NGƯỜI KHIÊM TỐN

Trở thành người khiêm nhường, không nhất thiết phải che giấu hết các tài năng, không cần phải giả vờ ngu dốt, không buộc phải sống trong một căn nhà nhỏ hẹp cũ kỹ, ăn mặc rách nát.  Cũng không cần phải lúc nào cũng cúi đầu “vâng vâng, dạ dạ,” đi đứng khom lưng, vẻ mặt đăm chiêu như đang chìm sâu vào miền vô cực nào đấy.  Cũng không nhất thiết phải đi tu, đến nhà thờ, đi lễ chùa, quỳ gối chắp tay thành khẩn, làm biết bao việc hãm mình khổ chế, không ăn ngon mặc đẹp, không đi dự tiệc sang, không dám tiêu xài.  Cũng đừng bao giờ sợ được khen, sợ chìm vào hư danh mà cố tình không cống hiến, không bộc lộ hết sức mình vì lợi ích chung của tập thể.

Tất cả những điều này chỉ là bề ngoài.  Việc sống một đời sống kham khổ, chịu sỉ nhục, khinh miệt… có thể là một trợ giúp để có sự khiêm nhường nhưng tự bản thân nó không phải là sự khiêm nhường vì người ta nhiều lúc phải chịu như thế bởi không thể làm gì khác hơn, đành phải cắn răn chịu đựng.  Ngược lại, ăn mặc lịch lãm, được người khác ca tụng, lớn tiếng sửa dạy người khác có thể là những dấu chỉ của sự kiêu căng, nhưng cũng có khi là điều mà người đó cần phải làm vì một lợi ích gì đó hoặc họ xứng đáng được điều đó vì những hy sinh của mình.  Điều quan trọng hơn cả là nội tâm của một con người.

Sự khiêm tốn là một cái gì đó rất ngược ngạo, vì người nào tự cho rằng mình khiêm tốn, dù có nói ra hay không, người đó đã trở nên kiêu căng rồi.  Người nào càng ý thức tìm kiếm sự khiêm tốn, người đó càng không bao giờ tìm thấy.  Cứ như một trò đùa, sự khiêm tốn sẽ bỏ người ta mà đi khi nó phát hiện có ai đang tìm cách để có nó.  Trên hành trình của đời sống thiêng liêng, có một thời người ta phải nỗ lực và dùng hết sức để đi tìm, nhưng đến một lúc nào đó, người ta tự thấy không thể làm gì hơn, ngoài việc buông lỏng chính mình để chân lý tự tìm đến.  Càng gồng mình với những cố gắng và mục tiêu, người ta càng thấy hụt hẫng và bế tắc, như đi vào ngõ cụt.  Cố nắm bắt sự khiêm tốn cũng như cố bắt lấy bóng trăng.  Cứ tưởng là có được, nhưng nó cứ mãi vuột khỏi tầm tay.

Sự khiêm tốn là đỉnh cao của đời sống thiêng liêng.  Nó là cái mà khi người ta đã có được nó mà chẳng hề hay biết.  Nó không màu không sắc, không mùi không vị.  Nó hệt như cái VÔ bao trùm lấy người ta khi họ đã đạt tới cảnh giới vượt qua mọi bám víu của hồng trần.  Người khiêm tốn thì chẳng biết khiêm tốn là gì, ở đâu.  Người ấy thậm chí còn không ý thức đến sự tồn tại của nó.  Họ chỉ sống như cái bản tính tự nhiên của mình.  Họ hành xử như thế vì đối với họ nó phải là như thế.  Họ bộc lộ ra bên ngoài trọn vẹn cái bản chất của mình, cái “chính mình”, cái làm nên họ trong sự tròn đầy nhất.  Bởi vậy, cảnh giới của sự khiêm nhường là khi người ta đã vượt lên trên sự ý thức, vươn đến cái vô thức.  Vô thức ở đây không có nghĩa là hời hợt, không để ý gì cả theo kiểu tiêu cực, nhưng là một kiểu để mình được chiếm trọn, biến mọi cái chân thiện mỹ trong mình bộc phát một cách tự nhiên như người ta tự nhiên hít thở mà không để ý gì đến nó.

Người khiêm tốn là những thánh nhân thật sự, vì họ luôn chan chứa một sự bình an lớn lao trong lòng.  Họ không đeo trên mình những chiếc mặt nạ.  Họ đón nhận mọi sự xảy đến với mình với một sự biết ơn, cả điều tốt lẫn điều xấu.  Họ luôn thấy hài lòng với tất cả mọi sự chung quanh, dù những điều đó có diễn ra theo ý họ hay không.  Họ chấp nhận mọi thất bại, điểm yếu, khiếm khuyết, lỗi lầm của mình một cách chân thành, và xem nó như hồng ân.  Họ không chạy theo những phù hoa bóng mây, không cầu toàn, cầu an, không để mình lệ thuộc vào bất cứ điều gì hay bất cứ ai.  Đây không phải là một kiểu ngông nghênh, bất cần đời, xem thường luật lệ.  Nhưng là một thái độ mềm mỏng như con nước, hay như chiếc bình khoét rỗng chính mình, mở ra cho ân sủng đổ vào.  Kiểu bình an như thế là kết quả của một quá trình dài bỏ mình, rèn luyện mình, gọt dũa mình với biết bao đớn đau, vết thương và nước mắt.

Người khiêm tốn cũng là con người rất đẹp.  Họ đẹp một nét đẹp của Thiên Đường, chứ không phải bằng những hình thể của thân xác.  Họ luôn có sức thu hút người khác, khiến người khác cứ tuôn đến tiếp cận với họ.  Ở gần bên người khiêm tốn, ta tự thấy mình như được hưởng lây cái dịu mát của ngọn gió nhân đức, ta thấy dễ chịu như được sưởi ấm giữa trời đông, không một chút kháng cự hay đề phòng.  Có một hương thơm lạ kỳ và cuốn hút nào đấy phát ra từ nơi họ hệt như cánh hoa thơm không cần phải hô vang để gây sự chú ý.  Có thể nói, họ đã hoà quyện mình vào với tự nhiên, vào cái Đạo của vũ trụ.  Họ thật sự trở thành những con người “sống ở thế gian, nhưng đã vào cõi Thiên Đàng.”

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

CHÚA CHIÊN CỦA TÔI

Mấy năm trước đây, một bé gái 5 tuổi được đưa vào viện mồ côi.  Mấy ngày trước đó, bố mẹ của em đã cãi vã với nhau, rồi bố em đã bắn chết mẹ em, rồi quay súng lại mà tự vẫn.  Tất cả xảy ra trước sự chứng kiến của em.  Đến ngày Chúa Nhật sau đó, em được đưa đến Nhà thờ Công Giáo để tham dự thánh lễ và sau đó, dự lớp Giáo lý.  Vì sợ cô giáo không hiểu hoàn cảnh của em, người coi sóc viện mồ côi đã phải căn dặn cô giáo: Bố mẹ của em là người vô thần, nên chắc chưa bao giờ bé được nghe về Thiên Chúa, vì vậy, xin cô giáo nhẫn nại với em.  Trong buổi học đầu, cô giáo đã giơ cao một bức hình Chúa Giêsu và hỏi cả lớp: “Có em nào biết đây là ai không?”  Cô bé giơ tay trả lời: “Em biết, đó là người đã ôm em vào lòng sau khi ba má em chết.”

Câu chuyện của em bé trên đây chỉ là một trong ngàn vạn câu chuyện thương tâm khác đang xảy ra trong xã hội ngày nay.  Chồng giết vợ, mẹ giết con, con giết bố mẹ, bạn bè thanh toán nhau, nhân công ám hại nhau, là những mẩu tin chúng ta thường đọc thấy trong báo hằng ngày.  Trong những ngày tháng gần đây, nạn khủng bố đã gây tang tóc thương đau cho biết bao gia đình.  Những lá thư hăm dọa đã khiến cho con người sống trong lo sợ.  Quân khủng bố đã bất chấp thủ đoạn khi hành động.  Tháng Giêng vừa qua tại Do Thái, lần đầu tiên một phụ nữ đã nổ bom tự sát để giết người.  Sau đó, người ta tìm ra chị ta là một trong những nhân viên cứu thương của thành phố.  Hôm trước cứu người; hôm sau giết người.  Thật là khó hiểu.  Hơn nữa, họ còn coi đây là thánh chiến.  Lắm lúc nghĩ cũng thấy buồn.  Ba tôn giáo lớn trên thế giới: Kitô giáo, Hồi giáo, Do thái giáo cùng tôn thờ một Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, thế mà đã mười mấy thế kỷ chém giết nhau.  Con cháu tổ phụ Abraham ngày nay đã đông như sao trên trời như cát dưới biển, đúng như Lời Chúa đã hứa, nhưng tiếc thay con cháu tổ phụ lại cắn xé nhau, để rồi gây tan tác cho đoàn chiên của Chúa.

Khi xưa, Chúa Giêsu sống trong một xã hội tuy không hận thù khủng bố, nhưng cũng mang đầy những thù ghét, chia rẽ, kỳ thị và bất công.  Những người Samaritanô, tuy cũng mang giòng máu Do thái, nhưng lại bị người Do thái coi là dân ngoại; những người thu thuế bị coi là người tội lỗi, nên tuyệt đối bị những người “ngoan đạo” xa tránh; những người phong cùi bị đuổi ra sống bên ngoài xã hội.  Đứng trước thảm trạng đó, Chúa Giêsu đã đến và đã ví mình như gà mẹ túc con dưới cánh để bảo vệ và vỗ về.  Chúa đã tỏ tình thương và mối quan tâm đặc biệt đối với những người tội lỗi, nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề của xã hội.  Chúa cũng ví mình như một Chủ Chiên đến để qui tụ đoàn chiên đã bị chia ly phân tán, và để đem lại sức sống và niềm hy vọng cho đoàn chiên: “Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào.”

Với hiện trạng của thế giới, Lời Chúa vẫn còn mang một ý nghĩa đặc biệt cho con người ngày nay.  Thật vậy, Chúa Giêsu, Chúa Chiên của chúng ta, đã đến để chúng ta được sống, nhưng không phải sống trong chán chường tẻ lạnh, một cuộc sống vô nghĩa.  Chúa đến là để chiên của Ngài được sống một cách dồi dào, nghĩa là một cuộc sống đầy yên vui, an bình, và yêu thương.  Đó là điều Chúa đã hứa ban cho mỗi người chúng ta, và Ngài đã và đang thực hiện lời hứa của Ngài nơi những con chiên đáp lại lời mời gọi của Ngài và vâng theo sự hướng dẫn của Ngài.

Với tình thương bao la của người, Chúa đã đến kêu gọi mỗi người chúng ta hãy tiến bước theo Ngài, hãy nhập đoàn chiên của Ngài.  Đây không phải là lời mời gọi một cách chung chung, nhưng là lời mời có tính cách cá nhân và trực tiếp.  Cũng như ngày xưa Chúa đã đến gặp Nicôđêmô, Giakêu, Matthêu, người đàn bà Samaritanô bên bờ giếng Giacob, và người bất toại bên bờ Bếtsaiđa, thì ngày nay Chúa cũng vẫn còn đến để phù trợ, chữa lành, gặp gỡ, hướng dẫn, và chỉ bảo chúng ta trong cuộc sống.  Ngài ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta để an ủi, nâng đỡ, giúp sức, và sự khôn ngoan, để chúng ta có đủ sức đối diện với mọi khó khăn trong cuộc đời.  Qua Lời Chúa và các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Ngài bảo vệ và ban ơn giúp chúng ta thoát khỏi nanh vuốt của thần dữ, như những kẻ trộm, đang bày trò hãm hại chúng ta.  Và những khi chúng ta vấp ngã, qua Bí tích Xá giải, Ngài sẵn sàng ôm chúng ta vào lòng để tha thứ yêu thương, như người cha nhân lành đối xử với đứa con phung phá.

Ước chi chúng ta hãy đáp lại lời mời của Ngài.  Hãy luôn nhận Ngài là Chúa Chiên của mình và luôn tin tưởng vào sự hướng dẫn phù trợ của Ngài.  Có Chúa ở cùng, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, tâm hồn chúng ta vẫn tìm được sự bình an.  Không phải là chúng ta sẽ hết phải đau khổ, nhưng vì chúng ta có Chúa là sức mạnh và là nguồn ủi an cho chúng ta, nên không gì lấy mất đi niềm hy vọng và sự bình an trong tâm hồn chúng ta được.  “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.  Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng tôi” (Tv 23).

Lm Gioan Vũ Nghi

BÍ TÍCH CỦA NIỀM HY VỌNG

Chúa Nhật trước, khi mừng lễ Hiển Linh, Phụng vụ đã giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” còn gọi là “hiển linh,” tức là Chúa tỏ mình.  Các nhà đạo sĩ từ phương Đông đã cất bước lên đường, vượt qua ngàn nguy khó để thờ lạy một Hài nhi mới sinh.  Các ông vui mừng toại nguyện và đã lên đường trở về xứ sở của mình.

Với Chúa Nhật hôm nay, Lễ Chúa Giê-su chịu phép Rửa, chúng ta lại được chiêm ngưỡng một cuộc “thần hiện” khác.  Bên bờ sông Gio-đan, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng tỏ mình ra.  Sự kiện này được cả ba Tin Mừng nhất lãm thuật lại như một chứng từ sống động về sứ vụ Thiên sai của Đức Giê-su.  Người là Con Thiên Chúa và là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian.  Cuộc “thần hiện” diễn ra trước sự ngỡ ngàng của dân chúng, kể cả ông Gio-an Tẩy giả, người trước đó đã tiên báo về sự xuất hiện của Đấng Mê-si-a (Đấng Thiên sai).

Việc lãnh nhận phép Rửa bởi tay ông Gio-an Tẩy giả đánh dấu khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giê-su.  Đây là khởi điểm của một chương mới trong lịch sử Cứu độ của Thiên Chúa.  Đây cũng là thời Thiên Chúa an ủi dân Ngài, như ngôn sứ I-sai-a đã báo trước đó khoảng bảy thế kỷ (Bài đọc I).  Vào thời đó, vinh quang Thiên Chúa sẽ tỏ hiện.  Sẽ không còn sợ hãi lo âu nữa, vì Thiên Chúa sẽ làm những gì Ngài đã hứa.  Những dấu hiệu ngôn sứ I-sai-a báo trước đã được thể hiện nơi Chúa Giê-su, trong suốt cuộc sống dương thế của Người.  Đức Giê-su là Con yêu dấu của Chúa Cha, như tiếng nói từ trời đã khẳng định: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con.”  “Tiếng nói từ trời,” đó là cách Thiên Chúa hiển linh trong Cựu ước, để truyền lệnh và hướng dẫn dân Ngài.  Đức Giê-su luôn luôn tìm ý Chúa Cha và làm mọi sự, miễn là ý Cha được thể hiện.

Theo Giáo lý Công giáo, khi Đức Giê-su chịu phép Rửa tại sông Gio-đan, là lúc Người thiết lập bí tích Rửa tội.  Trong cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, thành viên Thượng hội đồng Do Thái, Chúa Giê-su đã nói về tầm quan trọng và ý nghĩa của phép rửa tái sinh (x. Ga 3,3-8).  Trước khi về trời, Người đã truyền lệnh cho các tông đồ đi khắp thế gian, rao giảng cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (x. Mt 28,19-20).

Hiệu quả của bí tích Rửa tội là gì?  Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo trả lời: “Bí tích Rửa tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, là cổng vào đời sống thiêng liêng, và là cửa mở ra để lãnh nhận các bí tích khác.  Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và được tái sinh làm con cái Thiên Chúa, được trở thành chi thể của Đức Ki-tô, được tháp nhập vào Hội Thánh và được tham dự vào sứ vụ của Hội Thánh” (số 1213).  Nội dung trích dẫn trên đây rất phong phú, diễn tả những khía cạnh khác nhau của đời sống Ki-tô hữu.  Ơn của bí tích Rửa tội thật kỳ diệu.  Bí tích Rửa tội là khởi điểm cho hành trình theo Chúa, cũng là hành trình của niềm hy vọng.  Những ai đã lãnh nhận bí tích này đều được mời gọi xác tín vào quyền năng và ân sủng yêu thương của Thiên Chúa.  Cùng với Chúa Giê-su, họ được gọi Thiên Chúa là Cha, và được đồng thừa hưởng gia nghiệp vinh quang đời đời.  Đó là ân sủng, vinh dự và sứ mạng mà người tín hữu được hưởng, nhờ bí tích này.  Tiếc rằng có những Ki-tô hữu không mấy ý thức và cảm nhận vinh dự cao quý này.

Trong Sắc chỉ công bố Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết: “Niềm hy vọng Ki-tô giáo chính là ở điều này: đối mặt với cái chết, nơi mọi sự dường như chấm dứt, chúng ta biết chắc rằng, nhờ Chúa Ki-tô, qua ân sủng của Người được thông truyền cho chúng ta trong bí tích Rửa tội, “sự sống không mất đi, nhưng được thay đổi” mãi mãi.  Thật vậy, trong bí tích Rửa tội, khi được mai táng với Chúa Ki-tô, chúng ta nhận được nơi Người, Đấng phục sinh, hồng ân sự sống mới phá vỡ bức tường sự chết và biến nó thành một con đường đi về chốn trường sinh” (Số 20).  Theo giáo huấn của Đức Giáo Hoàng, bí tích Rửa tội mở ra cho chúng ta cánh cửa hy vọng, để rồi dẫu rằng cuộc đời này còn nhiều tăm tối âu lo, kể cả sự chết, chúng ta vẫn tin vào Thiên Chúa và tin vào hạnh phúc vĩnh cửu Ngài dành cho người công chính.

Phụng vụ hôm nay nhắc nhớ chúng ta về ơn gọi làm con Thiên Chúa, nhờ sự chết và phục sinh của Đức Giê-su.  Trong thư gửi ông Ti-tô là môn sinh của mình, thánh Phao-lô đã lưu ý: “ân sủng của Thiên Chúa dạy chúng ta phải từ bỏ đời sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này.”  Đó cũng chính là những lời giáo huấn thiết thực và quý báu đối với các Ki-tô hữu chúng ta hôm nay.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

CHÚA ĐẾN GẶP BẠN NGAY TRONG TÂM HỒN GIỮA NHỮNG YẾU ĐUỐI

Chúa dạy chúng ta xây nhà trên đá.  Lời dạy vững chắc ấy dẫn đến nơi nền đất chắc chắn, dù không thấm nước, đôi khi rẽ quanh co ngang dọc, theo những con đường hẹp, để tránh những đầm lầy hoặc những khu rừng ẩn chứa nhiều nguy hiểm.  Ai được hướng dẫn như thế, có thể có cảm tưởng rằng, mình đang đi mà không có mục tiêu rõ ràng, và có thể bị mất niềm tin vào người đang chỉ đường cho mình.  Khi điều ấy xảy ra, là người đi đường, bạn phải mở rộng tâm hồn và giãi bày những gì đang làm bạn lo lắng.  Vì thế bạn sẽ được giúp đỡ để hiểu rằng, điều mà đối với bạn dường như là một cuộc lang thang vô ích, thì thực ra không gì khác là chính sự yếu đuối và bước đi không không chắc chắn của bạn.

Vì vậy, để tránh ảo tưởng và không để bị mình bị cuốn theo, khi mà bạn ít mong đợi nhất, bởi những chuyển động nội tâm làm mê hoặc những ai không có kinh nghiệm trong những điều thiêng liêng, thì điều cần thiết là hãy sửa soạn tâm hồn cho thời điểm mà Thiên Chúa ghé thăm bạn.

Có những người nhận được ơn đặc biệt của Chúa một cách chắc chắn đến độ không thể nghi ngờ.  Có những người khác (phần đông là như thế) nhận biết danh Chúa ngang qua sự giáo dục mà họ thụ hưởng: họ phải học hành và trải nghiệm và nhận biết chân lý khi họ được dạy dỗ.  Có những người khác, như thánh Tông Đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Roma (Rm 1:18-21) có thể bị mê hoặc bởi sự hoàn hảo của các tạo vật.

Thế nhưng, có một nơi mà Chúa làm cho ta cảm thấy gần gũi với những tâm hồn cao cả, đó là chiều sâu của trái tim và những khát khao cư ngụ nơi đó.  Đó là khát khao về sức sống tràn đầy và một vùng đất mà ở nơi đó sống tự do và an toàn, đó là khát vọng đánh thức mọi tạo vật trên thế giới, đó là nơi chắc chắn mà Thiên Chúa tỏ lộ chính Ngài…

Bạn có thể hiểu điều này khi đọc câu chuyện về tổ phụ Abraham: tiếng nói của Chúa thúc giục ông từ bỏ mọi thứ để bắt đầu theo một hành trình vô định: ông đi mà không biết mình đi đâu, nhưng ông có lời hứa của Chúa (Ta sẽ chỉ cho ngươi).  Những lời vang vọng trong trái tim ấy lại chẳng phải là tiếng vọng của niềm khao khát về cuộc sống trọn vẹn, về vùng đất mà với ông, chính là nhà hay sao?

Tôi cũng muốn chỉ cho bạn một nơi khác mà Chúa đến gặp chúng ta.  Đó là sự yếu đuối.  Bạn cũng thế, cũng giống như bao người khác, bị đe dọa bởi sự mong manh dễ vỡ.  Bất cứ khi nào nó xuất hiện, bạn không chịu nổi và tìm cách che giấu nó.  Thực tế, bạn cảm thấy yếu đuối, bất lực, và bị đe dọa.  Như thế, nếu từ sâu thẳm tâm hồn mình, bạn có khả năng chấp nhận rằng, tôi yếu đuối, mong manh, không thể mình tự cứu mình, thì khi đó, bạn có thể cảm nhận được sự hiện diện tốt lành của Thiên Chúa, vì Ngài là người Cha đích thực, nâng đỡ bạn và an ủi bạn.

Hãy xem cách Thiên Chúa đối xử với tổ phụ Abraham, như đối xử với một người bạn.  Tổ phụ đã nhận được lời Thiên Chúa hứa, và Chúa đã thực hiện lời Ngài hứa.  Chắc chắn không phải vì mưu trí hay vì các cách thức nỗ lực, mà tổ phụ Abraham trở thành bạn của Chúa, mà vì tổ phụ đã học tin tưởng Thiên Chúa, để chiến thắng những lo lắng của bản thân.  Tổ phụ biết Chúa khi một cách rõ ràng, điều mà ông khao khát, đã đến với ông như một quà tặng.  Vì thế, hãy để cho Chúa, ngang qua cuộc sống, dẫn dắt bạn đến sự nhận biết hoàn hảo về sự không thể của bạn, về sự bất lực của bạn: khi bạn ở đáy vực thẳm, ngước mắt nhìn lên, bạn sẽ được hưởng niềm vui từ sự cao cả vô hạn của Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Vì thế, đừng hình dung những điều vĩ đại, chẳng hạn những điều đôi khi được kể về một số vị thánh đã có những cuộc hoán cải to lớn hoặc đã phải đối mặt với những hoàn cảnh đặc biệt, để thay đổi cuộc sống của các vị một cách hoàn toàn và ngay lập tức.  Thay vào đó, hãy suy xét về cái nghèo là tình trạng chung của hầu hết mọi người.

Chúng ta càng yếu đuối, thì càng có xu hướng che giấu sự yếu đuối mong manh của mình.  Và với thói quen, chúng ta sẽ dần dần tự thuyết phục và tin rằng, chúng ta thực sự như chúng ta tưởng tượng hoặc như chúng ta muốn.  Vì thế, nếu chúng ta yếu đuối, chúng ta cố gắng che giấu bằng cách tỏ ra mạnh mẽ.  Chúng ta giống như con vật nhỏ bé, cố gắng xù lông để có vẻ lớn hơn và cố gắng tỏ ra nguy hiểm hơn để đe dọa đối thủ, nhưng sự thường là vô ích…

Tứ Quyết SJ – Chuyển ngữ từ tiếng Ý
Cuốn sách: Maestro di San Bartolo, Abbi a cuore il Signore, Introduzione di Daniele Libanori, (San Paolo 2020).

ĐIỀU TRA DÂN SỐ TRÊN TOÀN CÕI ĐẤT

“Điều tra dân số trên toàn cõi đất” (Lc 2:1).  Đây là bối cảnh Chúa Giêsu sinh ra và là bối cảnh mà Tin Mừng tập trung vào.  Biến cố này có thể được cập đến một cách lướt qua, nhưng thay vào đó Tin Mừng thuật lại một cách cẩn thận.  Và với trình thuật này, Tin Mừng đưa ra một sự tương phản lớn: trong khi hoàng đế kiểm kê dân số trên toàn cõi đất, thì Thiên Chúa bước vào đó một cách ẩn mình; trong khi những người nắm quyền cố gắng vươn lên vị thế những người vĩ đại của lịch sử, thì vị Vua của lịch sử lại chọn con đường nhỏ bé.  Không ai trong số những người có quyền lực chú ý đến Người, ngoại trừ một số người chăn cừu, những người bị đẩy ra bên lề đời sống xã hội.

Nhưng cuộc điều tra dân số nói lên điều gì đó hơn nữa.  Trong Kinh Thánh, việc điều tra dân số không để lại một dấu ấn đẹp.  Vua Đa-vít, chiều theo sự cám dỗ của số đông và yêu sách không lành mạnh cho rằng mình tự đủ, đã phạm một tội lỗi nghiêm trọng khi tiến hành một cuộc điều tra dân số.  Đa-vít muốn biết sức mạnh và sau khoảng chín tháng, vua đã có được số người có thể cầm được gươm (xem 2 Sm 24,1-9).  Chúa đã phẫn nộ và bất hạnh đã ập đến với người dân.  Tuy nhiên, vào đêm nay, “Con vua Đavít,” Chúa Giêsu, sau chín tháng trong lòng Đức Maria, đã hạ sinh tại Bêlem, thành phố của vua Đavít, và không trừng phạt cuộc điều tra dân số, nhưng khiêm nhường để mình được đếm.  Một giữa rất nhiều.  Chúng ta không thấy một Thiên Chúa giận dữ trừng phạt, nhưng là Thiên Chúa nhân hậu nhập thể, bước vào thế giới một cách yếu ớt, và trước đó là lời loan báo: “Bình an dưới thế cho loài người” (Lc 2,14).  Và trái tim của chúng ta đêm nay hướng về Bêlem, nơi Hoàng Tử Hòa Bình vẫn bị khước từ bởi luận lý thắng thua của chiến tranh, với tiếng gầm vang của vũ khí mà ngay cả ngày nay cũng ngăn cản Người tìm một nơi trú ngụ trong thế giới (xem Lc 2,7).

Nói tóm lại, cuộc điều tra dân số trên toàn cõi đất một mặt thể hiện âm mưu quá con người xuyên suốt lịch sử: âm mưu của một thế giới tìm kiếm quyền lực và sức mạnh, danh tiếng và vinh quang, nơi mọi thứ đều được đo lường bằng những thành công và kết quả, bằng những chỉ số và con số.  Đó là nỗi ám ảnh về hiệu suất.  Nhưng đồng thời, trong cuộc điều tra dân số, con đường của Chúa Giêsu, Đấng đến tìm kiếm chúng ta qua việc nhập thể, trở nên nổi bật.  Người không phải là vị thần biểu diễn mà là Thiên Chúa nhập thể.  Người không lật đổ những bất công từ trên xuống bằng vũ lực, nhưng từ dưới lên bằng tình yêu thương; Người không bẻ gãy với sức mạnh vô hạn nhưng đi vào giới hạn của chúng ta; Người không tránh né sự mong manh của chúng ta nhưng chấp nhận những giới hạn đó.

Anh chị em thân mến, tối nay chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta tin vào Thiên Chúa nào?  Vào Thiên Chúa nhập thể hay vào sự biểu diễn?  Đúng, bởi vì chúng ta có nguy cơ mừng Lễ Giáng Sinh với ý tưởng ngoại giáo về Thiên Chúa, như thể Người là một ông chủ quyền năng trên trời; một vị thần gắn với quyền lực, thành công trần thế và sự tôn thờ chủ nghĩa tiêu thụ.  Hình ảnh giả dối về một vị thần xa cách và cảm tính, đối xử tốt với người tốt và nổi giận với người xấu; về một vị thần được tạo ra theo hình ảnh của chúng ta, chỉ hữu ích để giải quyết cho chúng ta các vấn đề và xóa bỏ nơi chúng ta những điều chẳng lành.  Tuy nhiên, Người không sử dụng cây đũa thần, Người không phải là vị thần thương mại “tất cả và ngay lập tức;” Người không cứu chúng ta bằng cách nhấn nút, nhưng Người đến gần để thay đổi thực tế từ bên trong.  Tuy nhiên, ý tưởng trần tục về một Thiên Chúa xa cách và kiểm soát, cứng rắn và quyền thế, giúp dân chiến thắng kẻ khác, thật đã ăn sâu nơi tâm thức chúng ta!  Nhiều lần hình ảnh này bén rễ sâu trong chúng ta.  Nhưng Người không phải như vậy: Người được sinh ra cho tất cả, trong cuộc điều tra dân số trên toàn cõi đất.

Do đó, chúng ta hãy nhìn lên “Thiên Chúa hằng sống và chân thật” (1 Ts 1,9): nhìn vào Người, Đấng vượt trên mọi tính toán của con người nhưng lại để cho mình được đếm vào số dân của chúng ta; nhìn vào Người, Đấng biến đổi lịch sử bằng cách sống trong đó; nhìn vào Người, Đấng tôn trọng chúng ta đến mức cho phép chúng ta khước từ Người; nhìn vào Người, Đấng xóa bỏ tội lỗi bằng cách chịu trách nhiệm về nó, Đấng không cất đi nỗi đau nhưng biến đổi nó, Đấng không cất đi những vấn đề khỏi cuộc sống của chúng ta, nhưng ban cho cuộc sống của chúng ta một niềm hy vọng lớn lao hơn những vấn đề.  Người muốn ôm lấy sự hiện hữu của chúng ta, đến mức từ vô hạn, Người trở nên hữu hạn vì chúng ta; từ lớn lao, đã trở nên nhỏ bé; người công chính, đã chịu những bất công của chúng ta.  Đây là điều kỳ diệu của Lễ Giáng Sinh: không phải sự pha trộn giữa những tình cảm kiểu cách và những tiện nghi trần thế, nhưng là sự dịu dàng chưa từng có của Thiên Chúa, Đấng cứu thế giới bằng cách nhập thể.  Chúng ta nhìn Hài Nhi, chúng ta nhìn vào máng cỏ của Người, chúng ta nhìn vào hang đá Giáng Sinh, mà các thiên thần gọi là “dấu lạ” (Lc 2,12): thực ra đó là dấu chỉ mặc khải khuôn mặt của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng trắc ẩn và thương xót, toàn năng chỉ và chỉ trong Tình Yêu.  Người trở nên gần gũi, dịu dàng, thương cảm.  Đây là cách của Thiên Chúa: gần gũi, dịu dàng và thương cảm.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy ngạc nhiên vì “Người đã trở nên xác phàm” (x. Ga 1,14).  Xác thịt: một từ gợi nhớ sự mỏng manh của chúng ta và được Tin Mừng dùng để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã đi sâu vào thân phận con người của chúng ta.  Tại sao Người lại đi đến mức này?  Bởi vì Người quan tâm đến mọi thứ của chúng ta, bởi vì Người yêu thương chúng ta đến mức coi chúng ta là quý giá hơn bất cứ thứ gì khác.  Anh em, chị em, nhờ Thiên Chúa, Đấng đã thay đổi lịch sử trong cuộc điều tra dân số, anh em chị em không phải là một con số, nhưng là một gương mặt; tên của mỗi người được viết trong trái tim của Người.

Nhưng bạn, khi nhìn vào trái tim mình, nhìn vào những màn trình diễn vượt tầm với của mình, nhìn vào thế giới phán xét và không tha thứ, có lẽ bạn thấy mình đang sống tệ trong Giáng sinh này, nghĩ rằng mình sống không tốt, nuôi dưỡng cảm giác thiếu thốn và không hài lòng về sự mong manh của bạn, về những vấp ngã và những vấn đề của bạn.  Nhưng hôm nay, xin hãy để quyền chủ động cho Chúa Giêsu, Đấng đã nói với bạn: “Vì con, Ta đã trở nên xác thịt, vì con, Ta đã trở nên giống như con.”  Tại sao bạn vẫn ở trong nhà tù của nỗi buồn?  Như những mục đồng đã rời xa đàn chiên của mình, bạn hãy rời khỏi vòng vây u sầu của mình và đón nhận sự dịu dàng của Thiên Chúa Hài Nhi.  Không mặt nạ và không áo giáp, hãy trao mọi lo lắng của bạn cho Người và Người sẽ chăm sóc bạn (xem Tv 55,23): Người, Đấng đã trở nên xác thịt, không chờ đợi những màn trình diễn thành công của bạn, mà là trái tim rộng mở và tự tin của bạn.  Và trong Người, bạn sẽ tái khám phá bạn là ai: là con yêu dấu của Chúa, con được Chúa yêu thương.  Bây giờ bạn có thể tin điều đó, bởi vì đêm nay Chúa đã đến với ánh sáng để soi sáng cuộc đời bạn và đôi mắt Người chiếu sáng tình yêu dành cho bạn.  Và chúng ta khó tin vào điều này, rằng đôi mắt của Thiên Chúa chiếu sáng tình yêu dành cho chúng ta.

Đúng vậy, Chúa Kitô không nhìn vào những con số mà nhìn vào những khuôn mặt.  Tuy nhiên, ai nhìn đến Người, giữa vô số sự vật và cuộc đua điên rồ của một thế giới luôn bận rộn và thờ ơ?  Tại Bêlem, trong khi nhiều người bị cuốn vào cuộc điều tra dân số sôi động, đến rồi đi, chật kín các nhà trọ, nói chuyện này chuyện nọ, nhưng một số người gần gũi với Chúa Giêsu: họ là Đức Maria và Thánh Giuse, những mục đồng, rồi đến các đạo sĩ.  Hãy học hỏi từ họ.  Họ nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu, với tâm hồn hướng về Người, họ không nói nhưng họ thờ lạy.

Thờ lạy là cách đón nhận sự nhập thể.  Bởi vì chính trong thinh lặng mà Chúa Giêsu, Lời của Chúa Cha, trở nên xác thịt trong đời sống chúng ta.  Chúng ta cũng làm như ở Bêlem, cái tên nghĩa là “nhà bánh”: chúng ta đứng trước mặt Người, Bánh sự sống.  Chúng ta hãy khám phá lại sự thờ lạy, bởi vì sự thờ lạy không phải là lãng phí thời gian mà là để Thiên Chúa đi vào thời gian của chúng ta.  Đó là làm cho hạt giống nhập thể nảy nở trong chúng ta, đó là cộng tác vào công trình của Chúa, Đấng như men làm thay đổi thế giới.  Đó là sự cầu thay, sửa chữa, để Thiên Chúa làm thẳng lại lịch sử.  Một người kể chuyện vĩ đại về những hành động sử thi đã viết cho con trai mình: “Cha cho con điều tuyệt vời duy nhất để yêu mến trên trái đất: Bí tích Thánh Thể.  Ở đó con sẽ tìm thấy sự quyến rũ, vinh quang, danh dự, lòng chung thủy và con đường đích thực của tất cả tình yêu của con trên trái đất” (J.R.R. TOLKIEN, Thư 43, tháng 3 năm 1941).

Anh chị em thân mến, đêm nay tình yêu thay đổi lịch sử.  Lạy Chúa, xin làm cho chúng con tin vào sức mạnh tình yêu của Chúa, rất khác với sức mạnh của thế gian.  Lạy Chúa, xin làm cho chúng con, giống như Mẹ Maria, Thánh Giuse, các mục đồng và các vị đạo sĩ, tụ họp quanh Ngài để tôn thờ Ngài.  Được tạo dựng bởi Ngài và giống với Ngài hơn, chúng con sẽ có thể chứng minh cho thế giới thấy vẻ đẹp diện mạo của Ngài.

Đức Phanxicô, Lễ đêm Giáng sinh năm 2023
Nguồn: vaticannews.va/vi

THÁNH GIUSE VÀ CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH

Có vô số người, vương cung thánh đường, nhà thờ, đền thánh, chủng viện, tu viện, thị trấn và thành phố được đặt tên Thánh Giuse.  Quê hương Canada của tôi nhận ngài làm đấng bảo trợ.

Vậy chính xác Giuse này là ai?  Ngài là nhân vật lặng lẽ trong câu chuyện Giáng Sinh, với tư cách chồng của Đức Mẹ và nghĩa phụ của Chúa Giêsu, rồi sau đó, ngài không còn được nhắc đến lần nào nữa.  Hình ảnh của lòng mộ đạo bình dân có về ngài là hình ảnh của một người lớn tuổi, bảo vệ cho Đức Mẹ, người thợ mộc, khiết tịnh, thánh thiện, khiêm nhường, lặng lẽ, thánh bảo trợ hoàn hảo cho người lao động chân tay và những nhân đức thầm lặng, hiện thân của đức khiêm nhường.

Chúng ta thật sự biết được gì về ngài?

Trong phúc âm Thánh Matthêu, việc thụ thai Chúa Giêsu được báo cho Thánh Giuse thay vì cho Đức Maria.  Trước khi họ đến với nhau, Đức Maria đã có thai nhờ Chúa Thánh Thần.  Giuse, chồng bà là người ngay thẳng và không muốn làm cho bà phải hổ thẹn, nên đã quyết định âm thầm tuyệt hôn với bà, vừa lúc đó một thiên thần xuất hiện trong giấc mơ và bảo ngài đừng sợ cưới Đức Maria về làm vợ, rằng đứa bé trong bụng Đức Maria được thụ thai nhờ Thánh Thần.

Đoạn này nói lên điều gì?

Hầu hết là những điều mang tính tượng trưng.  Thánh Giuse trong câu chuyện Giáng Sinh rõ ràng làm chúng ta liên tưởng đến Giuse trong Cựu Ước, cũng được báo mộng, cũng đi Ai Cập, cũng cứu gia đình.  Cũng như vậy, vua Hêrôđê rõ ràng là tái hiện vua Pharaô Ai Cập, cả hai đều cảm thấy bị đe dọa, đều giết con trai người Do Thái, nhưng Thiên Chúa đã bảo vệ mạng sống của họ, sẽ cứu họ.

Nhưng sau tính biểu tượng đó, Thánh Giuse trong câu chuyện Giáng Sinh còn có câu chuyện riêng của ngài.  Ngài được cho là người “ngay thẳng,” theo các học giả, đây là cách gọi ngụ ý ngài tuân theo Lề luật của Thiên Chúa, tiêu chuẩn thánh thiện tối cao của người Do Thái.  Về mọi mặt, ngài không có gì đáng trách, ngài là gương mẫu của sự tốt lành, thể hiện qua việc ngài không muốn vạch trần để làm nhục Đức Maria, dù ngài quyết định sẽ âm thầm tuyệt hôn.

Về mặt lịch sử, chuyện gì đã xảy ra?

Theo những gì chúng ta có thể làm tái hiện, thì bối cảnh mối quan hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria là như sau.  Phong tục hôn nhân thời đó là khi đến tuổi dậy thì, người phụ nữ trẻ sẽ được cha mẹ sắp xếp gả cho một người đàn ông, thường là lớn hơn vài tuổi.  Họ sẽ hứa hôn, về căn bản là thành vợ chồng, nhưng chưa sống với nhau và chưa có quan hệ tình dục trong vài năm.  Luật do thái đặc biệt nghiêm ngặt về chuyện hai người phải giữ khiết tịnh trong thời gian hứa hôn.  Trong thời gian này, người thiếu nữ sẽ tiếp tục sống với cha mẹ mình, còn người đàn ông sẽ đi dựng nhà và tìm một nghề nghiệp để có thể chu cấp cho vợ sau khi hai người sống chung.

Thánh Giuse và Đức Maria đang ở giai đoạn này, là vợ chồng về pháp lý, nhưng chưa sống với nhau, thì Đức Maria có thai.  Thánh Giuse biết đứa con không phải của mình, như thế là có vấn đề.  Nếu ngài không phải là cha đứa trẻ, vậy ai là cha đứa bé?  Để giữ thanh danh của mình, ngài có thể yêu cầu điều tra công khai, và làm Đức Maria sẽ bị cáo buộc tội gian dâm, đồng nghĩa với cái chết.  Nhưng ngài quyết định “lặng lẽ tuyệt hôn,” nghĩa là tránh cuộc điều tra công khai có thể sẽ làm cho Đức Maria bị rơi vào tình cảnh khó xử và tình thế nguy hiểm.

Rồi sau khi được báo mộng, ngài đồng ý đưa Đức Maria về nhà mình làm vợ, đặt tên con như con của mình, như thế là nhận mình là cha đứa trẻ.  Khi làm như thế, ngài giúp Đức Maria không bị bẽ mặt, thậm chí còn cứu cả mạng sống cho Đức Maria, và ngài cho đứa trẻ sắp sinh ra có một vị thế được đón nhận về mặt tôn giáo, xã hội, vật chất, đồng thời nuôi dạy đứa trẻ.  Nhưng ngài còn làm một việc khác nữa, một việc không hữu hình bằng.  Ngài cho thấy người ta có thể là một tín hữu ngoan đạo, đầy đức tin vào mọi sự trong tôn giáo của mình, nhưng đồng thời lại mở lòng với một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu tôn giáo và nhân văn của mình.

Đây chính là vấn đề đối với nhiều tín hữu Kitô, kể cả Thánh Matthêu, vào thời điểm các Phúc âm được viết.  Họ là những người Do Thái tận tâm không biết làm sao để đưa Đức Kitô vào khung tôn giáo vốn có của mình.  Khi Thiên Chúa đi vào đời sống con người theo những cách mới mẻ thì không thể tưởng tượng nổi, con người phải làm gì?  Với một khái niệm bất khả thi, chúng ta phải làm thế nào?  Thánh Giuse là một gương mẫu.  Như thần học gia Raymond Brown nói: “Nhân vật chính trong câu chuyện sơ khai của thánh Matthêu là thánh Giuse, một người Do Thái tuân theo Lề luật nhưng nhạy bén.  Trong Thánh Giuse, thánh sử đã họa nên điều mà ngài nghĩ một người Do Thái (ngoan đạo thật sự) nên là, và có lẽ cũng là điều mà ngài đã sống như vậy.”

Về căn bản, Thánh Giuse dạy chúng ta cách sống trong lòng trung tín yêu thương với mọi sự mà chúng ta bám vào về mặt nhân bản hay tôn giáo, đồng thời chúng ta cũng mở lòng với mầu nhiệm của Thiên Chúa sẽ đưa chúng ta vượt ra ngoài mọi phạm trù thực hành và tưởng tượng tôn giáo.  Và đây chẳng phải là thách thức thật sự của Giáng Sinh hay sao?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA

Niềm vui Giáng sinh đã gần kề.  Những gì chúng ta mong đợi đã sắp đến.  Cùng với những trang hoàng bề ngoài, Phụng vụ hôm nay “thẩm vấn” chúng ta: Bạn đã làm gì để đón Chúa?

Các bài đọc Lời Chúa cho chúng ta thấy lời mời gọi luôn sẵn sàng để đón Chúa đến.  Trước hết là lời loan báo gửi đến một làng quê nhỏ bé hẻo lánh, đó là làng Bê-lem.  Truyền thống Kinh Thánh nói với chúng ta, Thiên Chúa thường ưa thích những gì bé mọn.  Nói đúng hơn, những ai khiêm tốn nhận mình là bé mọn thì sẽ được đón Chúa ghé thăm.  Ngôn sứ Mi-kha mời gọi: Hỡi Bê-lem, ngươi đừng mặc cảm về thân phận nhỏ bé vô danh của mình, nhưng hãy vui mừng vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.  Và thế là, ngày vui ấy đã đến.  Con Thiên Chúa làm người đã sinh hạ tại nơi đây.  Bê-lem trở thành nơi “tiếp đất” của Ngôi Hai Thiên Chúa, nhờ đó mà được toàn thế giới biết đến cho đến ngày hôm nay và mãi mãi về sau.

Nếu Bê-lem dường như ngỡ ngàng vì được Đấng thống lãnh Ít-ra-en viếng thăm, thì một người phụ nữ khác là bà Ê-li-sa-bét cũng lại rất ngỡ ngàng sửng sốt vì được đón tiếp Chúa.  Khi gặp người em họ là Trinh nữ Ma-ri-a, bà đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.  Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”  Những lời của bà Ê-li-sa-bét mang đầy ý nghĩa, vừa thể hiện sự ngạc nhiên, vừa là lời chúc tụng tạ ơn Chúa.  Ê-li-sa-bét đã vô cùng cảm động vì nghĩ thân phận mình thấp hèn, cũng như Bê-lem xưa không ngờ có ngày mình được thăm viếng.

Thánh Lu-ca nói với chúng ta, sau ngày Truyền tin, Trinh nữ Ma-ri-a đã vội vã lên đường, vượt qua khoảng 150 cây số để đến với người chị họ.  Ma-ri-a mang theo tâm trạng vui mừng và tạ ơn.  Hơn thế nữa, Bà còn mang theo Đấng Cứu Thế mà Bà được cưu mang trong lòng.  Bài ca tạ ơn Trinh nữ Ma-ri-a được gợi hứng thốt lên sau đó đã diễn tả sự ngạc nhiên của chính bản thân Người, đồng thời nhận ra, mình quá nhỏ bé mà lại được Chúa nâng lên, để rồi “từ nay đến muôn đời, thiên hạ sẽ khen tôi diễm phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều thật cao cả.”

Mầu nhiệm Giáng sinh thật kỳ diệu, vì đó là sự hạ mình của Con Thiên Chúa.  Tác giả thư gửi tín hữu Híp-ri đã mượn tâm tình của Thánh vịnh để diễn tả sự khiêm hạ vâng lời của Đức Giê-su: “Lạy Thiên Chúa, này đây con đến để thực thi ý Ngài.”  Quỳ bên hang đá máng cỏ trong mùa Giáng sinh, chúng ta hãy suy niệm về sự khiêm hạ của Thiên Chúa.  Bê-lem năm xưa là một làng quê nhỏ bé hẻo lánh, đã được diễm phúc trở thành nơi Chúa sinh ra.  Trinh nữ Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét đều là những người khiêm tốn bé nhỏ, đã được cưu mang Chúa và được Chúa thăm viếng.  Vì vâng lời, Ngôi Lời cao sang đã trở nên nhỏ bé khiêm hạ để thực thi ý Chúa Cha.  Người mang thân phận như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.  Ngày hôm nay, Người vẫn hiện diện khiêm tốn trong bí tích Thánh Thể, và nơi cuộc đời của những ai nghèo khó, bé mọn đơn côi, bị quên lãng bên dòng đời.

Mỗi chúng ta là Ki-tô hữu, chúng ta đã làm gì cụ thể để đón lễ Giáng sinh và đón Chúa đến trong cuộc đời?  Những trang trí bên ngoài rất cần thiết và quan trọng, nhưng phải đi đôi với tâm tình cụ thể, thiện chí đón Chúa đến trong cuộc đời.  Đương nhiên, đó là thiện chí sám hối bản thân, lãnh nhận các Bí tích, tham dự Phụng vụ.  Nhưng đó còn là việc đón Chúa Giê-su nơi những người nhỏ bé đơn sơ và cô thân cô thế.  Bởi lẽ, Chúa luôn nhớ đến họ, thậm chí còn đồng hóa với họ, để rồi khi chúng ta giúp đỡ những anh chị em này là chúng ta giúp đỡ chính Chúa.

Giáng sinh năm nào cũng về rồi lại đi.  Điều còn lại là gì, nếu không phải là niềm vui mà Chúa Giê-su đem đến cho nhân loại, kèm theo lời nhắn nhủ của Người: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.  Anh em hãy trở nên ánh sáng cho trần gian.  Hãy tỏa lan những điều tốt lành, chân thật trong cuộc sống này để Nước Thiên Chúa thực sự đến với mọi người.  Này đây, Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.  Đó là những lời giúp chúng ta suy niệm và cầu nguyện bên hang đá máng cỏ trong Mùa Giáng sinh.

Chúng ta hãy noi gương Đức Trinh Nữ thành Na-da-rét, mở rộng tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế.  Cùng với Mẹ, chúng lên đường để nói với mọi người đang sống trong xã hội hôm nay rằng: NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI VÀ Ở CÙNG CHÚNG TA.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

GIÁNG SINH ĐẶC BIỆT CỦA LÃO PANOV

Truyện ngắn hay nhứt trong mùa Giáng Sinh do Leo Tolstoy phóng tác thành văn xuôi từ vở thoại kịch có tựa đề là ‘Le père Martin’ của Ruben Saillens.  Từ câu chuyện Ông Panov này, ngày nay đã có hàng ngàn phiên bản bằng văn, thơ, kịch khác phổ biến trong văn học thế giới như một thông điệp về nhân ái và hạnh phúc, nhất là trong dịp Lễ Giáng Sinh hàng năm.

GIÁNG SINH ĐẶC BIỆT CỦA LÃO PANOV 

Hôm đó là ngày vọng (trước) Giáng sinh, mặc dù chỉ mới có xế chiều mà đèn đã được thắp lên khắp cả, từ nhà ở cho đến các cửa tiệm trong ngôi làng nhỏ của nước Nga này, bởi vì những ngày mùa đông thì ngắn ngủi và rất chóng tàn.  Những đứa bé vốn lúc nào cũng hớn hở đã chạy nhẩy lon ton ở bên trong và bây giờ, thoát ra từ những khung cửa chớp khép kín, là những âm thanh giống như bị bóp nghẹt của những cuộc trò chuyện và những tiếng cười đùa.

Lão Panov, ông thợ giày của làng, bước ra bên ngoài để có một cái nhìn rảo khắp.  Những âm thanh của hạnh phúc, những ánh đèn rực rỡ và mùi vị thoang thoảng của những món ăn ngon   Giáng sinh làm cho ông nhớ tới những mùa Giáng sinh đã qua khi người vợ của ông vẫn còn sống và những đứa con vẫn còn bé bỏng.  Bây giờ thì mọi người đã đi xa rồi.  Khuôn mặt tươi vui tự nhiên của ông, thường đi đôi với một cặp mắt xe lại vì nếp cười, ẩn nấp sau cặp kính tròn, bây giờ trông buồn rời rợi.  Tuy nhiên, ông đã bước vào trong nhà một cách dứt khoát, kéo cửa chớp xuống và đặt bình cà phê lên bếp than.  Sau đó, với một tiếng thở dài, ông ngả người lên chiếc ghế bành lớn.

Lão Panov thường không đọc sách, nhưng tối nay, ông với lấy cuốn sách Kinh Thánh cũ của gia đình, và từ từ dùng ngón tay trỏ lân lê theo dòng chữ, ông đọc lại câu chuyện Giáng sinh.  Ông đọc tới đoạn Bà Maria và Ông Giuse, mệt mỏi sau cuộc hành trình đi Bêlem, không tìm được một chỗ nào tại nhà trọ, phải sinh đứa con nhỏ trong một chuồng bò.

“Trời đất ơi, Trời đất ơi!” Lão Panov kêu lên, “nếu mà họ đến đây!  Tôi sẽ nhường chiếc giường của tôi cho họ và tôi bảo đảm sẽ lấy tấm chăn bông của tôi để bao bọc cho đứa bé.”

Khi ông đọc tiếp tới đoạn các nhà đạo sĩ đến thăm em bé Giêsu, tặng cho em nhiều món quà tuyệt vời.  Thì sắc mặt của Lão Panov xụ xuống.  “Tôi chẳng có món quà nào cho em cả” ông buồn bã nghĩ thế.

Rồi gương mặt của ông lại tươi lên.  Ông bỏ cuốn Kinh Thánh xuống, đứng dậy và vươn cánh tay dài lên một ngăn tủ ở trên cao trong căn phòng nhỏ.  Ông lấy xuống một chiếc hộp nhỏ đã phủ đầy bụi và mở ra.  Bên trong là một cặp giày nhỏ bằng da hoàn hảo.  Lão Panov mỉm cười hài lòng.  Vâng, đôi giầy vẫn còn tốt như trước – đôi giày tốt nhất mà ông từng làm ra.  “Tôi phải cho em đôi giầy này” ông định bụng như thế, rồi nhẹ nhàng cất chúng đi và ngồi xuống một lần nữa.

Ông bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, và càng đọc thì càng buồn ngủ hơn.  Những giòng chữ bắt đầu nhảy múa trước mắt cho đến khi ông phải nhắm mắt lại, để nghỉ thêm một phút.  Nhưng chẳng bao lâu thì Lão Panov ngủ vùi.

Trong giấc ngủ, ông thấy một giấc mơ.  Ông nằm mơ một người nào đó đang ở trong phòng của mình và ông nhận biết, giống như mọi người đều nhận biết khi ở trong những giấc mơ của họ, ông nhận ra ngay người đó là ai.  Là Chúa Giêsu.

“Panov, nếu con muốn gặp Ta” Chúa nói một cách dịu dàng “thì hãy tìm Ta vào ngày mai.  Đúng ngày Giáng Sinh Ta sẽ đến thăm con.  Nhưng hãy chú ý cẩn thận, Ta sẽ không tỏ cho con biết rõ Ta là ai.”

Cuối cùng thì Lão Panov tỉnh dậy, khi chuông nhà thờ reo vang và một luồng sáng mỏng manh luồn lọc qua khung cửa chớp.  “Chao ôi, vui quá là vui!”  Lão Panov reo lên.  “Đây là ngày Giáng sinh rồi!”

Ông đứng dậy và duỗi mình cho qua cơn nhức mỏi.  Rồi thì khuôn mặt của ông rực lên một niềm vui hạnh phúc vì hồi tưởng lại giấc mơ vừa qua.  Đây sẽ là một ngày Giáng sinh đặc biệt hơn tất cả, vì Chúa Giêsu đến thăm ông.  Ngài sẽ trông giống như thế nào nhỉ?  Sẽ còn là một em bé như lúc Giáng sinh đầu tiên?  Hay sẽ là một người trưởng thành, một anh thợ mộc – hay là một vị vua huy hoàng, xứng đáng với danh phận là Con Đức Chúa Trời?  Ông tự nghĩ phải cẩn thận canh chừng từng giây phút của ngày để có thể nhận ra Ngài khi Ngài ngự đến.

Lão Panov pha một bình cà phê đặc biệt cho bữa ăn sáng Giáng Sinh, kéo cửa chớp của cửa sổ lên và nhìn ra ngoài.  Đường phố còn vắng tanh, không ai cả.  Không ai ngoại trừ ông quét đường.  Ông ta có vẻ khổ sở và bẩn thỉu hơn bao giờ hết, và cũng là đáng kiếp!  Ai mà đi làm việc vào ngày Giáng sinh bao giờ – và lại làm việc trong cái lạnh cay đắng của lớp sương muối trong một buổi sáng như thế này?

Lão Panov mở cửa ra, một làn khí lạnh mỏng lùa vào.  “Vào đây!” ông hô to qua phía bên kia đường bằng một giọng vui vẻ.  “Vào đây uống một chút cà phê cho ấm bụng!”

Ông quét đường nhìn lên, gần như không tin vào tai mình.  Rõ ràng ông ta đã quá sức vui mừng khi được đặt cây chổi xuống và đi vào căn phòng ấm áp.  Quần áo của ông bay phất phới nhẹ nhàng trong cái hơi nóng từ bếp lò thoát ra và ông siết chặt cả hai bàn tay đỏ như gấc vì lạnh vào cái ly ấm áp và đầy an ủi.

Lão Panov hài lòng nhìn ông ta, nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc mắt qua khung cửa sổ.  Ông không muốn bỏ lỡ người khách đặc biệt của mình.

“Ông đợi ai đó?” ông quét đường sau cùng phải hỏi như thế và Lão Panov kể cho ông ta về giấc mơ của mình.

“Vâng, tôi hy vọng ông ta tới” ông quét đường nói, “ông vừa tặng cho tôi một chút niềm vui Giáng sinh mà tôi đã không bao giờ mong đợi.  Tôi cũng muốn nói rằng ông xứng đáng có được một giấc mơ trở thành sự thật.”  Và ông ta đã mỉm cười một cách thực lòng.

Khi ông ta đi rồi, Lão Panov cắt nhỏ bắp cải đưa vào nồi súp để dọn bữa ăn, sau đó đi ra cửa nữa, quét mắt nhìn quanh đường phố.  Ông vẫn không thấy ai.  Nhưng thực sự ông đã nhầm.  Có người đang đi đến.

Cô gái bước đi rất chậm chạp và lặng lẽ, dựa sát vào bờ tường của các cửa hàng và nhà ở, phải mất một thời gian dài trước khi ông nhận ra cô nàng.  Cô ta trông thật mệt mỏi và đang mang một cái gì đó.  Khi cô gái tiến gần ông hơn, ông nhận ra rằng ‘cái gì đó’ là một đứa bé, bọc trong một chiếc khăn choàng mỏng.  Có một nỗi buồn u uẩn phảng phất trong khuôn mặt của cô gái và trong khuôn mặt bị ép chặt của đứa bé, đến nỗi trái tim của Lão Panov muốn rơi ra vì họ.

“Xin mời vào nhà” ông bước ra ngoài để gặp họ. “Cô và em bé cần có chút lửa ấm và chút nghỉ ngơi.”

Bà mẹ trẻ để cho ông ta dẫn cô vào nhà và tới với sự thoải mái của chiếc ghế bành.  Cô thở dài nhẹ nhõm.

“Tôi sẽ hâm nóng một chút sữa cho em bé” Lão Panov nói, “Tôi cũng đã có con – tôi có thể cho con bé bú.”  Ông lấy sữa từ bếp lò và cẩn thận cho đứa con gái nhỏ bú bằng muỗng, đồng thời hơ ấm đôi bàn chân nhỏ của nó lên bếp.

“Con bé cần có giày,” ông thợ đóng giày nói.

Nhưng bà mẹ trẻ trả lời: “Tôi không có tiền mua giày đâu, tôi không có chồng để lo chu cấp cho chúng tôi.  Tôi phải đi đến làng bên cạnh để tìm việc làm.”

Một ý nghĩ chợt lóe lên trong trí của Lão Panov.  Ông nhớ lại đôi giày nhỏ ông đã coi lại đêm qua. Nhưng ông muốn giữ đôi giầy ấy cho Chúa Giêsu.  Ông nhìn xuống đôi chân lạnh của đưa bé một lần nữa và rồi làm một quyết tâm.

“Thử đôi giầy này cho con bé” ông vừa nói vừa đưa trả đứa bé cùng với đôi giày cho người mẹ.  Đôi giày nhỏ xinh đẹp đi vào vừa vặn.  Cô gái mỉm cười hạnh phúc và con bé cũng ríu rít lên vì vui sướng.

“Ông tốt với chúng tôi quá,” cô gái nói, và bế đứa bé lên mà đi ra.  “Mong rằng tất cả những ước mơ Giáng sinh của ông trở thành sự thật!”

Nhưng đến lúc này thì Lão Panov đã bắt đầu nghi ngờ cái ước mơ Giáng sinh đặc biệt của mình có thể trở thành sự thật không.  Có lẽ ông đã bỏ lỡ người khách của mình?  Ông lo lắng nhìn lên các đường phố cả trên lẫn dưới.  Vẫn có nhiều người đi qua nhưng toàn là những gương mặt mà ông từng quen biết.  Có nhiều người hàng xóm đi gọi người nhà về.  Họ gật đầu chào và mỉm cười chúc ông Giáng sinh vui vẻ!  Hoặc những tên hành khất – và Lão Panov vội vã gọi họ vào nhà để biếu họ một tô súp nóng và một ổ bánh mì kha khá, rồi cũng vội vã chạy ra cửa để đề phòng ông không bỏ lỡ Người Lạ Mặt Quan Trọng.

Rồi thì chẳng mấy chốc mà cảnh hoàng hôn của mùa đông lại rơi xuống.  Khi Lão Panov đi ra cửa một lần nữa và dù có căng đôi mắt của mình ra đến mấy, ông cũng không còn nhìn thấy một ai trên đường.  Mọi người đều đã về nhà.  Ông chậm rãi đi vào phòng, đóng cửa chớp xuống, và ngồi xuống một cách mệt mỏi trên chiếc ghế bành.

Chỉ là một giấc mơ thôi.  Chúa Giêsu nào có đến.

Nhưng bỗng nhiên ông cảm thấy ông không ở một mình trong phòng.

Điều xảy ra không phải là một giấc mơ vì ông hoàn toàn tỉnh táo.  Đầu tiên, ông thấy trước mắt một hàng dài những người đã đến với ông ngày hôm đó.  Ông già quét đường, người mẹ trẻ và đứa con và những người hành khất mà ông đã cho ăn.

Khi họ đi qua, họ đều thì thầm một câu: “Ông không thấy tôi à, Ông Panov?”

“Bạn là ai?” ông kêu lên, hoang mang.

Lập tức, một giọng nói khác trả lời ông.  Đó là giọng nói từ giấc mơ – giọng của Chúa Giêsu.

“Ta đói, ngươi đã cho ăn,” Chúa nói.  “Ta trần truồng và ngươi đã cho mặc.  Ta lạnh và ngươi sưởi ấm cho Ta.  Hôm nay Ta đến thăm ngươi qua tất cả những người mà ngươi đã mời vào mà cứu giúp.”

Rồi sau đó, là một sự tĩnh mịch.  Chỉ còn tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ lớn.  Một sự bình an và hạnh phúc lớn lao lấp đầy căn phòng nhỏ, tràn ngập trái tim của Lão Panov đến nỗi Lão phải phá lên cười, hát vang và nhảy múa hân hoan.

“Ngài đến thật rồi!” ông chỉ nói được như thế mà thôi.

Leo Tolstoy

Trần Mạnh Trác dịch

THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ

Đây là vị “Tiến Sĩ Thần Bí,” nhà thần học vĩ đại của gia đình Cát Minh.  Thánh Gioan Thánh Giá để lại nhiều bài thơ đậm chất thần bí và giàu tư tưởng thần học, nhấn mạnh tới cuộc thanh luyện linh hồn.  Bốn tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngày nay là “Đường Lên Núi Cát Minh,” “Đêm Tối,” “Bài Thánh Ca Thiêng Liêng” và “Lửa Tình Yêu Hằng Sống.”  Đức Bênêđictô XVI đã dành buổi tiếp kiến chung ngày 16 tháng 02 năm 2011 để nói về cuộc đời và tư tưởng của thánh nhân.

********************

Anh chị em thân mến,
Lần trước, tôi đã giới thiệu một nhà thần bí vĩ đại người Tây Ban Nha, thánh nữ Têrêsa Giêsu.  Hôm nay, tôi sẽ nói về một vị thánh quan trọng khác cũng là người Tây Ban Nha, bạn thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa, đã cùng với thánh nữ cải tổ “Gia Đình Cát Minh”: đó là thánh Gioan Thánh Giá.  Ngài đã được đức giáo hoàng Piô XII tuyên phong là “Tiến Sĩ Hội Thánh” vào năm 1926, và theo truyền thống, ngài được biết đến với danh hiệu là vị “Tiến Sĩ Thần Bí” (Doctor Mysticus).

Gioan Thánh Giá sinh năm 1542 tại một ngôi làng nhỏ miền Fontiveros, gần Avila thuộc vùng Castille, là con của ông Gonzalo de Yepes và bà Catalina Alvarez.  Gioan sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo.  Thân phụ của ngài, ông Gonzalo, vốn xuất thân từ dòng dõi quý tộc, nhưng sau đó bị trục xuất và không được nhìn nhận là một thành viên trong gia đình vì đã cưới cô Catalina, một thợ dệt lụa, thuộc tầng lớp thấp kém.

Gioan mất thân phụ khi còn ở độ tuổi rất nhỏ.  Lúc lên 9, ngài đã cùng với thân mẫu và người em trai là Francisco, di chuyển đến Medina del Campo, không xa Valladolid, một trung tâm thương mại và văn hóa của Tây Ban Nha thời bấy giờ.  Tại đây, ngài theo học ở trường Colegio de los Doctrinos, và đảm nhận vài công tác khiêm hạ cho các nữ tu của Tu viện và nhà thờ Mađalena.  Sau khi được chứng nhận có phẩm chất đạo đức tốt và kiến thức vững vàng, Gioan bắt đầu làm trợ tá cho bác sĩ ở Bệnh viện Conception, rồi tiếp tục theo học ở trường Cao đẳng của dòng Tên, mới được thiết lập ở Medina del Campo.  Gioan chính thức học ở trường Cao đẳng này năm mười tám tuổi và nghiên cứu các môn khoa học Nhân văn, Hùng biện, Cổ ngữ trong khoảng ba năm.  Lúc mãn chương trình học, Gioan có trực giác về ơn gọi tu trì.  Trong số rất nhiều dòng đang hiện diện ở Medina, ngài cảm thấy như được mời gọi đến với Anh Em Cát Minh.

Mùa hè năm 1563, Gioan bắt đầu thời gian tập viện ở một tu viện Cát Minh trong thị trấn, nhận danh hiệu là Juan de San Mattia.  Một năm sau đó, ngài theo học tại trường Đại học danh tiếng Salamanca, nghiên cứu Nhân văn và Triết học khoảng ba năm.

Năm 1567, ngài được thụ phong linh mục và trở về Medina del Campo để cử hành thánh Lễ Tạ Ơn, với sự tham dự đông đảo của gia đình huyết thống.  Chính tại đây, lần đầu tiên Gioan gặp thánh nữ Têrêsa Giêsu.  Cuộc gặp gỡ này mang tính quyết định cho cả hai vị.  Têrêsa đã giải thích cho Gioan về kế hoạch cải tổ dòng Cát Minh của mình, bao gồm cả ngành nam của dòng, và đề nghị Gioan ủng hộ kế hoạch này nhằm “vinh danh Chúa hơn.”  Vị linh mục trẻ đã bị cuốn hút bởi ý tưởng của thánh nữ Têrêsa, đến nỗi can đảm trở thành người tiên phong trong kế hoạch cải tổ này.

Hai vị có mấy tháng làm việc chung với nhau, cùng chia sẻ lý tưởng và soạn thảo kế hoạch, muốn bắt đầu tiến trình cải tổ bằng việc thành lập cộng đoàn Cát Minh không đi giày đầu tiên, tiến hành càng sớm càng tốt.  Và một cộng đoàn như thế đã chính thức xuất hiện vào ngày 28 tháng 12 năm 1568, tại Duruelo, một nơi hẻo lánh thuộc tỉnh Avila.

Cộng đoàn Cát Minh không đi giày theo tinh thần cải tổ này gồm có Gioan và ba bạn đồng hành.  Đời sống tu trì của họ có nhiều thay đổi, quay lại nếp sống nhiệm nhặt với bản Tu luật nguyên thủy, mỗi thành viên nhận lấy một danh xưng mới: từ đây Gioan lấy danh hiệu là “Thánh Giá,” và cho đến ngày nay, ngài vẫn được biết đến trên toàn thế giới với danh hiệu đáng kính này.

Cuối năm 1572, theo lời đề nghị của Têrêsa, Gioan trở thành cha giải tội và vị đại diện của đan viện Nhập Thể ở Avila, nơi Têrêsa Giêsu làm Bề trên.  Đây là khoảng thời gian hai vị đã cộng tác thân thiết và xây dựng tình bạn hữu thiêng liêng, làm phong phú tinh thần cho cả hai.  Những tác phẩm quan trọng nhất của Têrêsa cũng như của Gioan ra đời trong khoảng thời gian này.

Việc cải tổ dòng Cát Minh không dễ dàng, Gioan nỗ lực kêu gọi anh em cộng tác, và rồi ngài phải chịu nhiều đau khổ.  Chuyện tệ hại nhất xảy ra vào năm 1577, Gioan bị bắt giam trong ngục tại một Tu viện theo luật cũ, với một cáo trạng bất công.  Ở chốn lao tù, Gioan phải chịu túng thiếu và kìm kẹp cả về thể lý lẫn tinh thần.  Tại đây, ngài đã sáng tác bài thơ nổi tiếng, với nhan đề “Bài Thánh Ca Thiêng Liêng,” cùng với nhiều bài thơ khác.  Cuối cùng, vào đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng 8 năm 1578, Gioan thực hiện một cuộc đào tẩu mạo hiểm và tìm đến trú ẩn tại tu viện của các nữ tu Cát Minh cải tổ trong thị trấn.  Thánh Têrêsa và các bạn hữu cùng chí hướng của ngài rất vui mừng vì Gioan được tự do, và sau đó, ngài ở lại đó ít lâu, đến khi bình phục sức khoẻ hoàn toàn, mới chuyển đến Andalusia, nơi đây ngài cư trú trong nhiều tu viện khác nhau khoảng 10 năm, đặc biệt ở Granada.

Gioan ngày càng được trao phó những chức vụ cao hơn trong dòng, cho đến khi ngài trở thành vị đại diện Tỉnh dòng và đã hoàn tất vài khảo luận về đời sống tâm linh.  Sau đó, ngài trở về vùng đất đã sinh trưởng, với cương vị là một thành viên trong ban tổng đại diện của gia đình Cát Minh Têrêsa, khi ấy đã có được sự tự trị hoàn toàn về mặt pháp lý.

Gioan đến sống ở Carmel Segovia, đảm nhận chức bề trên của cộng đoàn.  Năm 1591, ngài được cắt hết tất cả trọng trách và được bổ nhiệm đến một tỉnh dòng mới ở Mêxicô.  Trong thời gian chuẩn bị cho chuyến hành trình dài cùng với 10 bạn đồng hành, Gioan lui về một tu viện hẻo lánh ở gần Jaen, nơi đây ngài ngã bệnh nặng.

Thánh nhân đối diện với đau khổ bệnh tật bằng một thái độ bình thản và kiên nhẫn.  Ngài qua đời vào giữa đêm ngày 13 rạng sáng ngày 14 tháng 12 năm 1591, khi anh em còn đang nguyện kinh sáng.  Rời bỏ anh em, thánh nhân nói: “Hôm nay, tôi sẽ nguyện kinh trên Thiên Đàng.”  Thi thể của ngài được di dời đến Segovia.  Ngài được đức giáo hoàng Clêmentê X phong Chân phước vào năm 1675 và được đức giáo hoàng Bênêdictô XIII phong thánh vào năm 1726.

Gioan được xem là một trong những nhà thơ nổi bật nhất của nền văn chương Tây Ban Nha.  Bốn tác phẩm chính của ngài là “Đường Lên Núi Cát Minh,” “Đêm Tối,” “Bài Thánh Ca Thiêng Liêng,” và “Lửa Tình Yêu Hằng Sống.”

Trong tác phẩm “Bài Thánh Ca Thiêng Liêng,” thánh Gioan Thánh Giá giới thiệu một tiến trình thanh luyện của linh hồn diễn ra từng bước.  Linh hồn phấn khởi khi dần đạt đến Thiên Chúa, cho tới khi cảm nghiệm được rằng, linh hồn yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu mến linh hồn.  Tác phẩm “Lửa Tình Yêu Hằng Sống” tiếp tục làm rõ quan điểm này, bằng cách mô tả chi tiết hơn tình trạng biến đổi, nên một với Thiên Chúa.

Thí dụ mà Gioan thường sử dụng là ngọn lửa: lửa cháy càng mạnh, càng thiêu huỷ mùn gỗ, thì càng bừng sáng cho đến khi tất cả thành một ngọn lửa lớn; cũng thế, Thánh Thần, Đấng thanh luyện và “tẩy rửa” linh hồn suốt thời kỳ đêm tối, cũng soi sáng và đốt nóng linh hồn, cho đến khi linh hồn hóa thành ngọn lửa.  Sự sống của linh hồn là lời tán dương không ngừng của Thánh Thần, Đấng vén mở cho chúng ta thoáng thấy phần vinh quang Thiên Quốc vì được kết hiệp với Thiên Chúa trong vĩnh cửu.

Tác phẩm “Đường lên núi Cát Minh” trình bày một hành trình tâm linh, khởi đi từ việc thanh luyện linh hồn, là điều vô cùng cần thiết để đạt tới đỉnh cao của sự trọn lành Kitô giáo, được biểu trưng hóa bằng đỉnh núi Cát Minh.  Hành trình thanh luyện này do con người đảm nhận, có sự tác động của ơn thánh, sẽ giúp giải thoát linh hồn khỏi mọi quyến luyến hay gắn bó với những gì chống lại thánh ý Thiên Chúa.

Để đạt đến sự hiệp nhất trọn vẹn trong tình yêu Thiên Chúa, thì linh hồn cần phải trải qua một hành trình thanh luyện, khởi đầu bằng việc thanh luyện các giác quan, rồi tiếp tục bằng việc sống ba nhân đức hướng Chúa: Tin, Cậy, Mến, hầu thanh luyện lý trí, ký ức và ý chí.

Tác phẩm “Đêm tối” mô tả khía cạnh “thụ động,” ở đó, Thiên Chúa can thiệp vào tiến trình thanh luyện linh hồn.  Thật vậy, chỉ cố gắng tự sức mình, con người không thể triệt tiêu căn nguyên sâu xa của những khuynh hướng và nết xấu nơi bản thân: tất cả những gì linh hồn có thể thực hiện là kiểm điểm chúng, nhưng không thể hoàn toàn bứng đi gốc rễ chúng.  Tiến trình này cần sự tác động đặc biệt của Thiên Chúa, Đấng thanh luyện triệt để linh hồn và chuẩn bị cho linh hồn những điều kiện xứng hợp nhất, hầu có thể nên một trong tình yêu của Người.

Thánh Gioan mô tả tiến trình thanh luyện này như là một tiến trình “thụ động,” mặc dù linh hồn chấp nhận đi vào, nhưng tiến trình này diễn ra nhờ được tác động nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần, Đấng như một ngọn đuốc bừng cháy, đốt cháy mọi điều ô uế.  Trong tình trạng này, linh hồn chịu khuất phục trước mọi thử thách, như thể linh hồn ở trong đêm tối vậy.

Tri thức về hành trình tâm linh được tìm thấy trong các tác phẩm nổi tiếng nhất của thánh Gioan, giúp chúng ta tiếp cận những điểm nổi bật về đạo lý thần bí thâm sâu của ngài, mục đích là mô tả một con đường chắc chắn để đạt đến sự thánh thiện, đến tình trạng thành toàn viên mãn mà Thiên Chúa mời gọi tất cả chúng ta.

Theo Gioan Thánh Giá, tất cả những gì hiện hữu đều do Thiên Chúa dựng nên và tự bản chất là tốt lành.  Vì thế, qua các thụ tạo, chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa, Đấng đã khắc ghi nơi thụ tạo dấu tích của chính Người.  Trong mọi trường hợp, đức tin luôn là nguồn mạch giúp con người nhận biết Thiên Chúa đúng như Người là, xét trong nội tại, Một Chúa Ba Ngôi.  Tất cả những gì Thiên Chúa muốn là trò chuyện với con người, Thiên Chúa nói trong Đức Giêsu, là Lời đã mặc lấy xác phàm.  Đức Giêsu Kitô là con đường duy nhất và đáng tin cậy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha (x. Ga 14,6).  Bất kỳ thứ gì được tạo ra, thì hiển nhiên, chẳng là gì so với Thiên Chúa, và không có giá trị gì nếu ở ngoài Thiên Chúa; vì vậy, để đạt đến tình yêu tuyệt hảo của Thiên Chúa, mọi tình yêu khác phải được quy chiếu vào Đức Kitô mà đến với tình yêu Thiên Chúa.

Điều này dẫn tới lời khẳng định của thánh Gioan Thánh Giá về sự cần thiết phải thanh luyện và tự làm trống rỗng nội tâm, ngõ hầu được biến đổi trong Thiên Chúa, đó là cùng đích duy nhất của sự trọn lành.

Sự “thanh luyện” này không hệ tại ở việc loại bỏ đi mọi thứ thuộc về thể lý, hoặc không muốn dùng đến thế giới vật chất; trái lại điều làm cho linh hồn nên thanh khiết và tự do chính là loại bỏ đi sự lệ thuộc vào thế giới thụ tạo này một cách vô trật tự.  Mọi thứ phải được đặt trong Thiên Chúa như là trọng tâm và cùng đích của đời sống chúng ta.

Dĩ nhiên, tiến trình thanh luyện rất dài và gian khó, đòi hỏi nỗ lực của bản thân, nhưng tác nhân thực sự vẫn là Thiên Chúa: điều có thể thực hiện ở phía con người là làm cho mình trở nên “sẵn sàng,” mở rộng tâm hồn đón nhận sự tác động của ơn thánh và không để cho bất kỳ rào cản nào xuất hiện ngăn trở ơn thánh.  Bằng việc sống các nhân đức Tin – Cậy – Mến, con người nâng bản thân mình lên và làm cho cuộc tận hiến của mình trở nên rất giá trị.  Tiến trình thanh luyện giúp tăng trưởng đức tin, đức cậy, và đức mến, từng bước kết hiệp với Thiên Chúa, cho tới khi linh hồn được chuyển biến trong Người.

Khi tiến trình thanh luyện đạt đến cùng đích, linh hồn được chìm ngập vào trong đời sống của Ba Ngôi, từ đó thánh Gioan Thánh Giá khẳng định rằng, linh hồn sẽ vươn lên tới chỗ yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu giống với tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu thương linh hồn, vì Người vẫn yêu thương linh hồn trong Thần Khí của Người.

Vì lý do này mà vị Tiến Sĩ Thần Bí khẳng định rằng, sẽ không có sự hiệp nhất thực thụ trong tình yêu với Thiên Chúa, nếu không đạt đến cực điểm trong sự hiệp nhất Ba Ngôi.  Ở giai đoạn cuối cùng này, linh hồn thánh thiện nhận biết mọi thứ nơi Thiên Chúa và không còn phải nhờ các thụ tạo để vươn tới Thiên Chúa nữa.  Giờ đây, linh hồn cảm thấy được chìm ngập trong tình yêu Thiên Chúa và hỷ hoan trong tình yêu Thiên Chúa mà không có gì cản trở.

Sau cùng, một câu hỏi đặt ra là: phải chăng thánh Gioan Thánh Giá, trong quan điểm thần bí trổi vượt, với rất nhiều đòi hỏi khác nhau của hành trình thanh luyện linh hồn hầu đạt đến đỉnh cao trọn lành, chẳng có bất cứ điều gì để nói với chúng ta hôm nay, những Kitô hữu bình thường, đang sống cuộc đời thường nhật, cùng với những điều kiện hết sức bình dị mà thôi?  Phải chăng thánh Gioan Thánh Giá là một khuôn mẫu điển hình chỉ dành cho một vài linh hồn ưu tuyển nào đó, vốn thực sự đủ khả năng đảm nhận hành trình thanh luyện này, hay chỉ dành cho những vị khổ tu thần bí mà thôi?

Để có câu trả lời, trước hết, chúng ta phải ghi nhớ rằng, cuộc đời của thánh Gioan Thánh Giá không phải luôn suôn sẻ, lướt trên “những đám mây thần bí”; đúng hơn ngài đã trải qua nhiều gian khổ, cụ thể và rõ ràng, vì là một nhà cải tổ dòng Cát Minh, ngài đã bị rất nhiều người chống đối, cả từ phía Bề trên tỉnh dòng, đồng thời, trong thời gian ở chốn lao tù do anh em hiểu lầm, ngài đã hứng chịu những lời nhục mạ cay nghiệt và bị hành hạ cách tàn bạo.

Tuy rằng, cuộc đời của thánh Gioan có nhiều đau khổ, nhưng trong thời gian mấy tháng ở tù, ngài đã viết một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất của mình.  Và vì thế, chúng ta có thể hiểu rằng, hành trình với Đức Kitô, đồng hành với Đức Kitô, Con Đường, không phải là chất thêm gánh nặng cho cuộc đời của chúng ta, không phải là điều gì đó vốn làm cho gánh cuộc đời của chúng ta thêm nặng, nhưng là một điều gì đó hoàn toàn khác biệt.  Đó là nguồn ánh sáng, nguồn động lực giúp chúng ta mang lấy gánh nặng và bước trên hành trình này.

Nếu ai đó cưu mang tình yêu cao cả nơi bản thân mình, thì tình yêu sẽ mang đến cho người ấy đôi cánh, nhờ thế, người ấy có thể đương đầu với tất cả những phiền muộn của cuộc đời dễ dàng hơn, bởi chất chứa trong mình nguồn ánh sáng vĩ đại; đây là niềm tin của chúng ta: được Thiên Chúa yêu thương và để cho chính mình được Thiên Chúa yêu thương trong Đức Giêsu Kitô.  Để cho chính mình được Thiên Chúa yêu là ánh sáng Thiên Chúa, giúp chúng ta mang lấy gánh nặng hằng ngày.

Và sự thánh thiện cũng không phải là một hành động quá khó khăn đối với chúng ta, nhưng phải hiểu rằng, thánh thiện chính xác là hãy “mở rộng”: mở rộng những cánh cửa của linh hồn để ánh sáng của Thiên Chúa chiếu vào, và đừng bao giờ lãng quên Thiên Chúa; vì chính khi rộng mở cho ánh sáng Thiên Chúa chiếu vào tâm hồn, con người đón nhận sức mạnh, tìm được niềm vui ơn cứu độ.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta khám phá sự thánh thiện này, để chính chúng ta được Thiên Chúa yêu thương, vì Người là cùng đích và là ơn cứu độ đích thực của toàn thể nhân loại.

Trích ĐGH Bênêdictô XVI, 36 Thánh Tiến Sĩ (Tp. HCM: Nxb Phương Đông, 2017), tr. 400-412.

THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN GIỮA DÂN NGƯỜI

Những lo toan bận rộn và khó khăn bế tắc của cuộc sống dễ lôi kéo chúng ta vào một vòng xoay bất tận.  Hậu quả là chúng ta quên lãng sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời.  Dù muốn hay không, con người cần có Thượng Đế.  Ki-tô hữu là người hướng về Chúa như hoa hướng dương hướng về mặt trời, như hơi thở đối với thân xác và như lương thực nuôi sống hằng ngày.  Trong Mùa Vọng, Giáo Hội nhắc chúng ta: đừng quên sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân Người. Danh xưng Đấng Em-ma-nu-en nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.  Vì thế, hãy vui lên và hãy nhìn cuộc đời này với lăng kính tích cực và với lòng nhân ái.  Thiên Chúa cũng rất vui mừng khi ở giữa chúng ta.

Xô-phô-ni-a là vị ngôn sứ người Do Thái sống ở thế kỷ VII trước Công Nguyên, và hoạt động ở miền Nam dưới triều vua Giô-si-gia-hu (640-609 TCN).  Sứ điệp của ông là bảo vệ người nghèo, lên án giai cấp lãnh đạo và các thẩm phán đương thời, cùng với những thói tục xấu và việc thờ ngẫu tượng.  Ông cũng là ngôn sứ của niềm hy vọng, với niềm xác tín Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Người.  Đoạn sách được đọc trong Chúa Nhật hôm nay là phần kết của cuốn sách mang tên ông.  Vị ngôn sứ mời gọi dân Do Thái hãy vui mừng, kể cả giữa những bất công và thảm họa, vì Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Người.  Ngài hiện diện để nâng đỡ, ủi an những ai đang đau khổ.  Ông cũng dùng một kiểu nói rất bạo dạn để diễn tả Thiên Chúa: “Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.” “Thiên Chúa nhảy múa” là một hình ảnh kỳ lạ và bất thường.  Trong một số truyền thống văn hóa cổ xưa, người ta quan niệm các vị thần cũng giống như con người.  Họ cũng vui, cũng buồn và cũng giận dữ.  Thiên Chúa của người Do Thái là Đấng luôn vui mừng hân hoan.  Ngài chia sẻ vận mạng của Dân Ngài.

Cũng như người Do Thái thời ngôn sứ Xô-phô-ni-a, các Ki-tô hữu cũng được mời gọi hãy vui mừng, vì Chúa gần đến.  Đó là lời giáo huấn của thánh Phao-lô với tín hữu Phi-líp-phê.  Ki-tô hữu là người đang chờ đợi Chúa đến.  Vậy phải làm sao để khi Chúa đến, Người thấy chúng ta đang sống hiền hòa rộng rãi, tương thân tương ái với anh chị em đồng đạo và đồng loại.  Khi sống hiền hòa, là chúng ta làm lan tỏa tinh thần yêu thương như Chúa đã dạy.  Người tin Chúa luôn vui mừng, vì có Chúa ở với chúng ta.  Người luôn đồng hành với chúng ta trên từng bước đi của nẻo đường dương thế.

Chuẩn bị để đón Chúa, đó cũng là thời điểm để mỗi chúng ta nhìn lại mình.  Thánh Gio-an Tẩy giả xuất hiện là một hiện tượng đặc biệt đối với người Do Thái.  Qua lời giảng, ông Gio-an khẳng định với những người đương thời: điều mà cha ông chúng ta vẫn chờ đợi, nay sắp đến rồi.  Để có thể đón tiếp Người, mỗi người phải sám hối.  Lãnh nhận phép rửa do ông cử hành là hành vi sám hối, hoán cải canh tân để trở nên con người mới.

Mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội lại mượn lời rao giảng của thánh Gio-an Tẩy giả, giúp các tín hữu chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa.  Thực ra Chúa Giê-su đã đến trong lịch sử.  Người đã sinh ra tại hang đá Be-lem cách đây hơn hai ngàn năm.  Nếu Giáo Hội mời gọi chúng ta đón Chúa, là để giúp chúng ta tái xác tín vào sự hiện diện của Người trong cuộc đời và trong tâm hồn chúng ta.  Những khuynh hướng xấu, tội lỗi và đam mê là lực cản che lấp sự hiện diện của Chúa.  Sám hối sửa mình, sẽ giúp ta nhận ra Chúa và cố gắng để nên giống như Người.

“Chúng tôi phải làm gì?”  Đó là câu hỏi mà những người Do Thái đặt ra cho ông Gio-an Tẩy giả.  Đoàn người đến cùng ông rất đa dạng.  Họ là những người thu thuế, những quân nhân và nông dân.  Ông Gio-an đưa ra những lời khuyên cụ thể cho từng trường hợp.  Đối với chúng ta, tâm tình sám hối để đón Chúa đến không phải là chung chung mờ nhạt, nhưng cụ thể và phải được chứng minh bằng việc làm.

Tâm tình hân hoan vui mừng còn được thể hiện trong sách I-sai-a được chọn cho phần Đáp ca của Thánh lễ: “Dân Xi-on, hãy mừng rỡ reo hò, vì giữa người, Đức Thánh của Ít-ra-en thật là vĩ đại!”  Thiên Chúa không phải là một vị thần nghiêm khắc hay một ông chủ độc tài.  Ngài là Cha yêu thương, luôn ở giữa chúng ta và ban cho chúng ta niềm an ủi.  Sự hiện diện của Chúa sẽ giúp chúng ta xua tan tăm tối, lan tỏa niềm vui và tràn trề niềm hy vọng.  Bầu khí nhộn nhịp, hân hoan tưng bừng trong những ngày Giáng Sinh gần kề nhắc chúng ta: Chúa đang ngự giữa chúng ta, và chúng ta vui mừng được đón tiếp Ngài.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên