THÁNH GIÁ CHÚA LÀ NGUỒN PHÚC VINH

Ngày 14 tháng 9, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa với niềm vui vì được cứu độ. Ngày hôm nay, Thánh Giá được trình bày cho các tín hữu không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để tự hào và không có khóc lóc. Lễ này khởi đi từ hai sự kiện lớn là khánh thành là cung hiến đền thờ Calvario và Mộ Thánh ở Thánh Địa do bà Helena, mẹ vua Constantin (khoảng năm 270, 280 đến 337), hoàng đế Roma cho xây cất năm 335. Ngày 14 tháng 9 còn là ngày mừng vì tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326.

ZZCuộc chiến thắng của người Kitô giáo trước quân Ba Tư vào thế kỷ thứ VII, giúp tìm lại Thánh Giá Chúa và cung nghinh về Giêrusalem là sự kiện thứ hai. Từ đó, ở Giêrusalem có lễ Suy Tôn Thánh Giá vào ngày 14 tháng 9. Tuy nhiên với dòng thời gian, lễ này có một ý nghĩa riêng, vì được cử hành với niềm vui của mầu nhiệm Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, được Đức Kitô dùng để cứu độ thế gian.

Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để “tán dương” Đức Kitô: “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang” (Pl 2, 8 -11). Thánh Gioan lại đề cập đến Thập Giá là khí cụ để cứu độ con người: “Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 14).

Như thế, Thánh Giá là Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, Thánh Giá ban tặng cho nhân loại ơn sủng và ơn tha thứ. Nên “chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Ca nhập lễ).

Giáo hội cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa, nhờ Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa về trời cao, vứt bỏ sau lưng tội lỗi thế gian để đạt tới sự thiện trên trời. Chúng ta hát mừng Chúa sống lại hiển vinh, vì bởi cây Thánh Giá niềm hân hoan tràn ngập khắp địa cầu. Còn hạnh phúc nào hơn từ cây Thánh Giá; vì chính nhờ cây Thánh Giá, nguồn vinh phúc, ơn cứu độ chúng ta được phục hồi. Thật vậy, nếu không có cây Thánh Giá, Đức Kitô đã không bị đóng đinh, sự sống đã không bị treo lên gỗ giá, máu và nước, nguồn suối trường sinh đã không chảy ra từ cạnh sườn để rửa sạch tội lỗi thế nhân, bộ mặt kẻ tội lỗi đã không bị lột trần, chúng ta sẽ không được tự do và không được hưởng nhờ ơn phúc từ cây sự sống. Nếu như không có Thánh Giá, thiên đàng không được mở, sự chết không bị chôn vùi, mọi thủ đoạn của hỏa ngục sẽ không được phơi bày ra. Thánh Giá thật cao cả và quí giá biết bao. Cao cả, vì Đức Kitô đã chiến thằng khải hoàn trước mọi đau khổ, Thánh Giá phát sinh sự thiện với biết bao kỳ công. Quí giá, vì Thánh Giá vừa là sự khổ đau vừa là khí giáp của Thiên Chúa. Là khổ đau, vì chính nhờ cây thánh giá Đức Giêsu đã hoàn toàn chịu chết; là khí giáp, vì ma quỉ đã bị tổn thương và đánh bại, sự chết đã bị Đức Giêsu tiêu diệt vĩnh viễn; cửa Hỏa ngục bị đập tan và Thánh Giá trở nên ơn cứu độ cho toàn thế giới. Thánh Giá được gọi là vinh quang của Đức Kitô, và tán dương Người. Chúng ta nhìn thấy nơi Thánh Giá, chén của ao ước và tất cả mọi khổ đau mà Đức Kitô đã phải chịu vì chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.

LM Antôn Nguyễn Văn Độ

CÁM ƠN MẸ – LỄ SINH NHẬT ĐỨC MẸ

ZZLễ Sinh nhật Đức Mẹ, ngày 08 tháng 9; đúng 9 tháng sau lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 08 tháng 12. Ngày Đức Trinh Nữ Maria chào đời là khởi đầu cho mùa cứu rỗi, như bình minh báo hiệu một ngày tươi sáng cho nhân loại. Mẹ như “sao mai” dẫn lối loài người, như “rạng đông” báo hiệu mặt trời.

Ngay từ thế kỷ VI, cả Giáo Hội Đông phương cũng như Tây Phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ. Đến thế kỷ X, lễ mừng được phổ biến khắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng Y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử, cai quản có 18 ngày, nên chưa thực hiện được lời hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này.

Giáo Hội hân hoan mừng ngày sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria. Chúc tụng, cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho nhân loai một người Mẹ tuyệt mỹ, là Đức Maria. “Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nẩy sinh từ gốc Jesse” (phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Ðông Phương).

Đức Maria “là con ông thánh Gioakim và bà thánh Anna. Cả hai ông bà đều bởi dòng dõi vua Đavít, và gia đình thầy cả thượng phẩm Aaron. Thiên Chúa đã cho hai ông bà sinh được một người con quý báu trên đời là để thưởng công đức của hai ông bà. Nếu việc Đức Maria sinh ra làm cho thế gian vui mừng, thì cũng biết là gia đình ông thánh Gioakim vui sướng biết chừng nào. Sau khi sinh con được tám ngày, theo thông lệ, ông bà song thân đã đặt tên con gái là MARIA, nghĩa là Sao Biển” (Sách hạnh các thánh).
Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét, thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ. Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng! Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác, bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được thì Ngài đã làm cho em.

Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao, sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Em bé ấy tên là Maria. Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng. Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao. Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình. Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn. Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi. Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu. Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ. Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do, không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn, dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ.

Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse. Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái. Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người, nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn. Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài. Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Maria ước mơ. Khác với bà Evà, Maria tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng. Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới. Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường (Mana). Cuộc đời của Mẹ như một bài ca bất tận: “Phần con đây,con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa,vì phúc lộc Ngài ban” (Tv 12). Mẹ được Thiên Chúa yêu thương với muôn vàn ân lộc: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…” (Lc 1,49).

Hôm nay, mừng sinh nhật Đức Mẹ là dịp để mỗi người con cảm ơn người mẹ sinh thành của mình.

Cám ơn mẹ đã cưu mang và sinh hạ ra con.
Cám ơn mẹ đã nuôi dưỡng và bảo bọc che chở cuộc đời con.
Cảm ơn mẹ đã cho con sự cân bằng trong cuộc sống.
Cảm ơn mẹ đã dạy con tình thương mẫu tử là bất diệt.
Cảm ơn mẹ đã dạy con giá trị của sự cần cù.
Cảm ơn mẹ đã dạy con chiêm ngưỡng vẻ đẹp của muôn vật.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết tôn trọng mọi loài.
Cảm ơn mẹ đã cho con biết nuôi dưỡng những cảm xúc.
Cảm ơn mẹ đã dạy con rằng cuộc sống luôn biến chuyển đổi thay.
Cảm ơn mẹ cho con phương thế để trưởng thành.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết nhìn mặt sáng của sự việc.
Cảm ơn mẹ đã dạy con sống mạnh mẽ dịu dàng.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết trắc ẩn cảm thông.
Cảm ơn mẹ đã dạy con giá trị hợp tác trong công việc.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết quý trọng trời nắng và cả cơn mưa.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết ẩn nhẫn mà không chịu khuất phục.
Cảm ơn mẹ đã cho phép con sáng tạo.
Cảm ơn mẹ đã dạy cho con sống trung thực.
Cảm ơn mẹ đã mở mắt cho con trước vũ trụ bao la.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết trân quý những điều đơn giản.
Cảm ơn mẹ đã dạy con tin vào chính mình.

Mẹ là tuyệt tác tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho con. Không có mẹ, con đâu cảm được vị ngọt của tình yêu “như chuối ba hương, như xôi nếp mật, như đường mía lau”. Không có mẹ, con đâu có “lớn nổi thành người”.

Không có gì trên đời này cao quý hơn tình yêu của người mẹ. Không có tình mẫu tử nào cao quý hơn tình yêu của Mẹ Maria. Mẹ Maria chính là bảo ngọc châu báu mà Thiên Chúa trao ban cho nhân loại.

Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ.
Xin Mẹ che chở, gìn giữ hồn xác chúng con trong tình thương của Mẹ.
Xin cho chúng con được nép mình trong vòng tay từ ái của Mẹ. Amen!

Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ VÀ “PHÉP LẠ BÁNH TRUNG THU” CHO TÙ NHÂN HỒNG KÔNG

Tờ báo NCR (National Catholic Reporter) mới đây đặt một câu hỏi:

“Phải làm gì khi bạn cần tới 10.000 bánh trung thu mà lại cần thật gấp rút?”

Câu trả lời là: “Hãy viết thư cho Đức Giáo Hoàng!”

Sự thực thì Đức Giáo Hoàng khó nghèo của chúng ta đã không cung cấp tất cả 10.000 chiếc bánh trung thu đâu, nhưng nghĩa cử của Ngài đã tạo ra một ‘phép lạ’ giống như xưa khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho 5 cái bánh và 2 con cá để nuôi 5000 người đàn ông, chưa kể đàn bà và con trẻ.

Có người cho rằng phép lạ đích thực của ‘hiện tượng bánh hoá ra nhiều’ của Chúa xẩy ra được, chính vì cử chỉ tượng trưng của Ngài đã khuyến khích ‘tinh thần san sẻ’ giữa những người “có” và người “không có” trong đám đông.

Chúng ta không dám “lạm bàn” về phép lạ của Chúa vì làm như vậy là hoài nghi về quyền năng siêu nhiên của Thiên Chúa. Tuy nhiên “Phép lạ bánh trung thu” mới đây nếu có thể gọi được là “phép lạ”, thì rõ ràng đã xẩy ra bởi vì tấm gương “san sẻ” cho người nghèo của Đức Thánh Cha.

ZZCâu chuyện như sau:

Đức Hồng Y Joseph Zen, 81 tuổi, giám mục về hưu của Hồng Kông, từ 4 năm nay vẫn làm việc mục vụ để chăm sóc tù nhân, những người cải huấn, cai nghiện, phục hồi chức năng của Hồng Kông.

Ngài thường mua bánh trung thu mỗi năm cho nơi Ngài tới thăm, vì phong tục ở đây là tìm về gia đình trong ngày tết trung thu để có thể chia sẻ những tấm bánh với những người có mặt và không quên để dành những lát bánh cho những người vắng mặt cũng như những người quá cố.

Cho nên, theo Đức Hồng Y Zen, thì tấm bánh trung thu mang một ý nghĩa rất đặt biệt về niềm vui gia đình, về đoàn tụ và hạnh phúc. Tặng bánh trung thu cho tù nhân là một nghĩa cử đem lại nguồn an ủi và hy vọng cho họ.

Năm nay, Đức Hồng Y Zen ước vọng có được 10.500 chiếc bánh để tặng cho tất cả mọi tù nhân vào dịp Tết Trung Thu, ngày 19 tháng 9 tới đây. Biết rằng Đức Phanxicô là một người đầy lòng thương xót, Đức Hồng Y Zen nói với AsiaNews, “Tôi đoán rằng Ngài cũng sẽ quan tâm đến việc tặng bánh trung thu cho các tù nhân ở đây.” Ngài đã viết thư cho Đức Giáo Hoàng.

Đức Hồng Y đã đoán đúng. Ngài nhận được hồi âm vào ngày 7 tháng 8 của Đức Giáo Hoàng như sau: “Thưa Đức Hồng Y quí mến, tôi sẵn sàng tham gia việc tặng bánh trung thu cho các anh chị em của chúng ta trong các nhà tù của Hồng Kông, Chúa Giêsu sẽ nhận ra chúng ta ở ngưỡng cửa Thiên Đàng. Chúc mừng Tết Trung Thu! Thân ái ban phép lành, PP Phanxicô.”

Đức Hồng Y Zen đã nắm bắt lấy cơ hội, Ngài đã in nhiều tấm thiệp với lời hồi âm của ĐGH (dịch ra hán văn) và gửi cho những giáo hữu ở Hồng Kông xin họ hãy noi gương ĐTC.

Chỉ khoảng 2 tuẩn lễ, tiền quyên góp ào ạt đổ về, lên tới 170,000 đôla HK (22,000 USD), đủ để mua bánh cho mọi tù nhân.

Vào đầu tháng Chín, Đức Hồng Y Zen cho biết, “Tôi đã gửi cho Đức Thánh Cha một hộp bánh Trung Thu và chúc lễ hội đến Ngài.” Đó là một hộp bánh nhân hạt sen có 2 lòng đỏ trứng muối.

Ngài cho biết thêm “Khi tôi đến thăm các tù nhân vào cuối tháng Tám, họ nhắc nhở tôi về bánh trung thu,” Ngài mỉm cười. “Tôi chắc chắn rằng họ đã biết việc Đức Thánh Cha Phanxicô hổ trợ sự kiện này, vì họ thường theo dõi tin tức trên các báo.”

Câu chuyện vui đã không ngừng ở đây, nhiều nhà thờ và tổ chức dân sự cũng đã noi gương ĐTC, quyên góp bánh trung thu và phân phối đến những người cao tuổi sống một mình và đến các gia đình có thu nhập thấp.

Niềm vui lễ hội đang lan rộng tới tất cả mọi người.

Chúc mừng Trung Thu
Têrêsa Thu Lan
http://vietcatholic.net

TRÁCH NHIỆM VỀ NGƯỜI ANH EM

Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:
Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.

Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: Hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.

Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.

ZZĐức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào và bảo:

– Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà, Đức Giám Mục mới nói:

– Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.

Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:

– Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!

*******************************************
Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi, có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của anh em. Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.” Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, Ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại, Ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Và sau cùng, dù không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, cũng như nêu mối nguy hiểm của lỗi lầm này với phần rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.

Thưa anh chị em, Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia đình của Ngài. “Chị ngã, em nâng;” “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó.” Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta trách nhiệm đó. Ở đây không có ý nói về việc ai đó xía vô đời tư của người khác, nhưng có ý nói về một người anh em ý thức trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em khác sống tốt hơn, vì ích chung của Giáo Hội.
Đây là một việc làm tế nhị, khó khăn, đòi hỏi phải nhẫn nại, bởi vì người ta làm việc trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: Trước hết cá nhân đối diện với cá nhân. Nếu người phạm lỗi không chịu nghe những lời góp ý để sửa chữa lỗi lầm, người ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý được thấu lý đạt tình và có sức mạnh hoán cải hơn. Nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo.

Đó quả là một biện pháp khôn ngoan. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được sự bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm tội có dịp hồi tâm, phản tỉnh để nhận ra sự sai quấy của mình. Lúc đó, không một tội nhân nào còn có lý do để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.

Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống của cộng đoàn, phải thi hành với tình yêu huynh đệ. Giáo Hội chỉ giúp cho cá nhân và xã hội được tốt lành, hoàn thiện khi đóng đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ nơi nào chân chính và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá hủy, đồng thời đẩy lui những điều ác, điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của con người với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.

Khi chúng ta cùng cộng đoàn hay Giáo Hội lên án những bất công và tệ đoan xã hội cũng như sự suy thoái đạo đức… chính là lúc chúng ta thực thi trách nhiệm sửa chữa lỗi lầm của nhau, cho mình và cho xã hội. Trách nhiệm này, Chúa đã trao cho chúng ta trong tư cách là người con cái của Chúa và Giáo Hội.

Anh chị em thân mến, chúng ta họp nhau đây nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất, đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ không bao giờ trả được.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

HÌNH ẢNH MẸ TÊRÊXA ĐỐI VỚI TÔI

“Một suy nghĩ hướng đến tha nhân. Cách thức mà chúng ta thinh lặng, lắng nghe, tha thứ, nói năng và hành động. Đấy là những giọt dầu chân chính giúp cho ngọn đèn chúng ta cháy mãi suốt cuộc đời mình.” Mẹ Têrêxa.

Ngày 5 tháng 9 năm 1997, một vĩ nhân đã ra đi….. Vâng, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đúng là vĩ nhân của thế kỷ XX nếu ta nhớ lại rằng Mẹ đã nhận được Giải Nobel Hoà Bình năm 1979, và ngày qua đời Mẹ được một vinh dự mà chưa một vĩ nhân nào có được: Ba nước trên thế giới chịu quốc tang, đó là Ấn Độ, Anbani và Hoa Kỳ.

ZZMẹ có dịp qua Việt nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ. Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình. Tôi không còn nhớ Mẹ đã nói gì với tôi, nhưng Mẹ để lại hai hình ảnh vẫn còn theo tôi cho đến ngày hôm nay.

Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ. Khi đến Việt nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương. Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba nữ tu theo Mẹ (trong số đó có vị Bề Trên tổng quyền hiện nay là Sr Nirmala Joshi). Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành nhà nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại. Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.

Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3. Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy. Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào nhà nguyện và bảo: “Chúa kìa”, với một thái độ tự nhiên giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về. Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút trước khi bắt đầu câu chuyện. Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào nhà nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về. Thái độ mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ. Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.

Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ. Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một. Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai. Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình. Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị… Có những cái nhìn đè bẹp người người đối thoại và làm cho họ trở nên nhỏ bé và đầy mặc cảm; có những cái nhìn làm cho người đối diện lớn lên và tự hào về giá trị của mình: Mẹ Têrêxa là người có cái nhìn thứ hai đó.

Mẹ Têrêxa thành Calcutta! Một danh xưng đem tự hào về cho Giáo Hội, cho các quốc gia của Mẹ, cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng qua hai lần gặp gỡ, tôi không bị choáng ngộp vì một vĩ nhân, mà chỉ đọc được nơi Mẹ một Kitô hữu điển hình: một người “đã hóa mình ra không” trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em nhân loại, dù cho người ấy có thấp hèn đến đâu.

Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng lên hàng chân phước. Mẹ là người được phong chân phước nhanh nhất trong lịch sử giáo hội, vỏn vẹn 6 năm sau ngày qua đời. Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ chính thức hóa một điều mà mọi người gặp Mẹ đã công nhận từ lâu: Mẹ quả là hình ảnh sống động của Chúa Kitô trên thế gian này.

Giờ này Mẹ đã về bên Chúa, tôi bỗng nghĩ đến 4690 nữ tu Thừa Sai Bác Ái đang tiếp tục sống đời sống ,”Kitô hữu mẫu mực” của Mẹ tại 710 nhà trong 132 nước trên thế giới. Bất giác tôi nhớ lại lời Mẹ dặn: “Con hãy cảm tạ Chúa cùng với Mẹ, vì Việt Nam là nước thứ 100 mà các Thừa Sai Bác Ái hoạt động và nhà tại Việt Nam là nhà thứ 500 của họ”. Tôi không biết sau 2 năm hiện diện tại Việt Nam, các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêxa có được gia hạn giấy phép hoạt động hay không. Nếu không được thì kể cũng xót xa cho Giáo Hội tại Việt Nam đấy. Nhưng dù các con của Mẹ có hoạt động công khai hay âm thầm, thì Mẹ vẫn còn sống mãi trong họ để tiếp tục khẳng định cho mọi người mà họ gặp gỡ: Chúa đang sống cạnh bạn và Ngài tôn trọng bạn với trọn vẹn trái tim yêu thương của Ngài.

Để kết thúc những cảm nhận này, tôi ghi lại đây một chuyện nhỏ. Khi trao đổi danh thiếp với nhau, Mẹ cho biết rằng mình không bao giờ có danh thiếp.

Sr. Nirmala trình cho Mẹ ‘danh thiếp’ sau đây với những lời vàng ngọc của Mẹ. Mẹ cầm bút viết lời chúc phúc, rồi trao cho tôi như một kỷ vật:

(1) Ghi chú: Trên “danh thiếp” có hàng chữ viết tay God Bless you (Xin Chúa chúc lành cho con) và chữ ký của Mẹ. Tác giả cũng đã dịch những hàng chữ trên ra tiếng Việt như sau:

The fruit of SILENCE is Prayer
The fruit of PRAYER is Faith
The fruit of FAITH is Love
The fruit of LOVE is Service
The fruit of SERVICE is Peace.

( Hoa quả của THINH LẶNG là Cầu Nguyện
Hoa quả của CẦU NGUYỆN là Ðức Tin
Hoa quả của ÐỨC TIN là Tình Yêu
Hoa quả của TÌNH YÊU là Phục Vụ
Hoa quả của PHỤC VỤ là Bình An )

(Kỷ niệm 6 năm ngày Mẹ Têrêxa Calcutta về thiên quốc)
Trần Duy Nhiên

10 LÝ DO CHỊU ĐAU KHỔ

ZZHoratio G. Spafford là một luật sư giỏi ở Chicago hồi thập niên 1800 và là bạn của nhà truyền giáo Dwight L. Moody.  Luật sư Spafford được kính trọng và tốt lành, nhưng ông vẫn không tránh khỏi những lúc khổ đau.

Trước hết, ông mất đứa con trai vì chứng ban đỏ (scarlet fever).  Rồi vốn đầu tư làm ăn cũng bị thua lỗ.  Không lâu sau đó, 4 cô con gái của ông chết trong một vụ đắm tàu ở Đại Tây Dương, chỉ còn bà vợ Anna của ông sống sót nhờ bám vào chiếc phao rồi được cứu.

Tại sao bi kịch xảy ra với người tốt?  Luật sư Spafford không thể hiểu, nhưng rồi ông vẫn vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa.  Mọi người có thể tôn vinh Thiên Chúa ngay cả trong những lúc đen tối nhất của cuộc đời.  Theo Kinh Thánh, đây là 10 lý do để chúng ta chịu đau khổ.

  1. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta phạm tội.  Chẳng có ai công chính (Rm 3:10), nghĩa là ai cũng là tội nhân (Rm 3:23). Những người không có đức tin thì sống biệt lập với Chúa, còn những người có đức tin thì trải nghiệm từng khoảnh khắc, từng ngày, từng mùa… về niềm tin vào Thiên Chúa. Quy luật tâm linh được tạo ra để triệt tiêu tội lỗi trong đời sống của tín hữu, quy luật này nghiêm khắc, kể cả cái chết: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết.  Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử.  Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian” (1 Cr 11:29-32).
  2. Chúng ta chịu đau khổ vì người khác phạm tội.  Vợ chồng và con cái chịu đau khổ vì bị lạm dụng.  Công dân chịu đau khổ vì chính quyền tham những.  Satan xúi giục vua Đa-vít thống kê dân số Ít-ra-en, và có 470.000 người chịu hậu quả (2 Mcb 10:20).  Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết không phải vì lỗi của Ngài mà vì tội lỗi của nhân loại.
  3. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta sống trong thế giới tội lỗi.  Tai nạn và tai họa xảy ra, mỗi năm có hàng triệu người chết. Thánh Phaolô nói rằng “muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8:22).  Đó là hậu quả của tội lỗi.
  4. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta được tự do chọn lựa.  Quyền năng Thiên Chúa và khả năng của con người là hai sự thật trong Kinh Thánh.  Chúng ta không là robot, chúng ta có thể chọn lựa vì Thiên Chúa cho chúng ta quyền tự do.  Đôi khi sự chọn lựa của chúng ta gây đau khổ – cho mình và cho người khác.  Randy Alcorn viết: “Nếu Thiên Chúa tước hết vũ khí và ngăn chặn các tài xế say xỉn, thế giới này sẽ không là thế giới thật để con người chọn lựa…  Trong một thế giới như vậy, người ta sẽ chết mà không có nhu cầu, chỉ thấy mình ở Địa ngục”.
  5. Chúng ta chịu đau khổ vì sự sống đời đời.  Thế giới này không là nhà của chúng ta, chúng ta chỉ là khách vãng lai.  Chúng ta là công dân Nước Trời.  Thánh Phaolô nói: “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất” (Dt 11:13).  Chính đau khổ ngăn cản chúng ta bám víu vào thế gian này, vì thế gian sẽ qua đi.
  6. Chúng ta chịu đau khổ để không gặp điều tệ hại hơn.  Đau khổ làm cho chúng ta tập trung vào nguyên nhân, để cố gắng sửa đổi trước khi tệ hại hơn.  Cơn sốt dẫn chúng ta tới bác sĩ, tại đây chúng ta được chẩn đoán và chữa trị.  Ở mức lớn hơn, đau khổ cho chúng ta biết có gì đó bất ổn, và dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu.  Bóng tối, đau khổ, cô đơn, lo buồn…  Mọi thứ đó giúp chúng ta nắm bắt thực tế cuộc sống, giúp chúng ta cần đến Chúa.
  7. Chúng ta chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô và nên giống Ngài.  Thánh Phaolô nói: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11).  Nhờ kinh nghiệm đau khổ mà chúng ta có thể an ủi người khác khi họ chịu đau khổ.  Khi chúng ta chịu đau khổ là chúng ta được nên giống Đức Kitô.  Thánh Phaolô phân tích: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4:17).
  8. Chúng ta chịu đau khổ để tôn vinh Thiên Chúa.  Chúa Giêsu động viên chúng ta nếu chúng ta chịu đau khổ vì danh Ngài: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:10-11).  Ngài cảnh báo rằng thế gian sẽ ghét chúng ta vì họ đã ghét Ngài trước (Ga 15:18).  Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái, chương 11, có người nhờ đức tin mà được chúc lành bằng của cải và thành công, có người lại được chúc lành bằng đau khổ và cái chết.  Thiên Chúa không phân loại các anh hùng đức tin này tùy trường hợp của họ, Ngài chỉ tôn vinh họ vì vững mạnh đức tin.  Nếu các Kitô hữu có cuộc sống thoải mái thì sẽ làm cho Phúc Âm hấp dẫn vì các lý do sai lệch.
  9. Chúng ta chịu đau khổ để trưởng thành tâm linh. Chúa Giêsu là Đấng hoàn hảo, vậy mà Ngài còn phải chịu đau khổ để học được đức vâng phục.  Thánh Phaolô cho biết: “Nhờ Chúa, tôi rất vui mừng vì cuối cùng thấy tình cảm của anh em đối với tôi lại thắm thiết.  Tình cảm đó vẫn sống động, nhưng anh em chỉ thiếu dịp tỏ ra.  Không phải vì thiếu thốn mà tôi nói thế, bởi lẽ tôi đã học sống tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào.  Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được.  Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả.  Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4:10-13).  Thánh Phaolô xác định: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12).
  10. Chúng ta chịu đau khổ để hy vọng vinh quan Nước Trời.  Kh 21:4 nói: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.  Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”  Thánh Phaolô nói: “Tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8:18).

Có nhiều lý do để chúng ta chịu đau khổ, đôi khi khó nhận biết chính xác.   Như trường hợp Thánh Gióp, ông không bao giờ biết việc đánh cược của Satan với Thiên Chúa.  Nhưng đây là sự thật:

  • Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi đau khổ của chúng ta.
  • Thiên Chúa vẫn hiện hữu ở bên chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Thiên Chúa luôn hành động với chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta biết lý do, Ngài sẽ nói với chúng ta (qua Kinh Thánh hoặc cách nào đó).
  • Thiên Chúa tác động qua cái ác và đau khổ để sinh ra điều tốt, loại bỏ điều xấu mà Satan và kẻ xấu có thể làm cho chúng ta.

Ngày nào cũng có đau khổ, nhưng hãy nghĩ về hạnh phúc vĩnh hằng ở Nước Trời mai sau.  Randy Alcorn viết: “Số phận của chúng ta không lệ thuộc vào những người kiện cáo, hoặc những chính trị gia, luật sư, giáo viên, huấn luyện viên, sĩ quan quân đội, hoặc chủ nhân.  Họ có thể chống lại chúng ta – và Thiên Chúa hoàn toàn có thể chuyển những điều xấu thành điều tốt nhất cho chúng ta”.

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ OnceDelivered.net)
http://conggiao.info/index.aspx

MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI SỐNG

Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 17 tháng Tám, 1999, một trong những trận động đất kinh hoàng nhất đã xảy ra trong lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ.  Nó đã san bằng hàng trăm công trình kiến trúc và làm thiệt mạng hàng ngàn người.

Khi động đất xảy ra, một kế toán viên 40 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ là Yuksel Er vừa mới đi ra từ phòng vệ sinh ở lầu ba trong khu chung cư sáu tầng lầu.

Bỗng dưng, mọi thứ bắt đầu quay cuồng.  Chính ông cũng lảo đảo và bị rơi vào dòng thác cuốn của đồ vật.  Trong 45 giây tiếp đó tai ông như điếc vì tiếng động mạnh.

Và rồi, bỗng dưng mọi sự im lặng một cách ghê sợ. Khi Yuksel tỉnh dậy, ông thấy mình bị kẹt dưới đống gạch vụn trong một vùng thật tối. Trong khoảng cách nhỏ bé đó, ông không thể nào cựa quậy được, chỉ có thể nằm yên ở đó. Trên mình ông và chung quanh ông là những vụn vỡ của tòa chung cư sáu tầng lầu.

Lúc đầu ông tưởng là tận thế.  Nhưng khi nghe thấy tiếng rên rỉ ở xa xa, ông biết là một điều gì khác đã xảy ra. Trong bốn ngày liền, ông không ăn uống gì.  Ông dùng thời giờ để cầu nguyện, suy nghĩ về đời sống và tự hỏi đời sống sau khi chết sẽ như thế nào.

Lúc đầu, ông còn la lớn kêu cứu.  Nhưng thấy vô ích ông im lặng dưỡng sức. Ông bắt đầu nhớ đến gia đình, và nhất là đứa con trai 13 tuổi mà ông vừa mới la rầy nó chỉ vài giờ trước trận động đất vì nó cứ dành máy computer của gia đình để chơi “game”.

Sau đó vào ngày thứ tư, khoảng một giờ sáng, ông nghe có tiếng gọi quen thuộc.  Chỉ trong vài phút, ông nhận ra tiếng của đứa cháu và thằng con 13 tuổi.  Chúng đào xới đống vụn để lôi ông lên.

Khi đứa con trai lôi được ông ra khỏi đống gạch vụn, điều đầu tiên nó nói là, “Bố ơi, con sẽ không bao giờ làm bố giận nữa.”  Ông Yuksel trả lời, “Bây giờ thì không còn quan trọng nữa, vì bây giờ mọi sự sẽ khác biệt.”

ZZSau này, khi ở trong bệnh viện, Yuksel nói với gia đình và bạn hữu: “Đây là cuộc đời thứ hai của tôi.  Tôi sẽ cố gắng tận dụng cuộc đời ấy.”  Và rồi ông khóc.  Giống như tiếng khóc của đứa bé mới lọt lòng mẹ.

Trước trận động đất, Yuksel sống với những ưu tiên và mục đích, không khác gì những ưu tiên và mục đích của chúng ta.  Sau cảm nghiệm ấy, các ưu tiên và mục đích của ông thay đổi cách đáng kể.

Điều này đưa chúng ta đến bài Phúc Âm hôm nay. Trong bài Chúa Giêsu nói rằng, “Nếu ai trong các con muốn đến với Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá của con và theo Thầy.” Ở đó chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ về sự ngu dại khi giành được thế gian nhưng đánh mất điều quan trọng nhất trong tất cả: Là sự sống vĩnh cửu ở đời sau. Sau cùng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu nói: “Con Người sẽ thưởng cho họ tùy theo hành động của họ.”

Hãy trở về với câu chuyện của Yuksel.  Khởi đầu tưởng rằng là một thập giá nặng nề, nhưng sau cùng lại là một phước lành lớn lao. Nó đã dạy cho ông và thúc giục ông sống thời gian còn lại theo một phương cách xứng hợp với Chúa, và với suy nghĩ của Thiên Chúa chứ không phải của Satan.

Cũng giống như trận động đất đã thay đổi cuộc đời ông Yuksel, bài Phúc Âm hôm nay cũng nhắm đến một kết quả tương tự cho chúng ta – tối thiểu cho một số người trong chúng ta.  Có lẽ, như Phêrô, lối suy nghĩ về đời sống của chúng ta trở nên nguy hiểm hơn và càng giống với kiểu cách suy nghĩ của Satan hơn là của Thiên Chúa.

Có lẽ, giống như Phêrô, chúng ta đang mất dần ý nghĩa của đời sống.  Một đời sống không hoàn toàn vì vui thú và không muốn tránh càng nhiều thập giá càng tốt. Đúng ra, đó là một đời sống để được phần thưởng là sự sống đời đời.  Đó là lối sống trong những năm còn lại của chúng ta ở đời này để giúp chúng ta gặt được phần thưởng là sự sống vĩnh cửu ở đời sau.

Rõ rệt hơn nữa là vác thập giá hằng ngày của chúng ta và chấp nhận các thập giá ấy trong tinh thần mà Chúa Giêu đã chấp nhận thập giá của Người. Và đây là phần đáng kể.  Một khi chúng ta bắt đầu sống như Chúa Giêsu đã dậy, chúng ta sẽ khám phá ra điều mà Yuksel đã tìm thấy.

Nó sẽ thay đổi mọi sự, và bỗng dưng, điều tưởng như một thập giá to lớn lại trở nên một ơn sủng lớn lao trong đời này và đời sau. Hãy kết thúc với câu chuyện để nói lên điều chúng ta muốn nói:

Một vài năm trước đây, Gene Stallings đã huấn luyện đội banh trường đại học Alabama để thắng được 22 trận và được coi là trường đứng hạng hai về “football”.  Nhưng không phải biến cố này, mà là một biến cố khác, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời của ông.  Đó là việc sinh hạ đứa con trai, Johnny.

Khi bác sĩ nói với ông Stallings rằng Johnny sẽ bị hội chứng Down (chậm phát triển) và có lẽ không sống lâu hơn bốn năm, ông đã ngất xỉu.

Ba mươi năm sau, Johnny vẫn còn sống.  Nói về ảnh hưởng của Johnny trong cuộc đời, ông Stallings cho biết: “Cháu rất đặc biệt!  Tất cả sự yêu thương của cháu thì vô điều kiện.  Cháu không đạt thành tích gì. Cháu hoàn toàn vị tha.”

Trong rất nhiều dịp, ông Stallings tuyên bố rằng cho dù có thể đảo ngược mọi sự và bắt đầu lại với một đứa con không bị bệnh Down thì ông cũng không muốn như vậy.  Ông nói, “Tôi cảm nhận được rất nhiều ơn lành.”

Điều mà ông Stallings nghĩ rằng sẽ là một thập giá lớn lao trong đời thì lại trở nên một ơn sủng lớn lao – cả ở đời này và ngay cả ở đời sau.

Đây là Tin Mừng của Phúc Âm hôm nay.  Đây là Tin Mừng mà chúng ta cử hành trong phụng vụ này.

Đó là Tin Mừng khi chúng ta vác thập giá của mình và theo Chúa Giêsu, có thể thay đổi cuộc đời chúng ta.  Nhưng nó sẽ đem lại một bình an và phước lành mà chưa bao giờ chúng ta tưởng tượng ra hay hy vọng tới – và ngay cả dám mơ tưởng đến.

LM Mark Link, SJ

 

CẢM NHẬN VỀ CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI THÁNH AUGUSTINÔ

Mỗi lần lắng nghe tiểu sử cuộc đời của nhiều vị thánh, chúng ta thường có những suy nghĩ gì?  Phải chăng chúng ta cảm nhận các ngài dường như là những người không có khuyết điểm gì cả?  Và dường như chúng ta cảm thấy đời sống của các ngài thật cao và thật xa với đời sống của chúng ta?

Bạn thân mến, một tác giả đạo đức Công giáo nào đó đã cảm thấu như sau: “Không có một thánh nhân nào mà không có quá khứ.  Và không có một tội nhân nào lại không có tương lai.”  Nếu đọc lại tiểu sử cuộc đời và con người của thánh Augustinô, chắc hẳn chúng ta sẽ cảm nhận được phần nào câu nói trên. ZZ Cuộc đời của thánh nhân được cắm vào ba cột mốc quan trọng: Một con người tội lỗi, một tội nhân biết sám hối, và một thánh nhân hết lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội.  Vậy, mỗi Kitô hữu chúng ta đã cảm nhận được gì ở ba khoảnh khoắc quan trọng này nơi của cuộc đời thánh Augustinô?

Một con người đắm chìm trong tội lỗi

Trước tiên, thánh Augustinô là một con người tội lỗi.  Có người đã ví von rằng: Nếu trên trần gian này có bao nhiêu thứ tội lỗi thì Augustinô đã phạm hình như gần hết. Vậy, Augustinô đã phạm những tội lỗi nào?  Thiết nghĩ, không cần phải kể hết ra đây.  Nhưng tội mà Augustinô thường phạm nhiều nhất, nặng nhất đó là chạy theo nhục dục của xác thịt. Bởi vậy, trong quyển Tự Thú thánh Augustinô đã viết thế này: “Nhưng khốn thay, đang lúc tình dục sôi nổi, con buông theo sự hăng say của làn sóng bên trong, mà bỏ Chúa và lỗi phạm các giới răn của Chúa…”  Ngoài ra, Augustinô đã nhiều lần chạy theo bè rối chống lại đạo Chúa.  Mất đức tin. Điều đáng nói nhất là tội dâm dục của Augustinô: “Vào năm 16 tuổi, xác thịt của con, khi con chịu quyền cai trị và hoàn toàn vâng phục cơn sốt tình dục, mà sự sỉ nhục của loài người dung túng, còn luật Chúa thì nghiêm cấm.”  Thật vậy, Augustinô đã ngụp lặn và đắm chìm trong những đam mê của xác thịt.

Bạn thân mến, đã là con người ai mà chẳng có tội.  Ai cũng có quá khứ vấp ngã và sai lầm.  Vì thế, thánh Augustinô cũng không ngoại lệ. Điều này cho thấy cuộc đời và con người của thánh Augusitnô thật gần gũi với chúng ta biết bao.  Chúng ta cũng yếu đuối như Augustinô.  Chúng ta cũng nhiều lần khô khan, nguội lạnh và kém đức tin như Augustinô.  Chúng ta cũng là một con người đắm chìm trong tội lỗi như Augustinô.  Chìm đắm trong đam mê xác thịt.  Chìm đắm trong tiền bạc và quyền lực tiếng tăm v.v…  Tuy nhiên, Augustinô đã thức tỉnh và sám hối trở về với Chúa.

Một tội nhân biết quay đầu sám hối

Tiếp đến, điều đáng ca ngợi nơi Augustinô bởi vì ông là một tội nhân biết quay đầu sám hối. Augustinô nhận ra mình đã yêu Chúa quá muộn màng: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa quá trễ: Chúa ở bên trong tâm hồn, còn con, con sống hời hợt bên ngoài và chỉ chú tâm tìm kiếm Chúa ở đó.  Chúa hiện diện ở trong con nhưng con không sống ở trong Chúa.  Nhiều tạo vật đã kềm hãm khiến con sống xa Chúa.  Chúa đã tỏa ánh sáng chiếu soi và đã phá tan màn đêm tối dày đặc nơi con.”  Vâng, Augustinô đã sám hối nhờ ơn Chúa và tình yêu thương tha thứ của Chúa.  Chúa đã dùng Giám mục Ambrosiô để thức tỉnh lương tâm Augustinô.  Chúa đã dùng những lời dạy của thánh Phaolô để Augustinô nhận ra tội lỗi tày trời của mình: “Ðừng sống theo dục tính và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Ðức Giêsu Kitô”.

Vậy, có lần nào bạn và tôi biết sám hối như thánh Augustinô chưa?  Con người ai cũng có vấp ngã. Điều quan trọng là sau những lần vấp ngã chúng ta có quyết tâm đứng dậy bắt đầu lại hay không mà thôi.  Chúa không bao giờ đặt dấu chấm hết cho bất kỳ một tội nhân nào.  Lòng thương xót của Chúa luôn rộng lòng tha thứ cho những ai biết sám hối quay đầu trở về.  Dù vậy, thật không dễ cho chúng ta tí nào.  Nhưng Augusitinô đã làm được điều đó.

Một thánh nhân hết lòng yêu mến Chúa và phục vụ Giáo hội bằng cả tình yêu

Cuối cùng, từ một tội nhân Augustinô đã trở thành một thánh nhân hết lòng yêu mến Chúa và phục vụ Giáo hội.  Sau những tháng ngày đắm mình trong nhục dục xác thịt, Augustinô cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con và linh hồn con còn khắc khoải cho đến khi nào được yên nghỉ trong Chúa mà thôi.”  Kể từ giây phút ấy, Augustinô xác tín Chúa là tất cả đời mình.  Từ xác tín sâu xa ấy, thánh Augustinô đã phục vụ Giáo hội.  Phục vụ bằng suy tư sắc bén của trí tuệ.  Phục vụ bằng tài giảng thuyết sâu sắc đánh động lòng người.  Và phục vụ bằng cả tình yêu.  Bởi vậy, thánh nhân nói: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.”

Bạn thân mến, một tác giả đã cảm nhận câu nói trên như sau: “Câu nói trên của Thánh Augustinô tự nhiên thoáng vang lên trong trí khiến tôi phải trầm mình và suy nghĩ, đúng là thánh nhân luôn có những cái hơn người như thế!”  Dù vậy, phải chăng chúng ta cũng cảm nhận thánh nhân cũng mang thân phận con người mỏng giòn và yếu đuối như chúng ta.  Thánh nhân thật gần gũi với chúng ta.  Từ một con người trở thành một tội nhân.  Từ một tội nhân trở thành một thánh nhân.  Quả thật, chỉ có Chúa mới có thể làm thay đổi cuộc đời 360 độ như thế.   Mừng lễ thánh Augustinô là dịp để mỗi Kitô hữu chúng ta lắng đọng tâm hồn để suy nghĩ và cầu nguyện về bản thân, về cuộc đời và về Thiên Chúa.

Tâm Thương
http://tgpsaigon.net

 

PHÊRÔ MÔN ÐỆ BỊ MẮNG

Gom nhặt những đoạn Phúc Âm nói về phêrô, ta thấy một mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.

Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin!  (Mt 14:31).  Lần thứ hai: Ngu tối! (Mt 15:16).  Lần thứ ba: Satan! (Mc 8:33).

Không biết sau khi Phêrô được Chúa gọi ở biển hồ (Mt 4:18) bao lâu, mấy tuần, mấy tháng thì chuyện xảy ra.  Chuyện đầu tiên được Phúc Âm ghi nhận là Phêrô bị mắng.

ZZMắng lần thứ nhất: Ðêm đó, Chúa hiện đến, đi trên biển.  Chưa ai đi trên biển bao giờ.  Các môn đệ hoảng hốt la lớn: “Ma! Ma!”  Chúa bảo không phải ma, là Chúa.  Nghe thì biết vậy chứ làm sao tin được?  Các môn đệ bán tín bán nghi, không biết Chúa thật hay ma.  Phêrô là kẻ thách đố bóng người đi trên biển ấy:

– Nếu là Chúa thật, truyền cho tôi đi trên mặt nước xem sao!

Bóng người ấy truyền cho Phêrô:

– Hãy đến!

Phêrô liền bước xuống biển, đi.  Giả sử không phải Chúa, ma đánh lừa thì cái gì xảy đến cho ông? Chắc chắn ông bị chìm xuống biển ngay.  Theo thói thường của kẻ cân nhắc trước sau, ông không nên làm thế.  Nên xin một dấu lạ nào khác không nguy hiểm đến mình có phải là khôn ngoan hơn không.

Nghe bóng người ấy nói: “Hãy đến!”  Sao ông không dè dặt đặt vấn đề: “Chúa thật hay ma?”  Giơ chân đạp thử xem nước cứng không đã.  Chả biết lúc đó ông nghĩ thế nào, ông nhảy xuống nước ngay. Theo Tin Mừng thuật, ông đã đi được trên biển.  Ði được rồi, lúc ấy ông phải xác quyết đây không phải là ma, là Thầy chứ.  Sự thật đã rõ, ông phải chắc ăn chứ.  Nhưng chung cuộc cho thấy ông đã chìm.  Cách hành xử ấy cho ta cảm tưởng ông hành động ào ào, không suy nghĩ là bao.  Thấy mình đang lênh đênh trên nước ông mới giật mình kinh hoàng.  Và rất rõ, Chúa mắng: Quân yếu tin.

Sau khi bỏ chài lưới theo Chúa, hình ảnh đầu tiên ghi nhận được mối liên hệ giữa Chúa và Phêrô là trận mắng trên đây.  Trận mắng thứ nhất vừa xảy ra, hình ảnh thứ hai lại một trận mắng khác: Ngu tối!

Mắng lần thứ hai: Thầy trò đang đi thì gặp nhóm Pharisiêu.  Hai bên tranh luận với nhau.  Pharisiêu trách sao các môn đệ không rửa tay theo tập tục truyền thống trước khi ăn.  Pharisiêu đã nhiều lần dựa vào lề luật tìm cách bắt bẻ các môn đệ.  Họ lấy cớ trọng lề luật chứ lòng họ có một ý đồ khác.  Chúa không chấp nhận lối giả dối đó.  Ngài nói: “Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế” (Mt 15:11).  Chúa ám chỉ tâm địa trong lòng xác định tốt xấu chứ không phải hình thức tập tục ăn uống bên ngoài.  Các môn đệ hiểu ý Chúa muốn nói gì nên mới nói với Chúa:

– Thưa Thầy, Thầy có biết, Thầy nói vậy làm những người Pharisiêu khó chịu lắm đó.

Các môn đệ hiểu Chúa có ý ám chỉ gì nên mới nói với Chúa như vậy.  Nhưng trong nhóm có người hỏi:

– Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn kia cho chúng con!

Không hiểu, mới xin như vậy chứ. Và Chúa đã mắng:

– Ðến bây giờ rồi anh em còn ngu tối vậy sao! (Mt 15:15-16).  Người bị mắng đó là Phêrô!  Một chi tiết trong lời mắng này, Chúa mắng “đến bây giờ rồi mà còn ngu tối vậy sao.”  Cụm từ “đến bây giờ rồi” cho ta cảm tưởng là đã hoài công dạy dỗ mà vẫn không khá.  Nghĩa là chậm hiểu lắm, cho đến bây giờ rồi mà vẫn còn chậm như thế.

Mắng lần thứ ba: Về đức tin, lần thứ nhất Chúa mắng quân yếu tin!  Lần thứ hai bị mắng trí khôn chậm hiểu.  Cả hai lần mắng đều xảy ra công khai.  Chúa mắng Phêrô trước mặt mọi người.  Bây giờ Chúa mắng tiếp lần thứ ba.  Lần này mắng một cách thê thảm.  Chúa bảo Phêrô là Satan!

Lần mắng thứ ba này xảy ra trên đường về Jêrusalem.  Xét theo thời gian, lúc này vào năm thứ ba, khoảng cuối đời rao giảng của Chúa.  Như vậy là Phêrô theo Chúa đã được ba năm.  Theo ba năm rồi mà chưa thấy khấm khá gì.

Cuộc đời rao giảng Nước Trời của Chúa rất khác quan niệm người đương thời.  Chúa không mua đất lập đền thờ.  Không tổ chức bầu ban chấp hành trong cộng đoàn tông đồ.  Các môn đệ không có huy hiệu.  Họ không có áo đồng phục.  Không thấy gì là dấu hiệu sắp có vương quốc.

Theo Chúa gần ba năm rồi, ghe thuyền đã bán, đất đai bỏ lại sau lưng.  Ai mà không sốt ruột băn khoăn.  Các môn đệ đôi khi cũng nghĩ tới giấc mơ ngày Thầy mình lập vương quốc.  Nhưng bao giờ? Theo mãi thế này ư?  Có đám đông đã bỏ.  Băn khoăn trong giấc mơ ấy, các ông hỏi nhau:

– Ai là người lớn nhất trong vương quốc này?

Bằng chứng là Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến xin Chúa một ghế bên tả, một ghế bên hữu (Mc 10:37).  Như vậy họ đã để ý đến các chức tước.  Họ hy vọng bổng lộc quyền thế.  Theo ngôn ngữ hôm nay thì ai chủ tịch?  Ai phó chủ tịch?

Có điều ta thấy, họ chỉ nói riêng với nhau.  Không ai dám đến hỏi Chúa.  Riêng Phêrô, ông nhìn lại đã theo ba năm rồi mà chưa thấy gì.  Ông là người duy nhất dám trực tiếp chất vấn Chúa:

– Thưa Thầy, chúng tôi bỏ mọi sự mà theo Thầy thì được cái gì?  (Mt 19:27).

Ðức Kitô trả lời:

– Phàm ai bỏ cha mẹ anh em, vì danh Ta thì được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (Mt 19:29).

Câu trả lời thật rõ.  Thế là Phêrô chắc ăn!  Sẽ được gấp bội!  Nói cách khác, câu trả lời ấy như lời khuyến khích đừng nản, cứ theo đi!

Vừa trả lời thế được ít bữa, bất ngờ một hôm trên đường chiều, Tin Mừng Máccô tường thuật bằng ngôn ngữ chính xác, lần này Chúa “nói rõ” điều đó.  Chúa không dùng dụ ngôn, nhưng nói rõ cho dễ hiểu.  Máccô viết: “Rồi Ngài dạy cho các ông biết về Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.  Ngài nói rõ điều đó không úp mở” (Mc 8:31-32).

Ơ hay!  Thầy vừa mới hứa ai theo Thầy sẽ được gấp trăm ngay đời này cơ mà!  Sao bây giờ lại có chuyện Thầy bị chết là làm sao?  Như vậy chúng tôi mất hết à?  Phêrô không thể hiểu.  Lần này không thắc mắc, không hỏi Chúa nữa, ông “kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Người” (Mc 8:32).

ZZMáccô tường thuật chính xác trong ngôn ngữ rất ý nghĩa là Phêrô “kéo” Chúa ra và “trách” Chúa! Ta hãy tìm ý nghĩa trong hai động từ “kéo” và “trách” này.  Kéo là hành động bắt người khác về phía mình.  Trách là hành vi diễn tả người khác sai, mình đúng.  Mạnh hơn nữa, động từ trách diễn tả một uy quyền.  Ðộng từ kéo diễn tả một thái độ không cho người đối diện tự do chọn lựa.  Hai động từ ấy phiên dịch thái độ của Phêrô là ý của ông đúng.  Chúa hãy làm theo ý ông.

Trong vai chủ động đó, Phêrô cho rằng suy nghĩ của ông là đúng.  Chúa không nên suy nghĩ kiểu đó.  Như thế, Phêrô đã đổi hướng con đường Ðức Kitô phải đi sang một hướng khác.  Cái ý nghĩa sâu xa của hành động kéo và trách nằm ở chỗ này.  Nằm ở chỗ là thay đổi lý tưởng, thay đổi đường đi của Ðức Kitô.

Hành động của Phêrô không phải là lời cám dỗ mà là nhảy vào cuộc một cách tàn bạo.  Nó không nhẹ như lúc ma quỷ cám dỗ Chúa trong sa mạc.  Lúc đó ma quỷ chỉ cám dỗ chứ không dàm cản ngăn. Phêrô không cám dỗ mà Phêrô cản ngăn.  Vì thế, lời mắng của Ðức Kitô là một lời kháng cự rất mạnh: Satan!

Ðọc Phúc Âm đến đây, ta thấy càng ngày Chúa càng mắng Phêrô nặng hơn.  Ðến cuối đời còn mắng thêm một lần nữa.

Chuyện xảy ra, lúc các thượng tế, binh lính cùng gậy gộc đến bắt Chúa trong vườn Cây Dầu, Phêrô đã rút gươm.  Nhưng Chúa trả lời hành động ấy:

– Hãy xỏ gươm vào vỏ, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm.  Hay ngươi tưởng Ta không thể cầu cứu với Cha Ta cấp cho Ta ngay mười hai cơ binh thiên thần sao? (Mt 26:52).

Nhìn lại đời Phêrô, Chúa mắng nhiều hơn khen.  Dường như chẳng khen lần nào.  Có lần Chúa hỏi các môn đệ nghĩ Chúa là ai.  Ngày đó Phêrô tuyên tín rất hay: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”  Nhưng ngay sau đó Chúa nói: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời” (Mt 16:16-17).  Như vậy là Thần Khí Chúa nói, nếu không do Thần Khí mà để tự mình Phêrô thì không biết ông sẽ nói Chúa là ai!

Cũng có lần ông nói lung tung.  Lần Chúa biến hình trên núi Tabor.  Thấy quyền uy sáng láng, ông vội nói với Chúa:

– Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Môisê một cái, và ông Êlia một cái.

Ngay sau câu nói ấy, Máccô viết tiếp, cũng bằng một ngôn ngữ chính xác rất ý nghĩa.  Ngài tường thuật chi tiết như sau: “Thực ra ông không biết phải nói gì vì ông kinh hoàng” (Mc 9:6).  Như thế, chỉ vì kinh hoàng mà nói, chứ chẳng biết mình nói gì!  Nước không có, gạo củi cũng không, tự dưng dựng ba cái lều trên đỉnh núi, lấy gì ăn!

Kẻ theo Ðức Kitô bị mắng nhiều hơn khen.  Lần nào Chúa cũng mắng Phêrô trước đám đông.  Có hai điều đáng lưu tâm về những lời Kinh Thánh tường thuật con người Phêrô qua một đời bị mắng này:

– Thứ nhất, Phêrô kém như thế tại sao Chúa không sa thải?

– Thứ hai, bị mắng nhiều như thế, tại sao Phêrô không giận mà bỏ Ðức Kitô?

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ – Trích trong “Cô Đơn và Sự Tự Do”

ĐI SAU CHÚA

ZZĐang khi dân chúng còn mù mờ về vai trò và con người của Đức Giêsu thì Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi đã mạnh mẽ tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”  Phêrô được khen là có phúc vì nhận được mạc khải từ trên cao.  Thế nhưng chỉ một khoảnh khắc sau, chính Phêrô lại bị Thầy mình trách là “Satan” vì lòng dạ tăm tối, chỉ “hiểu biết những sự thuộc về loài người” và đang “làm cớ cho Thầy vấp phạm”.

Phêrô tuy nhận chân Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nhưng trong cái nhìn của ông, Đấng Cứu Thế sẽ là người hùng mạnh, đánh đông dẹp bắc, chinh phục vua Chúa, thâu tóm quyền hành, và rồi đăng quang thống trị thế giới.

Đức Giêsu hiểu rõ quan niệm trần gian của các tông đồ về Đấng Cứu Thế, nên ngay sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, Ngài cấm các ông nói cho người khác những gì họ mới biết.  Ngài muốn giúp các ông thay đổi quan niệm về Đức Kitô.  Đức Kitô đúng nghĩa sẽ là đấng phải đau khổ, bị từ khước, chịu giết chết trước khi đi đến toàn thắng.  Sức mạnh của Đức Kitô không ở trong binh khí hay chiến mã như bao vua chúa trần gian, song là nơi thập giá khổ đau.  Chiến lược của Đức Kitô là đi xuống chỗ tận cùng trong lũng sâu nước mắt của nhân loại để nâng tất cả lên trong vinh quang của Thiên Chúa.

Nhưng nào các tông đồ có hiểu được điều đó!  Và đâu phải chỉ có các ông.  Chính tôi lắm khi cũng không hiểu nỗi đấy chứ.  Tôi cứ nghĩ Chúa là Đấng quyền năng đầy sức mạnh, phải cứu con người khỏi bao gian nan, khốn khổ, trái ý trên đường đời; phải ra tay làm nhiều phép lạ cho người ta tin; chứ đàng này Chúa lại im như bất lực, thậm chí còn để cho dân Chúa, Giáo hội Ngài chịu biết bao thách đố đau thương.

Cũng như Phêrô, tôi muốn chỉ cho Chúa phương cách cứu thế, chứ làm theo kiểu của Chúa thì e rằng chẳng còn ai tin và Ngài sẽ thất bại ê chề.

Cũng như Phêrô, tôi muốn chận Chúa lại, không cho Ngài tiếp tục cuộc hành trình kỳ quặc về Giêrusalem.  Tôi muốn “dạy” cho Ngài lối đường nên đi.  Tôi muốn Ngài rút bớt điều kiện cho mọi người cảm thấy nhẹ nhàng; cung cấp bánh ăn, của cải vật chất dư đầy cho người ta theo đông; làm nhiều phép lạ, ảo thuật giựt gân cho dân chúng thích thú.

Nhưng Chúa Giêsu quát lên: ‘Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Ta”.

Có hai lần trong đời mình, Chúa Giêsu đã dùng đến chữ “Satan.”  Một lần với tên Cám dỗ và lần này với Phêrô.  Satan đối nghịch với Thiên Chúa.  Satan làm đảo lộn trật tự thế giới.  Satan phá hoại chương trình của Thượng Đế nơi con người.  Thế nên lời quở mắng “Satan” là lời khiển trách nặng nề nhất.

Nhưng để ý sẽ thấy: Trong lần quở mắng tên Cám dỗ, Chúa Giêsu bảo nó “hãy cút đi”, Ngài không còn muốn thấy mặt nó nữa; nhưng khi khiển trách Phêrô, Chúa Giêsu lại nói “hãy lui ra sau Ta.”  Như thế Ngài vẫn cho người môn đệ cơ hội hoán đổi hướng nhìn và cách đi.  Thay vì đi trước và chỉ lối cho Chúa, tôi phải hướng theo và tiếp bước sau Ngài.

Satan không thể bước theo Chúa vì bản chất kiêu ngạo của nó.  Nhưng riêng tôi, dù bao vấp phạm lầm lỡ, dù lắm khi sống theo ý mình, hay từng chạy theo tiếng gọi của quỉ ma, tôi vẫn được ban cho cơ hội làm lại hành trình của người môn đệ Đức Kitô, dẫu biết rằng không môn đệ chân chính nào của Ngài lại không phải mang thập giá: “Ai muốn đi sau Ta thì hãy chối bỏ mình, hãy vác lấy khổ giá mình và theo Ta” (Mt 16:24).

Thánh Phêrô, sau lời khiển trách của Thầy, đã về lại với chỗ đứng đúng nhất của mình: ông không đòi Chúa theo ý mình, song là vâng theo ý Chúa; ông không dẫn đường cho Chúa nhưng là bước theo dấu chân Ngài.  Cao điểm của sự “đi theo” này là việc Phêrô chịu đóng đinh thập giá vì Đức Kitô vào năm 69 AD.

Như thế, vị Giáo hoàng tiên khởi, với biết bao yếu đuối sa ngã, cuối cùng đã lấy cái chết của mình để xác minh chân lý thập giá.  Từ chỗ muốn dạy cho Thầy mình về sự khôn ngoan của thế gian đến việc khám phá và ôm ấp giá trị sâu xa sự điên rồ của Thiên Chúa.  Từ chỗ phủ nhận và ngăn chận Thầy mình bước đi trên con đường khổ đau, đến việc chính mình anh dũng tiến vào.  Nhưng nhờ đâu mà Phêrô có được thái độ và hành vi hào hùng đó?  Phải chăng chính nhờ niềm xác tín vào Đức Giêsu, Đấng ông đã tuyên xưng.  Nếu không có xác tín, hẳn ông đã chẳng dám theo.

Niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu thúc đẩy người ta vâng theo lời Ngài.  Khi Chúa bảo “Hãy lui ra sau Ta”, Phêrô vâng lời lui ra chứ không giận dỗi bỏ đi.  Khi bị mắng là “Satan”, Phêrô vẫn khiêm tốn nhìn nhận tầm nhìn nông cạn của mình chứ không tự ái phản đối.

Thử hỏi tôi có được niềm xác tín làm phát sinh thái độ khiêm tốn và nghe lời Chúa như thế không, hay tôi vẫn khăng khăng chối từ lối đường thập giá?

Một nhà tư tưởng quả quyết: “Luật của thập giá là luật phổ quát.  Làm người, không ai thoát khỏi thập giá”.  Như thế chối từ thập giá là chối từ làm người đúng nghĩa.

Nhưng phải vác thập giá theo Đức Giêsu – tức là sống theo những giá trị Tin Mừng như vị tha, thanh khiết, chân thật, từ tâm, phục vụ, quên mình…- tôi mới là con người trọn vẹn, một con người phản chiếu dung mạo Thiên Chúa.

LM Phêrô Bùi Quang Tuấn