THÁNH I NHÃ LOYOLA

ZZBị bệnh gan nặng nhưng tâm hồn đầy thanh thản, bình yên, cha thánh I Nhã lìa đời ngày 31 tháng 7 năm 1556 trong căn phòng tĩnh lặng chỉ có chính cha với Thiên Chúa.

Lúc sinh thời, cha I Nhã Loyola tha thiết ước mong đem đến cho mọi người tin mừng về Thiên Chúa và để mọi người nhận biết rằng Thiên Chúa thương con người, đã sai Con Một yêu dấu của Ngài làm người.  Tin Mừng về Chúa Kitô bị đóng đinh chết và sống lại để giải thoát, kêu gọi loài người trở về sự thánh thiện nguyên thủy và mời gọi con người sống mãi với Thiên Chúa.  Giáo Hội cũng chỉ loan báo tin mừng này, nhưng cha I Nhã, dựa vào kinh nghiệm bản thân, có một phương thế đặc biệt để giúp nhiều người nhận thấy Tin Mừng như một kinh nghiệm bản thân.

Chính cha I Nhã có kinh nghiệm nhận thấy Thiên Chúa một cách sống
động, thân tình, không thể nghi ngờ được.  Kinh nghiệm của cha I Nhã không phải là hình ảnh Chúa hiện ra, hoặc nước mắt sốt sắng hay là một cảm giác lạ lùng khác mà là kinh nghiệm nhận thấy Thiên Chúa hiện diện một cách yên lặng và thật gần gũi.  Một kinh nghiệm khác hẳn với lối suy tư và lý thuyết sâu xa về Thiên Chúa.  Cũng khác với lòng hăng hái dấn thân làm việc tông đồ, kinh nghiệm của cha là một sự gặp gỡ giữa chính mình và Thiên Chúa, trong sâu xa thanh tịnh của cõi lòng, nơi chúng ta cảm thấy bình an, vui sướng, tràn đầy sức sống và tình yêu, là kinh nghiệm gặp Thiên Chúa và bắt đầu từ bỏ chính mình để nhường chỗ cho Thánh Ý và Tình Yêu của Ngài.

ZZKinh nghiệm này của thánh I Nhã bắt nguồn từ một vết thương ngài bị nơi đầu gối trong một cuộc chiến xảy ra ở thành Pamplona vào năm 1521 giữa quân Pháp và quân Tây Ban Nha.  Lúc ấy, I Nhã là một sĩ quan rất trẻ và anh dũng của hoàng đế Tây Ban Nha.  I Nhã đã đôn đốc, nâng đỡ tích cực tinh thần binh sĩ của mình, một lực lượng bé nhỏ, để kháng cự và đương đầu với quân Pháp đang bủa kín, bao vây thành.  Bị thương nặng, I Nhã trở về Loyola, nơi mà 30 năm trước, I Nhã, con út của một đại chủ vùng Loyola (miền bắc Tây Ban Nha) chào đời.  Trong suốt 6 tháng trời dưỡng thương, I Nhã rất yếu, thập tử nhất sinh nhiều lần.  Trôi theo tháng ngày dưỡng bệnh, các kế hoạch cũ của I Nhã bắt đầu lung lay.  I Nhã là một chàng thanh niên hào hoa, khoáng đạt, tràn tinh thần hiệp sĩ, đầy tham vọng.  Mặc dù song thân muốn I Nhã trở thành linh mục nhưng I Nhã lại có kế hoạch khác, tham vọng của I Nhã lớn lắm, I Nhã thích ăn chơi hơn là đọc kinh, lãnh nhận các bí tích hoặc tuân giữ các giới răn của Chúa.

Ở Loyola và Manresa, năm 1521 và 1522, I Nhã bắt đầu kết thân với Thiên Chúa.  Tình thân mới đã mở mắt I Nhã và, nhờ kinh nghiệm nội tâm, I Nhã bắt đầu hiểu giá trị của các bí tích, lòng sùng kính Ðức Mẹ, mục đích các diều răn Thiên Chúa.  Ngay từ bước đầu trên đường về nhà CHA, Chúa Giêsu là hình ảnh vẹn toàn của Chúa CHA đã giúp I Nhã hiểu tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian và chính mình.  Suốt cuộc sống, cha I Nhã luôn luôn biết tìm hiểu và cảm mến Thiên Chúa mênh mông, bao la qua cử chỉ nho nhỏ, đơn sơ trong cuộc sống Chúa Giêsu.  I Nhã tìm thấy Thiên Chúa bằng cách tìm hiểu và thương mến bước theo chân Chúa Giêsu Nazareth, con của Mẹ Maria.  Ðức Mẹ dẫn I Nhã đến với Chúa Giêsu.  Ðể kết thân với Chúa Giêsu cũng như mỗi lần muốn đạt tới một ơn tối quan trọng (ba lời tâm sự trong Tuần 1, lời tâm sự Hai Cờ Hiệu…) cha I Nhã đã khẩn cầu với Ðức Mẹ trước.

Năm 1524, I Nhã ngồi chung lớp với các trẻ em để học La ngữ và can đảm bắt đầu bước trên đường trở thành linh mục.  Muốn có một căn bản vững chắc về thần học, I Nhã sang Ba-Lê là trung tâm văn hóa nổi danh nhất Âu Châu thời ấy và học đến năm 1535, I Nhã tốt nghiệp hai cấp bằng cử nhân triết học và cao học thần học.  Sau một năm chuẩn bị sốt sắng, ngài thụ phong linh mục và làm lễ mở tay năm 1536.  Cha I Nhã xác tín rằng mọi người đều có thể gặp Thiên Chúa một cách thân tình.  Cha dùng các khóa cấm phòng theo phương pháp Linh Thao để hướng dẫn các vị giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân nam nữ.  Trong các khóa Linh Thao, cha giúp họ mở lòng lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa.  Trong Linh Thao, họ trở về với Thiên Chúa và bắt đầu bước theo Chúa Giêsu như người bạn đường chí ái.

Trong số các thầy cùng học tại đại học Ba-Lê, có một nhóm nhỏ dấn thân theo cha I Nhã.  Năm năm sau, nhóm này thành lập dòng Tên (dòng Chúa Giêsu).  Người thanh niên hiệp sĩ, tự ái cao ngạo I Nhã xưa, nay bắt đầu theo chân Thầy, nghèo và khiêm nhường.  Dòng của cha I Nhã cũng theo nếp sống nghèo, khiêm nhường, xa quyền thế ngoài đời và quyền thế trong Giáo Hội.  Sinh ra trong một gia đình giàu có, qúy phái, quen biết với nhiều người có địa vị cao sang, cha I Nhã có thể được phong chức cao trong Giáo Hội, nhưng ngài không bị ảnh hưởng của quyền thế cao trọng, chức bậc giàu sang lôi cuốn.  Cha luôn luôn theo Chúa Giêsu: nghèo và khiêm nhường.  Ðây là một nét của dòng Tên, hiện tại xem ra hơi thiếu.  Có rất nhiều hình thức quyền thế: tiền bạc, bằng cấp cao, thế lực chính trị, ảnh hưởng… Chúng ta dễ bị tham quyền và lấy cớ cần một chút phương tiện và quyền thế mới để có thể rao giảng Tin Mừng.  Trong khi Chúa Giêsu chỉ xử dụng quyền của sự thật và tình thương, và đã cứu chuộc chúng ta nhờ sự yếu đuối của thập giá.

Cha I Nhã kính nể và thương mến Hội Thánh.  Ngài luôn luôn phục vụ và bênh vực Hội Thánh, nhất là trong thời các giáo phái Tin Lành cảm thấy bất mãn và tách khỏi Giáo Hội Công Giáo.  Năm 1540, Ðức Giáo Hoàng Phaolô III chuẩn nhận dòng Tên để phục vụ Giáo Hội dưới quyền chỉ huy của Ðức Thánh Cha.  Cha I Nhã luôn luôn muốn phục vụ và sống trong lòng Giáo Hội (xem các nguyên tắc sống trong lòng Giáo Hội) nhưng cha không chịu nịnh bợ những người cầm quyền trong Giáo Hội.  Cha phục vụ và thương mến Giáo Hội được Chúa Giêsu lựa chọn và sai đi để mang Tin Mừng cứu rỗi đến mọi người.  Ðối với cha I Nhã các giáo dân, cũng như chủ chiên là nhiệm thể của Chúa Giêsu và Chúa Giêsu là đầu.  Như thánh Phaolô, cha I Nhã tin rằng Giáo Hội, nhờ Chúa Thánh Thần, là cô dâu duyên dáng, tinh tuyền, chung thủy của Chúa Giêsu.

Vì mến Giáo Hội và mong Giáo Hội chu toàn sứ mệnh đem Tin Mừng đến với nhân loại, cha I Nhã luôn luôn mang tinh thần canh tân đến các cộng đoàn.  Cha bị nhiều linh mục và giáo sĩ nhìn với cặp mắt nghi ngờ, ghen ghét.  Cha bị đại diện của Giáo Hội bắt giam tù ở Alcala và Salamanca.  Tại La Mã cha cũng bị vài giáo phẩm cao cấp ghét thậm tệ.  Trong tinh thần canh tân, cha I Nhã có nhiều sáng kiến mới.  Cha luôn luôn muốn đáp ứng những nhu cầu cấp bách của đồng loại: năm 1538 cha mở phòng ăn tại La Mã cho hàng trăm nguời nghèo ăn mỗi ngày để thoát nạn đói.  Mở một cư xá đặc biệt để đón nhận các cô gái hoang đàng, muốn trở về xây dựng lại cuộc sống.  Cha mở lớp huấn nghệ ngay trong thành phố và giúp họ chuẩn bị trở về với đời để trở nên người đàng hoàng hữu ích.  Cha mở cư xá cho người Do Thái và Hồi Giáo muốn học đạo Công Giáo.

Cha I Nhã có tinh thần uyển chuyển, đầy óc sáng tạo để đáp ứng với nhu cầu mới, đồng thời ngài có một tinh thần sâu xa, vững chắc: nuôi dưỡng phát triển đời sống nội tâm; xét mình, nguyện ngắm Kinh Thánh, sùng kính Ðức Mẹ, vâng phục Ðức Giáo Hoàng, có tinh thần khó nghèo, lòng khiêm nhường.  Trên hết, ngài muốn là bạn đồng hành của Chúa Giêsu, phục vụ Chúa và đáp lại các nhu cầu tinh thần của tha nhân.

Julian Élizaldé Thành, SJ
http://www.donghanh.org

TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI

Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.

Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.

Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.

ZZHôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.

Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên?  Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc?  Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó.  Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa.  Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa.  Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác.  Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được.  Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được.  Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.

Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh.  Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng.  Bánh ăn rồi sẽ lại đói.  Nhưng phải tìm chính Đức Giêsu.  Ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham.  Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật,  và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường.  Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa.  Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên.  Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất.  Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất.  Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối.  Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc.  Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc.  Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được.  Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa.  Chính Chúa sẽ làm ta no thoả.  Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta.  Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.

Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

MẤY CÁI BÁNH NHỎ

Có thể Paris, London, rồi bạn ghé vào một quán kem.  Ấm với hương cà phê, đưa hồn bạn về một vùng trời.  Tôi cũng đã đi qua những quán kem buổi chiều tây phương.  Những quán kem có bờ công viên mát cỏ xanh, những con đường trải đá trắng thơ mộng.  Cũng có những quán kem hối hả tiếng nhạc của một chiều bận rộn xua đẩy mọi suy tư.

Saigon cũng có những quán kem.  Một lần về với những kỷ niệm cũ.  Ghé quán kem xưa ngồi nhìn thành phố một thủa mình đã lớn lên.  Ngang đời, hôm nay trở lại quê hương.  Tôi đã đi qua những quán kem chiều xa xứ, quán kem không có gì để nhớ, nhưng ở quán kem trên thành phố cũ, hôm nay, tôi thấy phân vân giữa lòng mình và cuộc đời.  Thìa kem gần ở môi mà như xa lắm ở trong lòng.  Tôi ngồi bên này vỉa hè, chầm chậm những thìa kem nhỏ.  Ở vỉa hè bên kia, mấy vành xích lô mệt mỏi đang đợi chờ tìm khách. Mặt họ hằn những gian khổ của cuộc sống.  Vai áo bạc vì mồ hôi.  Chắc vợ con họ đang đợi tiếng xe cọc cạnh đạp về với hy vọng một ngày đủ sống.

Một em bé đến nhìn tôi, xin tôi cho uống ly nước cam còn dở.  Mắt em vẫn theo dõi sợ chủ quán đuổi. Liệu em có chờ những thìa kem còn sót lại trong đáy ly em đang nhìn?  Tôi sẽ để lại ít kem cho em, hành động ấy là yêu thương hay xúc phạm?

Tôi đã đi qua những quán kem tây phương.  Buổi chiều ở bờ biển Laguna Hills hay San Francisco tôi thấy cuộc đời bay trôi theo những đám mây.  Những quán kem tây phương đưa tôi vào cõi mộng.  Quán kem quê hương đưa tôi vào cuộc sống thật.  Cả bầu trời mơ ước của một con người nằm gọn dưới đáy ly kem.

********************************

Sau khi làm phép lạ bánh hóa ra nhiều cho mấy ngàn người ăn, và họ ăn no rồi, Chúa nhìn những mẩu bánh vụn rất tiếc, căn dặn các môn đệ nhặt hết lại: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa, đừng để hư phí” (Yn. 6:12).

Ðó là câu chuyện hai ngàn năm xưa.  Nếu hôm nay giảng Tin Mừng, Chúa sẽ bảo đừng đổ phí những sợi mì vì có nhiều người nghèo đói đang dang dở mong buộc cuộc đời mình bằng những miếng bánh phở dư. Nếu hôm nay Chúa vào quán kem, Chúa sẽ thấy có những thìa kem đưa một buổi chiều vào cõi mộng.  Chúa cũng thấy có những con người kéo cả bầu trời mơ ước vào thìa kem còn sót lại.

“Anh em hãy thu lấy những miếng bánh thừa, đừng để hư phí”.  Chúa muốn nói gì với chúng ta về “mấy cái bánh và vài con cá nhỏ” trong tương quan giữa con người với nhau?  Có những nơi dư thừa trong khi có những nơi thiếu thốn.

Có hai thứ thương xót.  Các môn đệ thấy trời chiều mà người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ.  Các ông đã nói với Chúa: “Ðây là nơi vắng vẻ, và trời đã gần tối, xin Thày cho dân chúng về để họ vào các làng mua ăn” (Mt. 14:15).  Ðó là thương xót nhập đề.  Lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm, nhưng có khi chỉ là xót thương không muốn nhận trách nhiệm, lúc đó khởi điểm chấm dứt ở nhập đề. Chúa trả lời các môn đệ bằng một lệnh truyền thật ngạc nhiên: “Họ không cần phải đi, anh em hãy lo cho họ ăn” (Mt. 14:16).  Chúa muốn các môn đệ bước qua ngưỡng cửa xót thương khởi điểm, đem thương xót nhập đề mà vào xót thương nhập cuộc.  Chính các con phải lo cho họ ăn!

********************************

Phản ứng của các môn đệ ghi trong bốn Phúc Âm như sau:

– Máthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi (Mt. 14:17).

– Máccô: Thế thì chúng tôi phải đi mua hai trăm đồng quan bánh mà cho họ ăn sao? (Mc. 6:37).

– Luca: Chúng tôi không có hơn năm chiếc bánh và hai con cá, họa chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này (Lc. 9:13).

– Gioan: Philiphê thưa: Có mua hết hai trăm đồng cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ.  Anrê nói: Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá.  Nhưng ngần ấy thì thấm vào đâu cho bấy nhiêu người? (Gn. 6:7-8).

Xem ra họ thất vọng trước vấn đề vì “chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi”.  Lo cho mình còn chưa đủ còn lo cho ai.  Những phản ứng của bốn Phúc Âm chung nhau ở một cửa ngõ là không có lối vào.  Họ bế tắc.  Theo Phúc Âm Gioan thì chưa chắc các môn đệ đã có bánh và cá, mà là của thằng bé bán rong. Bởi đó, làm sao các môn đệ ZZdám đề cập tới chuyện lo cho đám đông ăn dù biết họ đói và mệt lắm.  Hôm nay, nghèo đói như một bãi rác mênh mông, không biết bắt đầu dọn dẹp từ đâu.  Thái độ của con người hôm nay cũng là tâm trạng của các môn đệ ngày trước, “ngần ấy thì có thấm vào đâu”.  Trong cái nghèo khó của tôi, làm sao tôi dám cho đi.  Và có khi để xoa dịu lương tâm, tôi cũng lập lại cùng mệnh đề đó, “ngần ấy thì có thấm vào đâu”.  Cho đi là mất, bởi thế, kẻ biết mất mà vẫn cho đi là kẻ có lòng thương xót lớn hơn niềm tin.  Trong ý nghĩa này, khi niềm tin bế tắc mà có lòng thương xót thì lòng thương xót sẽ mở ngõ cho niềm tin đi về.  Khi khóa ngõ lòng thương xót thì niềm tin sẽ đứng ở ngoài.  Chính lòng thương xót của Chúa đã làm cho mấy chiếc bánh và hai con cá nhỏ thành lương thực nuôi đám đông.

Khi Chúa giơ “năm chiếc bánh và hai con cá” lên đọc lời nguyện thì cửa ngõ bế tắc lo âu không lối vào của các môn đệ đã trở thành lối vào không còn cửa ngõ.  Ðám đông ăn no và còn dư thừa.  Cũng vậy, những giúp đỡ của ta cho tha nhân, dù nhỏ nhưng đến từ lòng thương xót thì Chúa sẽ giơ lên trời cầu nguyện và nó sẽ thành hiến lễ.

********************************

Chỉ có mấy cái bánh mà hàng ngàn người ăn no, làm sao chỉ có hai con cá nhỏ mà họ ăn không hết?  Có những cho đi rất nhỏ mà nhận về thật lớn lao, vì những tia nắng nhỏ ấy đã qua lăng kính quang phổ trăm màu của Chúa.  Có khi nào bạn bị bệnh và phải dùng thuốc trụ sinh chưa?  Ðây là câu chuyện thuốc trụ sinh.

Ngày nọ, một gia đình giầu có, quý tộc nước Anh dẫn con về miền quê chơi.  Trong khi nô đùa, tai nạn đã xẩy đến, cậu trai nhỏ của họ sa chân vô vọng dưới vực nước sâu.  Kẻ nghe tiếng kêu và đã đến cứu cậu là một chú bé, con của người làm vườn nghèo.

Một đứa bé nhà giàu, có thể bàn tay ấy đã được tán thưởng vì tiếng đàn trên phím ngà, nhưng lại không biết bơi.  Một đứa bé nhà nghèo thôn quê, bàn tay xạm nắng vì cuốc rẫy nhưng hôm nay đã cứu đời.  Cha của cậu bé giàu có kia đã biết ơn cậu bé nhà nghèo.  Nhưng thay vì lời cám ơn, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu bé nằm dưới đáy ly kem.  Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé vào bầu trời ở trên cao.  Ông hỏi cậu bé:

– Khi lớn con muốn làm gì?

– Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha con.

– Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?

– Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì.

– Nhưng nếu con có mơ ước thì con ước mơ gì?

– Thưa ngài, con muốn đi học, muốn là bác sĩ.

Sau này, cậu bé được cứu sống vì không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới, đã giữ vai trò quan trọng trong cục diện thay đổi thế chiến đệ nhị, đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị.  Ðó chính là thủ tướng Winston Churchill.

Nhờ lòng thương và biết ơn chân tình của cha cậu bé Churchill, cậu bé nhà nghèo đã không còn đặt mơ ước của đời mình ở những cụm cỏ, bờ đê.  Cậu đã trở thành bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ này đã tìm ra thuốc trụ sinh Penicillin.  Tên của cậu là Fleming!

Rồi cậu bé Churchill là thủ tướng.  Rồi Fleming là bác sĩ.  Nhưng câu chuyện chưa dừng ở đây.  Những áng mây rực sáng, với ánh mặt trời sẽ còn rực sáng nữa.  Khi thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, vương quốc Anh đã đi tìm những danh y lừng lẫy để cứu sống thủ tướng của nước mình.  Kẻ danh y ấy chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.

********************************

“Chính các con hãy lo cho họ ăn”.  Chúa bảo các môn đệ vậy.  Ðấy là hình ảnh của một cậu bé can đảm lao xuống dòng nước trước tiếng kêu của một người hấp hối.  Số tiền nuôi cậu bé nhà nghèo Fleming ăn học, đối với gia đình quý tộc kia có thể đó chỉ là “năm cái bánh nhỏ và hai con cá”.  Nhờ mấy cái bánh nhỏ này mà chính người con của nhà quý tộc ấy, thủ tướng của nước Anh đã được cứu sống lần thứ hai, và cả nhân loại hàng triệu triệu người được thừa hưởng công trình y khoa từ những cái bánh nhỏ đó.

Nhờ năm chiếc bánh và mấy con cá mà Chúa nuôi cả ngàn người.  Phép lạ của những liều thuốc trụ sinh hôm nay và cho đến mãi mãi thế kỷ sau này mở đầu là do sự giúp đỡ mà cậu bé nhà nghèo Fleming đã nhận được.

Những buổi chiều tây phương và những quán kem.  Ngồi bên ly kem người ta thả hồn vào những vùng trời ước mộng mây trôi.  Những buổi chiều đông phương và những quán kem.  Những thìa kem sót lại mà chứa cả bầu trời mộng ước của một tuổi thơ.

Chúa gọi lòng thương xót ở chúng ta, đừng nói chúng tôi “chỉ có năm cái bánh và hai con cá”, Chúa có thể cho một viên than hồng âm ỉ trong đám tro than hôm nay thành biển lửa dữ dội ngày mai.  Vấn đề không phải là “chỉ có năm cái bánh và hai con cá”, nhưng là có bao nhiêu lòng can đảm dám cho đi.

Khi Chúa mời gọi ta cho nhau những cái bánh nhỏ là Chúa mời gọi ta cùng làm phép lạ với Chúa.

Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ – Trích trong “Con Biết Con Cần Chúa”.
 

THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

ZZThánh Giacôbê, quê quán tại Bethsaida, là con ông Giêbêđê và là anh em với thánh Gioan.  Ngài là một trong ba Tông đồ, ngoài những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa, còn được phúc chứng kiến sự kiện biến hình trên núi Tabor và thảm cảnh trong vườn Cây Dầu.  Lòng nhiệt thành của hai anh em đã khiến Chúa đặt cho cái tên là ‘Con Sấm Sét’.

Thánh Giacôbê đã tiến hành công cuộc tông đồ tại Giuđêa và Samaria.  Theo truyền tụng, thánh nhân đã đến rao giảng Phúc Âm tại Tây Ban Nha.  Khi trở lại Palestine vào năm 44, ngài đã trở thành vị Tông Đồ đầu tiên được phúc tử vì đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa.  Thi hài thánh nhân được cải về Santiago de Compostela bên Tây Ban Nha, và nơi đây đã trở thành một trong những nơi hành hương nổi tiếng thời Trung Cổ, và là một đền thánh đức tin cho toàn thể Châu Âu.

Uống chén của Chúa

Khi đang đi dọc theo bờ biển Galilê, Chúa Giêsu nhìn thấy Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đang vá lưới, Người đã gọi họ, và đặt cho tên là Boannerges, nghĩa là “con của sấm sét”.

Mọi sự bắt đầu khi một số ngư phủ trên biển hồ Tibêria được Chúa Giêsu thành Nagiarét mời gọi theo Người.  Họ đã đáp lời mời gọi của Chúa Giêsu, đi theo, và sống với Người gần ba năm trời. Họ đã chia sẻ đời sống thường nhật của Chúa Giêsu, làm chứng nhân cho những lời cầu nguyện, cũng như lòng nhân lành và quyền năng của Người dành cho các tội nhân và những người đau khổ.  Họ chăm chú lắng nghe lời Chúa, những lời họ chưa từng bao giờ được nghe.

Suốt ba năm chung sống với Chúa, các Tông Đồ cảm nghiệm một thực tại rồi ra sẽ chiếm đoạt họ mãi mãi, đó là cuộc sống với Chúa Giêsu.  Đó là một kinh nghiệm phá vỡ nếp sống trước kia của họ; họ phải từ bỏ mọi sự – gia đình, nghề nghiệp, và tài sản của họ – để đi theo Người.  Tóm lại, họ đã được dẫn vào một con đường sống hoàn toàn mới mẻ.

Một ngày nọ, Chúa Giêsu mời gọi Giacôbê đi theo Người.  Giacôbê là anh của Gioan, và là con của bà Salômê, một phụ nữ đã dùng tài sản để giúp Chúa Giêsu và sau cùng cũng có mặt trên núi Canvê.  Giacôbê đã biết Chúa Giêsu trước khi được Chúa gọi.  Cùng với Phêrô và em trai mình, Giacôbê được Chúa Giêsu yêu thương cách riêng.  Ngài là một trong ba vị được chứng kiến biến cố Biến Hình trên núi Tabor.  Ngài cũng có mặt khi Chúa cho con gái ông Giairô sống lại, và là một trong ba Tông Đồ cùng đi với Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu lúc khởi đầu cuộc Thương khó.

Phúc Âm ngày lễ thánh Giacôbê kể cho chúng ta một biến cố lạ lùng trong đời Ngài.  Chúa Giêsu loan báo về cuộc Khổ nạn và cái chết sắp đến của Người: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp vào tay các trưởng tế và ký lục, họ sẽ kết án tử và giao nộp Người cho dân ngoại chế nhạo, chúng sẽ đánh đòn và đóng đinh Người vào thập giá.  Nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Chúa cảm thấy cần chia sẻ những tâm tình sâu lắng nhất đang chất chứa trong lòng cho các môn đệ. Khi ấy, bà mẹ của các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu, và bà bái lạy và kêu xin Người một điều: Bà xin Chúa dành cho các con của bà hai chỗ ưu tiên trong nước vinh quang của Người sắp đến.  Chúa Giêsu quay sang hai anh em và hỏi họ có thể chia sẻ số phận với Người không. Chúa đề nghị họ hãy uống chung chén của Người.  Thời xưa, việc trao chén mình cho ai uống là một dấu chỉ của tình thân hữu.  Các vị liền đáp: “Thưa được!”  Những lời ấy nói lên một tấm lòng thuần thục và quảng đại.  Những lời ấy phản ánh thái độ của mọi người trẻ và của mọi tín hữu thành tâm, nhất là của những ai sẵn sàng làm tông đồ để loan báo Tin Mừng.  Chúa Giêsu đã chấp nhận lời đáp quảng đại ấy và phán bảo: ‘Chén của Ta, các con cũng sẽ uống”, các con sẽ chia sẻ những đau khổ của Ta, các con sẽ hoàn tất cuộc Khổ nạn của Ta nơi thân xác các con.  Không bao lâu sau đó, vào năm 44, Giacôbê đã bị xử trảm tử vì đạo.  Còn Gioan đã chịu bách hại đủ kiểu trong cuộc đời trường thọ của Ngài.

Kể từ khi Chúa Kitô cứu chuộc chúng ta trên thập giá, tất cả đau khổ của các tín hữu là cùng uống chén của Chúa Kitô qua việc chia sẻ cuộc Thương khó, Tử nạn, và Phục sinh của Người.  Nhờ đau khổ, một cách nào đó, chúng ta hoàn tất cuộc Khổ nạn của Chúa, và kéo dài trong thời gian với những hoa trái của công cuộc ấy.  Những đau khổ nhân loại chỉ mang ý nghĩa cứu độ khi được liên kết mật thiết với sự khổ nhục Chúa Giêsu đã chịu.  Với lòng nhân lành, Chúa đã cho chúng ta chia sẻ chén đắng của Người.  Trước những khó khăn, bệnh tật hoặc đau khổ của chúng ta, Chúa Giêsu cũng nêu lên một câu hỏi: “Con có thể uống chén của Ta không?”  Nếu hợp nhất với Chúa, chúng ta sẽ tích cực đáp lại và chịu đựng tất cả những gian khổ về phương diện nhân loại vì danh Người.  Trong sự hợp nhất với Chúa Kitô, ngay cả những đau đớn và thất bại của chúng ta cũng sẽ biến thành niềm vui và bình an.  Cuộc cách mạng vĩ đại của Kitô giáo chính là việc đã biến đau khổ thành đau khổ hiệu quả, biến một điều xấu thành một điều tốt.  Chúng ta đã tước thứ vũ khí này của ma quỉ, và với thứ vũ khí này, chúng ta có thể đạt được sự sống vĩnh cửu.

Đừng chán nản trước những khuyết điểm bản thân – Hãy tìm sức mạnh nơi Chúa

Từ lúc Giacôbê bày tỏ những tham vọng không được cao thượng của Ngài cho đến khi được chịu tử vì đạo là một cuộc biến chuyển nội tâm lâu dài.  Sự nhiệt thành của Ngài trước kia chống lại những người Samaria không muốn tiếp đón Chúa Giêsu – dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem – nhưng về sau đã biến nên lòng nhiệt thành vì các linh hồn.  Từng bước một, tuy không làm mất cá tính hăng hái, nhưng Giacôbê biết rằng nhiệt tâm vì quyền lợi Thiên Chúa không thể dính dáng đến bạo lực hoặc chua chát. Chỉ có vinh quang Thiên Chúa là khát vọng duy nhất xứng đáng mà thôi.  Thánh Clêmentê thành Alexandria kể lại khi vị tông đồ nước Tây Ban Nha được điệu ra trước tòa xử, thần thái của ngài liêm chính đến độ kẻ tố cáo ngài sau đó đã đến xin ngài tha lỗi.  Thánh Giacôbê suy tư… và sau đó ôm hôn kẻ tố cáo mình, và nói: “Anh hãy bình an”.  Hai người sau đó cùng được lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Khi suy niệm về cuộc đời thánh Giacôbê tông đồ, chúng ta được lợi rất nhiều khi nhìn thấy những khuyết điểm của Thánh nhân cũng như của các Tông đồ khác.  Các Ngài không can trường, không khôn ngoan, mà cũng chẳng đơn sơ.  Chúng ta thấy các ngài đôi khi rất ham hố, hay tranh cãi, và thiếu đức tin.  Tuy nhiên, thánh Giacôbê là vị Tông đồ đầu tiên được tử đạo.  Như thế, hiển nhiên là sự phù trợ của Thiên Chúa cũng có thể thực hiện những phép lạ nơi chúng ta.  Ngày nay trên thiên quốc, thánh Giacôbê ắt phải tri ân Thiên Chúa rất nhiều vì đã hướng dẫn ngài trên con đường khác với con đường ngài đã mơ tưởng trước đó.  Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vô cùng khôn ngoan, và đầy yêu thương vượt quá trí tưởng của chúng ta.  Trong nhiều trường hợp, Người không ban cho chúng ta những điều chúng ta xin, nhưng đó lại là điều thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta.

Theo các trình thuật Phúc Âm, như các Tông đồ, Giacôbê cũng có những khuyết điểm rõ ràng và không thể chối cãi.  Tuy nhiên, bên cạnh những khiếm khuyết ấy, thánh nhân cũng có một tâm hồn và một con tim vĩ đại.  Chúa Giêsu lúc nào cũng nhẫn nại với Ngài cũng như với các Tông đồ khác. Thầy Chí Thánh cho các ngài thời gian để hấp thụ những bài học mà Người đã dùng sự khôn ngoan và tình thương để truyền dạy cho họ.  Thánh Gioan Kim khẩu viết: “Chúng ta hãy xét Chúa đặt câu hỏi tương tự như một lời mời gọi và một lời kích lệ như thế nào.  Chúa không nói: ‘Ngươi có thể chịu thất bại được không? Ngươi có dám chịu đổ máu không?’ nhưng Chúa lại hỏi: ‘Ngươi có thể uống…’ Để khích lệ họ, Chúa còn thêm: ‘… chén Ta sẽ uống hay không?’  Tưởng nghĩ đến việc uống chính chén của Chúa đã đưa các Tông đồ đến sự đáp ứng quảng đại hơn.  Chúa Giêsu gọi cuộc Khổ nạn của Người là ‘phép rửa’ để nhấn mạnh những đau khổ của Người sẽ là nguyên nhân cho cuộc thanh tẩy toàn thế giới.”

Chúa cũng đang mời gọi chúng ta.  Ước chi chúng ta đừng đầu hàng sự chán nản khi những khuyết điểm và yếu đuối của chúng ta trở nên rõ rệt.  Nếu chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin phù giúp, Người sẽ ban cho chúng ta ơn can đảm để tiếp tục trung thành dấn bước, bởi vì Chúa luôn nhẫn nại và cho chúng ta thời giờ cần thiết để cải thiện.

Sưu tầm

 

MUA ĐÂU RA BÁNH CHO NHỮNG NGƯỜI NÀY ĂN

Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler.  Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết.  Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán khách du lịch đến thăm di tích lịch sử này.  Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống.  Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì!  Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí.  Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống.  Nó là ranh giới giữa sống và chết”.

ZZTrong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất.  Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời.  Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói.  Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống.  Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn.  Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể.  Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn.  Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu.  Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình.  Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều.  Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta.  Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.

Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh?  Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá.  Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé.  Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ.  Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana.  Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum.  Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.

Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con.  Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con.  Chúng con xin tạ ơn Ngài.

Noel Quesson

 

MÙA THƯỜNG NIÊN

ZZTrong quyển sách nhỏ với tựa đề Âm nhạc của Thinh lặng, David Steindl-Rast đã nhấn mạnh mỗi giờ trong ngày có điểm sáng và tính chất đặc biệt của nó đến như thế nào, và cách chúng ta chú tấm đến giây phút hiện tại khi chúng ta nhận ra và tôn trọng các “tác nhân đặc biệt” ẩn dấu trong mỗi giờ đó.  Ông ấy đúng.  Mỗi giờ trong ngày và mỗi mùa trong năm đều có một điều gì đó đặc biệt cho chúng ta, nhưng thường thường chúng ta không ứng trực để tiếp nhận tặng vật đó.

Có những mùa đặc biệt trong năm, chúng ta nắm bắt tặng vật đó dễ hơn.  Dù đôi lúc do áp lực hay xao nhãng, chúng ta không chú tâm đến mùa cao điểm như mùa Giáng Sinh hay Phục Sinh, nhưng chúng ta đều biết các mùa này đặc biệt và có những “tác nhân” trong đó đang đòi chúng ta phải đón nhận.  Khi có ai nói: “Năm nay tôi quá mệt và có quá nhiều áp lực nên không nghĩ đến lễ Giáng Sinh.  Tôi bỏ lỡ dịp Giáng Sinh năm nay rồi!” là chúng ta hiểu ý nghĩa của câu này.

Và điều này không chỉ đúng với những mùa đặc biệt như Giáng Sinh và Phục Sinh.  Nó cũng đúng, và có lẽ đặc biệt đúng với mùa mà chúng ta gọi là Mùa Thường Niên.  Mỗi năm lịch Giáo hội để ra hơn ba mươi tuần cho cái gọi là “Mùa Thường Niên,” một mùa để chúng ta gặp gỡ các tác nhân hàng ngày, điều đặn, quen thuộc, đoán trước được và bình thường.  Như những mùa lễ cao điểm, mùa này cũng có nghĩa là cho đời sống chúng ta một nét phong phú đặc biệt.

Nhưng chúng ta lại dễ dàng bỏ qua mùa này cũng như mục đích của nó.  Khái niệm “Mùa Thường Niên” nghe có vẻ quá nhẹ cho dù chính chúng ta lại mong mỏi một cách vô thức ý nghĩa đích thực nó mang đến.  Chúng ta có một “thời gian bình thường” nhỏ bé nhưng thật quý báu trong đời mình.  Khi đời sống bị nhiều áp lực hơn, mệt mỏi hơn, bồn chồn hơn, có lẽ hơn bất kỳ điều gì, chúng ta mong mỏi có một “thời gian bình thường” im ắng, đều đặn, tĩnh mịch, và ở một nơi xa cách khỏi nhịp điệu hối hả của đời sống.  Đối với nhiều người trong chúng ta, cụm từ “thời gian bình thường” sẽ làm chúng ta thở dài hỏi: “Đó là gì thế?  Lần cuối tôi có một ‘thời gian bình thường’ trong đời là lúc nào?”  Với nhiều người trong chúng ta, “thời gian bình thường” gần như có nghĩa là hối hả và áp lực, là “vòng quay bất tận,” là “cái cối xay.”

Nhiều thứ trong đời hợp lại chống “thời gian bình thường” này, không chỉ sự bận rộn cướp đi thời gian thư thái của chúng ta, mà còn những đau buồn, ám ảnh, mất sức khỏe, hay những gián đoạn khác, tất cả chúng như cười vào nhịp điệu cũng như công việc theo nếp, cướp đi ý thức về “thời gian bình thường” của chúng ta.”  Đó chính là nguyên nhân suy sụp của người trưởng thành.

Tôi ngờ rằng, nhiều người trong chúng ta sẽ thấy khi còn nhỏ chúng ta nhìn khác hẳn về chuyện này. Khi còn nhỏ, tôi thường thấy chán.  Gần như lúc nào, tôi cũng mong có một cái gì mới, một ai đến thăm nhà, một mùa đặc biệt để mừng lễ (sinh nhật, Giáng Sinh, Năm mới, Phục Sinh), hay gần như bất cứ chuyện gì lay tôi ra khỏi nếp sống thường nhật của “thời gian bình thường.”  Nhưng đó là vì đối với một đứa trẻ, thời gian trôi quá chậm.  Khi bạn bảy tuổi, một năm là cả một phần bảy cuộc đời bạn.  Nó quá dài.  Lúc trung niên và già hơn nữa, một năm chỉ là một mảnh nhỏ trong đời và thời gian trôi nhanh, quá nhanh đến nỗi khi đến một mức nào đó, có lúc bạn sẽ bắt đầu mong các dịp đặc biệt qua nhanh, khách về nhanh, các chuyện quấy rầy khuất mắt, để bạn chóng trở về nhịp sống bình thường. Nếp cũ chắc chắn là chán, nhưng chúng ta ngủ ngon hơn khi cuộc sống theo nề theo nếp bình thường.

Ngày nay, văn chương tôn giáo lẫn thế tục đều nói đến những khó khăn để tập trung vào giây phút hiện tại và trong việc gặp gỡ “hiện tại trần trụi” theo cách nói của Richard Rohr, hay “các tác nhân của một giờ” theo cách nói của David Steindl-Rast.  Những gì văn chương nêu ra khác nhau về nội dung và ý nghĩa, nhưng cùng chung một điểm: Cực kỳ khó để chú tâm vào giây phút hiện tại, để thật sự ở trong hiện tại.  Không dễ để sống trong “thời gian bình thường.”

Có một thành ngữ Trung Hoa vừa có ý chúc phúc vừa có ý nguyền rủa.  Bạn có thể chúc cho ai đó: “Chúc bạn sống những giây phút lý thú!”  Với một đứa trẻ, chúc như thế nghĩa là chúc lành, bởi đời sống cứ lặp đi lặp lại theo nếp.  Thời gian trôi thật chậm trong suy nghĩ một đứa trẻ.  Hầu hết trẻ con đã có đủ thời gian bình thường rồi.

Tuy nhiên, đối với hầu hết chúng ta là người lớn, thì đó lại là lời nguyền hơn là chúc phúc.  Những áp lực, buồn phiền, đau bệnh, mất mát, đòi hỏi, và những việc chen vào tưởng như không dứt đang bủa vây đời sống chúng ta, dù có lẽ chúng không được xem là “giây phút lý thú,” nhưng thực sự chúng đối chọi với nếp sống bình thường, điều đặn, đoán trước được và bình thường.  Và chúng tước đoạt “thời gian bình thường” khỏi chúng ta.

Giáo hội muốn chúng ta hãy chú tâm vào những mùa khác nhau của năm.  Mùa Vọng, Mùa Chay, Mùa Giáng Sinh, Mùa Phục Sinh, Lễ Thăng Thiên, và Lễ Hiện Xuống.  Ngày hôm nay, tôi xin nói rằng, cần phải đòi hỏi chúng ta chú tâm đặc biệt đến Mùa Thường Niên – “thời gian thông thường.”  Thất bại trong việc chú tâm vào thời gian này có lẽ là thiếu sót phụng vụ lớn nhất của chúng ta đó.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

NGHỈ NGƠI

ZZSống trong một xã hội đa dạng, người ta có nhiều thái độ, quan niệm cái nhìn khác nhau về vấn đề làm việc.

Một cha xứ mới được chuyển đến thay thế cha xứ cũ đã trông coi một giáo xứ trong nhiều năm.  Trong phiên họp, cha xứ mới ngỏ ý với Hội Đồng Mục Vụ và Hội Đồng Tài Chánh của giáo xứ là nên thuê một người lo cắt cỏ chăm sóc vườn tược chung quanh nhà thờ.  Một vị trong Hội đồng tỏ vẻ khó chịu nói:  “Xin cha nhớ cho rằng, cha xứ cũ chính ngài đã tự tay cắt cỏ chăm sóc vườn tược, không thuê ai cả.”  Cha xứ mới mỉm cười trả lời:  “Tôi biết điều đó, và tôi đã hỏi cha xứ cũ rồi, nhưng ngài trả lời là bây giờ ngài không còn muốn cắt cỏ chăm sóc vườn tược nữa.”

Chuyện khác kể rằng một công ty nọ chẳng may thuê phải một người thư ký lười biếng, suốt ngày chỉ lang bang cho hết giờ.  Ông chủ tức giận khó chịu bảo:  “Trong một tháng trời mà anh làm việc không tới được một giờ đồng hồ.  Anh thử nghĩ xem công ty có lợi được một cái gì khi thuê mướn anh làm việc không?”  Anh thư ký trả lời:  “Dạ thưa ông chủ có chứ.  Vì khi tôi đi nghỉ hè, thì không một ai trong công ty phải làm thêm gánh đỡ công việc của tôi.”

Chúng ta không rõ thái độ và quan niệm của các tông đồ ra sao đối với vấn đề hoạt động làm việc, nhưng qua bài tin mừng hôm nay Chúa nhắc nhở các ngài:  “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”, đã bảo cho hay rằng, giữa những công việc vất vả bận rộn của cuộc sống, các tông đồ cũng như chúng ta có bổn phận và trách nhiệm dành thời giờ nghỉ ngơi.  Có lẽ điều này nghe hơi lạ nhưng là một sự thật.  Sự thật này đã được ghi lại trong chương đầu của sách Sáng Thế Ký, cuốn sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh:  Thiên Chúa làm việc trong 6 ngày và ngày thứ 7 ngài nghỉ ngơi.

Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta như là những con ong luôn bận rộn suốt thời gian.  Xe chạy thỉnh thoảng cần dừng lại để đổ xăng và nghỉ cho máy mát.  Chiếc cung giương mãi cũng sẽ có ngày đứt dây.  Thân xác con người cần nghỉ, cần ngủ, ai thử thức một hai đêm sẽ biết kết quả liền.

Hơn nữa, chúng ta cần dành thời giờ nghỉ ngơi là vì sống ở đất nước này, càng ngày càng thấy các công ty vì phải cạnh tranh và muốn kiếm lời nên đòi gia tăng mức sản xuất trong khi đó lại cắt giảm số nhân viên, nên các người làm việc đã bị áp lực bị stress, bị pressure do công việc đòi hỏi rất nhiều.

Ngoài thời giờ dành ra nghỉ ngơi với gia đình, bạn bè, dành cho Thiên Chúa, chúng ta còn được mời gọi dành thời giờ để suy nghĩ về giá trị đích thực của cuộc sống?  Phải chăng giá trị con người hệ tại sự có:  Càng có nhiều của cải tiền bạc vật chất, con người càng có giá trị nhiều, hay ở tại sự thanh thản bình an của tâm hồn?

Theo tài liệu nghiên cứu, trung bình một người Mỹ hàng ngày đối diện với 560 quảng cáo, và hầu hết các quảng cáo này đều muốn gây ảnh hưởng làm cho con người không thỏa mãn với những gì mình đã đang có và mời gọi con người ham muốn những cái mới hơn, lớn hơn, tốt hơn, tiện lợi hơn.  Chúng ta đang sống trong xã hội đó, dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng, muốn có nhà to hơn, lớn hơn, đẹp hơn, một nhà một Tivi chưa đủ, bây giờ mỗi phòng cần một cái, rồi nào là iPhone, iPad, iPod…  Muốn có nhiều sự phải có nhiều tiền để mà iPaid…, và muốn có nhiều tiền phải đi làm nhiều.  Đơn giản là như thế.  Tuy nhiên, câu hỏi mỗi người chúng ta cần đặt ra cho mình là bao giờ thì mới đủ, mới làm chúng ta hài lòng thỏa mãn, bao giờ chúng ta mới có một cuộc sống đơn giản, mới được sống thanh thản an bình hạnh phúc?

Cha ông đã bảo:  “Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc. Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?” Có nghĩa là: Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ.  Biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhàn?

Phillip Parham thuật câu chuyện về một thương gia giàu có khó chịu mất bình an khi thấy một ngư phủ đang ngồi nhàn hạ biếng nhác bên cạnh thuyền của ông.  Ông hỏi:  “Tại sao anh không ra ngoài khơi đánh cá?”  Ngư phủ đáp:  “Vì tôi đã đánh đủ số cá cho ngày hôm nay?”  Thương gia hỏi:  “Tại sao anh lại không bắt nhiều cá hơn số mình cần?”  Ngư phủ hỏi lại:  “Tôi sẽ dùng chúng để làm gì?”

Vị thương gia trả lời:  “Anh có thể kiếm thêm tiền và mua được thuyền tốt hơn, lớn hơn để có thể đi ra ngoài khơi xa hơn, bắt nhiều cá hơn và kiếm thêm tiền.  Chẳng bao lâu anh sẽ có cả một đoàn thuyền và giàu có như tôi.”  Ngư phủ hỏi:  “Rồi tôi biết làm gì với sự giàu có đó?”

Vị thương gia nói:  “Lúc đó anh có thể ngồi xuống vui hưởng cuộc đời.”

Ngư phủ đáp trong lúc đôi mắt bình thản nhìn ra biển cả:  “Thế ông nghĩ tôi đang làm gì bây giờ?”

Khi tạo dựng nên con người và cho vào đời, Thiên Chúa trao cho mỗi người một sứ mệnh.  Không ai có sứ mạng quan trọng như của Chúa Giêsu, nhưng Ngài biết những điều quan trọng không thể thành đạt được nếu không có tâm hồn an bình trong thinh lặng yên tĩnh nghỉ ngơi cầu nguyện:  “Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.”  Mỗi người chúng ta có trách nhiệm và bổn phận dành thời giờ nghỉ ngơi suy nghĩ tìm ra sứ mệnh của mình và điều cần để ý đó là đời sống này quá ngắn ngủi, hãy sống cuộc sống này đầy ý nghĩa.

Lm. Louis M. Nhiên, CMC

LÀM VIỆC VÀ CẦU NGUYỆN

ZZTrong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con người chúng ta ai cũng cần có những phút giây thư giãn để nghỉ ngơi.  Quy luật bình thường đó cũng được Đức Giêsu áp dụng cho các học trò của mình.  Sau khi các tông đồ bương chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”  Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh dưỡng về thân xác, nhưng trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn.  Giữa những ồn ào náo nhiệt và bon chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế giới nội tâm để gặp gỡ Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình.  Thái độ tĩnh lặng và nghỉ ngơi đó chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta hôm nay.

Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được mọi người yêu mến và nể phục.  Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể.  Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện.  Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa?”  Cụ già chất phác và chân chất trả lời  “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả.  Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi.  Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim.  Bắt chước cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng nội tâm của cõi lòng.  Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.

Chính Đức Giêsu cũng nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện.  Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu nguyện.  Sau những lam lũ với công việc bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với Chúa Cha.  Đặc biệt trước biến cố thập giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp thân tình với Chúa Cha.

Nhìn vào lịch sử cứu độ thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như vậy.  Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều Chúa gởi trao cho ông.  Moisen cũng đến sa mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa Israel ra khỏi Ai Cập.  Dân Do Thái cũng phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa.  Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người.  Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ.  Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc sống, chúng ta phải dành ra những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của lòng mình.  Trong tĩnh lặng thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa nói, và cũng trong sự kết hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để tiếp tục dấn bước trên con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.

Bác học Ampère đã nói: “Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện.”  Cầu nguyện là gắn kết thân tình với Chúa.  Mỗi người chúng ta là một hữu thể đầy giới hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện.  Chúng ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng Tạo Hóa mạnh mẽ vô song.  Chúng ta trở nên vĩ đại nhờ thế.  Lời căn dặn Chúa Giêsu ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là lời khuyên Chúa nói với chúng ta hôm nay “Anh em hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.

Có một thương gia giàu có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta sống an bình.  Vị ẩn sĩ đó trả lời “Như con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế gian, giữa những tranh giành, lọc lừa và gian dối.  Con cá muốn sống phải trở về với sông với nước, ngươi muốn bình an phải trở về với sự cô tịch.”  Anh thương gia hỏi lại “Thưa Thầy, làm sao con có thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây sống ẩn dật như thầy được?”  Vị ẩn sĩ nói tiếp: “Không phải thế, con cứ tiếp tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng ngày của con, nhưng điều quan trọng nhất là con phải luôn biết trở về trong sự tĩnh lặng của cõi lòng.”  Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi.  Đó là giây phút Thầy trò gần gũi bên nhau, ôn lại những biến cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành trình tông đồ tương lai.  Sức bật mới này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình với Chúa.  Chính Đức Giêsu đã nói “Không có thầy, anh em không làm được gì.”

Việc cầu nguyện cần thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt đối với các vị mục tử trong Giáo Hội nói riêng.  Chúa Giêsu đã sai nhóm 12 đi truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi vì các Ngài là những mục tử, là những cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu thế.  Trong trình thuật Tin mừng, Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giêsu đã thể hiện một trái tim yêu thương.  Ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.  Các vị mục tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại cách thức yêu thương mà Đức Giêsu đã thể hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã huấn luyện các học trò thân yêu.  Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa sẽ ban cho các mục tử tốt để họ chăn dắt đoàn chiên.  Vị tiên tri cũng lên án gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã làm đàn chiên thất lạc và tan tác.  Họ đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên.  Vị Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức Kitô, người chăn chiên nhân lành, đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như các vị mục tử trong Giáo Hội hôm nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu.

Để thực hiện sứ vụ này, chúng ta hãy nhìn vào bài học của các tông đồ hôm nay.  Chúa mời gọi các ông rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa.  Chúa cũng nhắn gửi các ông phải tránh những nơi ồn ào để có một tâm hồn tĩnh lặng và an bình.  Biết bao ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý hướng tốt nhằm phục vụ các linh hồn.  Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng ta thích được mọi người vỗ tay khen ngợi.  Đó là những ồn ào của tiền bạc, của những cuốn hút trước một lối sống tục hóa.  Người môn đệ Chúa Giêsu muốn thể hiện một tình yêu mục tử tinh ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn được tĩnh lặng và để được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.

Những vị mục tử ngày hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức Giêsu, những con người được Chúa tin tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần phải học cho mình những bài học căn bản này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh thơi và an bình.

Sự bình an chân thật chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa.  Đức Giêsu chính là sự bình an của chúng ta.  Thánh Phaolô đã nói cho chúng ta chân lý này trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần.”  Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc sống, chúng ta năng rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi.  Đó không phải là sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.”

LM GB Văn Hào

THÁNH BÔNAVENTURA

Thánh Bônaventura sinh năm 1221 tại Tuscany, nước Ý.  Lúc bé, sức khỏe Bônaventura rất yếu ớt, chào đời với nhiều thứ bệnh nan y.  Chính Bônaventura kể rằng chính thánh Phanxicô Assis đã cứu sống mình khi mẹ ngài đến xin các tu sĩ dòng Phanxicô khấn cho cậu bé khỏi bệnh.  Để bù lại thân xác suy nhược, Thiên Chúa đã ban cho Bônaventura một người mẹ giàu tình thương và một đức tin vững mạnh… Đời sống thánh thiện của bà đã đào tạo cho Bônaventura nhiều đức tính tốt đẹp cần thiết cho đời sống hoạt động tông đồ sau này.

Mộ mến tư tưởng phan sinh từ thời niên thiếu, năm 1243, Bônaventura xin vào dòng Phanxicô, rồi đi du học tại Đại học Paris (Pháp).  Bônaventura đã rất gắn bó với thánh Phanxicô Assisi, Đấng sáng lập dòng Phanxicô, lúc đó vẫn còn sống.  Sau đó Bônaventura trở thành giáo sư đại học Paris và tác giả danh tiếng chuyên nghiên cứu về thần học.  Bônaventura rất yêu mến Thiên Chúa đến nỗi ngài đã được tôn tặng danh hiệu “Tiến sĩ Đệ nhất phẩm Thiên Thần” hay gọi tắt là “Tiến sĩ Luyến Thần.”

Một trong các người bạn danh tiếng của Bônaventura là thánh Tôma Aquinô (lễ kính ngày 28/1).  Lần nọ, Tôma Aquinô hỏi Bônaventura tại sao lại viết được những ý tưởng thần học cao siêu như thế. Bônaventura liền dẫn người bạn của mình tới bàn làm việc.  Thánh nhân chỉ vào cây Thánh Giá lớn đặt ở trên bàn và nói với Tôma: ZZ“Chính Người đã nói cho tôi biết mọi sự.  Người là Thầy dạy duy nhất của tôi!”  Lần khác, khi viết tiểu sử của thánh tổ phụ Phanxicô Assisi, Bônaventura tỏa ra đầy lửa nhiệt tình đến nỗi Tôma phải thốt lên: “Chúng ta hãy để cho một vị Thánh ghi chép về một vị Thánh!” Thánh Bônaventura vẫn luôn sống khiêm nhường ngay cả khi các tác phẩm ngài viết làm ngài nổi tiếng.

Năm 1257, Ngài được chọn làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp.  Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm.  Nhờ sự thánh thiện và tài khéo léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng.  Ngài tổ chức việc học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân.  Chính Bonaventura là một nhà dòng giảng thuyết có biệt tài.  Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các thành phố ở Âu Châu, trước mặt vua Luy IX, Đức giáo hoàng.  Luôn luôn Ngài thu phục được cảm tình của thính giả.  Một thầy dòng khiêm tốn tên là Gilles hỏi Ngài: “Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng.  Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được?”  Bonaventuratrả lời: “Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và là kho tàng quí báu nhất.”  Thầy dòng hỏi tiếp: “Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông thái biết mọi sự không?”  Thánh nhân trả lời: “Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.”  Thầy dòng vui vẻ la lớn:  “Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.”  Ngài còn tiếp: “Biết một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.”

Ngoài những hoạt động bên ngoài ấy.  Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những sách về triết học, thần học và thánh kinh.  Chúng ta có thể kể đến cuốn “chú giải luật dòng Phanxicô”, “hạnh tích thánh Phanxicô” nhất là cuốn “hành trình của linh hồn hướng về Thiên Chúa.”  Trong nỗ lực xây dựng Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn.  Người ta kể rằng: Đức giáo hoàng Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ Thánh Thể.  Khi hai vị vào yết kiến đức giáo hoàng trình bày công việc, thánh Bonaventura xé nát bản văn của mình.

Năm 1265, Đức Thánh Cha Clêmentê IV muốn đề cử Bônaventura giữ chức Tổng Giám mục. Bônaventura khiêm tốn từ chối.   Đức Thánh Cha tôn trọng quyết định của Bônaventura.  Đến năm 1273, Đức Chân phước Giáo Hoàng Grêgôriô X đặt Bônaventura lên chức Hồng y.  Đức Thánh Cha gởi hai sứ giả thuộc giáo triều tới gặp Bônaventura.  Đến nơi, các vị gặp thấy Thánh nhân đang làm việc với những chiếc chậu rửa lớn.  Hôm đó là tới phiên Thánh nhân lau chùi xoong chảo.  Hai sứ giả của giáo triều Rôma kiên nhẫn đợi Bônaventura rửa xong chiếc nồi cuối cùng.  Rồi sau khi Bônaventura rửa sạch và lau khô tay, họ long trọng trao cho ngài một chiếc mũ đỏ lớn, tượng trưng cho chức vụ mới của ngài: Hồng y-Tổng Giám mục Giáo phận Albanô.

Hồng y Bônaventura đã giúp đỡ rất nhiều cho Đức Thánh Cha, là người đã triệu tập Công đồng Lyôn năm 1274.  Thánh Tôma Aquinô mất khi đang trên đường tới dự Công đồng, còn thánh Bônaventura thì đã tham dự và đóng góp rất lớn cho Công đồng.  Tuy nhiên, thánh nhân cũng qua đời cách đột ngột vào ngày 14/7/1274, lúc được 53 tuổi.  Đức Thánh Cha hiện diện ngay bên giường của Thánh Bônaventura lúc ngài về trời.  Năm 1482, Đức Thánh Cha Sixtô IV đã tôn phong Bônaventura lên bậc Hiển thánh.  Đến năm 1588, Đức Thánh Cha Sixtô V tôn tặng ngài danh hiệu Tiến sĩ Hội Thánh.

**************************************

Chúng ta hãy suy gẫm những lời sau đây của Thánh Giám mục Tiến sĩ Bônaventura:

“Hạnh phúc thì không gì khác hơn là vui hưởng sự Toàn Thiện, và vì sự Toàn Thiện ở trên chúng ta, nên chúng ta không thể có hạnh phúc nếu không vượt lên trên chính mình. Tự sức mình, chúng ta không thể siêu thoát nếu không có sự trợ giúp của quyền lực siêu nhiên mà quyền lực ấy đã hạ xuống thấp để nâng chúng ta lên. Dù đời sống nội tâm của chúng ta có tiến bộ như thế nào, điều đó không ích gì cho chúng ta nếu nỗ lực ấy không được sự trợ giúp từ trên cao. Thiên Chúa sẵn sàng cứu giúp những ai tìm kiếm sự giúp đỡ với tâm hồn khiêm tốn và thành khẩn; điều này có thể thực hiện được qua sự chân thành cầu nguyện.

“Như vậy, cầu nguyện là nguồn gốc của mọi hành trình tiến đến Thiên Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta hãy trở về với đời sống cầu nguyện và thưa với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin hãy dẫn dắt con trên con đường của Chúa, để con có thể bước đi trong chân lý của Ngài.'”(Thánh Bonaventura).

Như thánh Bônaventura, chúng ta cũng hãy đặt tượng Chúa Chịu Nạn trong nhà hay phòng của mình để có thể thường xuyên hướng về Chúa Giêsu, cầu xin Người giúp đỡ và ban thêm sức mạnh cho chúng ta.  Các ảnh tượng Chúa Kitô, Đức Maria và các Thánh là những nhắc nhở rất tốt, giúp chúng ta nhớ đến, cầu nguyện, và noi gương sống của các Ngài.

Tổng hợp Hạnh các Thánh

ÁNG HƯƠNG LÒNG

ZZCó nhiều thứ trầm hương, hương dâng trong đền thờ Phật, trong đền thờ Chúa.  Kho tàng văn chương tu đức Ðông Phương, có câu chuyện kể về hương trầm như sau:

Làng kia có ngôi chùa.  Dân trong làng đem tượng Phật của mình đến để trong chùa.  Ngày rằm, người ta đến dâng hương Ðức Phật.  Trong số các tín nữ đến chùa có bà quê nghèo không tiền mua nhang.  Trong số các tín nữ ấy, có bà mang theo hương quả.  Bà để ý thấy bà quê kia không bao giờ mang hương lạy Phật.  Dần dần bà đem lòng khó chịu.

Cứ khi đốt nhang lên tượng Phật của bà, bà quê kia liền lạy theo.  Với cái khó chịu, bà nghĩ rằng bà quê kia keo kiệt, chỉ chờ người khác dâng nhang là lạy ké.  Bà đâm lòng ghét bỏ.  Suy nghĩ mãi, lần sau đến chùa, bà mang theo kế hoạch.  Trước khi đốt nhang, bà lấy tàu lá đu đủ làm thành ống dẫn hương đổ lên mặt Ðức Phật, đầu kia bà lấy cái phễu gắn vào.  Bà chỉ lạy nhang cho bay vào cái phễu để lên mặt Ðức Phật của bà, không cho hương thoát sang tượng Phật bà kia.  Lạy xong, nhìn lên, bà thấy sao mặt  Ðức Phật của bà mặt mày đen đủi, hai lỗ mũi đen kịt khói.  Còn tượng Phật của bà quê kia vẫn cứ đẹp đẽ sáng ngời.

Trong kho tàng tu đức nhà Ðạo, sách tiên tri Isaia viết:
“Chúa phán: Muôn vàn hy lễ có lợi gì cho Ta?  Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo nữa.  Khi các ngươi đến trước mặt Ta ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta?  Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những tế lễ vô ích nữa.  Ta ghê tởm mùi hương.  Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác.  Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi.  Tất cả những thứ đó làm khổ Ta.  Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi.  Khi ngươi giơ tay các ngươi lên thì Ta quay mặt đi.  Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời vì tay các ngươi vấy đầy máu.  Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy hãm dẹp khỏi mặt Ta các tư tưởng xấu xa” (Is. 1:10-20).

Trầm hương dâng Phật hay Chúa phải là nén hương lòng.  Của lễ nào vào đền thánh phải siêu thoát từ con tim. Hôm nay có nhiều thứ hương trầm, nhiều thứ của lễ lắm.

Ðầu tháng hoa, nếu ba cộng đoàn hợp nhau rước kiệu, kiệu nào đi trước?  Nhóm mình hay nhóm kia?  Kiệu Ðức Mẹ Lộ Ðức hay La Vang, Fatima hay Hằng Cứu Giúp?

Sự cạnh tranh, thiếu siêu nhiên dường như nó bàng bạc khắp nơi.  Có đông người, nhiều của lễ là có so sánh.  So sánh thì có hơn thua.  Hãnh diện thì cũng có không hãnh diện.  Thành công thì cũng có kém thành công.  Tiếng khen thường nằm cạnh tiếng chê, cho dù tiếng chê ấy không nói ra.  Nó âm thầm mà khó chịu.

Một con người ba khuôn mặt.
Vì sao trong việc thờ phượng, người ta lại cạnh tranh như thế? Có lẽ cái thiếu thức tỉnh của cuộc sống đưa đến nỗi xấu xa ấy.  Mỗi người đều sống với ba khuôn mặt này: Kinh tế, chính trị và tôn giáo.

Con người kinh tế: Ai cũng cần của ăn, áo mặc, nhà ở.  Nghèo thì khổ.  Nghèo không thể tiến thân.  Muốn có nhiều tiền, phải cạnh tranh.  Tôi không khá hơn, người kia sẽ chiếm mất, lấn át tôi.  Hai tiệm ăn gần nhau, muốn tiệm mình có nhiều khách, tiền vào nhiều hơn, phải cạnh tranh.  Chiếm được khách bên kia là ưu tư của mình.  Bất cứ gì đụng tới vật chất, tiền bạc, kinh tế đều chạm tới cạnh tranh.

Con người chính trị: Nếu tôi không mạnh, người khác sẽ xâm lăng.  Kẻ có quyền là người có miếng.  Tôi phải quen biết người có thế lực để cậy nhờ.  Tôi cần có thế lực để gây ảnh hưởng.  Nếu tôi không cai trị người, người sẽ cai trị tôi.  Xã hội nào cũng mạnh được yếu thua.  Cá lớn nuốt cá bé. Quyền lực đến từ nhu cầu sống còn, nó nằm sâu trong bản tính con người.  Ai cũng muốn quyền lực.

Con người tôn giáo: Tôn giáo đi tìm thế giới siêu nhiên, đưa con người đến những liên quan tới Trời.  Tôn giáo mời gọi con người đến giá trị chân thật của lương tâm.  Hiểu như thế, tiếng gọi của tôn giáo nào cũng đẹp, niềm tin tôn giáo nào cũng đáng mến và con người tôn giáo nào cũng đáng yêu.

Ba khuôn mặt trong đền thờ.
Ai cũng đều mang cả ba bộ mặt kinh tế, chính trị, tôn giáo trong một con người.  Khi con người tôn giáo bước vào đền thờ, bước vào chung với cả hai khuôn mặt kia: Kinh tế và chính trị.  Họ vừa buôn bán ngoài đường phố ban sáng, vừa âm mưu một ý định chính trị ban trưa, chiều nay bước vào đền thờ dâng hương, không thể để con người chính trị và kinh tế ở nhà.  Chiều nay bước vào đền thờ, họ bước vào với cả ba khuôn mặt.  Từ đó nảy sinh một cách vô ý thức là tôn giáo, kinh tế và chính trị lẫn lộn với nhau.  Rồi tôn giáo bị sự canh tranh của hai con người kia điều khiển, xúi đẩy.

Người ta đem cạnh tranh trong kinh tế vào tôn giáo.  Ðem cạnh tranh trong quyền lực vào tôn giáo.  Cho nên xứ đạo mình phải tổ chức linh đình hơn xứ đạo kia.  Tìm cách lôi kéo người khác vào phong trào mình để phong trào này đông hơn phong trào nọ.  Ðạo mình phải nổi hơn đạo khác.  Ðền thờ này thiêng hơn đền thờ kia.  Từ đó, tượng Ðức Phật bị dơ do lòng con người dâng những áng hương hẹp hòi nhỏ mọn.  Từ đó, tượng Chúa kêu than thành tiếng: “Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi.  Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta.  Ta nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).

Thực tế cho thấy, thu xếp sao cho các ca đoàn trong giáo xứ hát chung với nhau trong một lễ trọng đã là khó rồi!  Nhỏ như vậy, đã vương khói u ám, thì những công trình liên họ đạo, liên địa phận còn khó như thế nào.  “Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa.  Ta ghê tởm mùi hương.”  Không có tấm lòng siêu thoát, tất cả thờ phượng tôn giáo chỉ là những làn khói đen chứ không còn là hương trầm.  Số phận của những con người làm nên nó đã được nhắc đến trong ngôn sứ Isaia: “Khi các ngươi giơ tay lên thì Ta quay mặt đi.  Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời.  Vì tay các ngươi vấy đầy máu.”

* * *

Thay vì con người tôn giáo phải hướng dẫn con người tiền bạc và con người quyền thế, hôm nay, dường như con người tôn giáo đang thu nhỏ lại trước hai con người kia.  Từ đó, hương khói trong đền thánh không còn là áng hương lòng, nó là u uất của những làn khói đen vì cạnh tranh nhau.

Cạnh tranh trong tôn giáo làm cho đời sống tâm linh nhỏ nhoi.  Khi cuộc sống tâm linh nghèo nàn, tâm hồn ấy không còn bình an nội tại và niềm vui nữa.  Chung quanh cuộc đời sẽ bị giằng co bằng cạnh tranh, họ băn khoăn làm sao hơn người.  Cạnh tranh dẫn đến lo âu.  Cạnh tranh dẫn đến buồn vì sợ người khác nổi hơn mình.  Trong khi thánh Phaolô nói rõ “hoa trái của Thánh Thần là bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal. 5:22).

Cạnh tranh trong sinh hoạt tôn giáo là sự ngột ngạt của những làn khói đen che kín tâm hồn. Của lễ dâng Chúa trong sự cạnh tranh, bấy giờ trở thành thờ cúng ngẫu tượng.  Chính vì thế tiên tri Isaia đã nói bằng ngôn ngữ rất mạnh.  Thiên Chúa ghê tởm những của lễ đó.  Thiên Chúa nhàm chán chịu đựng.  Thiên Chúa khổ tâm.

Thấy mình không vui vì người khác được ca ngợi, thấy mơ hồ sự ghen tị, thèm muốn cạnh tranh trong việc tông đồ, lúc đó, ta cần đọc lại những lời này:

“Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những lễ tế vô ích nữa.  Ta ghê tởm mùi hương.  Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác.  Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi.  Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta.  Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ.