THÁNH SỬ LUCA, TÁC GIẢ TIN MỪNG

Theo các nhà Kinh Thánh học, thánh Luca đã hiến cho chúng ta hai tác phẩm: một là cuốn Tin Mừng thứ ba và hai là sách Tông Đồ Công Vụ.

Qua các tông đồ, nhất là Mẹ Maria và thánh Phaolô, thánh Luca đã ghi lại tiểu sử của Chúa Giêsu bằng những nét đặc sắc.  Ngài đã hết lòng ca tụng ơn cứu độ và lòng từ bi của Thiên Chúa.  Qua những truyện như: Người con phung phá, người Samaritanô nhân hậu, ông Giakêu, người trộm lành… chúng ta thấy được phần nào chủ ý của thánh nhân khi ngài muốn trình bày cho chúng ta thấy một cách cụ thể về lòng từ bi của Thiên Chúa.

Tin Mừng thánh Luca cũng là Tin Mừng về đời sống cầu nguyện.  Ngài đặt trước mắt chúng ta gương cầu nguyện của Chúa Giêsu trước khi Chúa chịu phép rửa, trước khi chọn môn đệ, trước khi biến hình sáng láng, lúc hấp hối trong vườn Giệtsimani và cả trên thánh giá.

Tin Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức.  Không Tin Mừng nào làm cho chúng ta có thể thấy được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất.. một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn…  Không một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.

Tin mừng của thánh Luca là Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài, có rất nhiều chỗ nói về niềm vui như loan báo tin vui cho Zacharia, truyền tin cho Maria.  Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh…  Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui hân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem.  Ðúng như Harnack đã nói: “Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót.”

Tin Mừng của thánh Luca còn được gọi là Tin Mừng của những người phụ nữ bởi vì không Tin Mừng nào vai trò của người phụ nữ được nhắc tới với một lòng kính trọng như Tin Mừng của thánh Luca.  Những câu chuyện về những người phụ nữ đặc biệt như những chị em phụ nữ đi theo phục vụ Chúa Giêsu và tông đồ đoàn chỉ có thể tìm thấy trong Tin Mừng của thánh Luca.

Sau hết, khi trình bày, thánh Luca như cố ý cho chúng ta thấy những điều kiện cần thiết để tin theo Chúa cũng như để được gia nhập Nước Trời.  Những điều kiện đó là đức tin, lòng khiêm nhường, thống hối, dám chấp nhận những khó khăn, biết sống bác ái và kiên trung trong đau khổ.

Cũng như Tin Mừng, cuốn Tông Đồ Công Vụ của thánh Luca là một bằng chứng sống động về việc Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống truyền giáo của các tông đồ và đời sống của Giáo Hội lúc sơ khai.  Đây cũng là cuốn lịch sử đầu tiên của Giáo hội.  Đọc sách Công vụ chúng ta không thể không cảm thấy một nguồn vui thanh cao và sống động được bùng phát lên từ sự nhận biết Thiên Chúa của các tín hữu đầu tiên, và rồi kết quả sau đó là một cuộc sống được định hướng bằng tình bác ái chân thực, bằng tinh thần hy sinh xả kỷ, cũng như bằng bầu khí cầu nguyện, bằng sự hiệp nhất cao độ, lòng hợp lòng, với một đức tin, và một tình yêu duy nhất để hình thành nên những cộng đoàn thánh thiện giữa các tông đồ và những người tin Chúa của Giáo hội sơ khai.

Mặc dầu lịch sử không cho chúng ta những tài liệu chính xác về gia thế và đời sống của thánh Luca, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng: thánh Luca thuộc gia đình nề nếp và giàu sang tại Antiokia.  Khi còn bé, Ngài được giáo dục chu đáo về cả đức tính, văn hóa và nghề nghiệp.  Ngài theo học các khoa cổ điển của nền văn minh Hy lạp và chuyên nghề lương y.  Từ buổi đầu, thánh Luca vẫn chưa biết Chúa.  Cho đến một ngày kia thánh Phaolô đến Troa giảng đạo Chúa Giêsu.  Luca vào nghe và sau khi suy nghĩ, cân nhắc cẩn thận và nhận thấy giáo thuyết thánh Phaolô giảng rất thâm trầm hợp lý, Ngài liền tin theo.  Ngài chịu phép rửa tội và theo làm môn đệ thánh Phaolô, ngày đêm học hỏi Kinh Thánh và làm thư ký cho thánh Tông đồ.  Quãng năm 49, nghĩa là khi khởi sự truyền giáo lần thứ hai, thánh Phaolô cùng mang thánh Luca đi theo.  Nhưng rồi hai thầy trò lại chia lìa nhau một thời gian.  Có lẽ kỳ này thánh Luca trở về sinh quán làm nghề lương y.  Đến sau hai thầy trò lại gặp nhau tại Philipphê.  Từ đây thánh Luca cùng đi giảng đạo với thánh Phaolô.  Nhưng đến khi thánh Phaolô bị người La Mã bắt cầm tù, thì thánh Luca cũng từ giã đế đô, và chúng ta không biết gì về quãng cuối đời của Ngài nữa.

Đọc Tin Mừng thứ ba và Công vụ tông đồ, chúng ta thấy thánh Luca rất lỗi lạc về văn chương Hy lạp.  Ngài quả là một nhà văn học kỳ tài, luôn thay đổi từ ngữ và dùng những danh từ thích hợp với đặc tính văn chương của người Hy lạp thời bấy giờ.  Thánh nhân tỏ ra rất nghệ thuật trong việc bố cục câu chuyện thế nào cho rõ ràng, hấp dẫn, gợi nhiều ý tưởng và tâm tình, chẳng hạn dụ ngôn người con phung phá, và câu chuyện hai người du khách trên đường Emmau phải là hai kiệt tác văn chương, có nhiều giá trị nghệ thuật không kém gì những áng văn hay nhất của người Hy lạp thời ấy.

Hơn thế, thánh Luca còn là một người rất sành tâm lý.  Thánh nhân đã mặc cho mỗi nhân vật trong Tin Mừng cũng như trong các dụ ngôn những tâm tình, cử điệu và lời lẽ phù hợp với địa vị riêng của họ.  Phải chăng nhờ tài nghệ này, thánh Luca đã đề cao đến chữ trọn hảo địa vị Cứu thế của Chúa Giêsu: Chúa nhân lành tự trời đến với loài người lầm than tội lỗi.  Chúa tự hiến mình trên thập giá để tẩy xóa mọi tội trần và thông ban ơn sủng đời sống mới cho các tâm hồn.

Với một sự hiểu biết sâu xa về sứ mệnh Cứu thế của Chúa như vậy, hẳn thánh Luca đã nhiệt thành với nhiệm vụ phổ biến Tin Mừng cứu thế không kém gì thánh Phaolô.  Nhưng Ngài giảng đạo tại đâu và chết như thế nào thì theo một tài liệu tìm thấy ở Constantinople, thánh Luca đã giảng đạo tại Achaie và Beotie.  Và sau cùng làm giám mục thành Thèbes.  Trong bài thực hành cuốn chú giải Tin Mừng thánh Matthêô, Thánh Hiêrônimô nói rõ thánh Luca đã viết Tin Mừng thứ ba tại Achaie và Beotie, sau cùng thánh Gaudence de Brescia quả quyết thánh Luca cùng chịu tử đạo với thánh Andrê tại Patras một tỉnh nhỏ thuộc vùng Achaie.

Ngày nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ.  Ngài cũng là bổn mạng các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu giúp.”

Ngay từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.

Kính xin thánh Luca thánh sử phù trợ cho chúng ta được lòng tin mạnh mẽ và hăng hái như người để chúng ta đem tin lành cứu độ đến cho những người còn chưa nhận biết Chúa.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

3 BÀI HỌC TỪ CUỘC ĐỜI CỦA THÁNH NỮ TÊRÊSA AVILA CHO NGƯỜI KITÔ HỮU HIỆN ĐẠI

Thánh Têrêsa là một nhà cải cách và một người lãnh đạo vĩ đại.  Cuộc sống và các tác phẩm của thánh nhân chứa đựng sự khôn ngoan lớn lao cho những người đi theo Chúa Kitô trong suốt nhiều thế kỷ.

Có rất nhiều vị thánh đáng kính mang tên là Têrêsa – Mẹ Têrêsa Calcutta, Têrêsa thành Lisieux, Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá – đến nỗi vị thánh Têrêsa đầu tiên rất dễ bị bỏ qua.  Nhưng thánh Têrêsa Avila được gọi là “Têrêsa cả” vì lý do: Người nữ vĩ đại này đã sống đời thánh thiện và niềm xác tín mạnh mẽ mà những điều đó ghi dấu sáng ngời trong những trang lịch sử.  Cuộc đời phi thường của ngài mang lại nhiều bài học cho chúng ta hôm hay; dưới đây chỉ là một số ít trong đó.

Hãy Cầu Nguyện Trước Rồi Mới Hành Động

Khi còn là một thiếu nữ, thánh Têrêsa đã bắt đầu cầu nguyện trong cuộc đối thoại suy niệm và chiêm niệm với Thiên Chúa, thường được gọi là “tâm nguyện”, và tình bạn của thánh nhân với Đức Kitô, cùng tình yêu sâu đậm dành cho Người đã theo đó mà triển nở.  Tuy nhiên, sau một lần bệnh nặng, thánh nhân đã ngưng cầu nguyện theo phương cách ấy, mà chỉ tham dự những giờ đọc kinh cộng đoàn trong hơn một năm, vì theo như tự truyện của mình, ngài đã thuyết phục bản thân rằng“kiềm chế cầu nguyện là một dấu hiệu của sự khiêm nhường lớn lao hơn.”

Không ngạc nhiên gì, quyết định ngưng nguyện gẫm mang đến cho ngài sự đau khổ trong cảm xúc và tâm hồn.  Sau này, ngài đã gọi khoảng thời gian đó là “cám dỗ lớn nhất mà tôi gặp phải” và nói rằng“nó gần như hủy hoại tôi.”

May mắn thay, thánh nhân đã tìm gặp được một linh mục dòng Đaminh thánh thiện và uyên bác làm cha giải tội cho mình, và vị linh mục ấy đã nhanh chóng giúp ngài trở lại.  Ngài đã không bao giờ rời bỏ tâm nguyện một lần nữa, và thúc giục mọi người thực hành tâm nguyện như một thói quen thường xuyên. “Những ơn lành mà một người thực hành cầu nguyện nhận được – ý tôi là tâm nguyện – đã được ghi nhận bởi nhiều vị thánh và người đạo đức… Và vì tình yêu của Thiên Chúa, tôi cầu xin bất cứ ai chưa bắt đầu cầu nguyện thì đừng bỏ lỡ một ân phúc lớn lao như vậy.”

Những diễn giải của ngài về tâm nguyện đã trở nên những định nghĩa kinh điển cho việc thực hành thiêng liêng này.  Thánh nhân viết rằng tâm nguyện “không là gì khác ngoài sự giao tiếp thân tình, và thường xuyên trò chuyện cách riêng tư, với Đấng mà ta biết Ngài yêu thương ta.”  Tình bạn này là nguồn mạch của sự tốt lành vô hạn trong đời sống của một người và mang lại hoa trái thiêng liêng to lớn.  Ngài cam đoan với chúng ta: “Không ai xem Thiên Chúa là bạn mà không được thưởng.”

Thánh Têrêsa đã để lại ảnh hưởng to lớn thông qua những cải cách thiêng liêng, những việc tốt lành và những tác phẩm, thậm chí ngài còn trở thành nữ tiến sĩ Hội Thánh đầu tiên.  Tất cả những điều đó phát xuất từ cội nguồn sâu thẳm của tình bạn sâu sắc và mật thiết với Thiên Chúa.  Giống như rất nhiều vị thánh vĩ đại khác, cuộc đời của ngài cho thấy rằng những cố gắng trong việc tông đồ luôn phải bắt đầu và cắm rễ sâu trong cầu nguyện.  Hãy đặt cầu nguyện và chiêm niệm lên hàng đầu, và ơn gọi cũng như sứ vụ của bạn sẽ tự nhiên tuôn trào từ cội nguồn đó.

Hãy Sống Giữa Những Người Bạn Và Người Hướng Dẫn Tốt

Một đề tài mà thánh Têrêsa đã lặp đi lặp lại trong tự truyện của mình là tầm quan trọng của việc gìn giữ những mối tương quan tốt lành và thánh thiện.  Thánh nhân nói về những người bạn và cả những cha giải tội đã đi vào cuộc đời của ngài tại những thời điểm khác nhau và dẫn ngài đến gần hoặc xa Thiên Chúa hơn.  Như một bài học có được qua những kinh nghiệm khó khăn, ngài viết:“Tôi đã học được ích lợi to lớn đến từ tình bạn tốt lành.”

Thánh nhân đã nhận thức một cách sâu sắc sự tác động mà những người bạn có thể ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng của một người, đến nỗi ngài khuyến khích những người đang theo đuổi sự thánh thiện hãy cố gắng tìm kiếm những người bạn thánh thiện để cùng đi với họ trên cuộc hành trình đó – những người mà ngày nay chúng ta gọi là “người bạn cùng tiến.”

Ngài viết: “Tôi muốn khuyên những người thực hành cầu nguyện, đặc biệt là lúc khởi đầu, hãy vun đắp tình bạn và mối tương giao với những người khác cùng ý hướng với mình.  Đây là điều quan trọng nhất, không chỉ bởi chúng ta có thể giúp nhau bằng những buổi cầu nguyện chung, mà còn bởi nó mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích khác nữa.”

Thánh nhân đã thấy sự ảnh hưởng của bạn bè như một yếu tố quan trọng đến nỗi trong tự truyện của mình, ngài dừng lại để gửi những lời khuyên đến các bậc cha mẹ của những thanh thiếu niên: “Nếu tôi phải khuyên nhủ các bậc cha mẹ, tôi sẽ bảo họ phải hết sức quan tâm đến những người mà con cái họ kết giao ở độ tuổi đó.  Nhiều điều tai hại có thể là kết quả từ mối quan hệ xấu và chúng ta tự bản tính có khuynh hướng làm theo những gì xấu xa, hơn là những điều tốt lành.”

Thanh thiếu niên đặc biệt nhạy cảm với áp lực từ bạn bè, bởi vì nhu cầu để được xã hội chấp nhận của họ ngày càng lớn, nhưng nguyên tắc trên vẫn đúng ở mọi lứa tuổi.

Hãy Làm Cho Cuộc Sống Và Chính Bản Thân Bạn Trở Nên Nhẹ Nhàng

Người ta nói rằng“các thiên thần bay vì họ khiến bản thân trở nên nhẹ nhàng.  Cho dẫu tuyên bố này có thể bị nghi ngờ về mặt thần học, nhưng thực tế đúng là việc làm cho bản thân trở nên nhẹ nhàng là một dấu hiệu của sự thánh thiện, vì nó đòi hỏi sự khiêm nhường thật sự.

Thánh Têrêsa rất có khiếu hài hước, nhất là khi nhận xét về bản thân và những ý tưởng điên rồ của mình: Thánh nhân thường đề cập đến chuyện đùa vui về điều này hay điều khác, và có lúc ngài viết: “Đôi khi tôi cười chính bản thân và nhận ra mình là một thụ tạo đáng thương.”  Sự khiêm nhường của ngài được thể hiện rõ khi ngài kể lại những hành động thiếu suy nghĩ của mình, hay khi liệt kê những lỗi lầm ngài phạm phải qua nhiều năm trong sự thật thà và không hề có ý tự cho mình là công chính.

Làm cho bản thân trở nên nhẹ nhàng sẽ không giúp bạn bay được, nhưng chắc hẳn sẽ làm bạn cảm thấy vui vẻ và dễ chịu.  Quan trọng hơn, đó là một thái độ bắt nguồn từ sự hiền lành thánh thiện, và như Đức Kitô nói với những kẻ theo Ngài: “Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa là gia nghiệp.” (Mt 5,4)

Sự hiền lành có thể không phải là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến khi nhắc tới một nhà cải cách kiên cường như thánh Têrêsa Avila, nhưng hiền lành thật sự không có nghĩa là rụt rè hay chịu khuất phục.  Đúng hơn, nó ám chỉ sự tự chủ giữa nghịch cảnh, một phẩm chất mà thánh Têrêsa thể hiện xuất sắc khi ngài đã đương đầu với nhiều thử thách trong cuộc đời.

Những bài học trên đây chỉ là phần nổi của tảng băng khi nói về sự khôn ngoan vượt thời gian trong những tác phẩm của thánh Têrêsa cả.  Để biết thêm, hãy xem 7 câu nói truyền cảm hứng cho cuộc sống từ các tác phẩm của ngài.

“Chỉ tình yêu mới mang lại giá trị cho tất cả mọi thứ.”

“Thật ngu ngốc khi nghĩ rằng chúng ta sẽ vào thiên đàng mà không vào trong chính mình.”

“Bạn ngợi khen Thiên Chúa bằng việc cầu xin những điều tuyệt vời nơi Người.”

“Điều quan trọng không phải là nghĩ nhiều mà là yêu nhiều, và vì vậy, hãy làm điều khơi dậy tối đa tình yêu của bạn.

“Vì cầu nguyện không gì khác hơn việc ở trong tương quan tình bạn với Thiên Chúa.”

“Dưới ánh sáng của thiên đàng, thì sự đau khổ tồi tệ nhất trên trái đất cũng chỉ được xem là không nghiêm trọng hơn việc phải trải qua một đêm trong khách sạn thiếu tiện nghi.”

“Tình yêu biến công việc thành sự nghỉ ngơi.”

Tác giả: Theresa Civantos Barber
Chuyển ngữ: Ngọc Quí

KHÔNG NẢN CHÍ

Ngày 14-10-2010 là ngày vui đối với người dân Chilê.  Ba mươi ba người thợ mỏ bị sụp hầm sâu gần 700 m, được giải cứu.  Mười bẩy ngày đầu họ sống trong bóng tối, cạn kiệt lương thực.  Họ còn phải sống gần hai tháng nữa mới được cứu lên khỏi mặt đất.  “Tôi ở giữa Thiên Chúa và quỷ sứ.  Tôi bị giằng co giữa hai bên.  Tôi nắm chặt lấy bàn tay Chúa, và Chúa đã cứu tôi.”  Đó là câu nói của anh Mario Sepulveda, người thợ mỏ thứ hai được đưa lên khỏi “địa ngục.”  Khi còn ở dưới hầm, Jimmy Sanchez, anh thợ trẻ nhất nhóm đã viết lên: “Ở đây chúng tôi có 34 người, vì Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi chúng tôi.”

Dù người ta nhắc đến khoa học như chìa khóa cho thành công, nhưng chính việc cầu nguyện đã cho họ sức mạnh để đứng vững.

“Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.”  Đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta qua dụ ngôn bà góa quấy rầy.  Bà là người không còn chỗ dựa vững chãi của người chồng.  Bà lại còn là nạn nhân đáng thương của một sự bất công chèn ép.  Nhất quyết không để mình bị bóc lột, bà đã nhiều lần đến gặp quan tòa để xin ông minh xét cho (c. 3).  Tiếc thay ông này lại là một vị quan tòa bất chính (c. 6), nên vụ kiện bị ngâm trong một thời gian khá lâu.  Nhưng bà không hề nản chí, và cuối cùng bà đã thắng.  Ông quan tòa đã phải đem ra xử vụ kiện, chỉ vì bị bà quấy rầy liên tục.

Đức Giêsu đã táo bạo khi kể dụ ngôn trên.  Ngài dám so sánh Thiên Chúa với ông quan tòa bất chính.  Dĩ nhiên, Thiên Chúa thì tốt lành và chăm lo cho con người, ngược hẳn với ông quan tòa chẳng coi ai ra gì (c. 2).  Nhưng cả hai lại có một nét chung.  Nhiều khi chúng ta có kinh nghiệm về một Thiên Chúa như hững hờ, như không muốn đáp lại tiếng kêu của những người chịu bất công áp bức.  Có biết bao tiếng kêu như thế vang vọng từ khắp địa cầu.  Có biết bao người chịu bách hại mà không thể lên tiếng.  “Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho” (c. 3).  Đó vẫn là lời kêu nài muôn thuở của những người thấp cổ bé miệng.  Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa không lên tiếng bênh vực, không hành động gì để giải cứu, giải oan.

Đức Giêsu mong chúng ta đừng thất vọng trước sự bất công trên thế giới, đừng nản lòng khi lời cầu nguyện của chúng ta có vẻ rơi vào quên lãng.  Hãy tiếp tục cầu nguyện, vì Thiên Chúa tốt hơn ông quan tòa nhiều.  Nếu quan tòa cuối cùng còn xử kiện cho bà góa chỉ vì tránh bị quấy rầy, thì huống hồ là Thiên Chúa, Đấng sẽ làm rõ trắng đen vì lòng cảm thương.  Lẽ nào Người bắt những kẻ Người tuyển chọn, những kẻ ngày đêm kêu cứu với Người phải chờ đợi mãi? (c. 7).  Lòng tin của chúng ta vẫn bị thách đố ngày nào còn bất công trên thế giới.  Chỉ mong ta vẫn giữ được lòng tin như người thợ mỏ ở trong hầm tối.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Lạy Cha, con phó mặc con cho Cha, xin dùng con tùy sở thích Cha.  Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.  Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.  Miễn là ý Cha thực hiện nơi con và nơi mọi loài Cha tạo dựng, thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.  Con trao linh hồn con về tay Cha.  Con dâng linh hồn con cho Cha, lạy Chúa Trời của con, với tất cả tình yêu của lòng con, Vì con yêu mến Cha, vì lòng yêu mến thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha, thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha, không so đo, với một lòng tin cậy vô biên, vì Cha là Cha của con.

Chân phước Charles de Foucauld

7 ĐIỀU THÚ VỊ VỀ ĐỨC MẸ FATIMA NHƯNG ÍT ĐƯỢC BIẾT ĐẾN

Năm 2017 đánh dấu 100 năm kỷ niệm biến cố Đức Mẹ hiện ra với 3 trẻ chăn cừu làng Fatima (Bồ Đào Nha) là Lúcia dos Santos, Francisco Marto và Jacinta Marto.

Đức Mẹ đã hiện ra 6 lần từ ngày 13/5 tới ngày 13/10/1917.

Hẳn chúng ta đã biết về Phép lạ Mặt trời trong lần Đức Mẹ hiện ra ngày 13/10 với sự chứng kiến của ít nhất 70.000 người.  Chúng ta cũng biết Đức Maria đã nhận mình là Đức Mẹ Mân Côi, và kêu gọi mọi người cầu nguyện với kinh Mân Côi cho hòa bình thế giới.

Tuy nhiên có những điều thú vị về Đức Mẹ Fatima nhưng ít được biết đến hoặc bị lãng quên, giống như 7 sự kiện dưới đây (Bản gốc tiếng Anh có 10 sự kiện nhưng chúng tôi xin phép được chọn và dịch các sự kiện dưới đây).

Điều 1Trong lần hiện ra thứ hai vào ngày 13/6/1917, Đức Mẹ đã ra một chỉ thị cho riêng Lucia: “Ta muốn con đến đây vào ngày 13 của tháng tới, để đọc kinh Mân Côi mỗi ngày, và để học cách đọc. Sau đó, ta sẽ nói cho con những gì ta muốn.”

Đề nghị đó có vẻ bất thường bởi ở tầm 10 tuổi, các bé gái ở đây không được học đọc. Trong quyển sách, “Fatima cho ngày nay” (Fatima for Today), cha Andrew Apostoli giải thích. Sứ mệnh của Lucia là truyền bá thông điệp Fatima cho toàn thế giới, việc “Lucia phải học cách đọc và viết là quan trọng nhất.”

Các tác phẩm của sơ Lucia gồm Calls from the Message of Fatima (Tiếng gọi từ Fatima), Fatima in Lucia’s Own Words I, Fatima in Lucia’s Own Words II (Fatima theo lời của Lucia – phần II).

Điều 2. Hai em họ của Lucia – Francisco Marto 8 tuổi và Jacinta Marto 7 tuổi – thì không cần học đọc. Bởi bà đã xin Đức Mẹ cho hai người em này sớm hưởng thiên đàng.

Đức Mẹ nói với Lucia, “Ta sẽ sớm đưa Jacinta và Francisco đi, nhưng con phải ở lại một thời gian. Vì Chúa Giêsu muốn con làm cho ta được biết đến và yêu mến trên thế giới” với lòng sùng kính Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội. Francisco qua đời năm 1919, ở tuổi 11. Em ra đi an bình dù rất đau đớn bởi mắc dịch cúm vào năm 1918.

Điều 3. Jacinta cũng mắc cùng bệnh cúm với Francisco. Dù chỉ 9 tuổi, cô bé sẵn sàng chịu rất nhiều đau khổ. Tại sao?

Lucia kể lại trong quyển “First Memoir”, Đức Trinh Nữ đã hiện ra. Jacinta nói: “Mẹ hỏi tôi rằng tôi có muốn nhiều tội nhân được hoán cải không. Tôi nói có. Mẹ nói rằng tôi sẽ được chuyển đến một bệnh viện, nơi tôi phải chịu nhiều đau khổ để cho các tội nhân được hoán cải, để đền bù cho tội phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria, và đến tình yêu của Chúa Giêsu.”

Điều đó đã xảy ra ở tất cả các chi tiết Đức Mẹ của chúng tôi tiết lộ cho cô. Jacinta qua đời ngày 20/2/1920 tại bệnh viện ở Lisbon, chỉ vài tuần sau ngày sinh nhật thứ 10 của cô.

Điều 4. Xác của Jacinta không bị phân hủy. Thi thể của cô đã được rắc vôi khi chôn, vì luật pháp thời đó quy định bất cứ ai chết vì đại dịch cúm chủng Tây Ban Nha, đều phải làm như vậy.

Tuy nhiên, khi ngôi mộ của cô được khai quật ngày 13/9/1935, nhiều người đã ngạc nhiên khi thấy xác không bị phân hủy. Cô đã được cải táng để chôn bên cạnh người anh trai là Francisco ở nghĩa trang Fatima.

Điều 5. Trong lần hiện ra thứ ba ngày 13/7, Đức Mẹ đã cho các trẻ nhỏ xem thị kiến về hỏa ngục. Đức Mẹ nói: “Chiến tranh sẽ kết thúc; nhưng nếu con người không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến tồi tệ hơn sẽ nổ ra dưới triều đại giáo hoàng của Đức Piô XI.”

Chúng ta biết Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc ngày 11/11/1918, một năm sau khi Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Cuộc chiến “tồi tệ hơn” mà Đức Mẹ ám chỉ đó là Chiến tranh thế giới lần II.

Đó là lời tiên tri, bởi năm Mẹ hiện ra là 1917, khi ấy Đức Benedict XV là giáo hoàng.

Đến 5 năm sau, ngày 6/2/1922, mới có Đức Giáo hoàng lấy danh xưng Piô XI. Ngài trị vì cho đến khi qua đời 10/2/1939. Chiến tranh thế giới lần hai cũng nổ ra vào năm 1939.

Đức Piô XI đã không sợ hãi và lên tiếng chống lại chủ nghĩa phát xít, phát xít Đức quốc xã trong thông điệp Mit Brennender Sorge .

Điều 6. Francisco và Jacinta nằm trong số những Chân Phước trẻ nhất, khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viếng thăm Fatima và tuyên chân phước cho họ ngày 13/5/2000.

Điều 7. Đức Mẹ nói sẽ trở lại 7 lần trong lần đầu hiện ra ngày 13/5. Mẹ nói: “Ta muốn các con trở về đây vào ngày 13 mỗi tháng trong 6 tháng tới, vào cùng một giờ. Sau đó ta sẽ nói cho các con biết ta là ai. Và ta sẽ trở lại đây 7 lần.”

Có nhiều tranh cãi về lần trở lại thứ 7. “Một số người nghĩ đó có thể là có một phép lạ khác.”

Trong quyển tiểu sử A Pathway under the Gaze of Mary (2013) [Con đường nhỏ dưới ánh nhìn Mẹ Maria], do một nữ tu Cát Minh Coimbra từng sống với sơ Lucia nhiều năm, viết lại.

Đó là ngày 15/6/1921, khi Lucia chuẩn bị rời khỏi Fatima để đến một nơi mà giám mục muốn gửi bà đi. Biết rằng có thể mình sẽ không bao giờ được nhìn lại nơi này hay gặp gia đình, Lucia đã đến cây sồi nơi Đức Mẹ hiện ra năm 1917, quỳ xuống và cầu nguyện trong nỗi đau đớn khủng khiếp.

Quyển tiểu sử viết “Một lần nữa Mẹ lại đến Trái đất; và con lại cảm nhận được bàn tay giúp đỡ cùng tình mẫu tử của mẹ trên vai. Con ngước lên và thấy Mẹ, chính là Mẹ Diễm phúc đang nắm tay và chỉ con thấy con đường. Đôi môi Mẹ nói những lời dịu ngọt, ánh sáng và an bình phục hồi trong tâm hồn con. ‘Ta đã ở đây với con lần thứ bảy. Đi đi, hãy đi theo con đường mà vị Giám Mục muốn con đi, đây là ý muốn của Thiên Chúa.’”

Đức Thiện lược dịch từ National Catholic Register

NGHE MỘT NGÔI VỊ

“Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn!”

Henry Scougal nói, “Đã từ lâu, Thiên Chúa đấu tranh với một thế giới cứng đầu; Ngài ban cho nó muôn phúc lộc, nhưng những món quà này không chiếm được trái tim nó.  Cuối cùng, Ngài ban chính Ngài như một quà tặng!  Lắng nghe Ngài là lắng ‘nghe một Ngôi Vị!’”  Ngôi Vị ấy đang sống, đang hoạt động và đang điều khiển lịch sử nhân loại và lịch sử mỗi người chúng ta.

Kính thưa Anh Chị em,

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một; qua Người Con ấy, nhân loại được nghe Lời Ngài. Tin Mừng hôm nay làm sáng tỏ điều Scougal nói, ai nghe Người Con, là ‘nghe một Ngôi Vị’; họ là người “có phúc.”  Cụ thể, với Chúa Giêsu, đó là những ai làm hai điều: “nghe”, và “vâng giữ Lời!” Mặc dù điều này có vẻ khá rõ ràng khi đọc, nhưng thực tế, nó khó hơn tưởng tượng.

Để một cuộc sống được gọi là “có phúc”, trước hết, con người phải biết lắng nghe Đấng tác thành nên nó.  “Nghe” bao hàm nhiều điều hơn là chỉ quen thuộc với các Tin Mừng.  “Nghe” không chỉ là tôi nhận thức tất cả những gì Chúa Giêsu bày tỏ, nhưng còn là tôi đã thực sự nội tâm hóa Lời đã nghe, hiểu những gì Lời đòi hỏi; nói cách khác, tôi biết rõ mục đích đời tôi trong chương trình của Chúa và ra sức thi hành.  Điều quan trọng là hiểu rằng, Tin Mừng luôn sống động và luôn mời gọi.  Nói khác đi, đón nhận Lời không chỉ là đón nhận một số bài học từ các sách cổ; đúng hơn, nghe Lời, có nghĩa là ‘nghe một Ngôi Vị!’

Thứ đến, “vâng giữ Lời.”  Giêsu, Con Thiên Chúa đang nói với chúng ta; Lời Ngài hướng dẫn chúng ta từng bước trong cuộc sống; Lời đang nói trong mọi khoảnh khắc, truyền cảm hứng để chúng ta làm điều này, tránh điều kia.  Và như thế, việc nghe Lời được hoàn thành nhờ thói quen hiệp thông, cầu nguyện suốt ngày và suốt đời; đồng thời, đem áp dụng Lời vào cuộc sống.

Một khi ý thức “nghe Lời Chúa” là nghe chính Chúa Giêsu, Đấng còn có tên là “Ngôi Lời”, thì nhất thiết chúng ta phải thấu hiểu tất cả những gì Ngài muốn nói.  Trên thực tế, nếu không vâng giữ những gợi ý yêu thương liên tục và nhẹ nhàng của Ngài, chúng ta không thể nghe được tiếng Ngài.  Chúng ta trở nên rối bời và dễ dàng bị chi phối, hoặc định hướng bởi những tiếng nói khác trong thế giới, những tiếng nói vốn làm cho chúng ta không còn phân biệt con đường nào là con đường ngắn nhất để nên thánh, con đường nào là con đường vinh quang Chúa chọn cho mình.  Một khi biết nghe và vâng giữ Lời, chúng ta trở nên thiết thân với Chúa Giêsu, nên người nhà của Ngài, sống với Ngài trong mối tương quan còn hơn cả tương quan huyết tộc; đồng thời, trở nên anh chị em với nhau.  Đây cũng là điều mà Phaolô nói đến trong thư Galata hôm nay, “Bởi chưng, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa.”

Anh Chị em,

“Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn!”  Maria, kiểu mẫu trong việc nghe và vâng giữ Lời.  Người phụ nữ trong Tin Mừng thốt lên, “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!”  Cô có một cái nhìn sâu sắc; cô sâu sắc, bởi cô đã cảm nhận được sự vĩ đại của Chúa Giêsu; từ sự vĩ đại đó, cô suy ra sự vĩ đại của Mẹ Ngài.  Với cô, rõ ràng, ai đã sản sinh ra kiệt tác của nhân loại này, phải là một kiệt tác của nhân loại; Maria là “kiệt tác của một Kiệt Tác.”  Và cô ấy đúng!  Lời Chúa mời gọi bạn và tôi gẫm xem, chúng ta có gặp khó khăn nào trong việc nghe và quan sát Lời?  Hãy nói với Chúa, chúng ta đã quá chú ý đến nhiều tiếng nói khác từ khôn ngoan thế gian, đang khi với Giêsu, chúng ta ngoảnh mặt và từ chối.  Phúc lộc dành cho bạn và tôi, là những người đang nghe Lời, ‘nghe một Ngôi Vị’; nhưng, chúng ta chỉ thật sự hưởng lấy phúc lộc đó, khi dám nuốt lấy Lời và để cho Lời trở thành kim chỉ nam cho cuộc sống mình.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, Thầy Dạy đức tin, xin giáo dục con như đã giáo dục Giêsu trong việc nghe và giữ Lời; nhờ đó, con cũng có thể trở nên ‘một kiệt tác’, dẫu là một ‘kiệt tác quèn!’”, Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

LÒNG BIẾT ƠN

Có một thời, người ta có khuynh hướng bỏ hẳn lời cám ơn trong mối tương quan hằng ngày.  Trong thời bao cấp, những nghi thức giao tế bị coi là những hủ tục và tàn dư của thời phong kiến.  Người ta chủ trương cuộc sống sòng phẳng, không ai mắc nợ ai, cho nên không ai phải cám ơn ai.  Hậu quả là những gương mặt khô như ngói ở những văn phòng hành chính, những cái nhìn lạnh nhạt ở nơi công cộng, và những lời nói trống không trong giao tiếp với những người lớn tuổi hơn mình.  Cuộc sống thiếu lời cám ơn sẽ trở nên khô khan, đơn điệu, giống như vườn thiếu cây xanh.  Lược bỏ phép lịch sự sẽ biến cuộc sống này thành sa mạc hoang dã.  Có lẽ vì đã nhận ra hậu quả đáng tiếc của quan niệm này nên gần đây, một số cơ quan mở những lớp dạy cười, dạy nói lời cám ơn, và chào hỏi cho nhân viên của mình.

Biết nói lời cám ơn nhau, con người cũng cần thể hiện lòng biết ơn đối với Thượng Đế.  Đó là một trong những mục đích quan trọng của các tôn giáo.  Đó cũng là nội dung của lời cầu nguyện Kitô giáo.  Thông thường, chúng ta đến với Chúa chỉ để xin ơn.  Ít khi chúng ta bày tỏ lòng khâm phục, tri ân và mến mộ đối với Chúa và các thánh.  Chúa Giêsu hôm nay khiển trách những người cùi đã được ơn mà không biết cảm tạ Thiên Chúa.  Trong mười người cùi được ơn chữa lành, duy nhất có một người quay lại tạ ơn Chúa Giêsu mà người đó lại là người ngoại.  Khi ghi lại lời phàn nàn của Chúa, chắc hẳn Thánh Luca cũng nhằm phê phán những người Do Thái luôn cậy mình là dân riêng của Chúa nhưng lại không sống đúng với danh dự cao quý đó.  Không những thế, họ lại coi thường những người ngoại.  Dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, một người ngoại lại mang một tâm hồn đạo đức và biết tạ ơn Chúa.  Và như thế, người ấy không còn phải là “người ngoại” nữa, vì đã biết dâng lời tạ ơn Chúa và nhận ra quyền năng của Ngài.  Ý tưởng này, chúng ta cũng thấy trong sách Các Vua quyển thứ hai, với trường hợp ông Naaman, một vị tướng của Syria.  Sau khi được chữa khỏi, dù là người ngoại, ông đã trở thành một “tín hữu” vì ông tuyên xưng Thiên Chúa của người Israel là Thiên Chúa thật: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel.”  Việc xin một khối lượng đất đủ hai con la chở được để đem về quê hương đã chứng minh niềm tin chân thành ấy.

Nhờ biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, chúng ta luôn nhận ra Ngài hiện diện trong cuộc đời.  Việc tạ ơn Chúa cũng giúp chúng ta nhìn cuộc sống lạc quan hơn, bởi vì vũ trụ và cuộc sống này là do Chúa tạo dựng.  Ngài kêu gọi chúng ta bằng khả năng của mình, cộng tác với Ngài để tô điểm cho trần gian thêm tươi đẹp.  Nếu cuộc sống trần gian còn nhiều khiếm khuyết là do con người chưa thiện chí cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo của Ngài.  Thậm chí có người còn đi ngược với chương trình sáng tạo của Chúa, phá vỡ sự hài hòa của môi trường cuộc sống và gây tai họa cho đồng loại cũng như cho thiên nhiên.  Một khi sống tâm tình tạ ơn và tôn thờ Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban những ơn cần thiết phần hồn phần xác.  Thiên Chúa như người cha yêu thương con cái.  Ngài biết chúng ta cần thiết những gì.  Ngài cũng biết rõ những gì đem lại ích lợi đích thực và lâu dài cho chúng ta.  Chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn lành, theo ý của Ngài và nhằm đến những điều tốt đẹp cho mỗi chúng ta.  Cách đây vài ngày (ngày 4-10), chúng ta vừa mừng kính thánh Phanxicô thành Assisi, cũng gọi là thánh Phanxicô khó khăn.  Thánh nhân là người yêu thiên nhiên vũ trụ, vì qua thiên nhiên, ngài khám phá ra sự hiện diện quyền năng của Chúa.  Nếu những loài cỏ cây, những bông hoa vô danh nhỏ bé mà còn được Chúa trang điểm yêu thương săn sóc như thế, huống chi con người chẳng lẽ Chúa không thương.  Dưới cái nhìn của vị thánh nghèo, mọi vật mọi loài đều luôn cất tiếng ca tụng Chúa, làm thành một bản giao hưởng bất tận tuyệt vời.

Lòng biết ơn đối với Chúa không chỉ dừng lại ở ngôn từ nơi môi miệng, nhưng phải thể hiện qua việc tuân giữ giáo huấn của Người.  Cũng như trong mối tương quan trong gia đình, con cái không thể chỉ biết ơn cha mẹ bằng những lời khuôn sáo, mà lòng biết ơn và yêu mến cha mẹ cần phải được chứng tỏ bằng những việc làm đích thực.  Tuân giữ Lời Chúa là cách thể hiện lòng biết ơn tốt đẹp nhất.  Một khi chú tâm tuân giữ Lời Chúa, chúng ta mới có khả năng thông truyền Lời Chúa cho anh chị em mình.

Tin vào lòng thương của Chúa giúp chúng ta kiên vững trong gian nan đau khổ.  Thánh Phaolô, một tù nhân vì Chúa Giêsu, đã khích lệ con thiêng liêng của mình là Timôthê.  Ngài khẳng định: dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa luôn trung thành.

“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.”  Lời cầu xin thống thiết kèm theo sự xác tín của những người cùi đã được Chúa nhận lời.  Họ đã được lành bệnh sau khi đi trình diện với các tư tế theo Luật ông Môisen đã quy định.  Người tín hữu khi đến với các linh mục là những tư tế của Tân Ước để thú nhận mọi tội lỗi nơi tòa giải tội cũng được Chúa tha thứ và chữa lành.  Qua hành động trung gian của các linh mục, chính Chúa Giêsu chúc lành và nâng đỡ chúng ta, nhờ đó, chúng ta có thể trở lại hòa nhập với đời sống cộng đoàn, nhất là chúng ta được nối kết trong mối tình thân thiêng liêng với Chúa, nhờ lòng yêu mến thiết tha mà chúng ta bày tỏ với Người.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

7 ĐIỀU BẠN CẦN BIẾT VỀ THÁNH FAUSTINA VÀ THỊ KIẾN CỦA THÁNH NỮ VỀ HOẢ NGỤC

Trong khi người Công giáo trên khắp thế giới đã quen thuộc với Thánh Faustina Kowalska và mối liên hệ của thánh nữ với Lòng Chúa Thương Xót, thì có thể nhiều người lại không biết về cách mà Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ về ơn gọi, hoả ngục và sứ mệnh của ngài trong việc rao truyền lòng thương xót của Thiên Chúa.  Dưới đây là bảy sự kiện quan trọng cần biết về vị thánh nổi tiếng này:

1. Tên thánh của thánh nữ là Helena.  Thánh Maria Faustina Kowalska Thánh Thể sinh ra tại Ba Lan với tên gọi Helena Kowalska vào ngày 25 tháng 8 năm 1905.  Thánh nữ qua đời vào ngày 05 tháng 10 năm 1938, sau khi được Chúa Giêsu và Mẹ Maria chọn để trở thành tông đồ đầy bất ngờ về Lòng Chúa Thương Xót.  Thánh nữ đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên thánh vào ngày 30 tháng 4 năm 2000.  Ngày lễ của thánh nữ là ngày 05 tháng 10.

2. Thánh nữ vốn không định trở thành một nữ tu.  Cô gái trẻ Helena không có ý định bước vào đời sống tu trì, nhưng ở tuổi 19, trong khi tham dự một buổi khiêu vũ với chị gái Natalia ở Lodz, thánh nữ đã có được một thị kiến về Chúa Giêsu đau khổ, Người đã hỏi thánh nữ: “Ta sẽ chịu đựng con trong bao lâu nữa và con sẽ lảng tránh Ta trong bao lâu nữa đây?”  Sau khi cầu nguyện tại Nhà thờ Chánh toà, thánh nữ đã khởi hành đi Warsaw, nơi thánh nữ gia nhập Dòng các Nữ tu của Đức Mẹ Từ Bi (Congregation of the Sisters of Our Lady of Mercy).  Vào ngày 30 tháng 4 năm 1926, ở tuổi 20, thánh nữ được nhận tu phục và tên dòng của mình.

3. Chúa Giêsu đã mô tả cho thánh nữ bức hình Lòng Chúa Thương Xót của Người. Thánh Faustina đã viết rằng vào đêm Chúa Nhật, ngày 22 tháng 2 năm 1931, khi đang ở trong phòng riêng của mình ở Plock, Ba Lan, sau khi chưa hoàn toàn bình phục từ căn bệnh lao phổi, Chúa Giêsu đã hiện ra trong một trang phục màu trắng với những tia sáng đỏ và xanh nhạt phát ra từ trái tim của Người.  Theo nhật ký của thánh nữ, Chúa Giêsu bảo thánh nữ “Hãy vẽ một bức hình theo mẫu mà con nhìn thấy, với hàng chữ: ‘Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa’ [bằng tiếng Ba Lan: ‘Jezu, ufam Tobie.’]  Ta ước mong hình ảnh này được tôn kính, trước tiên là trong nhà nguyện của các con, và sau đó là trên toàn thế giới.  Ta hứa rằng linh hồn nào tôn kính bức hình này sẽ không bị hư mất.”

4. Thánh nữ đã nhìn thấy một thị kiến về hoả ngục.  Vào tháng 10 năm 1936, trong một cuộc tĩnh tâm kéo dài 8 ngày, thánh nữ đã được một thiên thần dẫn đến nơi mà ngài gọi là “những vực sâu hoả ngục”, nơi mà thánh nữ đã mô tả trong nhật ký của mình rằng đó là một nơi của những “hình khổ cùng cực” và “lửa sẽ xuyên qua linh hồn mà không hủy diệt nó – một sự đau khổ khủng khiếp.”  Hoả ngục này vốn tràn ngập bóng tối, và mặc cho bóng tối đó, “ma quỷ và các linh hồn bị đày đọa đều nhìn thấy nhau và nhìn thấy tất cả những điều tội lỗi, cả của người khác và của chính họ.”

5. Thánh nữ đã được cho thấy những mức độ khác nhau của hoả ngục.  Theo Paul Kengor, giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Grove City và là một cộng tác viên của hãng tin National Catholic Register, thánh Faustina “đã quan sát thấy những tầng địa ngục giống như của Dante vốn dành riêng cho những đau đớn cụ thể đáng phải gánh chịu từ cái thế giới sa đọa này.”  Thánh Faustina cũng đã ghi lại trong nhật ký của mình rằng: “Có những hang hốc và hố sâu cực hình, ở đó hình thức đau khổ này khác với hình thức đau khổ kia.”  “Còn có những hình khổ đặc biệt dành riêng cho từng linh hồn.  Đây là những hình khổ về giác quan.  Từng linh hồn phải chịu những hình khổ kinh khủng không sao tả được, liên quan đến cách mà họ đã phạm tội.”

6. Hầu hết những linh hồn trong hoả ngục vốn đã không tin vào hoả ngục. Thánh Faustina đã nói rằng những gì mình đang chia sẻ chỉ là “một cái bóng mờ nhạt so với những gì tôi đã nhìn thấy.  Nhưng tôi xin lưu ý một điều: hầu hết các linh hồn trong hỏa ngục là những linh hồn đã không tin có hỏa ngục.”  Thánh nữ đã chứng thực trong nhật ký của mình rằng: “Tôi, nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã xuống những vực thẳm hỏa ngục để có thể nói cho các linh hồn biết về hỏa ngục và chứng minh sự hiện hữu của nó.”

7. Thị kiến của thánh nữ là nhằm để cứu vớt các linh hồn.  Kengor nói rằng, “Những thị kiến đáng sợ này cũng vang vọng một tính cấp bách rõ ràng đối với lòng thương xót.  Thông qua những thị kiến này cùng với các sứ giả của chúng, Thiên Chúa đang cho chúng ta thêm một cơ hội nữa.  Chúng ta đang được cảnh báo rằng phải chỉnh đốn bản thân, phải ngừng việc phạm tội và phải cố gắng ăn năn đền tội, trước khi quá muộn.”

Alejandro Bermudez – Nguồn: Catholic News Agency (05/10/2021)
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên

CON ĐƯỜNG NHỎ

Hầu hết trong chúng ta, ai cũng đã từng nghe nói về Thánh Têrêxa Hài Đồng, nhà thần nghiệm người Pháp qua đời năm 1897 ở tuổi 24 và có lẽ đây là vị thánh nổi tiếng nhất trong hai thế kỷ qua.  Thánh Têrêxa nổi tiếng vì nhiều chuyện, nhất là về con đường tâm linh được gọi là “con đường nhỏ” của ngài.  “Con đường nhỏ” là gì?

Suy nghĩ chung thường nhìn Thánh Têrêxa và “con đường nhỏ” của ngài là lòng mộ đạo đơn sơ không phải là công lý so với chiều sâu con người hay tâm linh của ngài.  Thường thường “con đường nhỏ” được đơn giản hiểu là, vì danh Chúa Giêsu, chúng ta làm những việc bác ái nhỏ bé, ẩn giấu, khiêm nhường cho người khác mà không mong đợi được đáp trả lại.  Trong cách giải thích phổ biến này, chúng ta đã gọt rửa, tẩy sạch các vết nhơ và tươi cười với những người khó chịu để làm vui lòng Chúa.  Chắc chắn ở một vài khía cạnh, điều này là đúng; nhưng “con đường nhỏ” của Thánh Têrêxa cần được hiểu sâu rộng hơn.

Đúng, “con đường nhỏ” khuyên chúng ta nên làm những việc nhỏ, dễ thương với nhau nhân danh Chúa Giêsu, nhưng con đường này có những chiều kích sâu đậm hơn.  “Con đường nhỏ” của Thánh Têrêxa dẫn đến sự thánh thiện dựa trên ba chuyện: nhỏ bé, ẩn danh và có động lực riêng.

Nhỏ bé: Đối với Thánh Têrêxa, “nhỏ bé” trước hết không phải là nhỏ bé trong các hành động chúng ta làm, rửa chén, gọt khoai hay tươi cười với người khó chịu.  Nhỏ bé trước hết là nói đến tình trạng thấp hèn của chính mình, tình trạng khó nghèo tận cùng của mình trước mặt Chúa.  Đứng trước Thiên Chúa, chúng ta nhỏ bé.  Chấp nhận mình nhỏ bé, hành động trong tinh thần nhỏ bé là khiêm nhường.  Chúng ta đến với người khác, đến với Chúa trên “con đường nhỏ” khi chúng ta làm các việc bác ái nhỏ cho người khác, chứ không bằng sức mạnh và đức tính mà chúng ta cảm nhận lúc đó, nhưng đúng hơn là qua cảm nhận mình khó nghèo, mình bất lực, mình trống rỗng để ân sủng Chúa làm việc qua chúng ta, để những gì chúng ta đang làm sẽ lôi kéo người khác đến với Chúa chứ không phải đến với mình.

Hơn nữa sự thấp bé của chúng ta làm cho chúng ta nghĩ, đa số chúng ta, chúng ta không làm chuyện gì lớn để thay đổi lịch sử nhân loại.  Nhưng chúng ta có thể thay đổi thế giới qua các việc thấp bé của mình, chúng ta gieo đây đó hạt mầm ẩn giấu, như một loại kháng sinh tiềm ẩn cho sức khỏe tâm hồn, phân chia nguyên tử tình yêu trong chính con người mình.  Và như thế, “con đường nhỏ” là làm những chuyện khiêm tốn, ẩn giấu.

Ẩn danh: “Con đường nhỏ” của Thánh Têrêxa là con đường ẩn giấu, để những gì Cha thấy trong ẩn giấu sẽ được đền đáp trong ẩn giấu.  Và những gì ẩn giấu không phải là việc làm bác ái của chúng ta, nhưng là chính chúng ta, những người đang làm việc này.  Trong “con đường nhỏ”, các hành động bác ái nhỏ của chúng ta đa phần không được chú ý, dường như không có một tác động nào thực sự trên lịch sử nhân loại và nó cũng không mang lại cho chúng ta một lòng biết ơn nào.  Nó vẫn ẩn giấu, không ai biết nhưng bên trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, những gì ẩn giấu, không vụ lợi, không ai biết, những gì bị xóa mờ, những gì không đáng kể, không quan trọng chính là chiếc xe quan trọng nhất của tất cả để ân sủng ở một mức độ sâu đậm nhất.  Giống như Chúa Giêsu, Chúa không cứu chúng ta bằng các phép lạ giật gân và các hành động đáng kể, nhưng Ngài cứu chúng ta qua sự vâng phục không điều kiện với Chúa Cha, và qua sự tử đạo thầm lặng, các việc làm của chúng ta cũng vẫn là những việc làm không ai biết, để cái chết và tinh thần chúng ta để lại mới làm cho chúng ta thực sự nên ơn ích.

Động lực riêng: Cuối cùng, “con đường nhỏ” dựa trên một động lực đặc biệt.  Chúng ta được mời gọi để hành động khởi đi từ sự thấp bé và ẩn danh của mình, làm các hành động yêu thương nhỏ, phục vụ người khác vì một lý do đặc biệt, theo nghĩa bóng, đó là lau gương mặt đang đau khổ của Chúa Kitô.  Bằng cách nào?

Thánh Têrêxa Lisiơ là người cực kỳ được ân phúc và có biệt tài.  Dù từ đầu đời, ngài đã trải qua nhiều đau khổ, nhưng như ngài công nhận và theo chứng từ của nhiều người, Thánh Têrêxa được yêu thương một cách thuần khiết, sâu đậm và tuyệt vời đến nỗi làm cho nhiều người phải ao ước.  Ngài cũng là em bé rất dễ thương, được bao quanh bởi yêu thương và an toàn của một đại gia đình mà mỗi nụ cười, mỗi giọt nước mắt đều được chú ý, đều được yêu mến (và thường được chụp hình).  Nhưng khi ngài lớn lên, ngài nhanh chóng nhận ra, những gì có thật trong đời sống của mình không phải ai cũng có.  Nụ cười và nước mắt của họ không ai chú ý và cũng không được ai yêu mến.  Như thế “con đường nhỏ” của ngài xây dựng trên một động lực đặc biệt.  Và đây là lời của Thánh Têrêxa:

“Một ngày chúa nhật nọ, khi nhìn hình Chúa Giêsu trên thập giá, hình ảnh máu chảy ra từ bàn tay cực thánh của Ngài đã làm cho tôi xúc động mãnh liệt.  Tôi cảm thấy đau đớn tột cùng khi nghĩ, giọt máu này rơi xuống đất mà không ai vội đến thấm.  Tôi quyết tâm giữ tinh thần mình luôn ở dưới chân thập giá và nhận sương rơi của Ngài…  Ôi, tôi không muốn giọt máu này bị mất.  Tôi sẽ dành cả đời để lau thấm nó vì lợi ích cho các linh hồn.  Sống cho tình yêu, đó là lau khô khuôn mặt của bạn.”

Sống “con đường nhỏ” là để ý và yêu mến các giọt nước mắt không ai chú ý rơi từ khuôn mặt của những người đau khổ.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

ĐỨC TIN KIÊN TRUNG

Hành trình Đức tin là một hành trình liên lỉ, suốt đời.  Tin vào Chúa là chọn Ngài làm lý tưởng tối thượng của cuộc đời.  Đức tin không giống như ghi danh vào một tổ chức xã hội, khi thích thì tuân thủ, khi không hài lòng thì bất mãn tiêu cực.  Gia nhập Giáo Hội không giống như xin việc ở một công ty, chỉ nhất thời tạm bợ và đòi hỏi quyền lợi.  Tin vào Chúa cũng là sự chọn lựa ưu tiên cho cả cuộc đời.  Chính vì vậy mà cần phải có lòng kiên trung, trong mọi biến cố hoàn cảnh.

Thánh Phaolô khuyên nhủ người môn sinh của ngài là Timôthê, hãy “khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa” Đặc sủng này, ông Timôthê đã đón nhận qua nghi thức đặt tay (tức là Bí tích Truyền chức thánh).  Đặc sủng, tức là ơn đặc biệt do Chúa ban.  Ơn này vẫn hiện hữu trong con người được lĩnh nhận các Bí tích, nhưng cần phải được khơi lại, vì nhiều khi đặc sủng này bị lớp bụi thời gian bao phủ.  “Khơi dậy đặc sủng”, tức là tái nhận ra quyền năng của Thiên Chúa hiện hữu nơi chúng ta, giúp chúng ta ý thức bổn phận của mình trong cộng đoàn Giáo Hội.  Thánh Phaolô lúc đó đang bị cầm tù.  Ông khuyên nhủ dặn dò người môn đệ của mình hãy vững tâm và hãy trung thành với sứ mạng loan báo Tin Mừng, đồng thời sống mẫu mực, để những lời giảng dạy có sức thuyết phục đối với người nghe.  Vị Tông đồ minh chứng về lòng trung thành của mình đối với Chúa, ngay cả trong tù ngục xiềng xích.

Trong bài Tin Mừng, một ngày nọ, các môn đệ xin Chúa ban thêm Đức tin, nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu xem ra không ăn nhập với câu hỏi của các ông.  Theo giáo huấn của Chúa, điều quan trọng không hệ tại ở việc chúng ta có nhiều Đức tin hay ít, nhưng là ở ý thức về Đức tin nơi chúng ta.  Đối với người tín hữu, Đức tin luôn hiện hữu từ ngày được thanh tẩy.  Qua Bí tích Thanh tẩy, Chúa ban cho chúng ta Đức tin, như một món quà vô giá.  Món quà ấy, luôn hiện diện trong tâm hồn chúng ta và để lại dấu ấn không thể xoá nhoà.  Có những người để cho lớp thời gian che phủ, đến nỗi Đức tin bị bóp nghẹt.  Như thế, theo Chúa Giêsu, mỗi người tín hữu phải khơi lên ngọn lửa Đức tin nơi cuộc đời mình, để ngọn lửa ấy soi sáng mọi hành động, sưởi ấm con tim và tăng cường sức mạnh nơi họ.

Đức tin Chúa ban là món quà quý giá đem lại niềm vui, đồng thời cũng là nguồn sức mạnh để chúng ta vươn lên giữa dòng đời.  Xã hội thời Đức Giêsu là chế độ nô lệ.  Vì thế, trong giáo huấn của Người, chúng ta vẫn thấy những hình ảnh ông chủ và người nô lệ hoặc người đầy tớ.  Chúa đã dùng những hình ảnh và quan niệm thời bấy giờ, để diễn tả nội dung giáo huấn của Người.  Những người đầy tớ, đương nhiên phải làm bổn phận của người đầy tớ.  Người đầy tớ không có quyền đòi hỏi nơi ông chủ.  Ông Chủ tối cao chính là Thiên Chúa.  Ngài dựng nên con người và cho họ hiện hữu trên trái đất này.  Của cải vật chất mà mỗi người đang sở hữu, thực ra cũng chỉ là tài sản Chúa trao cho quản lý và sinh lợi.  Có những người quản lý trung tín, nhưng cũng có những người quản lý bất trung.  Trong Tin Mừng thánh Luca, nhiều lần Chúa Giêsu đã mạnh mẽ lên án những người giàu có mà cậy tiền cậy của để khinh thường người khác, nhất là ích kỷ độc đoán và dửng dưng với người nghèo khổ.  Người quản lý trung tín vừa biết chăm lo để tài sản được sinh lợi, vừa biết phân phát để giúp đỡ người khác.  Con Thiên Chúa làm người đã trở nên đầy tớ (tức là người phục vụ) của mọi người.  Nhờ mầu nhiệm Nhập thể và Cứu cuộc, con người, vốn thấp hèn và tội lỗi, lại trở nên thánh thiện cao sang.

“Khi anh em đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng.  Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”  Lời dạy của Chúa có thể gây sốc đối với chúng ta!  Nhưng Chúa Giêsu muốn khẳng định, ở đời này, mỗi khi làm được việc gì, suy cho cùng, đó cũng làm những việc bổn phận mình mà thôi.  Người dạy ta khiêm tốn khi thành công, kiên trì khi thất bại, và nhất là đừng cậy mình ỷ thế, vênh vang tự đắc khi làm được những việc lớn lao.

Như trên đã nói, hành trình Đức tin là hành trình liên lỷ suốt đời.  Hành trình Đức tin cũng nhiều nỗi gian truân.  Ngôn sứ Kha-ba-khúc hoạt động dưới thời Giơ-hô-gia-kim.  Đây là giai đoạn đen tối của lịch sử Do Thái: luân lý suy đồi, tôn giáo pha tạp, vua quan lầm lạc và đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.  Sách mang tên Kha-ba-cúc được viết khoảng từ năm 612 đến 597 trước Công nguyên.  Tác giả than vãn với Chúa, vì dân tộc suy đồi.  Ông phàn nàn vì cầu nguyện mãi mà Chúa không đáp lời.  Chính trong bối cảnh đó, Chúa đã trả lời ông.  Ngài hứa với ông, người công chính sẽ được Chúa bù đắp, kẻ gian ác sẽ phải diệt vong.  Ngài phán: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.”  Lời hứa này đã tiếp sức cho vị ngôn sứ, để ông can đảm thực thi sứ vụ của mình, vì ông biết ông luôn có Chúa ở cùng.

Trong bối cảnh hiện tại, người tín hữu đôi khi bị cám dỗ chán nản, vì những người tin vào Chúa là một thiểu số quá ít.  Hơn nữa, những khuynh hướng và quan điểm tục hoá đang làm cho Đức tin phai nhạt.  Rồi bạo lực tràn lan trong xã hội.  Khi chứng kiến những bất công, hoặc khi phải đối diện với những khó khăn thử thách, nhiều khi chúng ta cũng thốt lên như ngôn sứ Kha-ba-cúc: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: “Bạo tàn!” mà Ngài không cứu vớt?”  Từ nơi sâu thẳm của tâm hồn, Chúa vẫn đang ngỏ lời với chúng ta.  Ngài khuyên chúng ta hãy kiên trung trước mọi thử thách.  Những ai sống công chính sẽ không bao giờ bị bỏ rơi.  Lịch sử cứu độ và lịch sử cá nhân mỗi người đã chứng minh điều đó.

Khi gia nhập Giáo Hội qua Bí tích Thanh tẩy, mỗi chúng ta, dù còn nhỏ, đã tuyên xưng Đức tin và hứa từ bỏ ma quỷ, từ bỏ những hành vi ám muội xấu xa để sống xứng đáng là con cái ánh sáng.  Nhiều người tín hữu không ý thức lời hứa ấy, thậm chí họ không biết là cha mẹ và người đỡ đầu đã thay họ để tuyên xưng những điều này.  Chính vì thiếu hiểu biết, nên đời sống Đức tin của họ mờ nhạt.  Lời thề hứa từ bỏ ma quỷ, từ bỏ tội lỗi vì thế mà không được tôn trọng giữ gìn.

Cũng có người quan niệm lệch lạc, cho rằng tuyên xưng Đức tin trong kinh Tin Kính là đủ.  Đức tin kiên trung thể hiện qua việc tuyên xưng Đức tin trong Phụng vụ và việc sống Đức tin trong cuộc đời.  Phụng vụ giúp ta tăng trưởng Đức tin.  Đời sống cụ thể là nơi chúng ta làm chứng cho Đức tin.  Đức tin tuyên xưng, phải đi đôi với Đức tin thực hành.  Tinh thần Đức tin phải thấm nhập cuộc sống gia đình cũng như mọi lĩnh vực của đời sống.  Một cách cụ thể, người tin Chúa phải tránh nói dối, tránh xúc phạm đến danh dự, tài sản và thân thể người khác.  Người tin Chúa phải luôn xác định rằng, mọi hành vi và tư tưởng của tôi, Chúa đều thấu hiểu.  Ngài biết rõ và Ngài sẽ xét xử tôi về những hành vi đó.  Nếu luôn tâm niệm như thế, người Kitô hữu sẽ cảm nhận được giá trị của cuộc sống và trân trọng từng phút giây cuộc đời.   Bởi lẽ mỗi phút giây ấy là cơ hội để chúng ta gặp Chúa và thực thi giáo huấn của Người.

“Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. Người phán: các ngươi chớ cứng lòng.”  Lời Thánh vịnh nhắc nhở chúng ta về giây phút hiện tại của cuộc sống trần gian.  Hãy nghe tiếng Chúa.  Không bao giờ là muộn, vì Chúa bao dung và rộng lượng thứ tha.  Hãy xác tín nơi Ngài, dù tội lỗi đến đâu chăng nữa.  Tin vào Ngài sẽ không bao giờ thất vọng, vì Chúa là Đấng tín trung.

TGM Vũ Văn Thiên

TỔNG LÃNH THIÊN THẦN CỦA THIÊN CHÚA

Trong bức tranh vẽ trên trần nhà, tường vách thánh đường kính các Thiên Thần ở Palermo có hình cùng tên và chức vị của bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần:

  1. Michael – Victoriosus – Người chiến thắng
  2. Gabriel – Nuntius – Sứ giả
  3. Raphael – Medicus – Thầy thuốc
  4. Uriel – Fortis Socius – Người đồng hành mạnh mẽ
  5. Jehudiel – Remunerator – Người làm ơn
  6. Barachiel – Adjutor – Người trợ giúp
  7. Sealthiel – Oarator – Người bầu cử

Tổng lãnh Thiên Thần Michael

Đứng đầu bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa.  Tiên Tri Daniel đã diễn tả Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng về phía Thiên Chúa: “Thời đó, Michael là đấng vẫn thường che chở dân người.” ( Daniel 12,1).

Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?

Theo tương truyền:

Thiên Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.

Thiên Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.

Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.

Tổng lãnh Thiên Thần Michael là vị Thiên Thần có sức mạnh khả năng đi đến quyết định dứt khoát mang lại chiến thắng cho Thiên Chúa, khi giết chết con rồng mãng xà ma quỷ, như sách Kinh Thánh thuật lại: “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà.  Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến.  Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa.  Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó.” Khải Huyền 12, 7-9).

Tổng lãnh Thiên Thần Michael, theo vâng mệnh Thiên Chúa, đã quyết định lằn ranh giữa Trời và hỏa ngục.  Vì thế , Vị Tổng lãnh Thiên Thần Michael được chọn là quan thầy bầu cử cho những người trong giờ phút cơn hấp hối.

Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel

Tên Gabri-El có ý nghĩa “sức mạnh của Thiên Chúa.”  Là Vị sứ giả của Thiên Chúa được sai đến báo tin cho thiếu nữ Maria ở làng Nazaret, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sẽ đầu thai làm người trong cung lòng Maria: “Sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng sẽ phủ rợp bóng trên chị…” ( Lc 1,26/38).

Khi hiện ra với Ngôn sứ Dacharia trong đền thờ, vị Tổng lãnh Thiên Thần đã nói: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông.” ( Lc 1,19).

Hằng ngày trong đời sống đức tin của Hội Thánh, vào lúc 12.00 giờ trưa chuông thánh đường đổ hồi, kinh tuyền tin được xướng đọc lên.  Như vào mỗi ngày Chúa Nhật lúc 12.00 giờ trưa, Đức Thánh Cha từ trên cửa sổ văn phòng làm việc cùng đọc kinh truyền tin với mọi người Giáo dân đứng tụ tập ở quảng trường Thánh Pherô bên Vatican.

Tiếng chuông lúc 12.00 trưa và Kinh Truyền tin nhắc nhớ đến Tổng lãnh Thiên Thần Gabri-El, là Sứ Giả của Thiên Chúa mang loan báo tin vui Chúa Giêsu Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người.

Tổng lãnh Thiên Thần Rafael

Tên Rafa-El mang ý nghĩa “Thiên Chúa chữa lành.”  Trong Kinh Thánh sách Tobia thuật lại Thiên Thần Rafael vâng mệnh Thiên Chúa chữa lành bệnh mắt cho Tobia:

“Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa.  Và thiên sứ Ra-pha-en được sai đến chữa lành cho cả hai.  Ông Tô-bít thì được khỏi các vết sẹo trắng ở mắt, để ông được ngắm nhìn tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa.” (Tobia 3, 16)

Thiên Thần Rafael luôn hằng đồng hành che chở Tobia trên đường đi.  (Tobia 6, 10)

Tổng lãnh Thiên Thần Rafael trở thành bổn mạng phù hộ cho con người đi xa du lịch

Ông Bà Cha Mẹ nào ngay từ lúc con cháu còn nhỏ thơ bé cũng đều to nhỏ âm thầm cầu xin với các Thiên Thần phù hộ cho đời sống thể xác lẫn tinh thần của chúng.  Bằng an hồn xác là nhu cầu căn bản rất cần thiết cho đời sống.

Sống lòng bác ái giúp đỡ nhau, kính trọng sự sống, điều chân thật lẽ phải luôn là nhu cầu làm nên khung nền kiến tạo đường đời sống tình liên đới con người với nhau trong xã hội.

Sống thể hiện một đời sống trong tương quan tình liên đới với Đấng là nguồn đời sống, nguồn tình yêu và ơn tha thứ, luôn là nhu cầu khát vọng của tinh thần con người ở đời.

Nhu cầu tinh thần này không chỉ là nhu cầu thiêng liêng đạo giáo, nhưng đó là nhu cầu đời sống văn hóa của con người ở vào mọi thời đại.  Nhu cầu tinh thần văn hóa này cùng với những nhu cầu khác cho sự sống thể xác giúp đời sống có đầy đủ ý nghĩa, triển nở cùng mang đến niềm vui hạnh phúc.

Các Thiên Thần của Thiên Chúa là Sứ giả được Thiên Chúa gửi sai đến cùng đồng hành trợ giúp con người trong mọi hoàn cảnh đời sống thể hiện tình lòng thương xót bác ái vị tha.

Với người tín hữu Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa là Đấng của sự chân thật, sự tốt lành thiện hảo, là Thiên Chúa của lòng khoan dung tha thứ qua Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô.

Lòng tin vào Thiên Thần vượt quá khỏi sự suy hiểu cùng thắc mắc của trí khôn con người, thắc mắc thuộc về đời sống con người, và thắc mắc giúp con người tỉnh thức thêm ra.

Lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa, 29.09.

Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long