HOANG ĐỊA – THAO TRƯỜNG CỦA NHÂN ĐỨC

Có một lần được đến, sống và làm việc tại một nhà tĩnh tâm ngay giữa sa mạc của nhà Dòng trong suốt mùa hè, tôi chợt nhận ra một thói quen vô thức của mình: cứ tìm đến một góc vắng vẻ nhất và ngồi đó trong thinh lặng.  Nhiều khi tôi dùng thời gian ấy như là một giờ tâm sự với Chúa, nhưng cũng lắm khi chỉ để hồn phiêu lãng với những chùm tư tưởng khác nhau.  Điểm lạ là nơi tôi đến chẳng có dáng của hoa thơm, cũng không có bóng của cỏ lạ.  Có chăng chỉ là cái nắng chói chang chiếu rọi trên những gốc xương rồng cằn cỗi.  May lắm thì được yên vị trong một căn chòi nho nhỏ đủ làm dịu đi đôi chút cái gay gắt của trưa hè.  Ấy vậy mà cứ ngày này qua tháng nọ, nó dường như trở thành một chốn rất đỗi thân quen.  Và muôn lần như một, câu nói trong sách Luca cứ vọng về: “Đức Giêsu thường lui vào một nơi hoang vắng mà cầu nguyện” (Luca 5:16).  Ừ nhỉ, có gì hấp dẫn hay lãng mạn nơi hoang địa cơ chứ?  Nhìn quanh nhìn quất chỉ toàn một màu của cỏ úa, ban ngày thì nóng cháy thịt da, về đêm thì lạnh buốt tận xương tuỷ.  Người đã tìm gì trong hoang địa?  Thế đó tôi bắt đầu một cuộc tìm tòi.

ZZHoang địa, nơi tôi luyện đức khiên nhường.  Một ngày lang thang qua khắp nẻo đường.  Một ngày rộng tay với muôn vàn ân phúc.  Thành công có, thất bại có.  Giữa sự ồn ào của lời khen tiếng chê, thật khó mà nhận ra tiếng nói âm thầm của con tạo, của trái tim.  Đi hay ở, làm hay không, có dễ đâu mà nhận định ý Ngài?  Ấy là chưa kể cái êm đềm của đời thường sẽ làm lòng người mau quên và đôi chân chợt mỏi, chỉ muốn dừng lại bám rễ, chỉ muốn hài lòng với một chút vinh vang mờ nhạt.  Vào hoang địa thôi!  Bởi nơi ấy sẽ chẳng vang vọng những lời khen tiếng chê, sẽ chẳng bị âm thanh hỗn tạp của cuộc sống bao phủ.  Nơi ấy, thành công sẽ chẳng có cơ hội tạo hào quang và thất bại sẽ không còn cơ may làm nên những làn mây ảm đạm.  Tất cả chỉ là hư vô, là trống rỗng.  Trong im lặng tuyệt đối đó, liệu có cần không cho bao vất vả hầu đạt được những hứa hẹn hão huyền?  Khi trước mặt ta, sau lưng ta, bên phải, bên trái, bên trên, và bên dưới ta chẳng còn ai khác hơn là chính mình, trốn đâu cho được.  Mà khổ nỗi khi phải đối diện với chính mình, ta mới nhận ra được một sự thật phũ phàng nhất: ta chỉ là hư vô trước mặt Chúa.  Ta chỉ là một công cụ không hơn không kém.  Những tràng pháo tay không dứt hay những lời rủa xả lê thê của hôm qua không nói lên được con người thật của ta.  Rồi ta chợt thấu hiểu lời mời gọi tuyệt vời của hoang địa: hãy trở nên khiêm hạ; hãy nhận ra nguồn gốc của mọi sự vốn chẳng xuất phát hoặc chấm dứt nơi ta.  Có lẽ vì thế mà Đức Giêsu mê không khí của sa mạc.  Quả vậy, nơi đó đã nhắc nhở Ngài một sứ vụ to lớn hơn: tất cả vì sự cả sáng của Danh Cha.

Hoang địa, nơi hình thành và nung nấu niềm tin.  Dẫu nắng có gay gắt cỡ nào đi nữa thì từng khóm xương rồng vẫn còn đó.  Dẫu muôn vàn ngọn cỏ có nhuốm màu của lá úa, thì bên dưới vẫn hàm chứa cái khao khát của mầm sống, của ý chí muốn tồn tại.  Có ai đi giữa sa mạc mênh mông mà lòng không thèm khát một vạt nước vọt lên từ giữa những dải cát vô tình?  Hẳn ta còn nhớ một đoạn của Thánh Vịnh: “Người xẻ đá giữa sa mạc hoang vu, khiến nước tuôn tràn cho dân được uống” (TV 78:15).  Có ai vật vờ giữa cơn lạnh cắt da của trời đêm mà không mong muốn một ánh lửa bập bùng sưởi ấm?  Cái khao khát được uống nước của ân sủng, được sưởi ấm với tình yêu sẽ trổi mạnh hơn bao giờ khi ta đi vào sa mạc của tâm hồn.  Và đằng sau cõi thinh không, đằng sau sự đối đầu với những giới hạn của bản thân, lòng ta chợt bừng lên một niềm tin, một thao thức, một ước muốn theo Ngài.  Ta biết ta đã không lẻ loi.  Ta tin Ngài đang cùng ta dấn bước.  Và niềm tin ấy được nung nấu qua bao thử thách của trời trưa và bao cô quạnh của đêm dài.  Nếu không bước vào hoang địa, nếu lòng vẫn bị phủ tràn với muôn ngàn tín hiệu, thì e rằng cơ hội để hình thành và tôi luyện đức tin sẽ bị nhiễu đi.  Ra vậy, Đức Kitô đã rất có lý khi tìm đến nơi hoang vắng.

Hoang địa, nơi hun đúc lòng trông cậy.  Nhiều hôm ngồi tư lự ở góc vắng của nhà tĩnh tâm, tôi chợt thấy áo mình đẫm ướt mồ hôi.  Nắng và nóng quá đỗi.  Những cơn gió nhẹ thoảng qua bỗng nhiên trở thành một món quà quý giá.  Thoảng hoặc một vài giọt nước của một cơn mưa hiếm hoi biến thành báu vật.  Gió và mưa tuy hiếm nhưng vẫn đến đấy thôi.  Thiết nghĩ người lữ khách giữa hoang địa không vì sự hiếm hoi của chúng mà trở nên thất vọng.  Rất có thể họ còn đón nhận chúng cách trân quý hơn, tri ân hơn.  Cũng vậy, khi gặp gỡ nội tâm và Thiên Chúa giữa sa mạc khô cằn, lòng người lữ thứ luôn nung nấu những khát khao.  Chúng giống như quân canh mong chờ hừng đông đến hoặc như cái đấu ao ước được đong đầy, được lèn chặt.  Rồi hồn họ chợt vút cao ngong ngóng chờ trông con tạo.  Cái ‘kết hiệp’ tưởng như rất thường đã trở nên linh thánh hơn bao giờ.  Phải chăng Đức Kitô vào hoang địa ngày nào để nuôi dưỡng lòng trông cậy tuyệt đối vào Đấng mà Ngài hằng tuân phục tin yêu?

Hoang địa, chốn xuất phát của tình yêu, của hiến mình.  Lúc thanh vắng là lúc ta có thể đối thoại với chính mình.  Quả thế, khi thành công không là áp lực và thất bại chẳng là điều làm ta bận tâm, thì đấy là lúc ta trở nên chân thành nhất.  Ta sẽ tự hỏi chính mình xem ta có muốn tái đầu tư cho những gì ta đang đeo đuổi?  Ta sẽ tự vấn lương tâm xem hồn ta có thanh thản, tim ta có khao khát, có muốn tiếp tục yêu và sẵn sàng xả thân vì tình yêu?  Câu trả lời vào giây phút đó sẽ không mang hơi hướm của những lời chúc tụng bề ngoài hoặc những sợ hãi của bao thất bại ngập tràn.  Trong thinh lặng ta có cơ hội nhìn lại và chọn lựa cách kỹ lưỡng, để rồi khi trở về đời thường ta có một lời đáp rõ ràng hơn, mạch lạc hơn.  Hẳn ta còn nhớ, ta chỉ là một loài thụ tạo rất tầm thường.  Tình yêu ta dành cho nhau không phải lúc nào cũng ướm đượm hương thơm.  Trái lại, cũng có những phút giây ta ngậm phải những trái đắng và lòng ta thoáng xôn xao.  Thế nên lâu lâu có cơ hội nghiềm ngẫm về mối tình ta dành cho nhau cũng là một điều kỳ thú.  Đức Giêsu khi xưa đã yêu và yêu thật nhiều.  Nhưng tình yêu ‘nhân tính’ của Ngài không phải không gặp nhiều thử thách.  Và để đáp trả lời mời gọi tiếp tục yêu, để tìm lại cái đơn sơ, tinh tuyền và chân chất của con tim, hơn một lần Ngài đã vào hoang địa để suy nghĩ, để nguyện cầu.  Cũng chính qua những phút giây thần thánh đó, Ngài đã lựa chọn con đường yêu thương một cách tự do và mãnh liệt.  Bởi từ đáy thẳm tâm hồn, Ngài hiểu rõ Giêsu sẽ không còn là Giêsu nếu nơi Ngài thiếu vắng sự cho đi của trái tim.  Ngài đi vào sa mạc để rồi khi trở về lòng Ngài lại chân chất những ước mơ và thân xác Ngài lại một lần biến thành của lễ.

Hoang địa, nơi ẩn náu một kho tàng vô tận.  Bất chấp nắng hay mưa, nóng hay lạnh, từng đàn ong mật cứ vần vũ quanh đám cỏ hoang.  Những cánh chuồn, cánh bướm vẫn ưỡn lượn nhịp nhàng.  Về đêm tiếng dế rả rích tỉ tê như một điệu luân vũ tuyệt vời.  Cha giám đốc nhà tĩnh tâm cho biết bên dưới sự khô cằn của hoang địa lại là một cõi mênh mông trù phú của nguồn nước dồi dào cho bao thế hệ. Những làn nước mát trong mà tôi cùng bao người thao luyện viên tận hưởng đến từ một mạch ngầm quý giá.  Từng ngụm từng ngụm đi vào lòng mát lạnh.  Chưa bao giờ tôi lại quý nước hơn những ngày này.  Hỏi liệu có khi nào nguồn nước ấy vơi đi, cha cho biết có thể lắm, nhưng đã có bao chục ngàn con người dừng chân và nhà tĩnh tâm này đã đi vào năm hoạt động thứ 50 mà chưa ai phải vất vả kiếm tìm một nguồn nước mới.  Còn nữa cứ mải mê với cõi riêng của mình, hơn một lần tôi thấy bóng dáng của những chú nai tơ tuyệt đẹp, hay vẻ dềng dàng của mẹ con gấu đen hóm hỉnh, hoặc cái giả dạng tuyệt tác của các nàng rắn đất.  Chúng luẩn quẩn quanh tôi, chợt dừng lại ngõ sững rồi lại lững thững bước đi cứ như thể thế giới này lớn đủ, rộng đủ và hòa bình đủ cho mọi loài.  Xem ra cõi hoang vu đã dạy cho tôi những bài học mà chưa trường lớp nào từng dạy.  Nó cho tôi thấy một thế giới thật mà Thiên Chúa muốn tạo nên: một loại thế giới yêu thương nhau, chấp nhận lẫn nhau, vui vẻ chung sống và chia cho nhau những gì có thể.  Thế nên khi đi vào sa mạc của tâm hồn, tôi thấy lòng mình bừng lên những ước mơ.  Bởi bên dưới cái tưởng chừng khô cằn và nặng nề nhất lại là nơi tôi học hỏi nhiều nhất.  Có lẽ Đức Giêsu cũng có một tâm trạng giống tôi khi Ngài tìm vào nơi hoang vắng.

Nhà tĩnh tâm này, đã có bao con người đến rồi đi, đã có bao trái tim trở về, và đã có bao tâm hồn biến đổi.  Nếu nói đó là do công của các Cha linh hướng của trung tâm cũng chưa hẳn sai.  Nhưng sẽ không hoàn thiện khi ta không nhắc đến bối cảnh tuyệt vời của hoang địa, nơi mà mỗi thao luyện viên có dịp sống và lắng nghe tiếng thầm thì của tạo hoá qua những giây phút trầm mặc linh thánh.  Để rồi khi trở về với thế giới vội vã, họ biết đâu là con đường mà Thiên Chúa muốn họ đi, họ hiểu ý nghĩa của những vui buồn sướng khổ trong cuộc sống.  Họ đã được Thiên Chúa, qua thinh lặng của hoang địa biến đổi.  Họ không còn là họ của hôm qua, nhưng là của những lớp người mãi bước tới theo tiếng gọi của tình yêu.  Sa mạc cũng có lắm loại nhiều thứ.  Có loại là một thứ sa mạc nóng bỏng như tôi đã sống và làm việc trong mùa hè qua.  Nhưng cũng có thứ sa mạc lặng lẽ hơn, tinh tế hơn: thứ sa mạc của tâm hồn.  Thế nhưng dẫu ở đâu hay loại nào, chúng cũng đều là thao trường tuyệt vời cho bao nhân đức.

Bạn mến, có bao giờ bạn tìm đến với sa mạc nội tâm?  Có bao giờ bạn bắt chước Đức Giêsu dành một phần trong ngày để vào nơi hoang vắng?  Có bao giờ bạn ước ao được lớn dậy trong tình yêu và đời mình được nuôi dưỡng với bao nhân đức?  Nếu có thì đừng ngại đi vào hoang địa bạn nhé.  Vào đi, đừng sợ.  Chắc chắn khi vào rồi, bạn sẽ phát hiện ra nhiều điều mới lạ.  Khi ấy thói quen tìm nơi vắng vẻ mà tâm sự với Thượng Đế và trở về với lòng mình sẽ không bao giờ rời xa bạn nữa.  Và như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn bạn cũng sẽ trông mong được gần Chúa và tha nhân hơn bao giờ.

Quân Trần, SJ

http://www.donghanh.org

HỌC BẠ CỦA GIÊSU

ZZCậu Giêsu, học sinh trường Nazaret, đem học bạ về nhà.

Thật tình mà nói, kết quả không mấy tốt. Mẹ cậu biết thế nhưng không nói gì, bà chỉ ghi nhớ mọi sự trong lòng mà suy đi nghĩ lại.

Nhưng điều gay go nhất bây giờ, là phải trình học bạ này cho ông Giuse.

Người gửi: Trường Simêôn tại Nazaret

Ngưòi nhận: Ông Bà Giuse và Maria David

Nội dung: Học bạ của Giêsu 

Toán Học: Hầu như chẳng làm được bài toán nào, ngoại trừ nhân bánh và cá lên nhiều lần.  Không biết làm toán cộng, cậu khẳng định rằng mình cộng với Cha thành một.

Tập Viết: Không bao giờ mang tập vở bút viết đến lớp, đành phải viết trên cát.

Địa Lý: Không có khái niệm về phương hướng.  Cậu khẳng định rằng chỉ có mỗi một con đường để về nhà Cha thôi.

Hóa Học: Không chịu làm các bài tập thí nghiệm gì cả, nhưng có lần Cậu đã làm cho nước hóa ra rượu nho khiến người ta cự nự nhau trong đám cưới.

Thể Dục: Thay vì học bơi như mọi người, lại ngang nhiên biểu diễn đi trên nước.

Văn Học: Khó có thể nói năng rõ ràng, nói gì cũng bằng dụ ngôn.

Vấn Đáp: Mới 12 tuổi mà Cậu đã đối đáp với các luật sĩ và kinh sư trong đền thờ khiến họ hết sức ngạc nhiên.

Kỷ Luật: Đã đánh mất mọi thứ đồ đạc, rồi tuyên bố xoành xoạch rằng mình chẳng có được một viên đá gối đầu!

Hạnh Kiểm: Có khuynh hướng thích giao du trò chuyện với kẻ lạ, bọn nghèo, hạ cấp và cánh phụ nữ trắc nết.

Vệ Sinh: Nhổ xuống đất hòa thành bùn rồi bôi lên mắt người ta tức thì họ được sáng mắt.

Sinh Vật: Dám quả quyết người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

Thiên Văn: Là người duy nhất đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống.

Kinh Doanh: Những người được mướn từ sáng sớm, cậu trả cho họ một quan tiền; và những người cậu mướn vào xế chiều, cậu cũng trả một quan tiền.  Chưa hết, bà góa bỏ tiền xu vào nhà thờ, cậu nói bà ta bỏ nhiều nhất.

Tâm Lý: Cậu nói “Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.  Đúng hơn, hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.”

Lịch Sử: Cậu sẽ xây Hội Thánh của Cậu, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi vì Cậu đã thắng thế gian.

*********************************

Đọc xong học bạ, ông Giuse tự nhủ rằng tình trạng này không được kéo dài thêm, mà cần phải có biện pháp cứng rắn: “Này, Giêsu, đã như vậy thì kỳ Phục Sinh này con đành phải vác thánh giá thôi!”  Vậy Giêsu đã bảo gì với Cha mình?  Giêsu nói:

-“Ối trời, Cha Giuse ơi, ngày xưa, con học hành khá hơn nhiều đó chứ!  Thế mà giờ lũ trẻ cứ phiên phiến ra như thế!  Con chỉ còn một viên đá gối đầu thật, nhưng đâu phải là con vứt đi các vật dụng, mà là con cho nhà hàng xóm đó thôi.  Khi Mẹ Maria may cho con áo mới mặc vào mùa xuân, con thích lắm.  Nhưng sáng nay, con đi dạo chơi quanh làng, thấy cậu bé ở cuối xóm, mặc bộ quần áo rách bươm, con nghĩ đồ đạc của con còn nhiều, tốt hơn của bạn ấy, thế nên, về nhà, con gói ghém và tặng bạn ấy.  Lần trước, đôi dép mới cha cho con cũng thế.  Cha thường dạy, chia sẻ như thế là rất tốt phải không cha?  Con không bao giờ phân biệt kẻ nghèo, người giàu.  Con thích giao tiếp với những người bị khinh bỉ, bỏ rơi.  Nhiều người nghĩ con là người điên, nhưng cha biết con rất tỉnh táo, phải không cha?  Và cha vui vì điều đó.  Cha luôn dạy con phải biết yêu thương mà.

 Bây giờ con buồn ngủ rồi, chúc cha ngủ ngon.  Ngày mai, con sẽ nói tiếp cho các bạn ấy hiểu, con đã học hành như thế nào, cha nhỉ!”

Mong rằng học bạ của mỗi người chúng ta, cũng có những phần như vậy.

Sưu tầm

 

 

BÁNH BỞI TRỜI

Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường.  Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu.  Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa.  Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa.  Người đã chiến thắng.  Nhưng chính vì chiến thắng.  Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc.  Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời.  Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần.  Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc.  Người mất hết sức phấn đấu.  Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa.  Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người.  Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa.  Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy.  Đường đi rất xa và rất khó khăn.  Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời.  Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi.  Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người.  Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.

Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa.  Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống.  Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh.  Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.”  Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện.  Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành.  Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy.”  Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri.  Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại.  Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim.  Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu.  Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria.  Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống.  Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống.  Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn.  Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai.  Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời.”

ZZBan Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể.  Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết.  Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời.  Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh.  Lương thực thần linh ban sự sống thần linh.  Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta.  Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm.  Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.

Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc.  Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.  Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu.  Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời. Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa.  Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi.  Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống.  Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi.  Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.

Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng.  Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa.  Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa.  Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời.  Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn.  Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.

Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

THÁNH GIOAN MARIA VIANNEY, LINH MỤC

Thánh Gioan Maria Vianney, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1786 tại Lyon nước Pháp và sau bao nhiêu khó khăn gian khổ, Gioan Maria Vianney được chịu chức linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ars, một giáo xứ vừa nghèo vừa khô khan nguội lạnh.  Cha Gioan Maria Vianney đã lãnh nhận giáo xứ này với tinh thần vâng phục cao độ.  Ngài quả là vị mục tử gương mẫu.  Cuộc đời của ngài là cuộc đời chỉ biết lo cho việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt ngài rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà ngài đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng.

Khi mới 8 tuổi ngài mới học đọc và biết viết.  Vì nhà nghèo nên được cha sở nuôi dạy, và sau đó đã đưa ngài vào chủng viện.  Vào trong chủng viện ngài không học được gì cả.

Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức Linh mục không.  Nhưng Vianney không thể trả lời câu nào.

ZZNổi nóng, vị giáo sư đập bàn, nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa!  Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì!”

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh.  Vậy với cả một con lừa này, chẳng lẽ Thiên Chúa không làm được việc gì sao?”

Cuộc cách mạng 1789 bùng nổ khiến thầy Vianney phải bỏ dở việc học.  Nhưng sau đó thầy tìm hết cách để tự học dưới sự dìu dắt của cha xứ.  Nhưng khổ thay, học mấy cũng chẳng nhớ.  May lúc ấy địa phận gặp phải cảnh khan hiếm linh mục nên Vianney được bề trên gọi về để khảo hạch.  Và lẽ dĩ nhiên là lần nào Vianney cũng trượt.

Vianney không nản lòng, cứ tiếp tục học.  Cuối cùng, bề trên thấy thầy bền chí quá bèn gọi cha xứ đến để hỏi về thầy:

– Thầy có lòng đạo đức không?

– Thưa có.

– Thầy có kính mến phép Thánh Thể?

– Thưa có.

– Thầy có siêng năng lần hạt không?

– Thưa có.

Cha chính quyết định: “Thôi, cho thầy chịu chức vì thầy bền chí, chứ nếu cứ khảo hạch mãi thì không bao giờ đỗ được.”

Như vậy thầy Gioan Maria Vianney được làm Linh mục là nhờ “phép chuẩn.”  Vì tuy học hành kém cỏi, đầu óc mù tịt, nhưng nhờ có lòng đạo đức và sự bền chí mà ngài đã được thụ phong Linh mục.  Nhưng khi làm Linh mục rồi, Chúa đã ban cho ngài rất nhiều ơn đặc biệt đề cứu các linh hồn, đến nỗi một lần kia, quỷ Satan đã phải nói với ngài: “Nếu trên thế giới có hai đứa như mày thì bọn tao đành phải thất nghiệp mất.”

Nhìn vào “cuốn tự điển cuộc sống” của thánh Vianney, người ta đọc thấy toàn là những chữ: ăn chay, hãm mình, đền tội, khổ hạnh… Nhìn vào gương mặt của ngài, người ta cũng gặp thấy toàn là những nét: gian truân, khắc khổ, lao nhọc, đau thương… Thế nhưng, trong con người ấy lại chói ngời một quả tim luôn tươi vui, từ ái và yêu thương đối với hết mọi người.

Hàng ngày, vào khoảng 12 giờ, cha Vianney rời nhà thờ và trở về nhà xứ để ăn trưa.  Đến một giờ, ngài lại vào toà giải tội và ngồi ở đó mãi cho đến tối.  Trong khoảng thời gian nghỉ ngơi vắn vòi ấy, cha Vianney phải tranh thủ để làm bao nhiêu công việc.  Thường khi ăn cơm bao giờ ngài cũng đứng, vì ngồi thì sợ sẽ kéo dài giờ ra.  Vừa ăn xong, ngài vội đi thăm các trẻ mồ côi, các em mẫu giáo… Ai cũng thấy ngài vui tươi âu yếm và sung sướng giữa những tâm hồn đơn sơ ấy.  Từ giã các em, ngài rảo bước đến nhà các kẻ ốm liệt; gặp ai dọc đàng, ngài cũng ủi an thăm hỏi.  Các gia đình đều mong cha sở đến thăm, vì đối với họ, dường như nơi ngài tàng ẩn một niềm vui không bao giờ cạn. Lúc trở lại nhà thờ ngài thường trao đổi một vài lời vắn tắt, có lúc rất dí dỏm, hài hước với các khách hành hương đang đứng trước sân nhà thờ chờ đến lượt vào toà xưng tội.

Lần nọ, cha Vianney gặp một bà trong xứ đến chào ngài.  Biết rõ bà là người thật lắm mồm lắm mép, ăn nói huyên thuyên suốt ngày, ngài liền hỏi:

– Trong suốt năm, có tháng nào con nói ít hơn mọi tháng không?

Bà ta bỡ ngỡ, ấp úng thưa:

– Thưa cha, con thì quen thói rồi, tháng nào cũng nói như nhau cả.

– Không, có một tháng con nói ít hơn, con biết tháng nào không?

Bà ấy ngẩn ngơ:

– Tháng nào thưa cha?

– Tháng Hai dương lịch, vì tháng đó chỉ có 28, 29 ngày thôi.

Ai nấy cười phá lên.  Ngài vội vã bước vào toà giải tội.

Lần khác, cha Vianney thấy ở trước sân nhà thờ có một quầy hàng bán chuỗi, tượng ảnh và có cả hình của ngài nữa.  Ngài bèn dừng lại, cầm lấy tấm hình của mình đưa lên cao cho mọi người xung quanh coi và nói:

– Thiên hạ dại dột thật.  Cái hình nhăn nheo như con khỉ khô thế này mà cũng phải mua mất một đồng quan!

Các người chung quanh được dịp cười bể bụng vui vẻ.  Cha Vianney cũng cười theo, trả tấm ảnh lại rồi bước vào nhà thờ.

Về sau, Vianney đã trở thành một vị thánh thời danh, thu hút nhiều tâm hồn trở về với Chúa.

Đời sống thánh Gioan Maria Vianney quả là một tấm gương hy sinh vì Chúa và các linh hồn, đúng như lời thánh nhân thường nói: “Hạnh phúc cho một vị linh mục được chết kiệt sức vì phục vụ Chúa và các linh hồn.”  Hạnh phúc ấy đã đến với thánh Gioan Maria Vianney vào ngày 2 tháng 8 năm 1859. Thánh nhân lãnh nhận Bí tích Xức dầu bệnh nhân và Bí tích Thánh Thể, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa quảng đại quá khi con không đến với Chúa được, thì Chúa đến với con.”  Ngày 4 tháng 8 năm 1859, khi vị linh mục đọc kinh cầu nguyện cho người hấp hối đến câu: “Xin các thiên thần Chúa đến rước linh hồn Gioan vào thành thánh Giêrusalem”, thánh nhân trút hơi thở cuối cùng một cách êm ái. Ngài hưởng thọ 73 tuổi; làm cha sở họ Arc được 41 năm.

Tin thánh Gioan Maria Viannê qua đời đã lôi kéo cả một biển người đổ xô về giáo xứ Arc. Đoàn người đông đảo đã đi qua trước xác thánh nhân suốt 48 tiếng đồng hồ.

Đức Giám mục giáo phận đã đến chủ sự Thánh lễ an táng và giảng thuyết: Ngài nhấn mạnh rằng bao thế kỷ mới được thấy một cuộc đời linh mục như Thánh Gioan Maria Vianney.  Thánh nhân được an táng trong nhà nguyện thánh Gioan Tẩy Giả, bên cạnh toà giải tội mà người ta đã gọi là “phép lạ lớn nhất ở Arc”.

Từ ngày ấy, biết bao nhiêu Hồng Y, Giám mục, linh mục đã đến quỳ cầu nguyện và đặt những cái hôn thành kính lên viên đá mộ thánh nhân. Ngày 31 tháng 5 năm 1925, thánh Gioan Maria Vianney được tuyên Hiển Thánh; và năm 1929, thánh nhân được đặt làm thánh bổn mạng các linh mục chính xứ trên toàn thế giới.

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Chúa đã làm cho thánh linh mục Gioan Maria nên một tấm gương tuyệt vời về lòng tận tụy hy sinh của một người mục tử. Vì lời thánh nhân chuyển cầu, xin cho chúng con hằng noi theo lòng bác ái của ngài mà cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Kitô để muôn đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc.

http://tgpsaigon.net

THÁNH I NHÃ LOYOLA

ZZBị bệnh gan nặng nhưng tâm hồn đầy thanh thản, bình yên, cha thánh I Nhã lìa đời ngày 31 tháng 7 năm 1556 trong căn phòng tĩnh lặng chỉ có chính cha với Thiên Chúa.

Lúc sinh thời, cha I Nhã Loyola tha thiết ước mong đem đến cho mọi người tin mừng về Thiên Chúa và để mọi người nhận biết rằng Thiên Chúa thương con người, đã sai Con Một yêu dấu của Ngài làm người.  Tin Mừng về Chúa Kitô bị đóng đinh chết và sống lại để giải thoát, kêu gọi loài người trở về sự thánh thiện nguyên thủy và mời gọi con người sống mãi với Thiên Chúa.  Giáo Hội cũng chỉ loan báo tin mừng này, nhưng cha I Nhã, dựa vào kinh nghiệm bản thân, có một phương thế đặc biệt để giúp nhiều người nhận thấy Tin Mừng như một kinh nghiệm bản thân.

Chính cha I Nhã có kinh nghiệm nhận thấy Thiên Chúa một cách sống
động, thân tình, không thể nghi ngờ được.  Kinh nghiệm của cha I Nhã không phải là hình ảnh Chúa hiện ra, hoặc nước mắt sốt sắng hay là một cảm giác lạ lùng khác mà là kinh nghiệm nhận thấy Thiên Chúa hiện diện một cách yên lặng và thật gần gũi.  Một kinh nghiệm khác hẳn với lối suy tư và lý thuyết sâu xa về Thiên Chúa.  Cũng khác với lòng hăng hái dấn thân làm việc tông đồ, kinh nghiệm của cha là một sự gặp gỡ giữa chính mình và Thiên Chúa, trong sâu xa thanh tịnh của cõi lòng, nơi chúng ta cảm thấy bình an, vui sướng, tràn đầy sức sống và tình yêu, là kinh nghiệm gặp Thiên Chúa và bắt đầu từ bỏ chính mình để nhường chỗ cho Thánh Ý và Tình Yêu của Ngài.

ZZKinh nghiệm này của thánh I Nhã bắt nguồn từ một vết thương ngài bị nơi đầu gối trong một cuộc chiến xảy ra ở thành Pamplona vào năm 1521 giữa quân Pháp và quân Tây Ban Nha.  Lúc ấy, I Nhã là một sĩ quan rất trẻ và anh dũng của hoàng đế Tây Ban Nha.  I Nhã đã đôn đốc, nâng đỡ tích cực tinh thần binh sĩ của mình, một lực lượng bé nhỏ, để kháng cự và đương đầu với quân Pháp đang bủa kín, bao vây thành.  Bị thương nặng, I Nhã trở về Loyola, nơi mà 30 năm trước, I Nhã, con út của một đại chủ vùng Loyola (miền bắc Tây Ban Nha) chào đời.  Trong suốt 6 tháng trời dưỡng thương, I Nhã rất yếu, thập tử nhất sinh nhiều lần.  Trôi theo tháng ngày dưỡng bệnh, các kế hoạch cũ của I Nhã bắt đầu lung lay.  I Nhã là một chàng thanh niên hào hoa, khoáng đạt, tràn tinh thần hiệp sĩ, đầy tham vọng.  Mặc dù song thân muốn I Nhã trở thành linh mục nhưng I Nhã lại có kế hoạch khác, tham vọng của I Nhã lớn lắm, I Nhã thích ăn chơi hơn là đọc kinh, lãnh nhận các bí tích hoặc tuân giữ các giới răn của Chúa.

Ở Loyola và Manresa, năm 1521 và 1522, I Nhã bắt đầu kết thân với Thiên Chúa.  Tình thân mới đã mở mắt I Nhã và, nhờ kinh nghiệm nội tâm, I Nhã bắt đầu hiểu giá trị của các bí tích, lòng sùng kính Ðức Mẹ, mục đích các diều răn Thiên Chúa.  Ngay từ bước đầu trên đường về nhà CHA, Chúa Giêsu là hình ảnh vẹn toàn của Chúa CHA đã giúp I Nhã hiểu tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian và chính mình.  Suốt cuộc sống, cha I Nhã luôn luôn biết tìm hiểu và cảm mến Thiên Chúa mênh mông, bao la qua cử chỉ nho nhỏ, đơn sơ trong cuộc sống Chúa Giêsu.  I Nhã tìm thấy Thiên Chúa bằng cách tìm hiểu và thương mến bước theo chân Chúa Giêsu Nazareth, con của Mẹ Maria.  Ðức Mẹ dẫn I Nhã đến với Chúa Giêsu.  Ðể kết thân với Chúa Giêsu cũng như mỗi lần muốn đạt tới một ơn tối quan trọng (ba lời tâm sự trong Tuần 1, lời tâm sự Hai Cờ Hiệu…) cha I Nhã đã khẩn cầu với Ðức Mẹ trước.

Năm 1524, I Nhã ngồi chung lớp với các trẻ em để học La ngữ và can đảm bắt đầu bước trên đường trở thành linh mục.  Muốn có một căn bản vững chắc về thần học, I Nhã sang Ba-Lê là trung tâm văn hóa nổi danh nhất Âu Châu thời ấy và học đến năm 1535, I Nhã tốt nghiệp hai cấp bằng cử nhân triết học và cao học thần học.  Sau một năm chuẩn bị sốt sắng, ngài thụ phong linh mục và làm lễ mở tay năm 1536.  Cha I Nhã xác tín rằng mọi người đều có thể gặp Thiên Chúa một cách thân tình.  Cha dùng các khóa cấm phòng theo phương pháp Linh Thao để hướng dẫn các vị giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân nam nữ.  Trong các khóa Linh Thao, cha giúp họ mở lòng lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa.  Trong Linh Thao, họ trở về với Thiên Chúa và bắt đầu bước theo Chúa Giêsu như người bạn đường chí ái.

Trong số các thầy cùng học tại đại học Ba-Lê, có một nhóm nhỏ dấn thân theo cha I Nhã.  Năm năm sau, nhóm này thành lập dòng Tên (dòng Chúa Giêsu).  Người thanh niên hiệp sĩ, tự ái cao ngạo I Nhã xưa, nay bắt đầu theo chân Thầy, nghèo và khiêm nhường.  Dòng của cha I Nhã cũng theo nếp sống nghèo, khiêm nhường, xa quyền thế ngoài đời và quyền thế trong Giáo Hội.  Sinh ra trong một gia đình giàu có, qúy phái, quen biết với nhiều người có địa vị cao sang, cha I Nhã có thể được phong chức cao trong Giáo Hội, nhưng ngài không bị ảnh hưởng của quyền thế cao trọng, chức bậc giàu sang lôi cuốn.  Cha luôn luôn theo Chúa Giêsu: nghèo và khiêm nhường.  Ðây là một nét của dòng Tên, hiện tại xem ra hơi thiếu.  Có rất nhiều hình thức quyền thế: tiền bạc, bằng cấp cao, thế lực chính trị, ảnh hưởng… Chúng ta dễ bị tham quyền và lấy cớ cần một chút phương tiện và quyền thế mới để có thể rao giảng Tin Mừng.  Trong khi Chúa Giêsu chỉ xử dụng quyền của sự thật và tình thương, và đã cứu chuộc chúng ta nhờ sự yếu đuối của thập giá.

Cha I Nhã kính nể và thương mến Hội Thánh.  Ngài luôn luôn phục vụ và bênh vực Hội Thánh, nhất là trong thời các giáo phái Tin Lành cảm thấy bất mãn và tách khỏi Giáo Hội Công Giáo.  Năm 1540, Ðức Giáo Hoàng Phaolô III chuẩn nhận dòng Tên để phục vụ Giáo Hội dưới quyền chỉ huy của Ðức Thánh Cha.  Cha I Nhã luôn luôn muốn phục vụ và sống trong lòng Giáo Hội (xem các nguyên tắc sống trong lòng Giáo Hội) nhưng cha không chịu nịnh bợ những người cầm quyền trong Giáo Hội.  Cha phục vụ và thương mến Giáo Hội được Chúa Giêsu lựa chọn và sai đi để mang Tin Mừng cứu rỗi đến mọi người.  Ðối với cha I Nhã các giáo dân, cũng như chủ chiên là nhiệm thể của Chúa Giêsu và Chúa Giêsu là đầu.  Như thánh Phaolô, cha I Nhã tin rằng Giáo Hội, nhờ Chúa Thánh Thần, là cô dâu duyên dáng, tinh tuyền, chung thủy của Chúa Giêsu.

Vì mến Giáo Hội và mong Giáo Hội chu toàn sứ mệnh đem Tin Mừng đến với nhân loại, cha I Nhã luôn luôn mang tinh thần canh tân đến các cộng đoàn.  Cha bị nhiều linh mục và giáo sĩ nhìn với cặp mắt nghi ngờ, ghen ghét.  Cha bị đại diện của Giáo Hội bắt giam tù ở Alcala và Salamanca.  Tại La Mã cha cũng bị vài giáo phẩm cao cấp ghét thậm tệ.  Trong tinh thần canh tân, cha I Nhã có nhiều sáng kiến mới.  Cha luôn luôn muốn đáp ứng những nhu cầu cấp bách của đồng loại: năm 1538 cha mở phòng ăn tại La Mã cho hàng trăm nguời nghèo ăn mỗi ngày để thoát nạn đói.  Mở một cư xá đặc biệt để đón nhận các cô gái hoang đàng, muốn trở về xây dựng lại cuộc sống.  Cha mở lớp huấn nghệ ngay trong thành phố và giúp họ chuẩn bị trở về với đời để trở nên người đàng hoàng hữu ích.  Cha mở cư xá cho người Do Thái và Hồi Giáo muốn học đạo Công Giáo.

Cha I Nhã có tinh thần uyển chuyển, đầy óc sáng tạo để đáp ứng với nhu cầu mới, đồng thời ngài có một tinh thần sâu xa, vững chắc: nuôi dưỡng phát triển đời sống nội tâm; xét mình, nguyện ngắm Kinh Thánh, sùng kính Ðức Mẹ, vâng phục Ðức Giáo Hoàng, có tinh thần khó nghèo, lòng khiêm nhường.  Trên hết, ngài muốn là bạn đồng hành của Chúa Giêsu, phục vụ Chúa và đáp lại các nhu cầu tinh thần của tha nhân.

Julian Élizaldé Thành, SJ
http://www.donghanh.org

TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI

Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.

Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.

Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.

ZZHôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.

Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên?  Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc?  Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó.  Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa.  Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa.  Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác.  Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được.  Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được.  Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.

Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh.  Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng.  Bánh ăn rồi sẽ lại đói.  Nhưng phải tìm chính Đức Giêsu.  Ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham.  Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật,  và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường.  Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa.  Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên.  Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất.  Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất.  Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối.  Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc.  Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc.  Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được.  Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa.  Chính Chúa sẽ làm ta no thoả.  Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta.  Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.

Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

MẤY CÁI BÁNH NHỎ

Có thể Paris, London, rồi bạn ghé vào một quán kem.  Ấm với hương cà phê, đưa hồn bạn về một vùng trời.  Tôi cũng đã đi qua những quán kem buổi chiều tây phương.  Những quán kem có bờ công viên mát cỏ xanh, những con đường trải đá trắng thơ mộng.  Cũng có những quán kem hối hả tiếng nhạc của một chiều bận rộn xua đẩy mọi suy tư.

Saigon cũng có những quán kem.  Một lần về với những kỷ niệm cũ.  Ghé quán kem xưa ngồi nhìn thành phố một thủa mình đã lớn lên.  Ngang đời, hôm nay trở lại quê hương.  Tôi đã đi qua những quán kem chiều xa xứ, quán kem không có gì để nhớ, nhưng ở quán kem trên thành phố cũ, hôm nay, tôi thấy phân vân giữa lòng mình và cuộc đời.  Thìa kem gần ở môi mà như xa lắm ở trong lòng.  Tôi ngồi bên này vỉa hè, chầm chậm những thìa kem nhỏ.  Ở vỉa hè bên kia, mấy vành xích lô mệt mỏi đang đợi chờ tìm khách. Mặt họ hằn những gian khổ của cuộc sống.  Vai áo bạc vì mồ hôi.  Chắc vợ con họ đang đợi tiếng xe cọc cạnh đạp về với hy vọng một ngày đủ sống.

Một em bé đến nhìn tôi, xin tôi cho uống ly nước cam còn dở.  Mắt em vẫn theo dõi sợ chủ quán đuổi. Liệu em có chờ những thìa kem còn sót lại trong đáy ly em đang nhìn?  Tôi sẽ để lại ít kem cho em, hành động ấy là yêu thương hay xúc phạm?

Tôi đã đi qua những quán kem tây phương.  Buổi chiều ở bờ biển Laguna Hills hay San Francisco tôi thấy cuộc đời bay trôi theo những đám mây.  Những quán kem tây phương đưa tôi vào cõi mộng.  Quán kem quê hương đưa tôi vào cuộc sống thật.  Cả bầu trời mơ ước của một con người nằm gọn dưới đáy ly kem.

********************************

Sau khi làm phép lạ bánh hóa ra nhiều cho mấy ngàn người ăn, và họ ăn no rồi, Chúa nhìn những mẩu bánh vụn rất tiếc, căn dặn các môn đệ nhặt hết lại: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa, đừng để hư phí” (Yn. 6:12).

Ðó là câu chuyện hai ngàn năm xưa.  Nếu hôm nay giảng Tin Mừng, Chúa sẽ bảo đừng đổ phí những sợi mì vì có nhiều người nghèo đói đang dang dở mong buộc cuộc đời mình bằng những miếng bánh phở dư. Nếu hôm nay Chúa vào quán kem, Chúa sẽ thấy có những thìa kem đưa một buổi chiều vào cõi mộng.  Chúa cũng thấy có những con người kéo cả bầu trời mơ ước vào thìa kem còn sót lại.

“Anh em hãy thu lấy những miếng bánh thừa, đừng để hư phí”.  Chúa muốn nói gì với chúng ta về “mấy cái bánh và vài con cá nhỏ” trong tương quan giữa con người với nhau?  Có những nơi dư thừa trong khi có những nơi thiếu thốn.

Có hai thứ thương xót.  Các môn đệ thấy trời chiều mà người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ.  Các ông đã nói với Chúa: “Ðây là nơi vắng vẻ, và trời đã gần tối, xin Thày cho dân chúng về để họ vào các làng mua ăn” (Mt. 14:15).  Ðó là thương xót nhập đề.  Lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm, nhưng có khi chỉ là xót thương không muốn nhận trách nhiệm, lúc đó khởi điểm chấm dứt ở nhập đề. Chúa trả lời các môn đệ bằng một lệnh truyền thật ngạc nhiên: “Họ không cần phải đi, anh em hãy lo cho họ ăn” (Mt. 14:16).  Chúa muốn các môn đệ bước qua ngưỡng cửa xót thương khởi điểm, đem thương xót nhập đề mà vào xót thương nhập cuộc.  Chính các con phải lo cho họ ăn!

********************************

Phản ứng của các môn đệ ghi trong bốn Phúc Âm như sau:

– Máthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi (Mt. 14:17).

– Máccô: Thế thì chúng tôi phải đi mua hai trăm đồng quan bánh mà cho họ ăn sao? (Mc. 6:37).

– Luca: Chúng tôi không có hơn năm chiếc bánh và hai con cá, họa chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này (Lc. 9:13).

– Gioan: Philiphê thưa: Có mua hết hai trăm đồng cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ.  Anrê nói: Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá.  Nhưng ngần ấy thì thấm vào đâu cho bấy nhiêu người? (Gn. 6:7-8).

Xem ra họ thất vọng trước vấn đề vì “chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi”.  Lo cho mình còn chưa đủ còn lo cho ai.  Những phản ứng của bốn Phúc Âm chung nhau ở một cửa ngõ là không có lối vào.  Họ bế tắc.  Theo Phúc Âm Gioan thì chưa chắc các môn đệ đã có bánh và cá, mà là của thằng bé bán rong. Bởi đó, làm sao các môn đệ ZZdám đề cập tới chuyện lo cho đám đông ăn dù biết họ đói và mệt lắm.  Hôm nay, nghèo đói như một bãi rác mênh mông, không biết bắt đầu dọn dẹp từ đâu.  Thái độ của con người hôm nay cũng là tâm trạng của các môn đệ ngày trước, “ngần ấy thì có thấm vào đâu”.  Trong cái nghèo khó của tôi, làm sao tôi dám cho đi.  Và có khi để xoa dịu lương tâm, tôi cũng lập lại cùng mệnh đề đó, “ngần ấy thì có thấm vào đâu”.  Cho đi là mất, bởi thế, kẻ biết mất mà vẫn cho đi là kẻ có lòng thương xót lớn hơn niềm tin.  Trong ý nghĩa này, khi niềm tin bế tắc mà có lòng thương xót thì lòng thương xót sẽ mở ngõ cho niềm tin đi về.  Khi khóa ngõ lòng thương xót thì niềm tin sẽ đứng ở ngoài.  Chính lòng thương xót của Chúa đã làm cho mấy chiếc bánh và hai con cá nhỏ thành lương thực nuôi đám đông.

Khi Chúa giơ “năm chiếc bánh và hai con cá” lên đọc lời nguyện thì cửa ngõ bế tắc lo âu không lối vào của các môn đệ đã trở thành lối vào không còn cửa ngõ.  Ðám đông ăn no và còn dư thừa.  Cũng vậy, những giúp đỡ của ta cho tha nhân, dù nhỏ nhưng đến từ lòng thương xót thì Chúa sẽ giơ lên trời cầu nguyện và nó sẽ thành hiến lễ.

********************************

Chỉ có mấy cái bánh mà hàng ngàn người ăn no, làm sao chỉ có hai con cá nhỏ mà họ ăn không hết?  Có những cho đi rất nhỏ mà nhận về thật lớn lao, vì những tia nắng nhỏ ấy đã qua lăng kính quang phổ trăm màu của Chúa.  Có khi nào bạn bị bệnh và phải dùng thuốc trụ sinh chưa?  Ðây là câu chuyện thuốc trụ sinh.

Ngày nọ, một gia đình giầu có, quý tộc nước Anh dẫn con về miền quê chơi.  Trong khi nô đùa, tai nạn đã xẩy đến, cậu trai nhỏ của họ sa chân vô vọng dưới vực nước sâu.  Kẻ nghe tiếng kêu và đã đến cứu cậu là một chú bé, con của người làm vườn nghèo.

Một đứa bé nhà giàu, có thể bàn tay ấy đã được tán thưởng vì tiếng đàn trên phím ngà, nhưng lại không biết bơi.  Một đứa bé nhà nghèo thôn quê, bàn tay xạm nắng vì cuốc rẫy nhưng hôm nay đã cứu đời.  Cha của cậu bé giàu có kia đã biết ơn cậu bé nhà nghèo.  Nhưng thay vì lời cám ơn, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu bé nằm dưới đáy ly kem.  Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé vào bầu trời ở trên cao.  Ông hỏi cậu bé:

– Khi lớn con muốn làm gì?

– Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha con.

– Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?

– Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì.

– Nhưng nếu con có mơ ước thì con ước mơ gì?

– Thưa ngài, con muốn đi học, muốn là bác sĩ.

Sau này, cậu bé được cứu sống vì không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới, đã giữ vai trò quan trọng trong cục diện thay đổi thế chiến đệ nhị, đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị.  Ðó chính là thủ tướng Winston Churchill.

Nhờ lòng thương và biết ơn chân tình của cha cậu bé Churchill, cậu bé nhà nghèo đã không còn đặt mơ ước của đời mình ở những cụm cỏ, bờ đê.  Cậu đã trở thành bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ này đã tìm ra thuốc trụ sinh Penicillin.  Tên của cậu là Fleming!

Rồi cậu bé Churchill là thủ tướng.  Rồi Fleming là bác sĩ.  Nhưng câu chuyện chưa dừng ở đây.  Những áng mây rực sáng, với ánh mặt trời sẽ còn rực sáng nữa.  Khi thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, vương quốc Anh đã đi tìm những danh y lừng lẫy để cứu sống thủ tướng của nước mình.  Kẻ danh y ấy chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.

********************************

“Chính các con hãy lo cho họ ăn”.  Chúa bảo các môn đệ vậy.  Ðấy là hình ảnh của một cậu bé can đảm lao xuống dòng nước trước tiếng kêu của một người hấp hối.  Số tiền nuôi cậu bé nhà nghèo Fleming ăn học, đối với gia đình quý tộc kia có thể đó chỉ là “năm cái bánh nhỏ và hai con cá”.  Nhờ mấy cái bánh nhỏ này mà chính người con của nhà quý tộc ấy, thủ tướng của nước Anh đã được cứu sống lần thứ hai, và cả nhân loại hàng triệu triệu người được thừa hưởng công trình y khoa từ những cái bánh nhỏ đó.

Nhờ năm chiếc bánh và mấy con cá mà Chúa nuôi cả ngàn người.  Phép lạ của những liều thuốc trụ sinh hôm nay và cho đến mãi mãi thế kỷ sau này mở đầu là do sự giúp đỡ mà cậu bé nhà nghèo Fleming đã nhận được.

Những buổi chiều tây phương và những quán kem.  Ngồi bên ly kem người ta thả hồn vào những vùng trời ước mộng mây trôi.  Những buổi chiều đông phương và những quán kem.  Những thìa kem sót lại mà chứa cả bầu trời mộng ước của một tuổi thơ.

Chúa gọi lòng thương xót ở chúng ta, đừng nói chúng tôi “chỉ có năm cái bánh và hai con cá”, Chúa có thể cho một viên than hồng âm ỉ trong đám tro than hôm nay thành biển lửa dữ dội ngày mai.  Vấn đề không phải là “chỉ có năm cái bánh và hai con cá”, nhưng là có bao nhiêu lòng can đảm dám cho đi.

Khi Chúa mời gọi ta cho nhau những cái bánh nhỏ là Chúa mời gọi ta cùng làm phép lạ với Chúa.

Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ – Trích trong “Con Biết Con Cần Chúa”.
 

THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

ZZThánh Giacôbê, quê quán tại Bethsaida, là con ông Giêbêđê và là anh em với thánh Gioan.  Ngài là một trong ba Tông đồ, ngoài những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa, còn được phúc chứng kiến sự kiện biến hình trên núi Tabor và thảm cảnh trong vườn Cây Dầu.  Lòng nhiệt thành của hai anh em đã khiến Chúa đặt cho cái tên là ‘Con Sấm Sét’.

Thánh Giacôbê đã tiến hành công cuộc tông đồ tại Giuđêa và Samaria.  Theo truyền tụng, thánh nhân đã đến rao giảng Phúc Âm tại Tây Ban Nha.  Khi trở lại Palestine vào năm 44, ngài đã trở thành vị Tông Đồ đầu tiên được phúc tử vì đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa.  Thi hài thánh nhân được cải về Santiago de Compostela bên Tây Ban Nha, và nơi đây đã trở thành một trong những nơi hành hương nổi tiếng thời Trung Cổ, và là một đền thánh đức tin cho toàn thể Châu Âu.

Uống chén của Chúa

Khi đang đi dọc theo bờ biển Galilê, Chúa Giêsu nhìn thấy Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đang vá lưới, Người đã gọi họ, và đặt cho tên là Boannerges, nghĩa là “con của sấm sét”.

Mọi sự bắt đầu khi một số ngư phủ trên biển hồ Tibêria được Chúa Giêsu thành Nagiarét mời gọi theo Người.  Họ đã đáp lời mời gọi của Chúa Giêsu, đi theo, và sống với Người gần ba năm trời. Họ đã chia sẻ đời sống thường nhật của Chúa Giêsu, làm chứng nhân cho những lời cầu nguyện, cũng như lòng nhân lành và quyền năng của Người dành cho các tội nhân và những người đau khổ.  Họ chăm chú lắng nghe lời Chúa, những lời họ chưa từng bao giờ được nghe.

Suốt ba năm chung sống với Chúa, các Tông Đồ cảm nghiệm một thực tại rồi ra sẽ chiếm đoạt họ mãi mãi, đó là cuộc sống với Chúa Giêsu.  Đó là một kinh nghiệm phá vỡ nếp sống trước kia của họ; họ phải từ bỏ mọi sự – gia đình, nghề nghiệp, và tài sản của họ – để đi theo Người.  Tóm lại, họ đã được dẫn vào một con đường sống hoàn toàn mới mẻ.

Một ngày nọ, Chúa Giêsu mời gọi Giacôbê đi theo Người.  Giacôbê là anh của Gioan, và là con của bà Salômê, một phụ nữ đã dùng tài sản để giúp Chúa Giêsu và sau cùng cũng có mặt trên núi Canvê.  Giacôbê đã biết Chúa Giêsu trước khi được Chúa gọi.  Cùng với Phêrô và em trai mình, Giacôbê được Chúa Giêsu yêu thương cách riêng.  Ngài là một trong ba vị được chứng kiến biến cố Biến Hình trên núi Tabor.  Ngài cũng có mặt khi Chúa cho con gái ông Giairô sống lại, và là một trong ba Tông Đồ cùng đi với Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu lúc khởi đầu cuộc Thương khó.

Phúc Âm ngày lễ thánh Giacôbê kể cho chúng ta một biến cố lạ lùng trong đời Ngài.  Chúa Giêsu loan báo về cuộc Khổ nạn và cái chết sắp đến của Người: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp vào tay các trưởng tế và ký lục, họ sẽ kết án tử và giao nộp Người cho dân ngoại chế nhạo, chúng sẽ đánh đòn và đóng đinh Người vào thập giá.  Nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Chúa cảm thấy cần chia sẻ những tâm tình sâu lắng nhất đang chất chứa trong lòng cho các môn đệ. Khi ấy, bà mẹ của các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu, và bà bái lạy và kêu xin Người một điều: Bà xin Chúa dành cho các con của bà hai chỗ ưu tiên trong nước vinh quang của Người sắp đến.  Chúa Giêsu quay sang hai anh em và hỏi họ có thể chia sẻ số phận với Người không. Chúa đề nghị họ hãy uống chung chén của Người.  Thời xưa, việc trao chén mình cho ai uống là một dấu chỉ của tình thân hữu.  Các vị liền đáp: “Thưa được!”  Những lời ấy nói lên một tấm lòng thuần thục và quảng đại.  Những lời ấy phản ánh thái độ của mọi người trẻ và của mọi tín hữu thành tâm, nhất là của những ai sẵn sàng làm tông đồ để loan báo Tin Mừng.  Chúa Giêsu đã chấp nhận lời đáp quảng đại ấy và phán bảo: ‘Chén của Ta, các con cũng sẽ uống”, các con sẽ chia sẻ những đau khổ của Ta, các con sẽ hoàn tất cuộc Khổ nạn của Ta nơi thân xác các con.  Không bao lâu sau đó, vào năm 44, Giacôbê đã bị xử trảm tử vì đạo.  Còn Gioan đã chịu bách hại đủ kiểu trong cuộc đời trường thọ của Ngài.

Kể từ khi Chúa Kitô cứu chuộc chúng ta trên thập giá, tất cả đau khổ của các tín hữu là cùng uống chén của Chúa Kitô qua việc chia sẻ cuộc Thương khó, Tử nạn, và Phục sinh của Người.  Nhờ đau khổ, một cách nào đó, chúng ta hoàn tất cuộc Khổ nạn của Chúa, và kéo dài trong thời gian với những hoa trái của công cuộc ấy.  Những đau khổ nhân loại chỉ mang ý nghĩa cứu độ khi được liên kết mật thiết với sự khổ nhục Chúa Giêsu đã chịu.  Với lòng nhân lành, Chúa đã cho chúng ta chia sẻ chén đắng của Người.  Trước những khó khăn, bệnh tật hoặc đau khổ của chúng ta, Chúa Giêsu cũng nêu lên một câu hỏi: “Con có thể uống chén của Ta không?”  Nếu hợp nhất với Chúa, chúng ta sẽ tích cực đáp lại và chịu đựng tất cả những gian khổ về phương diện nhân loại vì danh Người.  Trong sự hợp nhất với Chúa Kitô, ngay cả những đau đớn và thất bại của chúng ta cũng sẽ biến thành niềm vui và bình an.  Cuộc cách mạng vĩ đại của Kitô giáo chính là việc đã biến đau khổ thành đau khổ hiệu quả, biến một điều xấu thành một điều tốt.  Chúng ta đã tước thứ vũ khí này của ma quỉ, và với thứ vũ khí này, chúng ta có thể đạt được sự sống vĩnh cửu.

Đừng chán nản trước những khuyết điểm bản thân – Hãy tìm sức mạnh nơi Chúa

Từ lúc Giacôbê bày tỏ những tham vọng không được cao thượng của Ngài cho đến khi được chịu tử vì đạo là một cuộc biến chuyển nội tâm lâu dài.  Sự nhiệt thành của Ngài trước kia chống lại những người Samaria không muốn tiếp đón Chúa Giêsu – dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem – nhưng về sau đã biến nên lòng nhiệt thành vì các linh hồn.  Từng bước một, tuy không làm mất cá tính hăng hái, nhưng Giacôbê biết rằng nhiệt tâm vì quyền lợi Thiên Chúa không thể dính dáng đến bạo lực hoặc chua chát. Chỉ có vinh quang Thiên Chúa là khát vọng duy nhất xứng đáng mà thôi.  Thánh Clêmentê thành Alexandria kể lại khi vị tông đồ nước Tây Ban Nha được điệu ra trước tòa xử, thần thái của ngài liêm chính đến độ kẻ tố cáo ngài sau đó đã đến xin ngài tha lỗi.  Thánh Giacôbê suy tư… và sau đó ôm hôn kẻ tố cáo mình, và nói: “Anh hãy bình an”.  Hai người sau đó cùng được lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Khi suy niệm về cuộc đời thánh Giacôbê tông đồ, chúng ta được lợi rất nhiều khi nhìn thấy những khuyết điểm của Thánh nhân cũng như của các Tông đồ khác.  Các Ngài không can trường, không khôn ngoan, mà cũng chẳng đơn sơ.  Chúng ta thấy các ngài đôi khi rất ham hố, hay tranh cãi, và thiếu đức tin.  Tuy nhiên, thánh Giacôbê là vị Tông đồ đầu tiên được tử đạo.  Như thế, hiển nhiên là sự phù trợ của Thiên Chúa cũng có thể thực hiện những phép lạ nơi chúng ta.  Ngày nay trên thiên quốc, thánh Giacôbê ắt phải tri ân Thiên Chúa rất nhiều vì đã hướng dẫn ngài trên con đường khác với con đường ngài đã mơ tưởng trước đó.  Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vô cùng khôn ngoan, và đầy yêu thương vượt quá trí tưởng của chúng ta.  Trong nhiều trường hợp, Người không ban cho chúng ta những điều chúng ta xin, nhưng đó lại là điều thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta.

Theo các trình thuật Phúc Âm, như các Tông đồ, Giacôbê cũng có những khuyết điểm rõ ràng và không thể chối cãi.  Tuy nhiên, bên cạnh những khiếm khuyết ấy, thánh nhân cũng có một tâm hồn và một con tim vĩ đại.  Chúa Giêsu lúc nào cũng nhẫn nại với Ngài cũng như với các Tông đồ khác. Thầy Chí Thánh cho các ngài thời gian để hấp thụ những bài học mà Người đã dùng sự khôn ngoan và tình thương để truyền dạy cho họ.  Thánh Gioan Kim khẩu viết: “Chúng ta hãy xét Chúa đặt câu hỏi tương tự như một lời mời gọi và một lời kích lệ như thế nào.  Chúa không nói: ‘Ngươi có thể chịu thất bại được không? Ngươi có dám chịu đổ máu không?’ nhưng Chúa lại hỏi: ‘Ngươi có thể uống…’ Để khích lệ họ, Chúa còn thêm: ‘… chén Ta sẽ uống hay không?’  Tưởng nghĩ đến việc uống chính chén của Chúa đã đưa các Tông đồ đến sự đáp ứng quảng đại hơn.  Chúa Giêsu gọi cuộc Khổ nạn của Người là ‘phép rửa’ để nhấn mạnh những đau khổ của Người sẽ là nguyên nhân cho cuộc thanh tẩy toàn thế giới.”

Chúa cũng đang mời gọi chúng ta.  Ước chi chúng ta đừng đầu hàng sự chán nản khi những khuyết điểm và yếu đuối của chúng ta trở nên rõ rệt.  Nếu chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin phù giúp, Người sẽ ban cho chúng ta ơn can đảm để tiếp tục trung thành dấn bước, bởi vì Chúa luôn nhẫn nại và cho chúng ta thời giờ cần thiết để cải thiện.

Sưu tầm

 

MUA ĐÂU RA BÁNH CHO NHỮNG NGƯỜI NÀY ĂN

Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler.  Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết.  Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán khách du lịch đến thăm di tích lịch sử này.  Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống.  Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì!  Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí.  Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống.  Nó là ranh giới giữa sống và chết”.

ZZTrong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất.  Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời.  Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói.  Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống.  Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn.  Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể.  Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn.  Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu.  Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình.  Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều.  Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta.  Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.

Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh?  Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá.  Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé.  Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ.  Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana.  Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum.  Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.

Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con.  Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con.  Chúng con xin tạ ơn Ngài.

Noel Quesson

 

MÙA THƯỜNG NIÊN

ZZTrong quyển sách nhỏ với tựa đề Âm nhạc của Thinh lặng, David Steindl-Rast đã nhấn mạnh mỗi giờ trong ngày có điểm sáng và tính chất đặc biệt của nó đến như thế nào, và cách chúng ta chú tấm đến giây phút hiện tại khi chúng ta nhận ra và tôn trọng các “tác nhân đặc biệt” ẩn dấu trong mỗi giờ đó.  Ông ấy đúng.  Mỗi giờ trong ngày và mỗi mùa trong năm đều có một điều gì đó đặc biệt cho chúng ta, nhưng thường thường chúng ta không ứng trực để tiếp nhận tặng vật đó.

Có những mùa đặc biệt trong năm, chúng ta nắm bắt tặng vật đó dễ hơn.  Dù đôi lúc do áp lực hay xao nhãng, chúng ta không chú tâm đến mùa cao điểm như mùa Giáng Sinh hay Phục Sinh, nhưng chúng ta đều biết các mùa này đặc biệt và có những “tác nhân” trong đó đang đòi chúng ta phải đón nhận.  Khi có ai nói: “Năm nay tôi quá mệt và có quá nhiều áp lực nên không nghĩ đến lễ Giáng Sinh.  Tôi bỏ lỡ dịp Giáng Sinh năm nay rồi!” là chúng ta hiểu ý nghĩa của câu này.

Và điều này không chỉ đúng với những mùa đặc biệt như Giáng Sinh và Phục Sinh.  Nó cũng đúng, và có lẽ đặc biệt đúng với mùa mà chúng ta gọi là Mùa Thường Niên.  Mỗi năm lịch Giáo hội để ra hơn ba mươi tuần cho cái gọi là “Mùa Thường Niên,” một mùa để chúng ta gặp gỡ các tác nhân hàng ngày, điều đặn, quen thuộc, đoán trước được và bình thường.  Như những mùa lễ cao điểm, mùa này cũng có nghĩa là cho đời sống chúng ta một nét phong phú đặc biệt.

Nhưng chúng ta lại dễ dàng bỏ qua mùa này cũng như mục đích của nó.  Khái niệm “Mùa Thường Niên” nghe có vẻ quá nhẹ cho dù chính chúng ta lại mong mỏi một cách vô thức ý nghĩa đích thực nó mang đến.  Chúng ta có một “thời gian bình thường” nhỏ bé nhưng thật quý báu trong đời mình.  Khi đời sống bị nhiều áp lực hơn, mệt mỏi hơn, bồn chồn hơn, có lẽ hơn bất kỳ điều gì, chúng ta mong mỏi có một “thời gian bình thường” im ắng, đều đặn, tĩnh mịch, và ở một nơi xa cách khỏi nhịp điệu hối hả của đời sống.  Đối với nhiều người trong chúng ta, cụm từ “thời gian bình thường” sẽ làm chúng ta thở dài hỏi: “Đó là gì thế?  Lần cuối tôi có một ‘thời gian bình thường’ trong đời là lúc nào?”  Với nhiều người trong chúng ta, “thời gian bình thường” gần như có nghĩa là hối hả và áp lực, là “vòng quay bất tận,” là “cái cối xay.”

Nhiều thứ trong đời hợp lại chống “thời gian bình thường” này, không chỉ sự bận rộn cướp đi thời gian thư thái của chúng ta, mà còn những đau buồn, ám ảnh, mất sức khỏe, hay những gián đoạn khác, tất cả chúng như cười vào nhịp điệu cũng như công việc theo nếp, cướp đi ý thức về “thời gian bình thường” của chúng ta.”  Đó chính là nguyên nhân suy sụp của người trưởng thành.

Tôi ngờ rằng, nhiều người trong chúng ta sẽ thấy khi còn nhỏ chúng ta nhìn khác hẳn về chuyện này. Khi còn nhỏ, tôi thường thấy chán.  Gần như lúc nào, tôi cũng mong có một cái gì mới, một ai đến thăm nhà, một mùa đặc biệt để mừng lễ (sinh nhật, Giáng Sinh, Năm mới, Phục Sinh), hay gần như bất cứ chuyện gì lay tôi ra khỏi nếp sống thường nhật của “thời gian bình thường.”  Nhưng đó là vì đối với một đứa trẻ, thời gian trôi quá chậm.  Khi bạn bảy tuổi, một năm là cả một phần bảy cuộc đời bạn.  Nó quá dài.  Lúc trung niên và già hơn nữa, một năm chỉ là một mảnh nhỏ trong đời và thời gian trôi nhanh, quá nhanh đến nỗi khi đến một mức nào đó, có lúc bạn sẽ bắt đầu mong các dịp đặc biệt qua nhanh, khách về nhanh, các chuyện quấy rầy khuất mắt, để bạn chóng trở về nhịp sống bình thường. Nếp cũ chắc chắn là chán, nhưng chúng ta ngủ ngon hơn khi cuộc sống theo nề theo nếp bình thường.

Ngày nay, văn chương tôn giáo lẫn thế tục đều nói đến những khó khăn để tập trung vào giây phút hiện tại và trong việc gặp gỡ “hiện tại trần trụi” theo cách nói của Richard Rohr, hay “các tác nhân của một giờ” theo cách nói của David Steindl-Rast.  Những gì văn chương nêu ra khác nhau về nội dung và ý nghĩa, nhưng cùng chung một điểm: Cực kỳ khó để chú tâm vào giây phút hiện tại, để thật sự ở trong hiện tại.  Không dễ để sống trong “thời gian bình thường.”

Có một thành ngữ Trung Hoa vừa có ý chúc phúc vừa có ý nguyền rủa.  Bạn có thể chúc cho ai đó: “Chúc bạn sống những giây phút lý thú!”  Với một đứa trẻ, chúc như thế nghĩa là chúc lành, bởi đời sống cứ lặp đi lặp lại theo nếp.  Thời gian trôi thật chậm trong suy nghĩ một đứa trẻ.  Hầu hết trẻ con đã có đủ thời gian bình thường rồi.

Tuy nhiên, đối với hầu hết chúng ta là người lớn, thì đó lại là lời nguyền hơn là chúc phúc.  Những áp lực, buồn phiền, đau bệnh, mất mát, đòi hỏi, và những việc chen vào tưởng như không dứt đang bủa vây đời sống chúng ta, dù có lẽ chúng không được xem là “giây phút lý thú,” nhưng thực sự chúng đối chọi với nếp sống bình thường, điều đặn, đoán trước được và bình thường.  Và chúng tước đoạt “thời gian bình thường” khỏi chúng ta.

Giáo hội muốn chúng ta hãy chú tâm vào những mùa khác nhau của năm.  Mùa Vọng, Mùa Chay, Mùa Giáng Sinh, Mùa Phục Sinh, Lễ Thăng Thiên, và Lễ Hiện Xuống.  Ngày hôm nay, tôi xin nói rằng, cần phải đòi hỏi chúng ta chú tâm đặc biệt đến Mùa Thường Niên – “thời gian thông thường.”  Thất bại trong việc chú tâm vào thời gian này có lẽ là thiếu sót phụng vụ lớn nhất của chúng ta đó.

Rev. Ron Rolheiser, OMI