hai có biệt danh là “quá khích.”  Người ta suy đoán là cả hai đều thuộc nhóm Zêlốt thời bấy giờ.  Nhóm Zêlốt được hình thành vào đầu thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên.  Tôn chỉ của nhóm này là đánh đuổi đế quốc Rôma để giành lại độc lập tự do cho dân tộc Do Thái đang bị đô hộ.  Họ dùng phương pháp “bạo lực cách mạng.”  Biện pháp phổ biến là ám sát các yếu nhân của chính quyền Rôma đang cai trị và những ai cộng tác với chính quyền đế quốc bằng thanh trủy thủ là chiếc gươm ngắn giấu trong mình.  Người ta đã từng xem nhóm này là “ông tổ” của chủ nghĩa khủng bố.  Hai thanh gươm mà Phêrô nói trong đêm Tiệc Ly hầu chắc là của hai ngài Simon và Giuđa xuất thân từ nhóm quá khích (x. Lc 22, 38).

Đối với loài người thì có rất nhiều sự trong nhiều trường hợp thì như là không thể thành hiện thực, nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều là có thể (x. Mt 19,26).  Không chỉ bằng quyền năng trong lời nói và hành động, nhưng Chúa Giêsu còn đặc biệt dùng tình yêu của mình mà giáo hóa các tông đồ.  Sức mạnh của tình yêu thật diệu kỳ.  Chính tình yêu của Thầy chí thánh đã làm cho các tông đồ đổi thay.  Hai vị “thiên lôi con” đã dần trở nên khiêm tốn và quảng đại.  Giacôbê là vị tử đạo đầu tiên trong tập thể Tông Đồ (Cv12,1-3).  Sau khi Chúa Giêsu về trời thì khi tháp tùng Phêrô đi rao giảng Tin Mừng, ngài Gioan, thiên lôi con lại rất khiêm nhu hiện diện như là người trợ lý đồng hành âm thầm (x. Cv 3-4).  Các chàng ngư phủ xứ Galilê từ những người đánh cá kiếm tiền dần chuyển thành người chinh phục tha nhân cách vô vị lợi.

Hai vị tông đồ “quá khích” cũng có đổi thay nhiều mặt.  Hai thanh gươm luôn kè kè bên mình, nhưng không còn thấy sử dụng phục vụ sự khủng bố hay điều gì sai trái.  Có lẽ trong vườn cây dầu chính Phêrô đã nhất thời mượn tạm một thanh để bảo vệ Thầy nhưng đã bị Thầy dạy xỏ ngay gươm vào vỏ (x. Mt 26, 52).  Tình yêu quyền năng của Thiên Chúa khi gặp được sự khiêm nhu biết phục thiện của con người thì sẽ trổ sinh nhiều hoa trái ngọt ngào.

Với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể.  Tuy nhiên sức mạnh của tình yêu dường như lại thúc thủ (bó tay) trước sự gian dối cố tình.  Không chỉ gian tham, ăn bớt tiền của quỹ chung mà Giuđa Iscariốt còn giả vờ tin vào Thầy để ở lại với tập thể.  Khi có nhiều người thấy chói tai trước lời mạc khải mình là Bánh Hằng Sống từ trời xuống và họ đã bỏ đi, kể cả nhiều môn đệ thì Chúa Giêsu đã hỏi nhóm Mười Hai: “Còn các con, các con có bỏ Thầy mà đi không?”  Phêrô đã tuyên xưng rằng “bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai vì Thầy có lời ban sự sống.”  Dù không tin nhưng ông Giuđa vẫn giả vờ tin rồi tiếp tục ở lại để tìm dịp thực hiện mộng vương bá, kể cả việc phản bội, bán rẻ Thầy mình (Ga 6, 67-71).

Mừng kính hai thánh Tông đồ Simon và Giuđa Tađêô, xin cho Kitô hữu chúng ta luôn vững tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa.  Dẫu cho còn đó nhiều vị trong tập thể nhóm tông đồ “chuyên biệt” còn nhiều sai lỗi và cả khuyết tật, nhưng với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa thì sự tốt đẹp sẽ lại đến cho Giáo hội và nhân trần.  Chỉ mong sao xin đừng để một ai quá gian tham cách hữu ý và kiên trì.  Xin cho tất cả chúng ta trong mọi bậc sống, mọi nhiệm vụ đảm đương và mọi hoàn cảnh biết luôn khiêm nhu phục thiện để tình yêu và ân sủng của Chúa canh tân chúng ta mỗi ngày, biến chúng ta thành khí cụ loan báo Tin Mừng cứu độ.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Nguồn: http://www.vietcatholic.net

LỢI ÍCH KHI BẠN ĐỌC KINH MÂN CÔI HẰNG NGÀY

Nếu bạn cảm thấy khó khi đọc kinh Mân Côi, hay không dễ dàng duy trì việc ấy hằng ngày, bảy điều bất ngờ dưới đây ắt hẳn sẽ là những động lực tích cực.

1. Bạn trở nên bớt ích kỷ hơn

Rõ ràng là khi yêu ai đó hay một điều gì đó với trọn cả con tim, bạn cảm thấy rất say mê và biết phải tương tác thế nào với ‘kẻ ấy.’  Thế nhưng, đôi khi khỏa lấp trọn vẹn những đòi hỏi của tình yêu ấy quả là điều không hề dễ dàng.  Đó là điều mà tôi cảm nhận được về việc đọc kinh Mân Côi.  Tôi yêu kinh Mân Côi và nhận chân kinh Mân Côi như một món quà vốn được trao tặng nhưng không.  Tôi thực sự tin tưởng vào sức mạnh của kinh Mân Côi.  Nhưng dành thời gian cho việc cầu nguyện với kinh Mân Côi ư?  Điều đó đòi hỏi tôi phải hy sinh và cho đi một khoảng thời gian, hay năng lượng vốn lẽ ra là dành để đầu tư cho chính mình.  Bởi vậy, cầu nguyện với kinh Mân Côi giúp chúng ta tái quy hướng về Chúa Kitô, Đấng giải thoát chúng ta thoát khỏi tình trạng tội lỗi và lòng yêu mình, và là người thầy kiên nhẫn dạy chúng ta biết cách kiềm chế những đòi hỏi ích kỷ của bản thân.

2. Bạn trở nên có kỷ luật hơn

Càng cầu nguyện với kinh Mân Côi, bạn càng muốn cầu nguyện nhiều hơn nữa.  Ơn ban này có được hệ tại ở những lần bạn vật lộn để cho tâm trí mình hoàn toàn thinh lặng và tập trung; tuy cảm thấy mệt mỏi nhưng bạn vẫn cố gắng duy trì việc cầu nguyện, hoặc tắt điện thoại để lần hạt trước khi đi ngủ.  Những hành vi kỷ luật như thế ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống của bạn.  Kỷ luật cũng giống như tập thể dục, bạn không thể nào trở thành vận động viên marathon trong lần chạy đầu tiên.  Nhưng bạn có thể xây dựng nó từng chút một theo thời gian.  Kinh Mân Côi giúp bạn thực hiện những bước đi bé nhỏ đó để hướng đến việc chọn Chúa là ưu tiên hàng đầu trong cuộc đời của bạn.  Ngay cả những ngày khi tình cảm hay tinh thần của bạn đang xuống dốc, việc đọc Kinh Mân Côi sẽ giúp vực dậy tâm hồn đang sầu não ấy, và nó cũng là một cách tuyệt vời để giữ lòng trung thành, làm tròn bổn phận với Chúa và với Đức Mẹ, và tuân theo một “quy tắc nhỏ” trong ngày của bạn.

3. Đức Mẹ sẽ vén mở những điều sâu nhiệm

Chắc rằng lúc còn nhỏ người ta thường nói sơ sài về kinh Mân Côi, hay đôi lúc người trên ép buộc bạn phải cầu nguyện theo cách mà họ cảm thấy đó hẳn là cách thức thánh thiện nhất.  Bạn cảm thấy chán nản, và chẳng thể hiểu nổi làm thế nào mà việc cầu nguyện bằng ‘chuỗi hạt’ ấy có thể mang lại điều gì tốt đẹp hoặc siêu việt, ngay cả khi bạn tin vào kết quả hiệu nghiệm đầy uy lực của nó.  Nhưng thực ra, khi cầu nguyện với kinh Mân Côi thường xuyên và chân thành, những chiều sâu tiềm ẩn vốn có ấy sẽ được vén mở.  Có lẽ, đó là một cái nhìn sâu sắc về một lĩnh vực trong cuộc sống mà bạn đang gặp khó khăn.  Đôi khi bạn cảm thấy mình đang hiện diện với Chúa Giêsu trong một khoảnh khắc nào đó trong cuộc đời của Ngài.  Đó cũng có thể là kinh nghiệm diễn ra thâm sâu trong lời cầu nguyện mà bạn cảm thấy mình thực sự ở đó trong khoảnh khắc của chính Mầu nhiệm.  Ắt hẳn luôn có điều gì đó mới mẻ cần được khám phá và luôn có điều gì đó tốt đẹp cần được tiết lộ.

4. Bạn có nhiều can đảm hơn

Khi bạn bắt đầu đặt trọn niềm tin tưởng, cuộc sống, thậm chí là cả con tim của mình vào tay Đức Mẹ qua chuỗi kinh Mân Côi, bạn sẽ bắt đầu hiểu Đức Mẹ là người thực tế, đơn giản và tuyệt vời như thế nào.  Mẹ chỉ muốn dẫn chúng ta đến với Chúa Giê-su, Mẹ yêu chúng ta rất nhiều với sự dịu dàng thực sự của một người mẹ tuyệt hảo, đến nỗi Mẹ được vinh dự lớn lao khi chúng ta trao phó những vấn đề của chúng ta cho Mẹ.  Những tâm hồn biết chạy đến với Mẹ để kêu xin Mẹ cứu giúp và tin tưởng rằng Mẹ sẽ nhận lời thì trong lòng họ sẽ cháy bùng ngọn lửa của lòng can đảm.  Bạn sẽ có biết bao can đảm khi biết rằng Mẹ đang ở ngay bên!  Thánh Maximilian Kolbe nói: “Tôi nhìn thấy Mẹ Maria ở khắp mọi nơi và tôi không thấy vấn đề khó khăn nào cả.

5. Một ngày sống của bạn sẽ bình an hơn

Có người nói rằng: “Kinh Mân Côi làm cho cả ngày của tôi bình an hơn, giống như Đức Maria luôn sẵn sàng trợ giúp tôi khi phải đối diện với những điều tồi tệ.  Mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn.  Tôi ý thức hơn về sự hiện diện của Chúa.”  Cầu nguyện với kinh Mân Côi không làm đau khổ biến mất, nhưng nó cung cấp cho bạn một vũ khí mạnh mẽ hơn để chiến đấu.

6. Bạn có thêm nhận thức trước khoảnh khắc bị cám dỗ

Một trong 20 mầu nhiệm của kinh Mân Côi là: “tiêu diệt sự ác, giảm thiểu tội lỗi và đánh bại gian tà.”  Theo kinh nghiệm của tôi, khi thường xuyên lần chuỗi mân côi, tôi nhận ra khoảnh khắc trước khi phạm tội chậm lại.  Điều này muốn nói rằng, nếu tôi muốn trì hoãn hoặc buôn chuyện chẳng hạn, tôi không chủ động làm điều đó.  Tôi nhận ra rằng những hành động đó bắt đầu bằng một cuộc trò chuyện trong đầu.  Tôi nhận thức rõ hơn về sự cám dỗ trước khi hành động, và có nhiều thời gian hơn để tôi cân nhắc xem liệu tôi có muốn thực sự làm điều đó hay không.  Và khi lần hạt Mân Côi, tôi bắt đầu nhìn cuộc đời mình qua lăng kính được hiệp thông với Chúa, và tôi bắt đầu thấy những gì Ngài muốn cho tôi là tốt và tôi cũng muốn điều đó.

7. Bạn bắt đầu đi vào mầu nhiệm Nhập Thể

Sức mạnh của chuỗi hạt nằm ở sự đơn giản.  Nó đơn giản đến mức có vẻ ngớ ngẩn đối với những con người thông thái.  Vì vậy, chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta cần phải tìm ra các giải pháp phức tạp, thông minh, kiểu khoa học đột phá để giải quyết các vấn đề phức tạp, thông minh, tầm cỡ khoa học cao siêu của chúng ta.  Chúng ta hãy nhìn sâu vào tới cùng tận của các vấn đề và tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể tìm ra giải pháp cho vết thương lớn như vậy.  Chúng ta không cần những điều ấy.  Thiên Chúa đến thế gian như một trẻ thơ bé nhỏ, yếu ớt và bơ vơ được sinh ra trong cảnh nghèo khó.  Kinh Mân Côi, đơn giản đến mức có thể được cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, là vũ khí cầu nguyện mạnh mẽ nhất mà chúng ta có.

Không có vấn đề gì, dù khó khăn đến đâu, dù là trần thế hay trên hết là thiêng liêng, trong đời sống cá nhân của mỗi người chúng ta, của gia đình chúng ta… mà Kinh Mân Côi không thể giải quyết được.”  Nữ tu Lucia Fatima.

Đó là bảy ơn ban cho chúng ta đến từ việc thường xuyên đọc kinh Mân Côi, nhưng còn vô số ơn nữa! Ơn thứ tám của bạn là gì?  Hãy chia sẻ với chúng tôi trong phần bình luận bên dưới nhé!

Nguyên tác: 7 Surprising Things That Happen When You Pray the Rosary More Often
Tác giả: Ruth Baker
Hv. Quốc Dũng s.j., dịch
Nguồn: https://dongten.net

XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY!

Ai trong chúng ta cũng dễ dàng cảm nhận được những thiệt thòi của người mù.  Họ không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời.  Họ cũng không cảm nhận được niềm vui nỗi buồn nơi khuôn mặt những người thân.  Thế giới đối với họ là đêm tối trường kỳ.  Tin Mừng hôm nay nói đến một người mù đứng ăn xin tại cổng thành Giêricô.  Trong lúc Chúa Giêsu và các môn đệ từ trong thành đi ra, Người đã trông thấy, và, trước lời van xin của anh, Chúa đã chữa cho anh để anh có thể nhìn thấy như bao người khác.

Nếu người mù thể lý đã thiệt thòi như thế, thì người mù thiêng liêng lại còn thiệt thòi hơn.  Đức Thánh Cha Benêđitô XVI đã trả lời câu hỏi của nhà báo người Đức, ông Peter Seewald: “Ai chỉ biết tin vào những gì mắt trông thấy, thì người đó mù.”  Vị Giáo Hoàng người Đức còn diễn giải thêm về khẳng định này: “bởi vì người đó đã tự hạn chế mình vào một khoảng chân trời hạn hẹp, và không còn nhìn ra được cái cơ bản nữa.  Có ai thấy được trí khôn mình đâu.  Chính những cái quan trọng nền tảng ta không thể thấy thuần bằng mắt” (Thiên Chúa và Trần thế, Tr 23).

Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mác-cô diễn tả anh mù như một người bị gạt ra bên lề xã hội: anh là một kẻ ăn xin, ngồi bên vệ đường.  Khi anh cố gào lên để có ý cho vị Ngôn sứ có tên là Giêsu nghe thấy, thì bị người ta mắng át đi, bởi anh chẳng là gì trong một đám đông ồn ào náo nhiệt.  Anh chỉ là một chấm nhỏ li ti trong bức tranh “chợ đời.”  Tuy vậy, cũng dưới ngòi bút của thánh Mác-cô, anh mù này lại có một cái nhìn sáng suốt.  Trong đám đông hỗn độn ấy, anh nhận ra vị Ngôn sứ đang đi ngang qua là con vua Đavít, điều mà không mấy người trong đám đông hỗn độn ấy nhận ra.  “Con vua Đavít là một danh xưng mà truyền thống Do Thái vẫn sử dụng để diễn tả Đấng Messia.

Thì ra, những người có con mắt sáng trong đám đông hôm ấy ở cổng thành Giêricô lại không nhìn thấy sứ mạng của Đức Giêsu.  Hơn thế nữa, họ còn đầy thành kiến và khinh thường đối với người mù ăn mày bên vệ đường.  Một cách nào đó, họ là những “người mù,” vì họ chỉ công nhận những gì mà họ nhìn thấy bằng con mắt thể lý.  Thánh Mác-cô kể lại hai phép lạ Chúa chữa người mù.  Trường hợp thứ nhất ở chương 8, câu 22 đến câu 26.  Người được chữa lành là người mù ở Bết-sai-đa.  Phép lạ chữa người mù lần thứ nhất đi liền với những lời cảnh báo phải thận trọng đối với men Pharisiêu và men Hêrôđê.  Chắc chắn thánh Mác-cô muốn khẳng định với chúng ta: quan niệm lầm lạc và ngây thơ trước những cám dỗ chính là một tình trạng mù thiêng liêng nguy hiểm.  Nếu chúng ta đọc trình thuật Chúa Giêsu chữa người mù bẩm sinh trong Tin Mừng Thánh Gioan thì sẽ thấy ngoạn mục hơn nữa (x. Ga 9,1-41).  Người này mù về thể lý, nhưng tinh thần lại hết sức tinh tường và khôn ngoan.

“Lòng tin của anh đã cứu anh!”  Đức tin là điều kiện cần thiết để được hưởng phép lạ.  Đức tin cũng mở mắt để chúng ta nhìn thấy những điều kỳ diệu Chúa đã và đang làm trong lịch sử cũng như trong đời sống cá nhân của mỗi chúng ta.  Tác giả Thánh vịnh 125 mời chúng ta hãy nhận ra những điều kỳ diệu ấy trong biến cố Thiên Chúa giải phóng dân Israen khỏi ách nô lệ Babylon, đưa người Do Thái về với quê hương xứ sở.  Đó cũng là sứ điệp hy vọng mà ngôn sứ Giêrêmia gửi đến cho người Do Thái lưu đày: “Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất…  Chúng trở về nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã,” Lời của vị ngôn sứ như một tiếng thét vui mừng trước những điều kỳ diệu Thiên Chúa sẽ thực hiện vì yêu thương dân Ngài.  Sau những năm tháng lưu đầy đau khổ nhục nhằn, Thiên Chúa sẽ giải phóng dân Ngài.  Những người tha hương sẽ được về với quê cha đất tổ.  Trong số đó, có cả những người đui mù, què quặt và bệnh tật (Bài đọc I).

Khi chiêm ngưỡng những kỳ công của Chúa, người tín hữu được mời gọi kể lại hay loan báo những điều tốt lành Chúa đã làm.  Người mù ở thành Giêricô, sau khi được Chúa cho sáng mắt, đã đi theo Chúa.  Cuộc đời anh từ nay đã sang trang.  Trước đây, anh ước ao được sáng mắt để có cuộc sống như mọi người.  Nay, khi mắt đã sáng, anh quyết tâm đi theo Chúa Giêsu.  Anh nhận Người là lý tưởng của đời anh.  Anh đã trở thành môn đệ của Người.  Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, hay còn gọi là Khánh nhật truyền giáo.  Chúng ta hãy ý thức bổn phận loan báo Tin Mừng của người tín hữu.  Truyền giáo là sứ mạng của Giáo Hội.  Truyền giáo cũng là sứ mạng của mỗi người tín hữu.  Truyền giáo không phải chỉ là những thừa sai lên đường đến những xứ sở xa xôi, cũng không chỉ là những nhà giảng thuyết uyên thâm lỗi lạc, mà còn là những nghĩa cử sẻ chia, những tâm tình thân ái mà chúng ta dành cho nhau trong cuộc sống thường ngày.

“Xin cho con được thấy!”  Đó là lời van xin của anh mù, đang ngồi ăn xin bên vệ đường, lối vào thành Giêricô.  Đó cũng là lời cầu xin của chúng ta để nhận ra tình thương của Ngài đang ấp ủ đồng hành chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế.  Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót.  Ngài tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.  Chúa Giêsu là thày Thượng tế vĩnh viễn theo phẩm hàm Menkisêđê sẽ chuyển cầu cho chúng ta trước tòa Chúa Cha (Bài đọc II).

“Đời người giống như việc đi đường vậy, một bên là gian khổ, một bên là cảnh đẹp.  Ánh mắt bạn phóng được đến đâu, đó chính là cảnh giới của cuộc đời bạn.  Nếu thường xuyên nhìn thấy những người ưu tú hơn mình, điều đó cho thấy bạn đang trên đường lên dốc; Còn nếu thường xuyên nhìn thấy những người không bằng mình, điều đó cho thấy bạn đang xuống dốc và người khác đang phải cố gắng để lên dốc.  Thay vì oán thán, thà thay đổi cách nghĩ, mọi chuyện sẽ bớt nặng nề đi rất nhiều!” (Sưu tầm)

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

SATAN GIẢNG VỀ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI

Satan Giảng Về Tràng Hạt Mân Côi Cha P. Candido, một linh mục có quyền năng trừ quỉ nổi tiếng ở Roma.  Đây là chuyện đã xảy ra khi ngài làm phép trừ quỉ cho Giovanna: Chúng tôi đang lần hạt, thì Giovanna giằng lấy cỗ tràng hạt, vừa bứt xé ra từng khúc, vừa rít lên: “Coi đây, ta làm gì với các ngươi và với việc sùng kính của các mụ già!”

Lúc đó, cha Candido đeo vào cổ Giovanna một xâu chuỗi lớn, nhưng chị ta không thể chịu nổi, cứ ngoắc đầu và cổ tứ tung, sặc sụa giận dữ.

Cha Candido thách thức: hẳn ngươi sợ việc sùng kính của các bà già chắc?

Satan hét lên: nó thắng tao.

Cha nói tiếp: bởi vì ngươi đã dám xúc phạm đến tràng hạt Mân Côi của Đức Maria, bây giờ ngươi phải ca tụng tràng hạt ấy.  Nhân Danh Thiên Chúa, hãy trả lời: “Phép tràng hạt Mân Côi có quyền phép không?”  Nó trả lời: nó quyền phép trong mức độ người ta đọc nó cách tử tế.  Làm sao để đọc nó cách tử tế?  Phải biết chiêm ngắm.  Chiêm ngắm là thế nào?  Chiêm ngắm là thờ phượng.  Nhưng, người ta không được thờ Đức Maria?  Phải, đúng thế, song Người cũng đáng thờ lắm!  Rồi nó cầm lấy một hạt trong xâu chuỗi và nói: mỗi hạt là ánh sáng, và phải đọc cách tử tế, sao cho không một tia sáng nào của ánh sáng đó bị mất đi.  Satan đã trở thành một người giảng bất đắc dĩ và ngược với ý muốn của nó về quyền phép của tràng hạt Mân Côi.

Cầu nguyện có thể thay đổi não trạng của chúng ta.  Một đời sống thực sự cầu nguyện sâu xa là một đời sống cải biến không ngừng.

Cầu nguyện là chìa khóa của mọi sự, đó là điều Đức Mẹ làm ở Mễ Du.  Quan trọng là phẩm chất của cầu nguyện, như trên đã nói.  Chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống.  Chúng ta phải cầu nguyện với đức tin sống động.  Cầu nguyện tự đáy lòng, với tất cả con tim.

Cầu nguyện phải trở thành một niềm vui: hiện ra ở Mễ Du, sự có mặt ở đấy của Mẹ chỉ có nghĩa là: để dạy chúng ta cầu nguyện.  Trước tiên, Mễ Du là “trường dạy cầu nguyện”, sau đó “trường học sống thánh thiện.”  Ở “trường” này, Đức Mẹ dạy ta cách “cầu nguyện với cả trái tim,” tức là với tình yêu mến. (25-2-1989 và nhiều lần khác nữa).  “Các con thân mến, không tình yêu, các con không thể làm được gì cho nên cả.” (29-5-1986, số 604).  Tình yêu là “động lực” cho tất cả mọi sự.  Không tình yêu, chúng ta thực sự không sống.  Bởi thế, chúng ta không thể cầu nguyện nếu không có tình yêu.  Trái tim là biểu hiệu của tình yêu.  Cầu nguyện với cả trái tim có nghĩa là: đặt tình yêu lên hàng đầu khi bạn cầu nguyện.  Muốn cầu nguyện với trái tim, ta phải có một quyết định: tôi quyết định dẹp tất cả mọi việc, mọi lo toan, mọi suy nghĩ khác… sang một bên, tôi nhất định tập trung tâm trí vào việc cầu nguyện mà thôi.

Tôi quyết định phó thác toàn thân và đời sống tôi cho Thiên Chúa.  Như thế mới là cầu nguyện với cả con tim!  Như thế, nhờ cầu nguyện, chúng ta sẽ đánh bại quyền lực Satan, sẽ được hòa bình và cứu rỗi cho linh hồn chúng ta: “Các con dư biết Mẹ yêu thương các con và Mẹ tới đây cũng chỉ vì yêu thương, để Mẹ chỉ cho các con thấy con đường bình an và sự cứu rỗi cho linh hồn các con.  Mẹ muốn các con nghe lời Mẹ và đừng để Satan quyến rũ các con.  Satan rất mạnh mẽ, bởi vậy, Mẹ yêu cầu các con hãy dâng hiến tất cả những lời cầu nguyện cho Mẹ, để cứu những kẻ đang bị chi phối dưới ảnh hưởng của nó.  Hãy làm chứng bằng đời sống các con.  Hãy hi sinh mạng sống của các con cho nhân loại được cứu rỗi…  Do đó, hỡi các con nhỏ, đừng sợ hãi.  Nếu các con cầu nguyện, Satan không thể làm hại các con dù chỉ một tơ tóc, vì các con là con Thiên Chúa và Người đang trông nom các con.  Cầu nguyện và luôn luôn cầm trong tay tràng hạt Mân Côi như một dấu hiệu cho Satan biết rằng các con thuộc về Mẹ.” (25-2-1988, số 659).

Cầu nguyện phá tan quyền lực của Satan, và nếu chúng ta cầu nguyện, nó không thể làm hại chúng ta.  Đó là lý do tại sao, Kitô hữu không sợ hãi trước tương lai, trừ phi họ không cầu nguyện.  Và nếu họ không cầu nguyện, thử hỏi họ còn là Kitô hữu nữa không?  Nếu chúng ta không cầu nguyện, đương nhiên chúng ta sẽ đâm mù quáng trước nhiều điều, chúng ta không thể phân biệt đâu là đúng, đâu là sai.  Chúng ta đánh mất trọng tâm, mất thăng bằng.  Đúng vậy!  Cầu nguyện là chiến đấu với các quyền lực tối tăm, với Satan: “Hãy cầu nguyện để chống lại Satan…  Hãy khoác lấy áo giáp để chống lại nó… và với chuỗi Mân Côi trong tay, các con hãy chiến thắng nó.” (8-8-1985, số 563).  “Áo giáp chống Satan” chính là sức mạnh của lời cầu nguyện của ta.  Thế mà phần chúng ta, Đức Mẹ bảo nhiều lần: “Các con không đủ sức chống lại các tấn công của Satan, các con không có khả năng chu toàn các bổn phận của mình, vì các con cầu nguyện quá ít.” (9-6-84, số 388 + 510).  Cầu nguyện có một mãnh lực hầu như vô biên vì nó mặc lấy chính quyền lực của Thiên Chúa, nên: “Nhờ ăn chay và cầu nguyện, người ta có thể chặn đứng chiến tranh và thay đổi các tai họa của định luật thiên nhiên.” (21-7-1982).  “Trong cầu nguyện, các con sẽ tìm được… phương cách để ra khỏi các nghịch cảnh tưởng chừng như không có lối thoát.” (29-3-1985, số 548).  Lời Mẹ nói trên về quyền lực của cầu nguyện và ăn chay để ngăn chận chiến tranh không phải là một phát minh mới của Mẹ đâu.  Chúng ta đã nghe thấy biết bao lần thuật lại trong Cựu Ước về điều này.  Chỉ cần đọc một tích ở sách Sử biên II, chương 20. 1-24, (x. trích đăng trong Bài đọc Kinh sách, thường niên, tuần 15, thứ 6): Nghe tin một đạo quân nghịch đông đảo đến vây đánh, Vua Giô- sa-phát hoảng sợ.

Vua kêu gọi toàn thể người Giuđa ăn chay, và tập họp toàn dân lại kêu cầu cùng Chúa.  Chính Vua cũng đứng giữa cộng đoàn lớn tiếng cầu nguyện: “Lạy Yavê Thiên Chúa, Chúa nắm trong tay uy quyền và sức mạnh… Chúa đã ban cho dòng dõi Abraham đất này, và trên đất này đã xây một Thánh điện kính Danh Ngài… Chúng con đứng trước Đền thờ này đây, trước Nhan Ngài… trong cơn cùng khốn, chúng con kêu lên Ngài, để được Ngài lắng nghe và cứu giúp chúng con.”  Thần Khí Yavê xuống trên một người trong dân và nói tiên tri rằng Thiên Chúa đã nhậm lời, ông nói: “Các ngươi đừng sợ… vì cuộc chiến này không phải là của các ngươi nhưng là của Thiên Chúa.  Trong cuộc chiến này, các ngươi không phải chiến đấu… cứ đứng mà xem Thiên Chúa, Đấng ở với các ngươi, sẽ giải thoát các ngươi như thế nào!”  Nghe vậy Vua và cả toàn dân sấp mình xuống trước mặt Chúa mà thờ lạy.  Sáng mai dân xếp thành hàng trận và đi vào sa mạc đối đầu với địch quân.  Thấy dân đi như thế, Vua đứng ra và nói: “Toàn dân hãy nghe ta, Đức Yavê là Thiên Chúa chúng ta, cứ tin tưởng vào Ngài, các ngươi sẽ tồn tại, cứ tin lời các tiên tri của Ngài, các ngươi sẽ chiến thắng!”  Vua còn cắt đặt những người mặc phẩm phục thánh, vừa đi trước quân binh vừa ca hát ngợi khen Chúa: “Hãy ngợi khen Chúa, vì muôn ngàn đời Ngài vẫn giữ trọn tình thương.”  Khi họ cất tiếng reo mừng và ca ngợi thì Thiên Chúa gieo rắc những mâu thuẫn đối nghịch vào giữa hàng ngũ quân địch, khiến chúng đâm ra tự sát hại lẫn nhau.  Khi tới một nơi cao để có thể nhìn xuống sa mạc được, quân binh Giuđa thấy đám địch quân bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma đầy tử thi nằm la liệt trên mặt đất, không một tên nào sống sót.

Năm 1991 là năm xảy ra nội chiến tàn bạo khủng khiếp bên Nam Tư (cũ).

Ngày 10-12-91, trong khi một nhóm người sốt sắng ăn chay, cầu nguyện dưới sự hướng dẫn của cha Slavko, thì cô Marija đến thăm và trao cho họ thông điệp này của Đức Mẹ: “Các con thân yêu!  Chấm dứt chiến tranh, đối với Mẹ là điều quá dễ dàng, nếu có thêm nhiều người cầu nguyện như các con đang làm bây giờ.” (R. Laurentin, Dern. Nouv. no 11, tr.11).  Tức là nếu chiến tranh cứ tiếp diễn, không dập tắt được, đó là vì không đủ người cầu nguyện và cầu nguyện như nhóm các người cầu nguyện ấy đang làm.  Cầu nguyện phải là cái gì sống động và hoạt động, để có thể trở thành cầu nguyện trong niềm vui.  Không thật là một đời sống thiêng liêng, nếu không có niềm vui: “Bữa nay, Mẹ kêu gọi các con hãy năng động trong cầu nguyện.  Cầu nguyện sẽ là nỗi vui: nếu các con bắt đầu cầu nguyện và mở lòng ra, các con sẽ không nhàm chán vì các con sẽ thấy vui thích cầu nguyện.”  (20-3-1986, số 594).  Nhưng điều cần là chúng ta phải bắt đầu, phải quyết tâm cầu nguyện.  Rồi Thiên Chúa sẽ hướng dẫn ta.  Nào hãy bắt đầu!  Hãy đem cầu nguyện vào đời ta: “Chớ gì cầu nguyện trở nên cuộc sống các con.  Hãy tận hiến thời giờ cho Chúa Giêsu và Ngài sẽ ban cho các con tất cả những gì các con tìm kiếm.” (số 646).  “Cầu nguyện trở thành cuộc sống,” điều đó có nghĩa là làm sao cho cầu nguyện trở thành hoạt động sẽ đem sự sống thật vào trong cuộc sống các bạn, sẽ làm cho các bạn sống động, thật sự sống động bằng sự sống của chính Thiên Chúa.

Biết bao người tín hữu kéo lê cuộc sống nhạt nhẽo, trống rỗng… không hề có chút tiến bộ nào đến gần Thiên Chúa hơn, mặc dù họ đi lễ hằng ngày, chịu khó nghe giảng…, chỉ vì họ cầu nguyện chiếu lệ, đọc cho mau xong rồi để làm những việc họ thích.  Đừng như vậy, Mẹ nhắc: “Các con hãy nói: Bây giờ, đối với tôi, không có gì quan trọng bằng cầu nguyện!”  Mỗi khi ta hấp tấp đọc kinh, cầu nguyện cho lẹ, mau mau rồi để làm việc này việc nọ, chínhh lúc ấy ta hãy “thắng” (phanh) mình lại, và lấy lời Mẹ dạy trên đây mà nhủ mình: “Không!  Giờ này là lúc tôi phải cầu nguyện và cầu nguyện với tất cả trái tim, vì không có việc gì quan trọng cho bằng việc cầu nguyện!  Mọi việc khác cứ để đó, cầu nguyện xong rồi hãy tính.”

Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, DCCT
Nguồn: http://mancoi.net