BÓNG CÂU CỬA SỔ

Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình.  (TV 103, 1516).

Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra:  chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân viên phi hành đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã rớt xuống Thái Bình Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong lòng biển cả.  Trong số nạn nhân nầy, có một bé gái thiên thần mới được bốn tháng.  Vì thân mẫu là người gốc Mễ Tây Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để được rửa tội.

Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao xuống biển cả.  Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương.  Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi hài.

Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai Cập với trên 200 hành khách, đã rớt xuống Đại Tây Dương và không một xác nào được tìm thấy.

Vào sáng thứ ba (11-09-2001) một đại họa khủng khiếp đã làm chấn động thế giới:  nhóm khủng bố Osama Bin Laden đã cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở NữuƯớc và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ Giác Đài ở Hoa Thịnh Đốn.  Tổng số thương vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên gia lỗi lạc về kinh tế, tài chánh, ngân hàng, kỹ thuật và quân sự…

Trong huấn từ nhân cuộc triều yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã mô tả đại họa đó là “một ngày đen tối nhất trong lịch sử loài người, một xúc phạm ghê gớm cho phẩm giá con người.”

Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm liệm vì bị ngã gục dưới họng súng tấn công của một địch thủ.

Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh cửu.  Những trường hợp ra đi vĩnh viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước.

Khi quan sát một số người đang cuồng nhiệt theo đuổi danh vọng, thú vui hay của cải vật chất thì chúng ta sẽ hết sức ngạc nhiên với ý nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu tư về cuộc sống đời đời.  Con người trong thời đại văn minh tiến bộ nầy dường như đang sống theo lý tưởng quá ư trần tục.

Tuy nhiên, sách  GiảngViên đã nói rõ ràng: “Có thời để sinh ra, có thời để lìa đời.” (GV 3: 2).

Kinh Thánh cũng cho biết ông ADong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời.  Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần.  Ông Hênóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giã cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế kỷ hai mươi hai.

Trong thư gởi tín hữu DoThái, Thánh Phaolô đã viết:  “Thân phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (DT, 9: 27).

Mặc dầu khoa học đã tiến bộ, sau khi vượt qua giới hạn của không gian địa cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất.  Có rất ít bài giảng luận về sự chết, thiên đàng, hỏa ngục.  Tuy nhiên, chân lý bất biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết thúc bằng sự chết và vấn đề chuẩn bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ trọng, như lời Thánh Kinh:  “Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét, thiên đàng, hỏa ngục thì con sẽ không bao giờ phạm tội.”

Ở Âu Mỹ, có một thành ngữ như sau: “Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế.”  Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn đề quan hệ hơn là sự chết.  Ta cần phải ý thức hơn về việc tử thần đang tiến gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng.  Lời Chúa đã căn dặn:  “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Mt 22: 21).

Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm hữu con người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ mả.  Sẽ có lúc sau khi mọi người đông đảo họp nhau cầu nguyện thì đã ra về và “còn lại một mình tôi” trong nơi hoang vắng…!

Thánh Giacôbê đã viết: “Anh em không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao.  Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi.” (Gc 4: 14).  Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh chiều dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.

Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi dệt cửi:  “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy vọng” (Gióp 7: 6).  Một văn sĩ đã viết: “Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời mình để nung đốt lò dục vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa”.

Tiên tri I-Sai đã suy ngắm: “Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ.” (Is 38: 12).  Sách Biên Niên Sử quyển I cũng viết:  “Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ, không để lại dấu vết.” (1 Sb 29: 15).

Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y sĩ săn sóc ông và nói: “Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa.  Bây giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời.”

Thánh Gióp cũng đã từng than thở: “Vì tuổi con người đã được Ngài ấn định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài.  Ngài định giới hạn rồi, sao có thể vượt qua.” (G 14: 5).

Tác giả ThánhVịnh cũng đã nói: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” (Tv 103: 15,16).

Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già.  Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa:  “Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội.  Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua.” (Is 40: 6,7).

Trong những giờ phút cuối cùng đời mình, Cesar Bergia đã nói: “Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi! thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn bị được gì trước cho sự chết của tôi.”

Một thanh niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình lình lâm trọng bệnh.  Trước khi sắp từ giã cõi đời, anh đã rên rỉ, than van và quằn quại trên giường bệnh với những lời gào thét sau dây: “Ôi, tôi đã phung phí những ngày xanh của tôi, tôi đã làm khánh tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước mặt Ngài?”

Thánh Phaolô, trong thư gởi tín hữu Do Thái, đã cảnh cáo:  “Và nếu mọi vi phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ cao quý như thế?” (Dt 2: 3).

Một văn thi sĩ khuyết danh đã viết những câu sau đây, trong bài thơ ‘Sách Sự Sống’:

“Tôi quì cầu nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm.  Tôi phải cấp tốc đi làm vì hóa đơn đòi tiền chồng chất.

Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy.  Việc bổn phận Kitô hữu của tôi đã làm xong và tâm hồn tôi thanh thản, bình an.

Suốt ngày tôi không có thời giờ để buông một lời chào hỏi vui vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn bè vì sợ họ cười nhạo tôi.

Tôi luôn miệng la lớn:  Không có thời giờ, không có thời giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời giờ để lo cho việc rỗi linh hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.

Tôi trình diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.

Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: ‘Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời giờ.”

Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh hồn của chúng ta vẫn tiếp tục sống động trong cõi đời đời.

Victor Hugo, một đại văn hào Pháp đã nói: “Tôi cảm biết có sự sống tương lai trong tôi.”  Cyrus cũng đồng ý kiến: “Tôi không thể nghĩ rằng linh hồn chỉ sống khi còn ở trong một thân thể hay chết.”  Chính Emerson cũng nói: “Bằng chứng hiển nhiên về sự bất diệt của linh hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi kết luận trái ngược.”  Mark Twain đã viết: “Tôi không bao giờ tìm thấy mảy may sự thật có thể chứng minh về đời sống tương lai, nhưng tôi có khuynh hướng chờ đợi nó.”

Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua Hezekiah:  “Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi đâu.” (2 V 20: 1).  Do môi miệng của tiên tri Amốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: “Ngươi hãy chuẩn bị đi gặp Thiên Chúa của ngươi.” (Am 4: 12).

John Bunyan, tác giả cuốn “Thiên lộ lịch trình”, đã nói lúc ông gần qua đời: “Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn.  Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội nhân bởi công lao cứu chuộc của con Ngài.  Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung sướng trong cõi đời đời.”

Chúng ta hãy lợi dụng những giây phút chóng qua của đời người để chuẩn bị cho cuộc sống đời đời: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Gio 3: 16).

“Sinh ký tử qui” (sống gởi thác về).  Người có Đức Tin đặt niềm tín thác trọn vẹn nơi Chúa Quan Phòng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm chung, như lời Thánh Phaolô đã nói:  “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi.” (Pl. 1:21).

Trong tinh thần phó thác tuyệt đối đó, các Anh Chị trong dòng Tiểu Muội và Tiểu Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh “Dâng Mình” của Cha Charles de Foucauld như sau:

“Lạy Cha, con phó thác mình con cho Cha.  Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha.  Cha làm gì  mặc lòng, con cũng cám ơn Cha.  Con sẵn sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được trọn vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo dựng.  Con chẳng ước muốn chi khác nữa.  Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó thác linh hồn con trong tay Cha.  Con dâng linh hồn con cho Cha.  Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do dự đắn đo song vô cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con.  Amen!”     

Đỗ Tân Hưng

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *