CÓ THỂ NÊN THÁNH BẰNG CON ĐƯỜNG SIÊU TỐC KHÔNG?

Do sức ép của công việc và quỹ thời gian hạn hẹp, nhiều người muốn cái gì cũng phải siêu tốc: ấm đun nước siêu tốc, xe siêu tốc; tốc độ của những chiếc máy vi tính, chiếc điện thoại, những con đường đều phải là siêu tốc.  Người ta quảng cáo các máy tập thể dục, thuốc giảm cân, giảm béo siêu tốc, nhưng người ta không hề nói gì đến những chế độ ăn kiêng kèm theo, khiến nhiều người cho rằng những chiếc máy và những viên thuốc đó là giải pháp không tốn công sức, thời gian.  Bữa ăn trong gia đình cũng phải chịu cảnh siêu tốc: cửa hàng tiện lợi, thức ăn chế biến sẵn tại siêu thị, thức ăn nhanh (fast food) được mua về cho gia đình để khỏi mất giờ chế biến, bữa cơm trong gia đình cũng vội vàng, tranh thủ thời gian.  Tuy nhiên, dù tranh thủ rút ngắn mọi thứ, kể cả bữa ăn cũng bị rút ngắn như thế, nhưng dường như người ta cũng không dành thêm được giờ nào cho gia đình và cho nhau.

Lối sống siêu tốc ngày hôm nay cũng đang ảnh hưởng trên suy nghĩ và đời sống đạo của các tín hữu.  Người ta đến với Chúa cũng siêu tốc, mất sự kiên trì trong cầu nguyện, mất sự bền bỉ, trung thành trong đời sống đức tin, trong thực hành đạo.  Nhiều người muốn có một con đường, một cách thức siêu tốc để nên thánh mà không mất nhiều thời gian, không phải đi qua những con đường gập ghềnh, gian khó tập luyện mà vẫn đạt được Nước Trời.  Như vậy, liệu có thể theo Chúa bằng con đường siêu tốc không?  Có thể nên thánh bằng những con đường, những phương tiện thoải mái không?

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, là tất cả những tín hữu đã hoàn tất tốt đẹp hành trình trần thế, đã về tới quê Trời trong niềm vui và hạnh phúc.  Các thánh không chỉ là những người được tôn phong, được kính nhớ, mà trong đó còn có cả những người thân của chúng ta, những người chưa bao giờ được tôn phong công khai, những người sống âm thầm không ai biết đến…, nhưng tất cả họ đã đạt tới mục đích của cuộc đời là hạnh phúc Nước Trời, đã nên thánh, thì đều được Giáo Hội mừng chung vào ngày hôm nay.

Mừng lễ Các Thánh, các bài đọc Lời Chúa cho chúng ta thấy một điều chắc chắn rằng: Sẽ không bao giờ có những con đường siêu tốc để nên thánh, cũng không thể có những con đường tắt để đạt tới Nước Trời.  Mà trái lại, muốn vào được Nước Trời, muốn đạt được hạnh phúc đời đời thì không có con đường nào khác ngoài con đường của Tin Mừng, con đường của Tám Mối Phúc.

Bài đọc một cho thấy, số những người đã hoàn tất hành trình trần thế đạt được Nước Trời là con số đông không thể đếm nổi, thuộc mọi nước, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ.  Họ đứng trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế mà tung hô, ca tụng Thiên Chúa.  Mặc áo trắng là hình ảnh cho thấy họ đã có một cuộc sống thanh sạch, đã được thanh luyện và không còn bận vướng, hoen ố bởi những tội lỗi, dục vọng và đam mê.  Cành lá thiên tuế là cành lá được trao cho những người chiến thắng.  Như thế chứng tỏ rằng, những người mặc áo trắng này đã trải qua những cuộc chiến đấu với ma quỷ, xác thịt, thế gian, đã trải qua những thử thách trong cuộc sống và đã chiến thắng.  Họ là những người từ trong đau khổ lớn lao mà đến.  Họ đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.  Họ là những con người trung thành với Con Chiên là Đức Giêsu Kitô, đã hết lòng yêu mến, gắn bó với Ngài, đã tẩy rửa cuộc đời mình bằng máu của Ngài, nên giờ đây, họ đã được trở nên tinh tuyền và được gia nhập vào hàng ngũ các thánh đến trình diện trước mặt Thiên Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho chúng ta con đường để nên thánh, để đạt tới hạnh phúc nước trời, đó là con đường của Tám Mối Phúc.  Không có niềm vui, hạnh phúc nào mà không phải đánh đổi bằng hy sinh, không có thành công nào mà không phải trả giá.  Cũng vậy, chúng ta sẽ không thể đạt được niềm vui và hạnh phúc Nước Trời nếu không chấp nhận hy sinh, cũng như không thể nên thánh mà không phải trả giá bằng sự kiên trì.  Tám Mối Phúc là những cách thức, là những con đường và là điều kiện bắt buộc cho tất cả những ai muốn tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời.

Tám Mối Phúc không phải là một thứ quảng cáo siêu tốc, không phải dạng mì ăn liền, mà là những đòi hỏi, buộc mỗi người phải kiên trì thực hiện từng ngày, từng ngày trong suốt cuộc đời.  Nó không phải là một sự buông chiều theo trào lưu dễ dãi của xã hội, mà là một thách thức, một đòi hỏi phải lội ngược dòng, phải dám sống khác, sống tốt hơn, sống siêu thoát, từ bỏ nhiều hơn.  Nếu như người đời ngày nay tìm kiếm sự giàu sang phú quý, con người bị quay quắt với ước mơ làm giàu, thì mối phúc thứ nhất đòi mọi người phải có tinh thần nghèo khó.  Đòi buộc này không có nghĩa là kẻ theo Chúa phải là những kẻ khố rách áo ôm, bữa no bữa đói, mà là tất cả mọi người, dù họ đang được thuận lợi giàu có, hay đang nghèo hèn khốn khó, thì cũng cần phải có một tâm hồn nghèo khó.

Người có tâm hồn nghèo khó là người khiêm nhường, cậy trông, tín thác vào Thiên Chúa, không tự cao tự đại khi thành công, cũng không thất vọng khi gặp thất bại.  Người có tâm hồn nghèo khó không để cho của cải vật chất làm chủ đời mình, cũng không để cho tiếng tăm, danh vọng điều khiển cuộc sống mình, nhưng vẫn luôn sống đơn giản, nghèo khó, biết quan tâm đến người khác để đồng cảm, thông cảm và sẻ chia.  Hơn nữa, người có tinh thần nghèo khó là người dám chọn Thiên Chúa là gia nghiệp, là tương lai, là hy vọng, là Đấng giải thoát cuộc đời của mình, dám để cho Thiên Chúa điều khiển và dẫn lối cuộc sống mình.  Như thế thì đòi hỏi của mối phúc thứ nhất không làm nghèo con người, nhưng trái lại, làm phong phú, giàu có trong tâm hồn của con người.

Cùng vậy, trong một xã hội đầy dẫy bạo lực, giết chóc, tranh chấp như ngày nay, chúng ta được mời gọi sống hiền lành.  Trong khi người đời tìm kiếm sự thoải mái dễ dãi, tìm kiếm những cuộc vui mau qua, thì chúng ta lại được mời gọi đón nhận những đau khổ trong tâm hồn để được Thiên Chúa ủi an.  Vì Thiên Chúa luôn để tai nghe tiếng kêu cầu của những người đau khổ trong tinh thần và trong thể xác, ra tay bênh đỡ những người cậy trông, tin tưởng vào Chúa.  Trong khi người đời chạy theo lợi nhuận, gian tham, dối trá, gian ác, bất công, dửng dưng, vô cảm, thì chúng ta được mời gọi tìm kiếm và khát khao sự công chính, nuôi dưỡng lòng xót thương trắc ẩn.  Trong khi xã hội cổ võ một lối sống buông thả, những quan hệ dễ dãi, sự hận thù trả thù, thì chúng ta được mời gọi để sống trong sạch, trở thành những người xây dựng hòa bình.

Như thế, con đường của Tám Mối Phúc không phải là con đường siêu tốc dễ dãi, cũng không phải là những chiếc xe gường nằm thoải mái.  Có người đặt vấn đề: Với dòng chảy như thác lũ của lối sống thực dụng, liệu người Kitô hữu có thể lội ngược dòng đời này hay không?  Chúng ta có thể nên thánh trong thế giới phàm tục hôm nay hay không?

Thưa, chắc chắn là có, chúng ta có thể lội ngược dòng và có thể nên thánh trong thế giới hôm nay, chỉ có điều là chúng ta có dám quyết định hay không mà thôi.  Lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay là một minh chứng cho chúng ta.  Vì có rất nhiều vị thánh không xa lạ với chúng ta, họ sống cùng thời, cùng hoàn cảnh với chúng ta và họ đã thành công, thì chúng ta, với ơn Chúa và sự cố gắng kiên trì, chúng ta cũng sẽ thành công.  Họ không chỉ là những linh mục hoặc tu sĩ, mà đa số họ là những người sống đời sống gia đình, họ cũng đông con nhiều cháu, cũng vất vả mưu sinh, có những người đã có những địa vị cao trong xã hội, có những người nổi tiếng, và có nhiều người cha người mẹ, người vợ người chồng rất đỗi bình thường, họ đã có quyết tâm, đã có chọn lựa đúng và họ đã thành công.

Chúng ta dám quả quyết rằng, chúng ta có thể thể nên thánh, có thể sống theo các Mối Phúc Thật dù có phải lội ngược dòng, vì chúng ta còn có Chúa luôn trợ giúp chúng ta, Ngài luôn ở bên để đồng hành, để tiếp sức cho chúng ta.  Ngài cho chúng ta lương thực bổ dưỡng là Thánh Thể của ngài, Ngài dùng Bí Tích giải tội để băng bó, an ủi, chữa lành chúng ta mỗi khi chúng ta bị thương tích.  Khi biết khiêm tốn đón nhận sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thành công.

Xin Các Thánh Nam Nữ trên trời phù hộ cho chúng ta trên hành trình trần thế này để chúng ta có thể đạt được Nước Trời và chia sẻ niềm vui, hạnh phúc Chúa ban cho người chiến thắng cùng với các Ngài.  Amen!

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Khi nói đến giới răn hay huấn lệnh là nói đến sự bó buộc.  Quả vậy, một huấn lệnh thường mang nội dung yêu cầu phải làm hoặc cấm làm một điều gì đó.  Như thế, phải chăng kính mến Chúa là một điều buộc?  Nếu coi việc kính mến Chúa là một điều buộc, thì chẳng còn phải là một tình yêu tự nguyện, mà khi không xuất phát từ tự nguyện, thì chẳng còn phải là tình yêu, hay có chăng thì đó chỉ là tình yêu gượng ép.

Bài đọc thứ nhất (sách Đệ nhị Luật) và bài Tin Mừng theo thánh Máccô hôm nay nói với chúng ta về các huấn lệnh.  Trong số các huấn lệnh của Thiên Chúa thời Cựu ước, ông Môisen đã nhấn mạnh tới một lệnh truyền căn bản: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái, cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài.”  Những lời trên đây thực ra không phải là một điều áp đặt.  Đây là những lời đề nghị hay một lời mời gọi, kèm theo lời hứa cho một tương lai tốt lành.  Người tin Chúa không bị ép buộc, nhưng khôn ngoan suy nghĩ để lựa chọn và quyết định: nếu yêu mến Chúa và tôn kính Ngài, thì họ sẽ được Chúa chúc lành cho trong mọi ngày của đời sống dương thế, được trường thọ và hạnh phúc.  Tác giả Thánh vịnh 17 (Phần Đáp ca) cũng diễn tả lý do yêu mến Chúa, là vì Ngài là sơn động cho ta trú ẩn.  Ngài là đá tảng, là chiến luỹ và là vị cứu tinh đối với những ai cậy trông phó thác nơi Ngài.

Hỡi Israen, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy, anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em.”  Qua những lời này, ông Môisen muốn khẳng định với những người Do Thái: những mệnh lệnh Chúa truyền dạy không thể chỉ được lắng nghe, nhưng phải được thực hành. Một số người Do Thái đạo đức quá chú trọng đến tuân giữ Lề luật một cách tỉ mỉ, mà lại lãng quên việc thực thi tinh thần của Lề luật.  Vì vậy, Chúa đã khiển trách họ: “Dân này chỉ tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).  Thực hành lời Chúa dạy là bảo đảm cho chúng ta được hạnh phúc đời này và đời sau.  Lời hứa miền đất tràn trề sữa và mật, trong truyền thống Do Thái, là niềm hy vọng nuôi dưỡng niềm tin của dân riêng Chúa đã chọn.  Đối với người Kitô hữu, đó chính là hạnh phúc đời đời Thiên Chúa ban cho những ai thực thi lòng mến Chúa yêu người.

Thực ra mến Chúa yêu người không phải là hai giới răn tách biệt, nhưng là một giới răn duy nhất, như hai mặt của một tấm huy chương.  Lòng mến Chúa phải được chứng minh bằng việc yêu người.  Tình mến mọi người phải được dựa trên nền tảng lòng mến Chúa, vì đó là lòng mến vô vị lợi, không dựa trên những tiêu chuẩn trần gian, không phân biệt và không biên giới.  Thánh Gioan đã khẳng định với chúng ta: ai nói mến Chúa mà không thực hành đức thương yêu với tha nhân thì là kẻ nói dối, vì tha nhân là những người nhìn thấy mà họ không thương yêu, thì làm sao họ mến Đấng mà họ không nhìn thấy?  (x. 1 Ga 4,20).

Người tín hữu có một mẫu gương về lòng mến hoàn hảo, đó là Đức Giêsu Kitô.  Người là vị tư tế thánh thiện, vô tội tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời.  Trên cây thập giá Đức Giêsu đã minh chứng tình mến đối với Chúa Cha và tình mến đối với nhân loại.  Tác giả thư gửi tín hữu Hípri đã chứng minh Chúa Giêsu là vị tư tế tối cao.  Ngày hôm nay, vị Tư tế đó vẫn đang chuyển cầu cho chúng ta (Bài đọc II).

Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất.  Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi.  Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng.”  Đây là lời kinh mà những người Do Thái đạo đức phải tụng mỗi ngày, để rồi lời ấy vang lên trong mọi giây phút của cuộc sống.  Lời ấy cũng là động lực chi phối mọi lời nói, hành vi và ý tưởng của những ai muốn tuân giữ lề luật.  Đây cũng là câu Lời Chúa được chọn để đọc trong giờ Kinh Phụng vụ vào tối thứ Bảy hằng tuần.  Xin cho lời kinh ấy luôn vang vọng trong tâm trí và cuộc đời chúng ta, để khởi đi từ lòng mến Chúa, chúng ta sẽ thực thi đức yêu người.

Hôm nay là ngày vọng lễ Các Thánh.  Các thánh là những người mến Chúa yêu người.  Các ngài đã trải qua nhiều gian nan thử thách, nhưng vẫn một lòng tín trung.  Có nhiều vị thà hy sinh mạng sống còn hơn là bỏ Đạo.  Có nhiều vị chấp nhận một cuộc sống trầm lặng trong suy tư cầu nguyện.  Có nhiều vị thánh đã trải qua một cuộc sống rất đơn sơ bình dị, như một người cha, một người mẹ trong gia đình, một công dân của xã hội, một người phong lưu hoặc một người nghèo khó.  Tất cả các thánh đều có một điểm chung: đó là lòng mến Chúa yêu người.  Thánh Phaolô đã khẳng định: Ai yêu thương, thì đã chu toàn lề luật (Rm 13,8b).  Nên thánh chính là thực thi giới răn mến Chúa yêu người.

Lạy Chúa là nguồn mạch sự thánh thiện, xin che chở nâng đỡ chúng con trong hành trình cuộc đời, cũng là hành trình nên thánh.  Amen.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU

(Lễ Kính hai thánh Tông đồ Simon và Giuđa Tađêô – October 28)

Đọc danh sách tên Nhóm Mười Hai mà Chúa Giêsu chọn trong số những người đi theo Người để đặt làm Tông đồ hẳn chúng ta kinh ngạc và khó tìm ra tiêu chí chọn tập thể cộng tác viên thân cận của Người.  Dĩ nhiên Chúa Giêsu không chọn gọi cách ngẫu nhiên hay tùy hứng nhưng cách ý thức trong sự tự do và tinh thần trách nhiệm.  Tin Mừng tường thuật: “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi lên núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm để cầu nguyện cùng Thiên Chúa.  Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6,12-13).

Dưới cái nhìn nhân loại, mười hai vị trong danh sách được liệt kê, hình như chẳng có một ai đáp ứng được nhiều tiêu chí để chọn vào hàng tu sĩ hay giáo sĩ của Giáo Hội Công Giáo ngày nay.  Về mặt học vấn thì xem ra chỉ một hai vị biết đọc, biết viết.  Về mặt đạo đức thì có lẽ cả tập thể mười hai đều dưới trung bình: không biết ăn chay và cũng chẳng biết cách cầu nguyện.  Tham lam chức quyền thì không sót một ai.  Ba năm theo Thầy thường tranh giành với nhau về cái chức làm đầu trong tập thể (x. Lc 9, 46).  Bên cạnh đó có nhiều vị lại có cá tính không mấy hay cách rõ nét.

Hai anh em nhà Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đã từng được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là “thiên lôi con” (Mc 3,17).  Và hôm nay, ngày 28 tháng 10 Giáo Hội kính nhớ hai vị là Simon và Giuđa Tađêô mà một trong hai có biệt danh là “quá khích.”  Người ta suy đoán là cả hai đều thuộc nhóm Zêlốt thời bấy giờ.  Nhóm Zêlốt được hình thành vào đầu thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên.  Tôn chỉ của nhóm này là đánh đuổi đế quốc Rôma để giành lại độc lập tự do cho dân tộc Do Thái đang bị đô hộ.  Họ dùng phương pháp “bạo lực cách mạng.”  Biện pháp phổ biến là ám sát các yếu nhân của chính quyền Rôma đang cai trị và những ai cộng tác với chính quyền đế quốc bằng thanh trủy thủ là chiếc gươm ngắn giấu trong mình.  Người ta đã từng xem nhóm này là “ông tổ” của chủ nghĩa khủng bố.  Hai thanh gươm mà Phêrô nói trong đêm Tiệc Ly hầu chắc là của hai ngài Simon và Giuđa xuất thân từ nhóm quá khích (x. Lc 22, 38).

Đối với loài người thì có rất nhiều sự trong nhiều trường hợp thì như là không thể thành hiện thực, nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều là có thể (x. Mt 19,26).  Không chỉ bằng quyền năng trong lời nói và hành động, nhưng Chúa Giêsu còn đặc biệt dùng tình yêu của mình mà giáo hóa các tông đồ.  Sức mạnh của tình yêu thật diệu kỳ.  Chính tình yêu của Thầy chí thánh đã làm cho các tông đồ đổi thay.  Hai vị “thiên lôi con” đã dần trở nên khiêm tốn và quảng đại.  Giacôbê là vị tử đạo đầu tiên trong tập thể Tông Đồ (Cv12,1-3).  Sau khi Chúa Giêsu về trời thì khi tháp tùng Phêrô đi rao giảng Tin Mừng, ngài Gioan, thiên lôi con lại rất khiêm nhu hiện diện như là người trợ lý đồng hành âm thầm (x. Cv 3-4).  Các chàng ngư phủ xứ Galilê từ những người đánh cá kiếm tiền dần chuyển thành người chinh phục tha nhân cách vô vị lợi.

Hai vị tông đồ “quá khích” cũng có đổi thay nhiều mặt.  Hai thanh gươm luôn kè kè bên mình, nhưng không còn thấy sử dụng phục vụ sự khủng bố hay điều gì sai trái.  Có lẽ trong vườn cây dầu chính Phêrô đã nhất thời mượn tạm một thanh để bảo vệ Thầy nhưng đã bị Thầy dạy xỏ ngay gươm vào vỏ (x. Mt 26, 52).  Tình yêu quyền năng của Thiên Chúa khi gặp được sự khiêm nhu biết phục thiện của con người thì sẽ trổ sinh nhiều hoa trái ngọt ngào.

Với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể.  Tuy nhiên sức mạnh của tình yêu dường như lại thúc thủ (bó tay) trước sự gian dối cố tình.  Không chỉ gian tham, ăn bớt tiền của quỹ chung mà Giuđa Iscariốt còn giả vờ tin vào Thầy để ở lại với tập thể.  Khi có nhiều người thấy chói tai trước lời mạc khải mình là Bánh Hằng Sống từ trời xuống và họ đã bỏ đi, kể cả nhiều môn đệ thì Chúa Giêsu đã hỏi nhóm Mười Hai: “Còn các con, các con có bỏ Thầy mà đi không?”  Phêrô đã tuyên xưng rằng “bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai vì Thầy có lời ban sự sống.”  Dù không tin nhưng ông Giuđa vẫn giả vờ tin rồi tiếp tục ở lại để tìm dịp thực hiện mộng vương bá, kể cả việc phản bội, bán rẻ Thầy mình (Ga 6, 67-71).

Mừng kính hai thánh Tông đồ Simon và Giuđa Tađêô, xin cho Kitô hữu chúng ta luôn vững tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa.  Dẫu cho còn đó nhiều vị trong tập thể nhóm tông đồ “chuyên biệt” còn nhiều sai lỗi và cả khuyết tật, nhưng với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa thì sự tốt đẹp sẽ lại đến cho Giáo hội và nhân trần.  Chỉ mong sao xin đừng để một ai quá gian tham cách hữu ý và kiên trì.  Xin cho tất cả chúng ta trong mọi bậc sống, mọi nhiệm vụ đảm đương và mọi hoàn cảnh biết luôn khiêm nhu phục thiện để tình yêu và ân sủng của Chúa canh tân chúng ta mỗi ngày, biến chúng ta thành khí cụ loan báo Tin Mừng cứu độ.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Nguồn: http://www.vietcatholic.net

LỢI ÍCH KHI BẠN ĐỌC KINH MÂN CÔI HẰNG NGÀY

Nếu bạn cảm thấy khó khi đọc kinh Mân Côi, hay không dễ dàng duy trì việc ấy hằng ngày, bảy điều bất ngờ dưới đây ắt hẳn sẽ là những động lực tích cực.

1. Bạn trở nên bớt ích kỷ hơn

Rõ ràng là khi yêu ai đó hay một điều gì đó với trọn cả con tim, bạn cảm thấy rất say mê và biết phải tương tác thế nào với ‘kẻ ấy.’  Thế nhưng, đôi khi khỏa lấp trọn vẹn những đòi hỏi của tình yêu ấy quả là điều không hề dễ dàng.  Đó là điều mà tôi cảm nhận được về việc đọc kinh Mân Côi.  Tôi yêu kinh Mân Côi và nhận chân kinh Mân Côi như một món quà vốn được trao tặng nhưng không.  Tôi thực sự tin tưởng vào sức mạnh của kinh Mân Côi.  Nhưng dành thời gian cho việc cầu nguyện với kinh Mân Côi ư?  Điều đó đòi hỏi tôi phải hy sinh và cho đi một khoảng thời gian, hay năng lượng vốn lẽ ra là dành để đầu tư cho chính mình.  Bởi vậy, cầu nguyện với kinh Mân Côi giúp chúng ta tái quy hướng về Chúa Kitô, Đấng giải thoát chúng ta thoát khỏi tình trạng tội lỗi và lòng yêu mình, và là người thầy kiên nhẫn dạy chúng ta biết cách kiềm chế những đòi hỏi ích kỷ của bản thân.

2. Bạn trở nên có kỷ luật hơn

Càng cầu nguyện với kinh Mân Côi, bạn càng muốn cầu nguyện nhiều hơn nữa.  Ơn ban này có được hệ tại ở những lần bạn vật lộn để cho tâm trí mình hoàn toàn thinh lặng và tập trung; tuy cảm thấy mệt mỏi nhưng bạn vẫn cố gắng duy trì việc cầu nguyện, hoặc tắt điện thoại để lần hạt trước khi đi ngủ.  Những hành vi kỷ luật như thế ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống của bạn.  Kỷ luật cũng giống như tập thể dục, bạn không thể nào trở thành vận động viên marathon trong lần chạy đầu tiên.  Nhưng bạn có thể xây dựng nó từng chút một theo thời gian.  Kinh Mân Côi giúp bạn thực hiện những bước đi bé nhỏ đó để hướng đến việc chọn Chúa là ưu tiên hàng đầu trong cuộc đời của bạn.  Ngay cả những ngày khi tình cảm hay tinh thần của bạn đang xuống dốc, việc đọc Kinh Mân Côi sẽ giúp vực dậy tâm hồn đang sầu não ấy, và nó cũng là một cách tuyệt vời để giữ lòng trung thành, làm tròn bổn phận với Chúa và với Đức Mẹ, và tuân theo một “quy tắc nhỏ” trong ngày của bạn.

3. Đức Mẹ sẽ vén mở những điều sâu nhiệm

Chắc rằng lúc còn nhỏ người ta thường nói sơ sài về kinh Mân Côi, hay đôi lúc người trên ép buộc bạn phải cầu nguyện theo cách mà họ cảm thấy đó hẳn là cách thức thánh thiện nhất.  Bạn cảm thấy chán nản, và chẳng thể hiểu nổi làm thế nào mà việc cầu nguyện bằng ‘chuỗi hạt’ ấy có thể mang lại điều gì tốt đẹp hoặc siêu việt, ngay cả khi bạn tin vào kết quả hiệu nghiệm đầy uy lực của nó.  Nhưng thực ra, khi cầu nguyện với kinh Mân Côi thường xuyên và chân thành, những chiều sâu tiềm ẩn vốn có ấy sẽ được vén mở.  Có lẽ, đó là một cái nhìn sâu sắc về một lĩnh vực trong cuộc sống mà bạn đang gặp khó khăn.  Đôi khi bạn cảm thấy mình đang hiện diện với Chúa Giêsu trong một khoảnh khắc nào đó trong cuộc đời của Ngài.  Đó cũng có thể là kinh nghiệm diễn ra thâm sâu trong lời cầu nguyện mà bạn cảm thấy mình thực sự ở đó trong khoảnh khắc của chính Mầu nhiệm.  Ắt hẳn luôn có điều gì đó mới mẻ cần được khám phá và luôn có điều gì đó tốt đẹp cần được tiết lộ.

4. Bạn có nhiều can đảm hơn

Khi bạn bắt đầu đặt trọn niềm tin tưởng, cuộc sống, thậm chí là cả con tim của mình vào tay Đức Mẹ qua chuỗi kinh Mân Côi, bạn sẽ bắt đầu hiểu Đức Mẹ là người thực tế, đơn giản và tuyệt vời như thế nào.  Mẹ chỉ muốn dẫn chúng ta đến với Chúa Giê-su, Mẹ yêu chúng ta rất nhiều với sự dịu dàng thực sự của một người mẹ tuyệt hảo, đến nỗi Mẹ được vinh dự lớn lao khi chúng ta trao phó những vấn đề của chúng ta cho Mẹ.  Những tâm hồn biết chạy đến với Mẹ để kêu xin Mẹ cứu giúp và tin tưởng rằng Mẹ sẽ nhận lời thì trong lòng họ sẽ cháy bùng ngọn lửa của lòng can đảm.  Bạn sẽ có biết bao can đảm khi biết rằng Mẹ đang ở ngay bên!  Thánh Maximilian Kolbe nói: “Tôi nhìn thấy Mẹ Maria ở khắp mọi nơi và tôi không thấy vấn đề khó khăn nào cả.

5. Một ngày sống của bạn sẽ bình an hơn

Có người nói rằng: “Kinh Mân Côi làm cho cả ngày của tôi bình an hơn, giống như Đức Maria luôn sẵn sàng trợ giúp tôi khi phải đối diện với những điều tồi tệ.  Mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn.  Tôi ý thức hơn về sự hiện diện của Chúa.”  Cầu nguyện với kinh Mân Côi không làm đau khổ biến mất, nhưng nó cung cấp cho bạn một vũ khí mạnh mẽ hơn để chiến đấu.

6. Bạn có thêm nhận thức trước khoảnh khắc bị cám dỗ

Một trong 20 mầu nhiệm của kinh Mân Côi là: “tiêu diệt sự ác, giảm thiểu tội lỗi và đánh bại gian tà.”  Theo kinh nghiệm của tôi, khi thường xuyên lần chuỗi mân côi, tôi nhận ra khoảnh khắc trước khi phạm tội chậm lại.  Điều này muốn nói rằng, nếu tôi muốn trì hoãn hoặc buôn chuyện chẳng hạn, tôi không chủ động làm điều đó.  Tôi nhận ra rằng những hành động đó bắt đầu bằng một cuộc trò chuyện trong đầu.  Tôi nhận thức rõ hơn về sự cám dỗ trước khi hành động, và có nhiều thời gian hơn để tôi cân nhắc xem liệu tôi có muốn thực sự làm điều đó hay không.  Và khi lần hạt Mân Côi, tôi bắt đầu nhìn cuộc đời mình qua lăng kính được hiệp thông với Chúa, và tôi bắt đầu thấy những gì Ngài muốn cho tôi là tốt và tôi cũng muốn điều đó.

7. Bạn bắt đầu đi vào mầu nhiệm Nhập Thể

Sức mạnh của chuỗi hạt nằm ở sự đơn giản.  Nó đơn giản đến mức có vẻ ngớ ngẩn đối với những con người thông thái.  Vì vậy, chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta cần phải tìm ra các giải pháp phức tạp, thông minh, kiểu khoa học đột phá để giải quyết các vấn đề phức tạp, thông minh, tầm cỡ khoa học cao siêu của chúng ta.  Chúng ta hãy nhìn sâu vào tới cùng tận của các vấn đề và tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể tìm ra giải pháp cho vết thương lớn như vậy.  Chúng ta không cần những điều ấy.  Thiên Chúa đến thế gian như một trẻ thơ bé nhỏ, yếu ớt và bơ vơ được sinh ra trong cảnh nghèo khó.  Kinh Mân Côi, đơn giản đến mức có thể được cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, là vũ khí cầu nguyện mạnh mẽ nhất mà chúng ta có.

Không có vấn đề gì, dù khó khăn đến đâu, dù là trần thế hay trên hết là thiêng liêng, trong đời sống cá nhân của mỗi người chúng ta, của gia đình chúng ta… mà Kinh Mân Côi không thể giải quyết được.”  Nữ tu Lucia Fatima.

Đó là bảy ơn ban cho chúng ta đến từ việc thường xuyên đọc kinh Mân Côi, nhưng còn vô số ơn nữa! Ơn thứ tám của bạn là gì?  Hãy chia sẻ với chúng tôi trong phần bình luận bên dưới nhé!

Nguyên tác: 7 Surprising Things That Happen When You Pray the Rosary More Often
Tác giả: Ruth Baker
Hv. Quốc Dũng s.j., dịch
Nguồn: https://dongten.net

XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY!

Ai trong chúng ta cũng dễ dàng cảm nhận được những thiệt thòi của người mù.  Họ không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời.  Họ cũng không cảm nhận được niềm vui nỗi buồn nơi khuôn mặt những người thân.  Thế giới đối với họ là đêm tối trường kỳ.  Tin Mừng hôm nay nói đến một người mù đứng ăn xin tại cổng thành Giêricô.  Trong lúc Chúa Giêsu và các môn đệ từ trong thành đi ra, Người đã trông thấy, và, trước lời van xin của anh, Chúa đã chữa cho anh để anh có thể nhìn thấy như bao người khác.

Nếu người mù thể lý đã thiệt thòi như thế, thì người mù thiêng liêng lại còn thiệt thòi hơn.  Đức Thánh Cha Benêđitô XVI đã trả lời câu hỏi của nhà báo người Đức, ông Peter Seewald: “Ai chỉ biết tin vào những gì mắt trông thấy, thì người đó mù.”  Vị Giáo Hoàng người Đức còn diễn giải thêm về khẳng định này: “bởi vì người đó đã tự hạn chế mình vào một khoảng chân trời hạn hẹp, và không còn nhìn ra được cái cơ bản nữa.  Có ai thấy được trí khôn mình đâu.  Chính những cái quan trọng nền tảng ta không thể thấy thuần bằng mắt” (Thiên Chúa và Trần thế, Tr 23).

Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mác-cô diễn tả anh mù như một người bị gạt ra bên lề xã hội: anh là một kẻ ăn xin, ngồi bên vệ đường.  Khi anh cố gào lên để có ý cho vị Ngôn sứ có tên là Giêsu nghe thấy, thì bị người ta mắng át đi, bởi anh chẳng là gì trong một đám đông ồn ào náo nhiệt.  Anh chỉ là một chấm nhỏ li ti trong bức tranh “chợ đời.”  Tuy vậy, cũng dưới ngòi bút của thánh Mác-cô, anh mù này lại có một cái nhìn sáng suốt.  Trong đám đông hỗn độn ấy, anh nhận ra vị Ngôn sứ đang đi ngang qua là con vua Đavít, điều mà không mấy người trong đám đông hỗn độn ấy nhận ra.  “Con vua Đavít là một danh xưng mà truyền thống Do Thái vẫn sử dụng để diễn tả Đấng Messia.

Thì ra, những người có con mắt sáng trong đám đông hôm ấy ở cổng thành Giêricô lại không nhìn thấy sứ mạng của Đức Giêsu.  Hơn thế nữa, họ còn đầy thành kiến và khinh thường đối với người mù ăn mày bên vệ đường.  Một cách nào đó, họ là những “người mù,” vì họ chỉ công nhận những gì mà họ nhìn thấy bằng con mắt thể lý.  Thánh Mác-cô kể lại hai phép lạ Chúa chữa người mù.  Trường hợp thứ nhất ở chương 8, câu 22 đến câu 26.  Người được chữa lành là người mù ở Bết-sai-đa.  Phép lạ chữa người mù lần thứ nhất đi liền với những lời cảnh báo phải thận trọng đối với men Pharisiêu và men Hêrôđê.  Chắc chắn thánh Mác-cô muốn khẳng định với chúng ta: quan niệm lầm lạc và ngây thơ trước những cám dỗ chính là một tình trạng mù thiêng liêng nguy hiểm.  Nếu chúng ta đọc trình thuật Chúa Giêsu chữa người mù bẩm sinh trong Tin Mừng Thánh Gioan thì sẽ thấy ngoạn mục hơn nữa (x. Ga 9,1-41).  Người này mù về thể lý, nhưng tinh thần lại hết sức tinh tường và khôn ngoan.

“Lòng tin của anh đã cứu anh!”  Đức tin là điều kiện cần thiết để được hưởng phép lạ.  Đức tin cũng mở mắt để chúng ta nhìn thấy những điều kỳ diệu Chúa đã và đang làm trong lịch sử cũng như trong đời sống cá nhân của mỗi chúng ta.  Tác giả Thánh vịnh 125 mời chúng ta hãy nhận ra những điều kỳ diệu ấy trong biến cố Thiên Chúa giải phóng dân Israen khỏi ách nô lệ Babylon, đưa người Do Thái về với quê hương xứ sở.  Đó cũng là sứ điệp hy vọng mà ngôn sứ Giêrêmia gửi đến cho người Do Thái lưu đày: “Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất…  Chúng trở về nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã,” Lời của vị ngôn sứ như một tiếng thét vui mừng trước những điều kỳ diệu Thiên Chúa sẽ thực hiện vì yêu thương dân Ngài.  Sau những năm tháng lưu đầy đau khổ nhục nhằn, Thiên Chúa sẽ giải phóng dân Ngài.  Những người tha hương sẽ được về với quê cha đất tổ.  Trong số đó, có cả những người đui mù, què quặt và bệnh tật (Bài đọc I).

Khi chiêm ngưỡng những kỳ công của Chúa, người tín hữu được mời gọi kể lại hay loan báo những điều tốt lành Chúa đã làm.  Người mù ở thành Giêricô, sau khi được Chúa cho sáng mắt, đã đi theo Chúa.  Cuộc đời anh từ nay đã sang trang.  Trước đây, anh ước ao được sáng mắt để có cuộc sống như mọi người.  Nay, khi mắt đã sáng, anh quyết tâm đi theo Chúa Giêsu.  Anh nhận Người là lý tưởng của đời anh.  Anh đã trở thành môn đệ của Người.  Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, hay còn gọi là Khánh nhật truyền giáo.  Chúng ta hãy ý thức bổn phận loan báo Tin Mừng của người tín hữu.  Truyền giáo là sứ mạng của Giáo Hội.  Truyền giáo cũng là sứ mạng của mỗi người tín hữu.  Truyền giáo không phải chỉ là những thừa sai lên đường đến những xứ sở xa xôi, cũng không chỉ là những nhà giảng thuyết uyên thâm lỗi lạc, mà còn là những nghĩa cử sẻ chia, những tâm tình thân ái mà chúng ta dành cho nhau trong cuộc sống thường ngày.

“Xin cho con được thấy!”  Đó là lời van xin của anh mù, đang ngồi ăn xin bên vệ đường, lối vào thành Giêricô.  Đó cũng là lời cầu xin của chúng ta để nhận ra tình thương của Ngài đang ấp ủ đồng hành chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế.  Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót.  Ngài tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.  Chúa Giêsu là thày Thượng tế vĩnh viễn theo phẩm hàm Menkisêđê sẽ chuyển cầu cho chúng ta trước tòa Chúa Cha (Bài đọc II).

“Đời người giống như việc đi đường vậy, một bên là gian khổ, một bên là cảnh đẹp.  Ánh mắt bạn phóng được đến đâu, đó chính là cảnh giới của cuộc đời bạn.  Nếu thường xuyên nhìn thấy những người ưu tú hơn mình, điều đó cho thấy bạn đang trên đường lên dốc; Còn nếu thường xuyên nhìn thấy những người không bằng mình, điều đó cho thấy bạn đang xuống dốc và người khác đang phải cố gắng để lên dốc.  Thay vì oán thán, thà thay đổi cách nghĩ, mọi chuyện sẽ bớt nặng nề đi rất nhiều!” (Sưu tầm)

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

SATAN GIẢNG VỀ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI

Satan Giảng Về Tràng Hạt Mân Côi Cha P. Candido, một linh mục có quyền năng trừ quỉ nổi tiếng ở Roma.  Đây là chuyện đã xảy ra khi ngài làm phép trừ quỉ cho Giovanna: Chúng tôi đang lần hạt, thì Giovanna giằng lấy cỗ tràng hạt, vừa bứt xé ra từng khúc, vừa rít lên: “Coi đây, ta làm gì với các ngươi và với việc sùng kính của các mụ già!”

Lúc đó, cha Candido đeo vào cổ Giovanna một xâu chuỗi lớn, nhưng chị ta không thể chịu nổi, cứ ngoắc đầu và cổ tứ tung, sặc sụa giận dữ.

Cha Candido thách thức: hẳn ngươi sợ việc sùng kính của các bà già chắc?

Satan hét lên: nó thắng tao.

Cha nói tiếp: bởi vì ngươi đã dám xúc phạm đến tràng hạt Mân Côi của Đức Maria, bây giờ ngươi phải ca tụng tràng hạt ấy.  Nhân Danh Thiên Chúa, hãy trả lời: “Phép tràng hạt Mân Côi có quyền phép không?”  Nó trả lời: nó quyền phép trong mức độ người ta đọc nó cách tử tế.  Làm sao để đọc nó cách tử tế?  Phải biết chiêm ngắm.  Chiêm ngắm là thế nào?  Chiêm ngắm là thờ phượng.  Nhưng, người ta không được thờ Đức Maria?  Phải, đúng thế, song Người cũng đáng thờ lắm!  Rồi nó cầm lấy một hạt trong xâu chuỗi và nói: mỗi hạt là ánh sáng, và phải đọc cách tử tế, sao cho không một tia sáng nào của ánh sáng đó bị mất đi.  Satan đã trở thành một người giảng bất đắc dĩ và ngược với ý muốn của nó về quyền phép của tràng hạt Mân Côi.

Cầu nguyện có thể thay đổi não trạng của chúng ta.  Một đời sống thực sự cầu nguyện sâu xa là một đời sống cải biến không ngừng.

Cầu nguyện là chìa khóa của mọi sự, đó là điều Đức Mẹ làm ở Mễ Du.  Quan trọng là phẩm chất của cầu nguyện, như trên đã nói.  Chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống.  Chúng ta phải cầu nguyện với đức tin sống động.  Cầu nguyện tự đáy lòng, với tất cả con tim.

Cầu nguyện phải trở thành một niềm vui: hiện ra ở Mễ Du, sự có mặt ở đấy của Mẹ chỉ có nghĩa là: để dạy chúng ta cầu nguyện.  Trước tiên, Mễ Du là “trường dạy cầu nguyện”, sau đó “trường học sống thánh thiện.”  Ở “trường” này, Đức Mẹ dạy ta cách “cầu nguyện với cả trái tim,” tức là với tình yêu mến. (25-2-1989 và nhiều lần khác nữa).  “Các con thân mến, không tình yêu, các con không thể làm được gì cho nên cả.” (29-5-1986, số 604).  Tình yêu là “động lực” cho tất cả mọi sự.  Không tình yêu, chúng ta thực sự không sống.  Bởi thế, chúng ta không thể cầu nguyện nếu không có tình yêu.  Trái tim là biểu hiệu của tình yêu.  Cầu nguyện với cả trái tim có nghĩa là: đặt tình yêu lên hàng đầu khi bạn cầu nguyện.  Muốn cầu nguyện với trái tim, ta phải có một quyết định: tôi quyết định dẹp tất cả mọi việc, mọi lo toan, mọi suy nghĩ khác… sang một bên, tôi nhất định tập trung tâm trí vào việc cầu nguyện mà thôi.

Tôi quyết định phó thác toàn thân và đời sống tôi cho Thiên Chúa.  Như thế mới là cầu nguyện với cả con tim!  Như thế, nhờ cầu nguyện, chúng ta sẽ đánh bại quyền lực Satan, sẽ được hòa bình và cứu rỗi cho linh hồn chúng ta: “Các con dư biết Mẹ yêu thương các con và Mẹ tới đây cũng chỉ vì yêu thương, để Mẹ chỉ cho các con thấy con đường bình an và sự cứu rỗi cho linh hồn các con.  Mẹ muốn các con nghe lời Mẹ và đừng để Satan quyến rũ các con.  Satan rất mạnh mẽ, bởi vậy, Mẹ yêu cầu các con hãy dâng hiến tất cả những lời cầu nguyện cho Mẹ, để cứu những kẻ đang bị chi phối dưới ảnh hưởng của nó.  Hãy làm chứng bằng đời sống các con.  Hãy hi sinh mạng sống của các con cho nhân loại được cứu rỗi…  Do đó, hỡi các con nhỏ, đừng sợ hãi.  Nếu các con cầu nguyện, Satan không thể làm hại các con dù chỉ một tơ tóc, vì các con là con Thiên Chúa và Người đang trông nom các con.  Cầu nguyện và luôn luôn cầm trong tay tràng hạt Mân Côi như một dấu hiệu cho Satan biết rằng các con thuộc về Mẹ.” (25-2-1988, số 659).

Cầu nguyện phá tan quyền lực của Satan, và nếu chúng ta cầu nguyện, nó không thể làm hại chúng ta.  Đó là lý do tại sao, Kitô hữu không sợ hãi trước tương lai, trừ phi họ không cầu nguyện.  Và nếu họ không cầu nguyện, thử hỏi họ còn là Kitô hữu nữa không?  Nếu chúng ta không cầu nguyện, đương nhiên chúng ta sẽ đâm mù quáng trước nhiều điều, chúng ta không thể phân biệt đâu là đúng, đâu là sai.  Chúng ta đánh mất trọng tâm, mất thăng bằng.  Đúng vậy!  Cầu nguyện là chiến đấu với các quyền lực tối tăm, với Satan: “Hãy cầu nguyện để chống lại Satan…  Hãy khoác lấy áo giáp để chống lại nó… và với chuỗi Mân Côi trong tay, các con hãy chiến thắng nó.” (8-8-1985, số 563).  “Áo giáp chống Satan” chính là sức mạnh của lời cầu nguyện của ta.  Thế mà phần chúng ta, Đức Mẹ bảo nhiều lần: “Các con không đủ sức chống lại các tấn công của Satan, các con không có khả năng chu toàn các bổn phận của mình, vì các con cầu nguyện quá ít.” (9-6-84, số 388 + 510).  Cầu nguyện có một mãnh lực hầu như vô biên vì nó mặc lấy chính quyền lực của Thiên Chúa, nên: “Nhờ ăn chay và cầu nguyện, người ta có thể chặn đứng chiến tranh và thay đổi các tai họa của định luật thiên nhiên.” (21-7-1982).  “Trong cầu nguyện, các con sẽ tìm được… phương cách để ra khỏi các nghịch cảnh tưởng chừng như không có lối thoát.” (29-3-1985, số 548).  Lời Mẹ nói trên về quyền lực của cầu nguyện và ăn chay để ngăn chận chiến tranh không phải là một phát minh mới của Mẹ đâu.  Chúng ta đã nghe thấy biết bao lần thuật lại trong Cựu Ước về điều này.  Chỉ cần đọc một tích ở sách Sử biên II, chương 20. 1-24, (x. trích đăng trong Bài đọc Kinh sách, thường niên, tuần 15, thứ 6): Nghe tin một đạo quân nghịch đông đảo đến vây đánh, Vua Giô- sa-phát hoảng sợ.

Vua kêu gọi toàn thể người Giuđa ăn chay, và tập họp toàn dân lại kêu cầu cùng Chúa.  Chính Vua cũng đứng giữa cộng đoàn lớn tiếng cầu nguyện: “Lạy Yavê Thiên Chúa, Chúa nắm trong tay uy quyền và sức mạnh… Chúa đã ban cho dòng dõi Abraham đất này, và trên đất này đã xây một Thánh điện kính Danh Ngài… Chúng con đứng trước Đền thờ này đây, trước Nhan Ngài… trong cơn cùng khốn, chúng con kêu lên Ngài, để được Ngài lắng nghe và cứu giúp chúng con.”  Thần Khí Yavê xuống trên một người trong dân và nói tiên tri rằng Thiên Chúa đã nhậm lời, ông nói: “Các ngươi đừng sợ… vì cuộc chiến này không phải là của các ngươi nhưng là của Thiên Chúa.  Trong cuộc chiến này, các ngươi không phải chiến đấu… cứ đứng mà xem Thiên Chúa, Đấng ở với các ngươi, sẽ giải thoát các ngươi như thế nào!”  Nghe vậy Vua và cả toàn dân sấp mình xuống trước mặt Chúa mà thờ lạy.  Sáng mai dân xếp thành hàng trận và đi vào sa mạc đối đầu với địch quân.  Thấy dân đi như thế, Vua đứng ra và nói: “Toàn dân hãy nghe ta, Đức Yavê là Thiên Chúa chúng ta, cứ tin tưởng vào Ngài, các ngươi sẽ tồn tại, cứ tin lời các tiên tri của Ngài, các ngươi sẽ chiến thắng!”  Vua còn cắt đặt những người mặc phẩm phục thánh, vừa đi trước quân binh vừa ca hát ngợi khen Chúa: “Hãy ngợi khen Chúa, vì muôn ngàn đời Ngài vẫn giữ trọn tình thương.”  Khi họ cất tiếng reo mừng và ca ngợi thì Thiên Chúa gieo rắc những mâu thuẫn đối nghịch vào giữa hàng ngũ quân địch, khiến chúng đâm ra tự sát hại lẫn nhau.  Khi tới một nơi cao để có thể nhìn xuống sa mạc được, quân binh Giuđa thấy đám địch quân bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma đầy tử thi nằm la liệt trên mặt đất, không một tên nào sống sót.

Năm 1991 là năm xảy ra nội chiến tàn bạo khủng khiếp bên Nam Tư (cũ).

Ngày 10-12-91, trong khi một nhóm người sốt sắng ăn chay, cầu nguyện dưới sự hướng dẫn của cha Slavko, thì cô Marija đến thăm và trao cho họ thông điệp này của Đức Mẹ: “Các con thân yêu!  Chấm dứt chiến tranh, đối với Mẹ là điều quá dễ dàng, nếu có thêm nhiều người cầu nguyện như các con đang làm bây giờ.” (R. Laurentin, Dern. Nouv. no 11, tr.11).  Tức là nếu chiến tranh cứ tiếp diễn, không dập tắt được, đó là vì không đủ người cầu nguyện và cầu nguyện như nhóm các người cầu nguyện ấy đang làm.  Cầu nguyện phải là cái gì sống động và hoạt động, để có thể trở thành cầu nguyện trong niềm vui.  Không thật là một đời sống thiêng liêng, nếu không có niềm vui: “Bữa nay, Mẹ kêu gọi các con hãy năng động trong cầu nguyện.  Cầu nguyện sẽ là nỗi vui: nếu các con bắt đầu cầu nguyện và mở lòng ra, các con sẽ không nhàm chán vì các con sẽ thấy vui thích cầu nguyện.”  (20-3-1986, số 594).  Nhưng điều cần là chúng ta phải bắt đầu, phải quyết tâm cầu nguyện.  Rồi Thiên Chúa sẽ hướng dẫn ta.  Nào hãy bắt đầu!  Hãy đem cầu nguyện vào đời ta: “Chớ gì cầu nguyện trở nên cuộc sống các con.  Hãy tận hiến thời giờ cho Chúa Giêsu và Ngài sẽ ban cho các con tất cả những gì các con tìm kiếm.” (số 646).  “Cầu nguyện trở thành cuộc sống,” điều đó có nghĩa là làm sao cho cầu nguyện trở thành hoạt động sẽ đem sự sống thật vào trong cuộc sống các bạn, sẽ làm cho các bạn sống động, thật sự sống động bằng sự sống của chính Thiên Chúa.

Biết bao người tín hữu kéo lê cuộc sống nhạt nhẽo, trống rỗng… không hề có chút tiến bộ nào đến gần Thiên Chúa hơn, mặc dù họ đi lễ hằng ngày, chịu khó nghe giảng…, chỉ vì họ cầu nguyện chiếu lệ, đọc cho mau xong rồi để làm những việc họ thích.  Đừng như vậy, Mẹ nhắc: “Các con hãy nói: Bây giờ, đối với tôi, không có gì quan trọng bằng cầu nguyện!”  Mỗi khi ta hấp tấp đọc kinh, cầu nguyện cho lẹ, mau mau rồi để làm việc này việc nọ, chínhh lúc ấy ta hãy “thắng” (phanh) mình lại, và lấy lời Mẹ dạy trên đây mà nhủ mình: “Không!  Giờ này là lúc tôi phải cầu nguyện và cầu nguyện với tất cả trái tim, vì không có việc gì quan trọng cho bằng việc cầu nguyện!  Mọi việc khác cứ để đó, cầu nguyện xong rồi hãy tính.”

Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, DCCT
Nguồn: http://mancoi.net

KHI CHÚNG TA HOÀI NGHI SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

Chúng ta cần cầu nguyện kể cả khi đó là việc thiếu sức sống nhất để làm.  Đó là lời khuyên của linh mục triết gia Dòng Tên Michael J. Buckley về những gì chúng ta cần thách thức bản thân mỗi ngày.  Khi đối diện với đời sống thực tế, lời cầu nguyện thường là việc thiếu sức sống nhất để làm.  Vậy lời cầu nguyện tạo nên được khác biệt gì?

Tôi sẽ cầu nguyện cho bạn!  Xin nhớ đến tôi trong lời cầu nguyện!  Chúng ta luôn nói những câu này.  Tôi cho là không ngày nào chúng ta không hứa cầu nguyện cho ai đó.  Tuy nhiên, chúng ta có thật sự tin lời cầu nguyện của chúng ta tạo nên khác biệt không?  Chúng ta thật sự tin lời cầu nguyện của chúng ta có thể chặn đứng được đại dịch, xoa dịu căng thẳng trong cộng đồng, xóa bỏ hàng thế kỷ hiểu lầm giữa các giáo phái, chữa lành căn bệnh nan y, đưa con em chúng ta trở lại với nhà thờ, hay làm cho ai đó tha thứ cho chúng ta không?  Lời cầu nguyện có thể làm gì khi chúng ta bất lực trong một hoàn cảnh nào đó?

Chúa Giêsu nói rằng có những con quỷ chỉ có thể bị xua đuổi nhờ lời cầu nguyện và chay tịnh.  Tôi cho rằng, chúng ta tin câu này theo nghĩa đen như việc trừ quỷ thì dễ hơn là tin lời cầu nguyện có thể xua trừ những con quỷ trần tục như hận thù, bất công, hiểu lầm, chia rẽ, chiến tranh, kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc, định kiến bất dung và những chứng bệnh thể xác cũng như tâm hồn.  Đây là những con quỷ thật sự đang bủa vây cuộc sống chúng ta và dù chúng ta xin Thiên Chúa giúp đỡ trong lời cầu nguyện, nhưng thường chúng ta không mấy tin tưởng lời cầu nguyện của mình sẽ tạo nên khác biệt.  Sao có thể như thế?

Lịch sử lâu dài của Do Thái giáo và Kitô giáo dạy chúng ta, Thiên Chúa không có thói quen can thiệp trực tiếp vào đời sống tự nhiên và đời sống nhân loại, ít nhất không phải theo cách mà chúng ta thấy được.  Các phép lạ có xảy ra, có thể theo hàng triệu cách mà chúng ta không nhận thức được.  Nhưng nếu chúng ta không thể nhìn thấy phép lạ, thì chúng có thật không?

Hiện thực có những phương thức khác.  Có kinh nghiệm và thần nghiệm.  Cả hai đều có thật, dù chúng ta không xem cả hai như nhau về phương diện hành động của Thiên Chúa trong lịch sử.  Nếu một xác chết đội mồ sống lại (Phục sinh), hay nếu cả một dân tộc bước đi khô ráo qua Biển Đỏ (Xuất hành) thì rõ ràng đó là sự can thiệp của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta, nhưng nếu một lãnh đạo thế giới hồi tâm chuyển ý và đột nhiên đồng cảm với người nghèo, làm sao chúng ta biết được điều gì dẫn đến chuyện này?  Với mọi sự chúng ta cầu nguyện cũng vậy.

Điều gì thúc đẩy trí khôn dẫn đến việc tìm ra vắcxin cho đại dịch?  Thuần túy là cơ may sao?  Hay sự can thiệp từ trời cao?  Ta cũng có thể đặt câu hỏi đó với hầu hết mọi điều chúng ta cầu nguyện, từ tình hình thế giới cho đến sức khỏe của mình.  Nguồn nào đem lại hứng khởi, phục hồi sức khỏe, xóa tan cay đắng, biến đổi nhân tâm, giúp đem lại quyết định sáng suốt hay một cơ hội gặp ai đó khiến cả cuộc đời chúng ta tốt đẹp hơn?  Cơ may thuần túy hay ngẫu nhiên tình cờ?  Hay là ơn phúc và sự dẫn dắt của Chúa nhờ lời cầu nguyện, dù là của chính mình hay người khác cầu cho mình?

Tâm điểm của đức tin Kitô giáo là chúng ta đều thuộc về một thân thể nhiệm mầu, Nhiệm thể Chúa Kitô.  Đây không phải là cách nói ẩn dụ.  Cơ thể này là một cơ thể sống, cũng thật như một cơ thể vật chất.  Bên trong cơ thể vật chất, mọi phần đều ảnh hưởng đến nhau, dù tốt hay xấu.  Các enzym (chất xúc tác sinh học) lành mạnh giúp cơ thể duy trì sức khỏe, còn các vi-rút không lành mạnh thì làm suy yếu cả cơ thể.  Nếu đúng là thế, mà đúng là thế thật, thì cái gọi là hành động thật sự cá nhân không tồn tại.  Mọi việc chúng ta làm, dù là trong tư tưởng, có tác động đến người khác, và do đó tư tưởng và hành động của chúng ta hoặc enzym lành mạnh, hoặc vi-rút gây hại cho người khác.  Lời cầu nguyện của chúng ta là enzym lành mạnh tác động đến toàn bộ cơ thể, nhất là đến những người, những sự việc mà chúng ta hướng tới.  Đây là giáo lý đức tin, chứ không phải một ý nghĩ đơn thuần.

Bà Dorothy Day từng có thời không thích Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu, nghĩ rằng tách mình vào một tu viện nhỏ và “con đường thần nghiệm nhỏ” là lòng mộ đạo ngây thơ.  Về sau, khi bà Dorothy dốc sức làm những việc lớn lao cho công lý và hòa bình, nhưng bà thấy dường như chúng không thay đổi được đời sống thực tế bao nhiêu, bà đã nhận thánh Têrêxa làm quan thầy.  Điều mà bà Dorothy Day nhận ra qua kinh nghiệm của mình là những hành động dường như nhỏ bé và vô ích về mặt thực dụng cho công lý và hòa bình, lại không vô ích chút nào.  Dù nhỏ, nhưng chúng đã giúp mở ra một không gian, mới đầu thì nhỏ, nhưng dần dần mở rộng thành một thứ lớn hơn và có tác động hơn.  Khi đưa một vài enzym bé xíu vào cơ thể của thế giới, cuối cùng Dorothy Day đã giúp thế giới lành mạnh hơn một chút.

Lời cầu nguyện là một chất kháng sinh kín đáo khó thấy, có khi dường như vô dụng, nhưng lại thật sự cần thiết.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

BÁNH VÀ NƯỚC

 

Chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ người khác chứ không phải để được người khác phục vụ.”

Câu cuối cùng trong bài Phúc Âm ngày hôm nay là một trong những câu hỏi nổi bật nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta hãy nghe lại câu ấy: “CON NGƯỜI không đến để được phục vụ, nhưng để Phục vụ và hiến thân cứu chuộc nhiều người.”  Ít câu nào trong Kinh Thánh tóm tắt được cuộc đời Chúa Giêsu một cách hoàn hảo như thế.

Lần đầu tiên nghe nói về cuộc đời Chúa Giêsu, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng tên là Kagawa kêu lên: Lạy Chúa, xin cho con nên giống Đức Kitô của Ngài. Và để nên giống Đức Kitô hơn, Kagawa đã từ bỏ căn nhà tiện nghi để đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo.  Ở đó, ông chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho bất cứ ai cần sự giúp đỡ.  Trong cuốn sách nhan đề “Quyết Định Nổi tiếng Về Cuộc Đời” (Famous Life Decision), Cecil North Cott viết: Kagawa đã cho đi hết áo quần của mình, và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng rách nát tả tơi; vào một dịp khác, dù lâm bệnh rất nặng, ông vẫn tiếp tục thuyết giáo dưới cơn mưa, miệng lập đi lập lại không ngừng, Thiên Chúa là Tình yêu, Thiên Chúa là Tình yêu.  Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa.

William Barclay cho chúng ta thấy tâm hồn và trí tuệ của Kagawa qua những lời của Kagawa mà ông trích dẫn như: “Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất, Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những người bệnh hoạn, Ngài đứng về phía những người thất nghiệp.  Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa thì hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi đi dự lễ, hãy giúp đỡ kẻ nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.

Khi đọc về một người như Kagawa, chúng ta nên tự vấn chính mình; chúng ta phải làm sao để có thể sống Phúc Âm một cách nghiêm chỉnh hơn trong đời sống mình?  Phải làm sao để bắt chước đời sống phục vụ của Chúa Giêsu một cách thiết thực hơn?  Phải làm sao để trở thành Kitô hữu đích thực hơn trong chính gia đình và trong môi trường làm việc của mình?

Dĩ nhiên không ai có thể trả lời dùm chúng ta, vì đây là những câu hỏi mà chúng ta phải tự trả lời lấy, nghĩa là mỗi người đang hiện diện ở đây sẽ phải trả lời những câu hỏi ấy theo cách thức của mình.  Tuy nhiên, đừng bao giờ vịn cớ rằng: “Tôi không thể đến những khu tồi tàn ở Tokyo để sống giống như Kagawa đã làm,” để rồi chúng ta chẳng làm gì nữa cả; vì nếu chúng ta không thể làm được một điều thật can đảm, thật anh hùng, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn có thể làm được bất cứ việc gì khác.

Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó dù rất là nhỏ bé và xem ra vô nghĩa, khởi đầu là cho chính những người thân trong gia đình chúng ta, rồi từ đó chúng ta sẽ có những may mắn mở rộng việc phụng sự ra môi trường xa hơn, còn nếu chúng ta không khởi sự ngay từ gia đình mình thì chúng ta cũng sẽ không bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.

Sau đây là một trong những ví dụ hấp dẫn nhất nói về việc phục vụ tha nhân khởi sự từ chính gia đình mình.  Đó là câu chuyện được đăng trong tạp chí Leadership (Giới lãnh đạo) cách đây ít lâu:

Một cậu bé nọ cứ cố tình đi học về trễ hoài mà chẳng có lý do gì chính đáng cả, dù đã có biết bao lời khuyên nhủ răn bảo cậu.  Cuối cùng, vì quá thất vọng, bố cậu bảo cậu ngồi xuống và nói; Lần sau con còn về trễ nữa là con chỉ được ăn tối bằng bánh mì với nước lã thôi, ngoài ra không được ăn thứ gì khác nữa nhé.  Con nghe rõ chưa? Cậu bé nhìn thẳng vào mắt cha và gật đầu.  Cậu đã hoàn toàn hiểu ý bố cậu.

Vài ngày sau, cậu bé về nhà còn trễ hơn bình thường nữa, Mẹ cậu gặp cậu ở cửa song chẳng nói một lời.  Cha cậu gặp cậu trong phòng khách nhưng cũng vẫn chẳng nói lời nào với cậu. Tuy nhiên, tối hôm ấy, khi mọi người quây quần bên bàn ăn, trái tim cậu bé như muốn thót lại khi thấy đĩa cha cậu chất đầy thức ăn, đĩa của mẹ cũng thế, còn đĩa của cậu thì chỉ có một khúc bánh mì, bên cạnh có một ly nước lã, trông hiu quạnh làm sao!  Đầu tiên cậu liếc nhìn miếng bánh, sau đó lại nhìn qua ly nước lã.  Đây chính là hình phạt bố mẹ cậu đã nói trước với cậu, đáng buồn hơn nữa là tối nay cậu lại cảm thấy đói quá chừng.

J. Allan Peterson, tác giả câu chuyện đã mô tả diễn tiến sự việc như sau: Người bố chờ cho bầu khí căng thẳng lắng xuống đoạn lặng lẽ cầm chiếc đĩa của cậu đặt trước mặt ông, rồi cầm chiếc đĩa của ông đặt trước mặt cậu bé…Cậu bé chợt hiểu ngay điều bố cậu đang làm. Bố cậu đã nhận hình phạt mà lẽ ra chính cậu phải chịu vì hành vi bê bối của riêng cậu….  Mãi nhiều năm về sau, chính cậu bé ấy vẫn nhớ đến biến cố và nói: Chính nhờ hành vi bố tôi đã làm tối hôm ấy, mà suốt cả đời, tôi đã hiểu được Thiên Chúa tốt lành biết bao!

Câu chuyện trên giúp ta hiểu thật dễ dàng điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua lời Ngài nói trong Phúc Âm hôm nay; “Con Người…. đến… để hiến mạng cứu chuộc nhiều người.”  Đức Giêsu đã đến trong thế gian để làm cho chúng ta điều mà bố cậu bé đã làm cho cậu.  Ngài đến để đền tội lỗi chúng ta bằng chính cái chết của Ngài trên thập giá.

Vậy, để kết thúc, chúng ta hãy nhớ rằng bài Phúc Âm hôm nay đưa ra cho chúng ta một thách thức; Đó là chúng ta phải hiến mạng sống mình để phụng sự tha nhân như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta và nơi chốn tốt nhất để khởi sự việc này là chính gia đình ta và môi trường làm việc của ta.  Nếu chúng ta khởi đầu từ những môi trường này, chúng ta sẽ mở rộng được lòng yêu thương phục vụ của chúng ta sang những môi trường khác nữa.

Biết đâu vào một thời gian nào đó, chúng ta sẽ có dịp phục vụ kẻ khác cũng quảng đại như Kagawa đã làm nơi những căn nhà tồi tàn vùng Tokyo.  Chúng ta sẽ có thể có dịp phục vụ tha nhân cũng quảng đại như người bố trong câu chuyện đối với đứa con hư của mình.  Tuy nhiên, trước khi chúng ta hy vọng có thể bay được thì chúng ta phải tập đi bộ đã.  Và bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta bắt đầu tập đi bộ, mời gọi chúng ta bắt đầu phục vụ lẫn nhau, ngay từ trong gia đình và môi trường làm việc của chúng ta; đó chính là lời mời gọi chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu là Đấng đã phán:

“Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhiều người.”

Lm Mark Link

ĐỨC MẸ FATIMA ĐÃ CỨU THẾ GIỚI KHỎI MỘT CUỘC CHIẾN TRANH HẠT NHÂN

http://conggiao.info/duc-me-fatima-da-cuu-the-gioi-khoi-mot-cuoc-chien-tranh-hat-nhan-d-51878

Nữ tu Lucia Fatima, một trong ba thị nhân Đức Mẹ Fatima, đã cho biết rằng Đức Trinh Nữ Maria từng tiết lộ nếu Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không thánh hiến nước Nga cho Trái Tim Đức Mẹ thì một cuộc chiến tranh hạt nhân đã có thể xảy ra.

Ngày 1/9/1983, khi bay từ Anchorage đến Seoul, một máy bay Korean Air Lines Boeing 747 của Hàn Quốc với 269 hành khách đã bị lạc đường và bay nhầm vào không phận một hòn đảo của Liên Xô. Ngay lập tức, một máy bay chiến đấu của Nga đã bắn hạ nó. Hành động bạo lực của Nga khiến các nước châu Âu nhanh chóng đồng ý cho Hoa Kỳ triển khai tên lửa tầm trung vào tháng 11 cùng năm. Không ngần ngại, quân đội Xô Viết cũng thiết lập tình trạng sẵn sàng chiến tranh.

Ít tháng sau đó, vào ngày 25/3/1984, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dâng hiến thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ Maria. Ngài mời gọi tất cả các Giám Mục trên toàn thế giới hiệp thông với ngài trong nghi lễ này cũng là ngày kết thúc Năm Thánh Cứu Độ. Ngài cử hành nghi thức dâng hiến tại Đền thờ Thánh Phêrô, Rôma, khi quỳ cung kính trước bức tượng Đức Mẹ Fatima được mang từ Fatima đến.

Hai tháng sau, đúng ngày 13/5/1984 là kỷ niệm 67 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, một tai nạn xảy ra ở căn cứ hải quân Severomorsk của Nga đóng tại biển Barent, gần Phần Lan. Một tàn thuốc lá đã gây ra vụ nổ nghiêm trọng kho tên lửa. 580 trong tổng số 900 tên lửa phòng không bị cháy rụi, 320 trong 420 tên lửa không đối đất bị phá huỷ, hơn 300 quân lính tử vong. Tổn thất làm suy yếu nghiêm trọng hạm đội bắc Liên Bang Xô Viết.

Vài năm sau, sơ Lucia viết: “Mọi người đều biết rõ rằng chúng ta đã đi qua một trong những khoảnh khắc nguy kịch nhất của lịch sử loài người, khi mà các cường quốc thù địch nhau dự tính một cuộc chiến tranh hạt nhân chắc chắn sẽ thiêu huỷ thế giới, không toàn bộ thì cũng phần lớn. Và điều gì sẽ có thể còn sót lại? Có bao nhiêu phần cơ hội sống sót? Và ai đã có thể can thiệp giữa những người kiêu ngạo với đầy dự tính chiến tranh này? Ai, nếu không phải là Thiên Chúa.”

Năm sau đó, 1985, Đức Mẹ lại hiện ra với chị Lucia trong tu viện của chị. Mẹ cho chị biết rằng nếu Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không thánh hiến thế giới cho Đức Mẹ, có thể đã xảy ra cuộc chiến tranh hạt nhân kia. Chính vì có cuộc thánh hiến mà chiến tranh đã không diễn ra. Chính nữ tu Lucia đã nói thông điệp này của Đức Mẹ cho 2 Đức Hồng Y Antony Padiyara của Ấn Độ và Ricardo Vidal của Philippines khi hai vị đến thăm tu viện.

Nhìn lại trước năm 1983

Một cuộc chiến tranh hạt nhân đã gần sát giữa Nga và Hoa Kỳ. Chắc chắn nhờ có bàn tay Đức Mẹ Fatima mà sự kiện đáng sợ này đã được ngăn lại trong năm 1983. Bởi vì trước đó, ngày 13/5/1982, tại Fatima, Đức Gioan Phaolô II cũng đã có hành vi tận hiến thế giới nhưng điều này không hoàn thành yêu cầu của Đức Mẹ do nó không được làm trong sự hiệp thông của tất cả các Giám Mục trên thế giới. Ngài đã định như vậy nhưng vì các lá thư được gửi khá trễ nên các Giám Mục không nhận được kịp trước ngày đã định.

Chuyện này lặp lại sự số diễn ra năm 1942 trong thế chiến thứ hai. Ngày 31/10/1942, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã dâng hiến thế giới và nước Nga cho Trái Tim Vô Nhhiễm Đức Mẹ Maria Fatima. Nhưng việc dâng hiến này không có sự hiệp thông của các Giám Mục trên thế giới. Đó là lúc phe kẻ thù đang có những leo thang lớn trong chiến tranh. Dù vậy, sơ Lucia cho biết rằng mặc dù sự tận hiến không hoàn thành, Chúa Giêsu cũng vui lòng và hứa chiến tranh sẽ sớm kết thúc. Không lâu sau đó, quân Đồng minh bắt đầu đạt được những chiến thắng quan trọng.

Như vậy, sự dâng hiến của Đức Gioan Phaolô II năm 1982 tuy không hoàn thành nhưng chắc chắn cũng đã có một hiệu quả nào đó với các sự kiện căng thẳng diễn ra năm 1983.

Theo National Catholic Register
Gioakim Nguyễn lược dịch

THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN XXIII

Đức Gioan XXIII, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola.

Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh được rửa tội, lấy tên là Angelo Giuseppe, người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu.  Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo lắng chăm sóc của ông.

Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội, nên sau khi học học bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana.  Ngày 07.11.1892, cậu gia nhập chủng viện Bergamo, nơi đó cậu được xếp vào năm thứ ba của bậc trung học.  Sau một khởi đầu khó khăn vì chưa được chuẩn bị đầy đủ, cậu tiến nhanh trong việc học tập và huấn luyện thiêng liêng, nhờ đó các bề trên đã chuẩn nhận trước khi kết thúc năm thứ mười bốn để thầy được lãnh nhận chức cắt tóc.  Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thì vào tháng Giêng năm sau, thầy được gửi về Roma vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo.  Tuy phải thi hành nghĩa vụ quân sự tại Bergamo từ ngày 30 tháng 11 năm 1901, việc huấn luyện chủng sinh cũng đặc biệt mang lại kết quả tốt đẹp.

Ngày 13 tháng 7 năm 1904, khi còn rất trẻ, mới hai mươi tuổi rưỡi, thầy đậu tiến sĩ thần học.  Với sự nhận xét đặc biệt của các bề trên, ngày 10 tháng 8 năm 1904, thầy được thụ phong linh mục trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày hôm sau trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, dịp này ngài quyết tâm tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo hội.  Sau một thời gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng 2 năm 1905, khi ngài được chọn làm thư ký của Giám Mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi.  Mười năm làm việc hết mình bên cạnh một giám mục có thẩm quyền, rất năng động và đầy sáng kiến, giúp cho giáo phận Bergamo trở nên một mô hình cho Giáo Hội Ý.

Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác.  Từ năm 1906, ngài còn đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học trong chủng viện: lịch sử giáo hội, giáo phụ và biện giáo; từ 1910, ngài cũng phụ trách môn thần học cơ bản.  Ngoại trừ khoảng thời gian ngắn ngưng nghỉ, ngài vẫn tiếp tục làm những công việc đó đến năm 1914.  Việc học hỏi về lịch sử đã giúp ngài viết một số nghiên cứu lịch sử địa phương, như xuất bản những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử Giáo hoàng.  Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo phận “La Vita Diocesana” và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên hiệp những Phụ nữ Công giáo.

Cái chết bất ngờ của Đức Giám mục Radini năm 1914 chấm dứt một kinh nghiệm mục vụ tuyệt vời của ngài, mặc dù gặp một vài đau khổ chẳng hạn như những lời buộc tội vô căn cứ chống lại ngài từ chủ nghĩa hiện đại, vị Giáo hoàng tương lai Gioan XXIII luôn xem như điểm quy chiếu chính qua các công việc được trao phó theo từng giai đoạn.  Chiến tranh bùng nổ vào năm 1915, ngài làm tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ trong việc chăm sóc thương binh tại các bệnh viện ở Bergamo, và ngài đã có những việc làm rất anh hùng.  Vào tháng Bảy năm 1918, ngài sẵn sàng phục vụ cho những người lính bị bệnh lao, dù biết rằng có nguy cơ bị lây nhiễm.

Hoàn toàn bất ngờ với lời mời của Đức Giáo hoàng về phụ trách công việc của Bộ Truyền giáo tại Ý, trong khi ở Bergamo, ngài mới bắt đầu kinh nghiệm Nhà sinh viên, một nơi vừa nội trú, vừa học viện, và đồng thời ngài cũng làm linh hướng trong chủng viện.  Sau nhiều do dự, ngài đã nhận lời và bắt đầu công việc cách thận trọng và tế nhị đối với những liên hệ với các tổ chức truyền giáo đã có.  Ngài đã thực hiện một chuyến đi lâu dài ra ngoại quốc để thi hành kế hoạch của Tòa Thánh nhằm mang về Roma những tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo và viếng thăm một số giáo phận Ý để quyên góp nguồn tài trợ và giải thích về công việc mà ngài đang phụ trách.

Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952.  Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Rome vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria với nhiệm vụ giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó.  Khởi đầu công việc và tiếp tục cả hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931.  Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng ngài đã tái tổ chức được Giáo Hội Công giáo, phục hồi được mối quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria.  Vào ngày 27 tháng 11 năm 1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican.  Khác với Hy Lạp, nơi mà Đức Roncalli không mang lại một kết quả nào đáng kể, trái lại quan hệ với chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dần dần có được một sự hiểu biết và sẵn sàng thể hiện được nhờ việc đón nhận những đường lối chính trị độc lập với tôn giáo của chính phủ.  Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một vài lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople, đó là những lần đầu tiên sau nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.

Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã giữ được một thái độ thận trọng của tính trung lập, nhờ vậy ngài mới thực hiện được một công việc thật hữu hiệu, là giúp cho cộng đoàn Do Thái, cả hàng ngàn người, khỏi bị diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.

Thật bất ngờ với quyết định của Đức Piô XII, ngài được bổ nhiệm về làm Khâm sứ tại Paris, nơi ngài đặt chân đến với nhiều lo lắng vào 30 tháng 12 năm 1944.  Một hoàn cảnh khá phức tạp đang chờ đợi ngài.  Chính phủ lâm thời đòi phải thoái vị ba mươi giám mục, bị buộc tội hợp tác với chính phủ Vichy.  Nhờ sự bình tĩnh và linh động của vị tân sứ thần, chỉ có ba vị bị bãi nhiệm.  Phẩm chất con người của ngài đã mang lại sự kính nể trong bối cảnh ngoại giao và chính trị tại Paris, nơi mà Ngài đã thiết lập được những mối quan hệ thân thiện với một số chính khách của chính phủ Pháp.  Hoạt động ngoại giao của ngài cũng mang một ý nghĩa mục vụ rõ ràng qua các lần viếng thăm tại nhiều giáo phận của nước Pháp, kể cả nước Algeria.

Tiếng vang và lòng nhiệt thành tông đồ của Giáo hội Pháp, qua kinh nghiệm của các linh mục thợ, làm cho Đức Roncalli phải chú ý như một nhà quan sát thận trọng và khôn ngoan, ngài cho rằng cần phải có một thời gian để xem xét trước khi có quyết định dứt khoát.

Với lối sống vâng phục của mình, ngài đã sẵn sàng vâng theo lời đề nghị thuyên chuyển về Venice, nơi ngài đã đến nhậm chức vào ngày 5 tháng 3 năm 1953, lúc mới được nâng lên tước vị Hồng y theo quyết định trong Công Nghị cuối cùng của Đức Piô XII.  Thời gian làm giám mục của ngài được mọi người biết đến qua những nỗ lực làm việc và hoàn thành nhiệm vụ giám mục cách tốt đẹp như thăm viếng mục vụ và cử hành Công nghị giáo phận.  Việc ôn lại lịch sử tôn giáo của Venezia giúp ngài thêm những sáng kiến mục vụ mới, chẳng hạn như kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với Kinh Thánh, làm việc theo gương của vị giáo chủ kỳ cựu, thánh Lorenzo Giustiniani, mà ngài đã long trọng cử hành việc tưởng nhớ trong năm 1956.

Việc bầu một vị Giáo hoàng bảy mươi bảy tuổi vào ngày 28 tháng 10 năm 1958, đó là Đức Hồng y Roncalli, kế vị Đức Piô XII, làm nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp.  Nhưng ngay từ đầu, Đức Gioan XXIII đã chứng tỏ một lối sống đầy nhân bản và con người linh mục của mình đã chín mùi qua những kinh nghiệm ý nghĩa.  Ngoài việc khôi phục lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, ngài còn hết lòng cho công việc mục vụ theo sứ mạng của mình, bằng cách nhấn mạnh đến bản chất giám mục với tư cách là Giám Mục Rôma.  Xác tín rằng việc quan tâm trực tiếp đến giáo phận là một phần thiết yếu của sự vụ Giáo hoàng, nên ngài dành nhiều thời gian gặp gỡ các tín hữu qua việc viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù.  Qua việc triệu tập Công nghị giáo phận, ngài muốn bảo đảm chức năng hoạt động của các cơ cấu giáo phận bằng cách tăng cường các giáo hạt và bình thường hóa đời sống giáo xứ.

Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII, chắc chắn là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01 năm 1959.  Đó là một quyết định mang tính cách cá nhân của Đức Giáo hoàng sau khi tham khảo ý kiến với một số vị thân cận và với vị Quốc vụ khanh, là Đức Hồng y Tardini.  Các mục tiêu ban đầu của Công đồng được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng mười năm 1962: không phải là để xác định những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm hiện thời.  Trong chiều hướng nhằm có được một sự cập nhật về tất cả đời sống của Giáo hội, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã mời gọi hướng về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, hơn là lên án và phản đối trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội, đón nhận tất cả mọi người.  Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, không thể loại trừ các giáo hội Kitô khác, họ cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần nhau hơn.  Trong giai đoạn đầu tiên, người ta có thể nhận thấy rằng Đức Gioan XXIII muốn một Công đồng có tranh luận thật sự, biết tôn trọng các quyết định sau khi mọi tiếng nói đã được trình bày và thảo luận.

Vào mùa xuân năm 1963, ngài được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, chứng tỏ những việc làm của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như việc nhất quyết can thiệp của ngài nhân cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962.  Uy tín và sự ngưỡng mộ chung, người ta có thể thấy được trong những tuần lễ cuối đời ngài khi cả thế giới đều lo lắng hướng về quanh ngài lúc hấp hối và đau buồn nhận tin ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm 1963.

Phòng Báo chí Tòa Thánh
Linh mục Augustinô chuyển ngữ