LỜI CẦU NGUYỆN THINH LẶNG, MỘT TRUYỀN THỐNG ÍT ĐƯỢC BIẾT CỦA KITÔ GIÁO

Theo Linh mục Jean-Marie Gueullette, thần học gia Dòng Đa Minh, tiến sĩ y khoa, kinh nghiệm lời cầu nguyện thinh lặng của các nhà thần nghiệm Kitô giáo là một gia tài ở trong tầm tay của tất cả mọi người.  Đó là chủ đề của quyển sách mới nhất của linh mục, Axixi và sự hiện diện (Assise et la présence, nxb Albin Michel).

Hiện nay rất nhiều người cho rằng sự mến chuộng chiêm niệm có gốc rễ trong truyền thống Đông phương.  Hinđu giáo với yoga, phật giáo Tây tạng với zen qua tư thế ngồi trong các buổi chiêm niệm; qua các tư thế ngồi họ tìm cách nào thuận tiện nhất để ngồi thiền.  Qua các truyền thống này, có phải đây là dấu hiệu của một giai đoạn không thể tránh được cho người Tây phương khi họ tìm cách phát triển cách chiêm niệm này không?  Người ta thường trả lời ‘đúng’ vì họ nghĩ rằng Kitô giáo không có một truyền thống nào trong lãnh vực này và vì thế không có gì để mang lại.

Nếu các tín hữu Kitô ngày nay chiêm niệm trong thinh lặng, đó là nhờ họ được các thầy từ Đông phương đến dạy.  Một xác quyết loan truyền rõ ràng như vậy cần xem lại, vì di sản Kitô giáo rất phong phú trong lãnh vực cầu nguyện trong thinh lặng, phong phú nhưng phần lớn lại ít đạt tới được, vì từ cuối thế kỷ 17, việc thực hành này đã dần dần bị lãng quên.

Ngay từ các thế kỷ đầu tiên, dưới nhiều tên gọi khác nhau, các Kitô hữu đã thinh lặng ngồi chiêm niệm và lời cầu nguyện của họ thường rất đơn sơ.  Chúng ta có thể xem đó là hình thức ngồi cầu nguyện của Kitô hữu: cầu nguyện trong quan hệ giữa mình với Chúa mà người tín hữu xem Chúa như một nhân vị và họ cầu nguyện với tên của Ngài.  Trong các hình thức cầu nguyện của Kitô giáo mà chúng ta nói ở đây có hình thức cầu nguyện thinh lặng, người cầu nguyện chỉ đơn giản đặt mình trước mặt Chúa, cảm nhận sự hiện diện của Ngài, mà không xin một điều gì đặc biệt.

Một truyền thống kín đáo nhưng rất mạnh

Điều cần thiết là phải làm cho gia sản này đến được tầm tay của mọi người, một di sản to lớn của lời cầu nguyện thinh lặng Kitô giáo, trải dài từ thế kỷ thú 3 đến thế kỷ 17.  Các tài liệu còn rất nhiều.  Tuy nhiên rất nhiều tín hữu thực hành lời cầu nguyện này và không để lại một dấu vết nào, vì hình thức cầu nguyện này quá đơn giản nên cũng không cần phải triển khai thành một tài liệu để giảng dạy, và vì thế về mặt lịch sử không có tài liệu quy chiếu.

Trong nhiều chứng từ có thể có được của hình thức cầu nguyện đơn giản này, một lời cầu nguyện dẫn từ thinh lặng đến thờ lạy, có chứng từ của chân phước Jean-Joseph Lataste, tu sĩ Dòng Đa Minh Pháp ở thế kỷ 19, cha là người rao giảng trong tù.  Trong thời trẻ của mình, cha đã bỏ nhiều thì giờ để sốt sắng cầu nguyện, nhưng cha nhận thấy lời cầu nguyện thành mờ nhạt trước sự thinh lặng và trước sự đơn sơ chú tâm vào Chúa: “Tâm hồn tôi không ngừng hướng về Chúa, qua hành vi yêu thương liên tục, hơi mơ hồ, hơi ngấm ngầm nhưng mạnh hơn cả chính tôi.  Trong tôi là một lòng thờ lạy Chúa liên lỉ qua hành vi đơn sơ của tâm hồn tôi, luôn giống nhau và luôn mới, không có đoạn bắt đầu, không có đoạn giữa, không có đoạn cuối” (“Các phụ nữ này là chị của tôi…” Đời sống của cha Lataste, tông đồ các nhà tùVie du père Lataste, apôtre des prisons Jean-Marie Gueullette, Cerf, 2008).

Một kinh nghiệm như vậy không phải chỉ dành riêng cho các thánh hay các nhà thần nghiệm đặc biệt có được một sự kết hiệp sâu đậm với Chúa.  Rất nhiều tín hữu Kitô, tu sĩ hoặc giáo dân đã biết con đường đơn giản, con đường cốt yếu đặt lời cầu nguyện của mình trước sự hiện diện của Chúa, trong thinh lặng.  Và chúng ta dựa trên kinh nghiệm của họ nếu chúng ta muốn cầu nguyện như vậy, một kinh nghiệm đòi hỏi sự đơn sơ của nó!  Và đó là điều hữu ích!

Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch

***************************

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.

Rabbouni

TÌNH YÊU MANG THƯƠNG TÍCH

“Chúa Giêsu kêu gọi mọi người sống tình yêu vô điều kiện, đến mức yêu cả kẻ thù của mình.”  Lời kêu gọi ấy xem ra phi lý, nhất là với những ai hiểu tình yêu như một tình cảm, cảm xúc.  Thế nhưng tình yêu là điều gì lớn lao hơn thế.  Đó là không gian yêu thương và đón nhận để chúng ta có thể khám phá sự thật về chính mình, phát triển những gì tốt đẹp nhất trong chúng ta.  Nhưng tình yêu luôn luôn là bước đi mạnh bạo và liều lĩnh.  Bất cứ ai yêu thương đều có nguy cơ thất vọng và bị tổn thương.

Chính ở đây mà tôi có thể trả lời câu hỏi về tương lai của đức tin tôn giáo.  Tôi tin vào một đức tin mang thương tích.  Ở tâm điểm niềm tin Kitô giáo là một cảnh đặc biệt trong Tin Mừng thánh Gioan, về cuộc gặp gỡ giữa thánh Tôma và Chúa Kitô Phục sinh.  Trong tâm hồn Tôma cũng như trong tâm trí nhiều người ngày nay, đức tin và nghi ngờ xung đột nhau.  Chỉ khi Chúa Giêsu cho xem những thương tích của Ngài thì Tôma mới kêu lên: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con.

Thế giới của chúng ta đầy rẫy những thương tích.  Tôi xác tín rằng những ai khép mắt lại trước những thương tích của thế giới, thì người ấy không có quyền nói: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!  Một tôn giáo mà không biết gì đến những nỗi đau và khốn cùng của con người, thì tôn giáo ấy chỉ là thuốc phiện của nhân dân.  Một Thiên Chúa không mang thương tích là Thiên Chúa đã chết.  Khi ai đó ngỏ ý tặng cho tôi Thiên Chúa của họ, tôi hỏi: Đó có phải là Thiên Chúa tình yêu, mang thương tích vì những đau khổ của thế giới không?  Tôi không muốn tin vào bất cứ Thiên Chúa nào khác.”

Những suy tưởng trên được rút ra từ bài phát biểu của Đức Ông Tomas Halik khi nhận giải Templeton danh giá 2014.  Ông nhắc đến hình ảnh Chúa Kitô phục sinh cho Tôma xem những thương tích của Ngài để làm nổi bật dung nhan Thiên Chúa là Tình Yêu mang thương tích.  Có sự trùng hợp đầy ý nghĩa ở đây vì câu chuyện này (Ga 29,19-31) cũng là Tin Mừng được công bố trong Chúa nhật tôn vinh Lòng Chúa thương xót.  Tuy nhiên cần phải đọc lại toàn bộ trình thuật để hiểu rõ hơn về lòng thương xót.

Trước hết, những thương tích trên thân mình Đấng Phục sinh phơi bày tội lỗi của con người.  Những thương tích ấy từ đâu mà có?  Lại chẳng phải vì những âm mưu thâm độc của hàng ngũ lãnh đạo Do Thái, sự thỏa hiệp của Philatô, sự hung dữ của quân lính và sự đồng lõa của đám đông hay sao?  Không chỉ thế, có cả những tội lỗi của các môn đệ Chúa Giêsu nữa: sự phản bội của Giuđa, sự hèn nhát của Phêrô, sự sợ hãi của các môn đệ bỏ Thầy mà chạy trốn!  Ngày nay trong lòng Hội Thánh đang có khuynh hướng nhân danh lòng  thương xót để ngó lơ tội lỗi, coi như không có!  Thế nhưng lòng thương xót đích thực đâu phải thế: không phải là phủ nhận nhưng là mời gọi mỗi người nhìn nhận nỗi cùng khốn của mình do tội lỗi gây ra.  Không nhìn nhận sự cùng khốn của mình thì cần chi đến lòng thương xót?

Một đàng, những thương tích của Đấng Phục sinh phơi bày tội lỗi nhân gian, nhưng đàng khác phơi bày mà không trả đũa, trái lại Ngài thanh tẩy tội lỗi chúng ta bằng tình thương tha thứ: “Bình an cho các con.”  Chính ở đây lòng thương xót phá vỡ vòng xoáy của hận thù.  Mô-típ quen thuộc trong phim ảnh là sự trả thù và mô-típ ấy vừa phản ánh vừa cổ võ cách hành xử quen thuộc của thế gian: tố cáo nhau về đủ thứ tội – trên bình diện cá nhân cũng như tập thể, và kèm theo sự tố cáo là trả thù.  Rồi đối phương cũng lại trả đũa như thế!

Những ai cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ trở thành những sứ giả của lòng thương xót: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần.  Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha” (20,22-23).  Đã hẳn những lời này được dành riêng cho các linh mục khi cử hành Bí tích Hòa Giải, nhưng cũng có thể hiểu rộng ra cho mọi Kitô hữu: đã cảm nhận được lòng Chúa thương xót thì hãy chia sẻ lòng thương xót ấy cho anh chị em của mình: “Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19).

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: giaophanmytho.net

MỤC TỬ NHƯ CHÚA

Kết quả hình ảnh cho Chúa Chiên Lành Tu viện nổi tiếng nhất nọ cứ một lần trong năm mở cửa thâu nhận duy nhất 1 thỉnh sinh.  Viện Phụ đích thân phỏng vấn các ứng sinh chỉ hỏi một câu duy nhất.  Nhưng trớ trêu thay, không ai biết được câu hỏi duy nhất đó là câu gì, bởi vì tất cả những ứng viên nào mà rớt cuộc thi, đều phải uống một viên thuốc do chính Viện Phụ chế ra, công dụng làm cho các ứng sinh dự thi quên mất câu hỏi được đặt ra.  Chính vì thế mà việc chiêu sinh của Tu viện đã trải qua nhiều năm rồi mà chưa ai có thể biết câu hỏi đó là gì.  Thế là cậu Ramin là tỏ ra quyết chí hơn cả.  Cậu dành dài năm cố gắng đọc và học qua thật nhiều sách: lịch sử, địa lý, văn chương, triết lý, nghệ thuật, tâm lý, xã hội học, v.v…  Rồi mùa thi đến, Ramin vào thi và tin chắc mình sẽ trả lời được câu hỏi mà Viện Phụ sẽ hỏi.  Hồi hộp bước vào phòng thi, Ramin được Ngài hỏi câu duy nhất này là: Con hãy tự hỏi: Tôi là ai?  Và trả lời cho ta biết.  Tôi là ai?  Ramin lặp lại câu hỏi, nhưng không biết phải trả lời như thế nào cho đúng, bèn rút lui không bao giờ trở lại Đan viện nữa.

Tôi là ai?  Ðây là câu hỏi căn bản nhất, để bắt đầu mọi cuộc dấn thân thực hiện chương trình sống của đời Kitô hữu.  Nhất là cuộc sống tu luyện bản thân, trở nên mục tử tốt.  Như vậy rõ ràng những vốn liếng trí thức không mà thôi thì chưa đủ để trở nên mục tử tốt lành mà Lời Chúa mời gọi chúng ta hôm nay.

Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta tham dự vào chức tư tế (chức linh mục cộng đồng) của Đức Kitô, tham dự vào sứ mạng Ngôn sứ, và vương đế của Ngài (GLHTCG, số 1267).  Vì thế, thánh lễ này Giáo Hội muốn kêu gọi mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện và thực hành sứ mạng mục tử được Thiên Chúa trao phó cho chúng ta giữa lòng thế giới hôm nay theo mẫu gương Mục Tử Nhân lành Giêsu.  Người là Mục tử nhân lành, còn chúng ta là đoàn chiên của Người.  Người chăn giữ đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết.  Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Thứ nhất, tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết.  Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí hay do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu.  Chẳng hạn, một đứa trẻ đang chơi ngoài đồng, chạy vào xin mẹ cho con mượn con dao.  Mẹ nói: con lấy để làm gì?  Nó nói: con làm cái này.  Mẹ nói không cho nhưng nài nỉ hoài mẹ nó đưa cho nó nhưng theo dõi nó làm cái gì?  Nó cầm dao chạy ra đồng và nhặt một trái lựa đạn 79 mà nó tưởng là trái ô ma, nó vừa cầm lên thì mẹ nó nhào tới chụp ngay con dao nó định cắt ra để ăn.  Vâng, chỉ tình yêu xuất phát từ trái tim, người mẹ mới biết trước được rủi ro hay chăm sóc kỹ lưỡng từng hành động đứa con, làm cho nó nên hoàn thiện.  Chúa Giêsu hôm nay nói: “Ta biết chiên Ta,” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta, biết rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, biết rõ tâm tư tình cảm của ta.  Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh.  Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu.  Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta.  Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta.  Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta nên Ngài luôn luôn muốn làm cho ta vơi được nỗi sầu, nhẹ đi âu lo sợ hãi bằng việc hiến mình cho ta và cư ngụ nơi tâm hồn ta mọi nơi mọi lúc khi chúng ta tham dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Ngài.  Vì vậy, Ngài luôn mời gọi chúng ta rằng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc.  Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc.  Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu.  Có yêu mới quan tâm.  Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu.  Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc.  Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do.  Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhút nhát, yếu ớt nhưng là để giúp ta trưởng thành, mạnh mẽ tự tin.  Người chăm sóc ta không phải theo kiểu Mẹ con Sáng-Sang trong phim truyền hình Việt Nam “Hoa hồng không dành cho em”, bà chăm sóc con quá đến độ mà mẹ con bị bệnh tự kỷ.  Ngược lại, Chúa Giêsu chăm sóc ta bằng cách cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh đó là đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha.  Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh.  Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu.  Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều.  Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được.  Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).  Chính Người đã thực hiện điều ấy.  Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên.  Người đã tự hiến mạng sống vì ta.  Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.

Chúng ta hãy trở thành mục tử nhân lành theo gương Người.  Cha mẹ là mục tử của con cái, thầy cô giáo là mục tử của học sinh, giám đốc là mục tử của công nhân, y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân, anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ, linh mục là mục tử của giáo dân, tu sĩ là mục tử của tha nhân… hãy thực hiện lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp Ngày Thế giới cầu cho ơn Thiên Triệu 2015 rằng hãy ra khỏi chính mình, đi ra khỏi sự thoải mái và cứng nhắc của cái tôi để đặt trọng tâm đời sống mình nơi Đức Giêsu Kitô, có nghĩa rằng phải lấy Tình yêu Chúa Giêsu là tiêu chí và lẽ sống cho đời Kitô hữu chúng ta.  Mà tình yêu Chúa cố ở điểm này là hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa.  Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong giáo xứ, trong khu phố và xã hội hôm nay hầu làm cho cuộc sống thêm phong phú và hạnh phúc hơn.  Amen!

Lm. Joshepus Quang Nguyễn

SỰ THINH LẶNG CỦA THIÊN CHÚA TRƯỚC SỰ DỮ

Các thần học gia đôi khi cố gói gọn ý nghĩa sự sống lại của Chúa Giêsu bằng một câu: “Trong sự phục sinh, Thiên Chúa chứng thực cho Chúa Giêsu, cho cuộc sống, sứ điệp và lòng trung tín của Ngài.”  Như vậy nghĩa là gì?

Chúa Giêsu đi vào thế gian để rao giảng về đức tin, tình yêu và sự tha thứ, nhưng thế gian không đón nhận.  Thay vào đó, thế gian đóng đinh Ngài trên thập giá, và hành động đó dường như cũng là chế giễu thông điệp của Ngài.  Chúng ta thấy điều này rõ ràng nhất nơi thập giá, khi Chúa Giêsu bị sỉ nhục, chế giễu và thách thức: Nếu ông là con Thiên Chúa thì xuống khỏi đó đi!  Nếu thông điệp của ông là đúng, thì để Thiên Chúa xác nhận ngay đi!  Nếu lòng trung tín của ông không phải chỉ là sự cứng đầu và ngu muội của con người, vậy tại sao ông lại chết trong tủi nhục?

Thiên Chúa đáp lại thế nào với những lời chế nhạo này?  Dường như Ngài chẳng có đáp lại gì, chẳng có bình luận, biện hộ, biện giải, phản bác gì, chỉ có thinh lặng.  Chúa Giêsu chết trong thinh lặng.  Cả Chúa Giêsu lẫn Thiên Chúa mà Ngài tin đều không cố gắng lấp đầy hố thẳm ghê gớm đó bằng một lời an ủi hay giải thích nào, không thách thức con người nhìn vào bức tranh tổng thể hay nhìn vào những mặt tươi sáng hơn.  Hoàn toàn không có gì.  Chỉ có thinh lặng.

Chúa Giêsu chết trong thinh lặng, trong thinh lặng của Thiên Chúa và trong vô tri của thế gian.  Và chúng ta bực bội trước sự thinh lặng này, cũng như chúng ta bực bội bởi cái dường như chiến thắng của sự dữ, đau đớn và thống khổ nơi trần gian.  Thiên Chúa dường như thinh lặng trước sự dữ và cái chết, điều này có thể làm chúng ta bực bội mãi: như trong cuộc diệt chủng Do Thái, những cuộc diệt chủng sắc tộc, những cuộc chiến tranh phi nghĩa và tàn bạo, trong những trận động đất và sóng thần cướp đi hàng ngàn sinh mạng và tàn phá nhiều quốc gia, trong cái chết của vô số người vì ung thư và vì bạo lực, trong những bất công của cuộc đời, trong lề thói của những người vô lương tâm có thể hủy hoại cả một lãnh vực cuộc sống mà không chịu hậu quả gì.  Trong mọi chuyện này, Thiên Chúa ở đâu?  Câu trả lời của Ngài là câu trả lời nào?

Câu trả lời của Thiên Chúa là sự phục sinh, sự phục sinh của Chúa Giêsu và sự phục sinh mãi mãi của sự thiện trong chính sự sống.  Nhưng sự phục sinh không nhất thiết là sự giải cứu.  Thiên Chúa không nhất thiết giải cứu chúng ta khỏi những tác hại của sự dữ, hay thậm chí là sự chết.  Sự dữ làm việc của nó, thiên tai là thiên tai, và những kẻ vô lương tâm có thể hủy hoại khi họ đang bị ngọn lửa thiêng của sự sống thôi thúc.  Thông thường, Thiên Chúa không can thiệp.  Biển Đỏ rẽ làm đôi không phải là chuyện chúng ta thấy hàng ngày.  Thiên Chúa để những người Ngài yêu thương chịu đau khổ và chết, cũng như Chúa Giêsu để cho Lazarô bạn của Ngài chết và Thiên Chúa để cho Chúa Giêsu chết.  Sau đó, Thiên Chúa cứu chuộc, nâng chúng ta lên, trong một chứng thực sâu sắc hơn, trường tồn hơn.  Hơn nữa, sự thật của tuyên bố này còn có thể được kiểm nghiệm.

Bất chấp mọi thể hiện ngược lại, đến cuối cùng, tình yêu chiến thắng hận thù.  Hòa bình chiến thắng hỗn loạn.  Tha thứ chiến thắng chua cay.  Hy vọng chiến thắng yếm thế.  Trung tín chiến thắng tuyệt vọng.  Đức hạnh chiến thắng tội lỗi.  Lương tâm chiến thắng nhẫn tâm.  Sự sống chiến thắng cái chết, sự thiện chiến thắng sự dữ, luôn là vậy.  Mohandas K. Gandhi đã viết: “Khi tôi tuyệt vọng, tôi nhớ lại mọi chuyện đã trải qua suốt dòng lịch sử, chân lý và tình yêu luôn chiến thắng.  Có những kẻ sát nhân và bạo chúa, và chúng dường như bất khả chiến bại suốt một thời gian.  Nhưng đến tận cùng, chúng luôn sụp đổ.  Cứ nghĩ đi, luôn là thế.”

Sự phục sinh đã chứng thực điều đó một cách mạnh mẽ nhất.  Đến cuối cùng, Thiên Chúa là người phán quyết.  Sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là phán quyết đó.  Từ tro tàn của hổ thẹn, của cái dường như là thất bại và cái chết, một sự sống bất diệt mới thâm sâu hơn tuôn trào vĩnh viễn.  Đức tin của chúng ta bắt đầu từ chính lúc mọi sự dường như kết thúc, từ trong cái dường như là sự thinh lặng của Thiên Chúa trước sự dữ.

Và điều này yêu cầu chúng ta điều gì?

Trước hết, đơn giản là yêu cầu chúng ta tin vào sự thật của sự phục sinh.  Sự phục sinh yêu cầu chúng ta tin vào điều mà Gandhi đã xác nhận, cụ thể là, đến cuối cùng, sự dữ sẽ không có quyền phán quyết.  Nó sẽ thất bại.  Sự thiện cuối cùng sẽ chiến thắng.

Cụ thể hơn nữa, sự phục sinh yêu cầu chúng ta đánh cược vào tin tưởng và sự thật, tin tưởng rằng lời Chúa Giêsu dạy là đúng.  Đức hạnh không ngây dại, kể cả khi bị sỉ nhục.  Tội lỗi và yếm thế mới ngây dại, kể cả khi chúng có vẻ đang chiến thắng.  Những ai đã dùng lương tâm mà cúi mình trước Thiên Chúa và tha nhân, thì sẽ tìm được ý nghĩa và niềm vui, kể cả khi họ bị tước đi một số lạc thú thế gian.  Những ai vô lương tâm múc lấy và thao túng sinh lực thần thiêng thì sẽ không tìm được ý nghĩa sự sống, kể cả khi họ đã nếm trải lạc thú.  Những ai sống trung thực bằng mọi giá, thì sẽ tìm được tự do.  Những ai dối trá và lý luận sẽ thấy mình bị cầm tù trong sự ghét mình.  Những ai sống trong tin tưởng thì sẽ tìm được tình yêu.  Có thể tin tưởng sự thinh lặng của Thiên Chúa, kể cả khi chúng ta chết trong đó.  Chúng ta cần phải giữ vững sự thành tín trong tình yêu, tha thứ và lương tâm, bất chấp tất cả đang cho rằng chúng ta làm thế là ngây dại.  Chúng sẽ cho chúng ta điều sâu thẳm nhất trong sự sống.  Đến cuối cùng, Thiên Chúa chứng thực cho đức hạnh.  Thiên Chúa chứng thực cho tình yêu.  Thiên Chúa chứng thực cho lương tâm.  Thiên Chúa chứng thực cho sự tha thứ.  Thiên Chúa chứng thực cho sự trung tín.  Đến tận cùng, Thiên Chúa chứng thực cho Chúa Giêsu và chứng thực cho cả chúng ta nếu chúng ta vẫn giữ lòng trung tín.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

BIỂN TRONG ĐÊM

“Thầy đây.  Đừng sợ!”

Trong tác phẩm “When All Hell Breaks Loose,” tạm dịch, “Khi Tất Cả Đổ Vỡ,” Steven J. Lawson viết, “Có thể bạn đang ở trong một cơn bão.  Chúa có mục đích khi dẫn bạn vào đó.  Ngài thừa sức bảo vệ bạn qua cơn bão; và Ngài có một kế hoạch, để cuối cùng, dẫn bạn ra khỏi đó.  Hãy hướng mắt về Ngài!”

Kính thưa Anh Chị em,

“Hãy hướng mắt về Ngài!”  Thông điệp của S. J. Lawson được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay.  Chúa Giêsu muốn bạn và tôi đặt niềm tin vào Ngài, “khi tất cả đổ vỡ,” khi hỗn mang chụp xuống như đã chụp xuống con thuyền các môn đệ giữa ‘biển trong đêm.’

Vậy thì điều gì khiến chúng ta sợ hãi?  Với một số người, nỗi sợ xuất hiện vì bất an tài chính, sức khoẻ suy yếu, quan hệ vỡ vụn, tương quan hỏng hóc, tội lỗi giày vò…  Và đôi khi, cả những ‘dòng lưu’ bên trong dậy sóng bởi những cảm xúc vô kiểm soát, những kiêu hãnh, phù phiếm hay những ý tưởng lăng loàn… khiến chúng ta mất phương hướng.  Lúc bấy giờ, dường như việc chèo chống ‘thuyền lòng’ đều trở nên vô ích giữa ‘biển trong đêm.’  Bên cạnh đó, nỗi sợ lớn nhất là sợ chết.  Vậy mà, Đức Kitô, Chúa chúng ta, đã vượt qua cái chết để phục sinh vinh hiển – trở nên Chúa kẻ sống và kẻ chết – thì không gì có thể khiến chúng ta sợ hãi, dẫu sự chết là ‘biển trong đêm’ hãi hùng nhất!

Tin Mừng tường thuật bi kịch của các môn đệ: gió nổi, sóng gào, thuyền sắp chìm.  Nhưng kìa Giêsu, Đấng “Đi Trên Nước” đang đến!  Và dẫu những ngư dân dày dạn ấy đã trải qua bao bão tố, nhưng Thầy của họ lại chọn lúc này để đến, không phải để đưa họ vào bờ nhưng để nói với họ rằng, bất kể ‘cơn bão’ nào trong cuộc đời, Ngài vẫn có đó theo một cách thức kỳ diệu nhất!  Ngài muốn bạn và tôi tin rằng, bất kể chúng ta phải vật lộn với loại hình bão tố nào, Ngài vẫn luôn có đó, gây ngạc nhiên, an ủi và đầy yêu thương.

Niềm tin vào Chúa không mở ra cánh cửa dẫn đến mọi việc sẽ thông suốt và thuận lợi; nó không cứu bạn khỏi những cơn bão, nhưng bảo đảm về một sự ‘Hiện Diện’ của Đấng khuyến khích bạn vượt qua những thử thách hiện sinh, chỉ cho bạn con đường phải đi, cả khi tối tăm nhất.  Giáo Hội sơ khai đã trải nghiệm điều này.  Khi các tín hữu kêu trách lẫn nhau vì giữa họ có sự kỳ thị, thì Hội Thánh hướng về Chúa Phục Sinh.  Các phó tế đầu tiên ra đời.  Giông bão qua đi! – bài đọc một.  Thánh Vịnh đáp ca thật sâu sắc, “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài!”

Anh Chị em,

“Thầy đây. Đừng sợ!”  Hãy nghe cho được những lời này, bởi lẽ, cuộc đời chúng ta như một hải trình, nhiều ngày êm đềm; nhưng không ít lúc gặp những ‘cơn dông’ cả trong lẫn ngoài!  Chúa Phục Sinh luôn ở với chúng ta, Ngài không cất thánh giá, nhưng ban sức mạnh để bạn và tôi vác nó, ôm nó một cách ý nghĩa.  Vậy, đừng sợ bất cứ điều gì!  Chúa biết hết, không gì nằm ngoài kế hoạch yêu thương của Ngài.  Ngài “đưa chúng ta vào cơn bão; và đem chúng ta ra khỏi đó.”  Điều quan trọng, dù ở đấng bậc nào trong bất cứ hoàn cảnh nào, bạn và tôi vẫn vững tin để nghe được tiếng Ngài, ngay giữa ‘biển trong đêm!’

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, có Chúa, bến bờ xa xôi đến mấy của con cũng sẽ ngắn lại, vì Chúa là ‘bình an giữa bão’ cho thuyền đời con ‘cập bờ bên kia!’” Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 BÌNH AN CHO CÁC CON

Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ.  Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ.  Người ta sợ thất bại.  Sợ rủi ro.  Sợ mất an ninh.  Sợ nghèo đói.  Sợ bị trả thù.  Sợ phải đối diện với sự thật.  Có cái sợ làm người ta “ăn không ngon, ngủ không yên.”  Có cái sợ làm người ta đánh mất niềm tin nơi bản thân và tha nhân.  Có cái sợ dẫn đến tuyệt vọng và buông xuôi.

Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ.  Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su.  Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu.  Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan.  Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin.  Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại.  Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự.  Các ông không còn dám tin vào ai.  Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa.  Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa.  Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không.  Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi “nhìn cò ra quạ,” nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma.

Chúa đã quở trách các ông “sao lại hoảng hốt thế!  Ma đâu có xương có thịt như vầy!”  Chúa chỉ cho các ông biết nguyên do của sợ hãi là thiếu lòng tin.  “Sao lòng anh em còn ngờ vực?”  Đã bao năm sống với Thầy.  Đã nhiều lần chứng kiến những phép lạ Thầy làm.  Đã từng được nghe lời Thầy tiên báo “Sau ba ngày Thầy sẽ sống lại.”  Thế mà các ông vẫn không tin.  Từ không tin dẫn đến sợ hãi.  Sợ bóng đêm của cuộc đời.  Sợ những điều mới lạ.  Sợ hãi dẫn đến chia đàn xẻ nghé.  Mỗi người một nơi.  Đường ai ai nấy đi.  Sợ hãi nên đâu dám nhìn đời, nhìn người.  Sợ hãi nên chỉ biết co ro nơi phòng tiệc ly.  Cửa đóng then cài trong tâm trạng nặng nề đầy u ám và sợ hãi.

Nỗi sợ hãi của kẻ thiếu lòng tin vẫn còn đó nơi con người hôm nay.  Có người sợ cho tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao?  Có người sợ những nguy nan, khốn khó của giòng đời sẽ xảy đến với mình.  Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt!  Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ.  Vì sợ hãi nên đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa.  Họ tìm kiếm thế lực trần gian.  Họ bám vào quyền thế vua quan để sống.  Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc.  Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn.  Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời.  Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống.  Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.

Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa.  Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy, vì hết lòng tin tưởng cậy trông Thiên Chúa.  Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa.  Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng.  Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ.  Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân.  Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ.  Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau.  Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi giòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.

Người ta kể rằng: có một cậu bé 5 tuổi vừa thức giấc trong một đêm giông tố bão bùng.  Cậu mở mắt, thấy cảnh vật tối tăm.  Ngoài trời giông tố, sấm chớp rợn rùng.  Từng đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm thét như đang giận dữ đạp đổ nhà cửa và cây cối.  Bốn bề xao động.  Cậu sợ hãi, hốt hoảng và cầu cứu cha:

– Cha ơi, cha ơi!  Con sợ quá!

– Cha đây, cha đây!  Cậu nghe tiếng cha vọng lại.

– Cha đâu sao con không thấy?  Con sợ quá!  Cậu giơ tay ra phía trước quờ quạng.

– Cha đây, Cha đây! Người cha bước lại ngồi xuống bên cậu.  Cậu ôm lấy cha, áp đầu vào ngực cha.

Người cha đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu.  Cậu bé yên lặng nắm lấy bàn tay Cha dìu dịu đi vào giấc ngủ an lành.  Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng sự sợ hại nơi cậu bé đã tan biến trong lòng của Cha.

Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ.  Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời.  Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa.  Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan.  Cho dù giòng đời có nhiều bất trắc và giông tố.  Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa.  Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa.  Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.

Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.”  Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta.  Amen!

Lm. Tạ Duy Tuyền

ĐẤU TRANH ĐỂ KHAI SINH HY VỌNG

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra đầu tiên với các phụ nữ.  Tại sao lại thế?  Một lý do rõ ràng có lẽ là vì chính những phụ nữ này đã đi theo Ngài trong hành trình thương khó ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, trong khi đa phần những người đàn ông khác lại bỏ rơi Ngài.  Còn nữa, những phụ nữ này lên đường đến mộ Chúa vào tảng sáng ngày Phục Sinh với ý định xức dầu thơm cho xác chết, nên họ là những người ở trong vườn đầu tiên khi Ngài xuất hiện.  Nhưng tôi tin rằng, còn có một lý do mang tính biểu tượng và sâu sắc hơn nữa.  Những phụ nữ này là các bà đỡ.  Thường thì phụ nữ góp phần trong việc sinh hạ và là những người tinh thông nhất về việc dưỡng nuôi sinh linh mới.

Bà đỡ là sự giúp đỡ thiết thực trong bất kỳ việc sinh hạ nào.  Khi một đứa trẻ ra đời, thường là đầu sẽ ra trước, mở đường cho cơ thể ra sau.  Trong thời điểm này, rất cần một bà đỡ giỏi, giúp thuận tiện hóa việc sinh nở và bảo đảm đứa bé bắt đầu thở, đồng thời giúp bà mẹ bắt đầu cung cấp dưỡng chất cho sinh linh mới ngay lập tức.  Đôi khi, bà đỡ là mấu chốt định đoạt giữa sống và chết, và bà luôn giúp cho việc sinh nở thuận tiện hơn và lành mạnh hơn.

Sự tái sinh của Chúa Giêsu khai sinh ra sự sống mới cho thế gian, và trong thời điểm ban đầu đó, sự sống này phải được hỗ trợ nhờ các bà đỡ, cả về tính khẩn cấp của tình huống lẫn những hơi thở đầu tiên trong thế gian này.  Sự tái sinh đã khai sinh nhiều thứ, và chúng cần có bà đỡ, ban đầu là nhờ những phụ nữ được Chúa Giêsu hiện ra đầu tiên, rồi đến các tông đồ đã kể lại cho chúng ta lời chứng thấy tận mắt của họ, rồi đến giáo hội tiên khởi, nhờ các bậc tử đạo, nhờ đời sống đức tin của vô số người qua nhiều thế kỷ và đôi khi là nhờ các thần học gia và ngòi bút thiêng liêng.  Và hiện giờ, chúng ta vẫn cần làm bà đỡ cho điều khai sinh ra từ sự phục sinh.

Và biến cố phục sinh đã khai sinh ra nhiều điều, một biến cố tận căn không khác gì sự tạo dựng nguyên thủy.  Sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là “ngày đầu tiên” thứ hai, là lần thứ hai ánh sáng chia tách với bóng tối.  Thật vậy, thế giới xác định thời gian theo biến cố phục sinh.  Chúng ta đang ở năm thứ 2024 kể từ biến cố đó.  (Kitô giáo được khai sinh từ biến cố đó.  Thời đại mới bắt đầu từ đó.  Nhưng các học giả đã tính toán rằng Chúa Giêsu đã 33 tuổi khi Ngài chết, nên họ thêm 33 năm để thời gian được tính từ khi ngài ra đời).

Trong những gì mà sự phục sinh đã khai sinh, một điều nổi bật và vẫn cần được chúng ta làm bà đỡ, chính là hy vọng.  Sự phục sinh khai sinh hy vọng.  Các phụ nữ lần đầu tiên gặp Chúa Giêsu phục sinh chính là những người đầu tiên được trao cho lý do đích thực để hy vọng và họ là những người đầu tiên làm bà đỡ cho sự khai sinh mới này.  Chúng ta cũng phải như thế.  Chúng ta cần trở thành bà đỡ cho hy vọng.  Nhưng hy vọng là gì, và nó được khai sinh thế nào trong sự phục sinh?

Hy vọng đích thực không bao giờ lẫn lộn với kiểu ý nghĩ mơ tưởng hay kiểu lạc quan nông nổi.  Không như hy vọng, ý nghĩ mơ tưởng chẳng hề có căn cứ gì.  Nó chỉ là mơ tưởng mà thôi.  Còn sự lạc quan thì bắt nguồn từ sự nông nổi tự nhiên (kiểu “Tôi luôn thấy mặt tốt của vấn đề”) hoặc theo bản tin tối mỗi ngày, nhưng chúng ta biết tình hình đó có thể thay đổi hàng ngày.  Hy vọng lại có một căn cứ khác hẳn.

Tôi xin đưa ra một ví dụ: Pierre Teilhard de Chardin, nhà khoa học gia đầy đức tin, có một lần trình bày với ý định thể hiện rằng câu chuyện lịch sử cứu độ khớp hoàn toàn với những thấu suốt của khoa học về nguồn gốc vũ trụ và sự tiến hóa.  Cha Teilhard lấy ý từ câu 3-10, chương 1, thư gửi Tín hữu Êphêsô mà gợi ý rằng cái kết của toàn bộ tiến trình tiến hóa sẽ là sự hiệp nhất mọi sự trong một bản hòa âm tận cùng trong Đức Kitô.  Một đồng nghiệp vô thần đã thách thức cha rằng: Những gì cha đưa ra là một giản đồ lạc quan tuyệt vời.  Nhưng nếu như chúng thổi bay thế giới bằng bom nguyên tử thì sao.  Lúc đó thì giản đồ lạc quan của cha sẽ thế nào?  Cha Teilhard trả lời thế này: Nếu chúng ta thổi bay thế giới bằng bom nguyên tử, thì đó sẽ là một bước lùi, có khi là lùi hàng triệu năm.  Nhưng điều mà tôi đưa ra sẽ thành sự, không phải vì tôi ước mơ nó hay vì tôi lạc quan.  Nó sẽ thành sự vì Thiên Chúa đã hứa như thế, và trong biến cố phục sinh, Thiên Chúa cho thấy rằng Thiên Chúa có quyền năng để thực hiện lời hứa đó.

Điều mà những phụ nữ gặp Chúa Giêsu đầu tiên đã trải nghiệm chính là hy vọng, dạng hy vọng dựa trên lời hứa của Thiên Chúa sẽ đứng về phía sự thiện trước sự ác, sự sống trước sự chết, bất kể hoàn cảnh, bất chấp chướng ngại, bất kể tình hình, bất chấp cả cái chết và bất chấp chúng ta lạc quan hay bi quan.  Họ là những bà đỡ đầu tiên đã giúp khai sinh hy vọng đó.  Và bây giờ đó cũng là nhiệm vụ của chính chúng ta.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

HÃY ĐẶT LÒNG MÌNH VÀO LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT!

Năm 1931, một nữ tu người Ba Lan tên Faustina Kowalska, tuyên bố rằng chị đã được nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với mình.  Người mặc áo trắng, tay phải với lỗ đinh giơ lên như đang chúc lành, tay trái chạm vào trái tim nơi có hai luồn ánh sáng trắng và đỏ chiếu tỏa ra, và Người truyền cho thánh nữ vẽ lại những gì đã thấy với dòng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa!” (Trích Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa nơi linh hồn tôi – Faustina)

Gần bảy mươi năm sau, ngày 30/4/2000, vào Chúa nhật sau lễ Phục sinh, Đức giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng phong thánh cho chị Faustina, và ấn định Chúa nhật II Phục sinh hằng năm là ngày “Chúa nhật Kính Lòng Chúa Thương Xót.

Lòng Thương Xót của Chúa dành cho con người không dừng lại ở những gì Chúa Giêsu đã nói đã làm khi còn sống, hay chỉ trong cuộc khổ nạn của Người mà thôi.  Lòng thương xót ấy vẫn hằng ngày được tiếp diễn trên cuộc đời mỗi người chúng ta.  Dù biết đức tin của con người còn yếu kém, thế nhưng lòng thương xót ấy vẫn bao phủ và chở che con người qua mọi nơi mọi thời.

Các tông đồ ngày xưa ai cũng hoan mang, lo lắng về cái chết của Chúa Giêsu, nên khi hay tin Người sống lại phần lớn các ông đều tỏ thái độ bán tín bán nghi.  Suốt trong tuần Bát Nhật Phục Sinh vừa qua, ta được nghe những tường thuật về những lần hiện ra sau khi sống lại của Chúa Giêsu qua các trang Tin Mừng của các thánh sử.  Mỗi người diễn tả một hoàn cảnh khác nhau về sự Phục Sinh của Người, và trong những lần hiện ra ấy, ta lại thấy các môn đệ đón nhận với một hoàn cảnh, một thái độ khác nhau.  Nhưng tất cả đều mang chung một tâm trạng của sự hoài nghi.

Thế nhưng, khi nhắc đến vấn đề lòng tin thì người ta lại nghĩ ngay đến Tôma và gắn liền tên ông với “Kẻ kém lòng tin.”  Thật tội nghiệp cho Tôma khi phải mang lấy biệt danh không mấy tích cực ấy.  Chỉ vì trước đó ít hôm, vì một lý do nào đó mà ông không thể có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra, và vì ông mạnh mẽ cho một câu nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.” (Ga 20,25)

Với tôi, Tôma là một người sống thực tế theo kiểu “trăm nghe không bằng một thấy.”  Nhưng nếu công bằng hơn, ta sẽ thấy Tôma còn là một người sống rất tình cảm.  Chắc chắn ông đã buồn và buồn rất nhiều về những gì Chúa Giêsu phải chịu, và tình cảm ông dành cho Thầy cũng rất sâu nặng.  Chắc có lẽ ông đã lẩn đâu đó trong đám đông khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn, mới có thể chứng kiến và biết những vết thương của Thầy.  Ông đã không bỏ trốn đến một nơi thanh vắng nào đó cho an toàn, nhưng cách nào đó ông âm thầm bước theo Chúa Giêsu để rồi đã phải “ám ảnh” và tự vấn lương tâm mình rất nhiều vì những vết thương Thầy mình phải chịu.  Nên những dấu đinh trên tay hay vết thương nơi cạnh sườn Người, là điều đầu tiên ông muốn thấy.  Nó đã ám ảnh, đã dằn vặt cõi lòng ông suốt thời gian qua, giờ đây ông đã rất can đảm để đối diện với nỗi buồn trong lòng mình.

Chúa Giêsu đã trách ông kém lòng tin (x. Ga 20, 27), nhưng lời trách ấy không chỉ dành riêng cho Tôma mà nó còn cho mỗi người chúng ta.  Đạo Công giáo là đạo của đức tin.  Nhưng người Công giáo đã giữ và sống đức tin của mình như thế nào?  Giữa một trào lưu xã hội chạy theo lối sống thực dụng, việc giữ đức tin đã khó và sống đức tin ấy càng khó hơn bội phần.  Nói lời hay, giảng điều đẹp vẫn cần, nhưng xã hội ngày nay người ta cần hơn những chứng nhân thực tế, liệu rằng một đời sống đạo gương mẫu bằng những hành động cụ thể từ những lối hành xử hằng ngày đã được người Kitô hữu áp dụng như thế nào?

Nhìn lại tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho mỗi người, ta mới thấy nó cao cả và huyền nhiệm làm sao.  Dù biết con người qua mọi thời luôn hời hợt với tình yêu của mình, nhưng Người vẫn yêu thương ta và yêu đến cùng.  Người còn muốn tình yêu ấy bao phủ và xâm chiếm trái tim tội lỗi của con người, để bảo vệ, chở che và nâng con người lên một tầm mức cao hơn.  Lòng thương xót của Người vẫn ngày đêm không ngừng len lỏi vào tâm hồn ta bằng sự dịu dàng, để rồi nó sẽ được tỏa ra cách mạnh mẽ như Tôma: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28) và từ đây một cuộc cách mạng nội tâm diễn ra và nó đã nhấn chìm mọi ngờ vực vào “đại dương lòng Chúa thương xót.

Lạy Chúa, con tin lòng thương xót của Chúa luôn ấp ủ tâm hồn con, xin cho con biết ra khỏi con người hiện tại với những bộn bề lo toan, những hơn thua, hờn giận.  Để con biết sống lại con người mới trong ánh sáng Phục Sinh của Chúa.  Và xin cho con biết loan truyền lòng thương xót của Chúa đến với những người xung quanh không chỉ qua lời nói mà còn bằng chính những hành động yêu thương cụ thể hằng ngày của con.  Và qua con, mọi người cảm nhận cách cụ thể hơn mối phúc sau cùng Chúa để lại: “Phúc cho những ai không thấy Chúa mà tin có Chúa hiện diện nơi con.”

Step. Phạm Ngọc Duy

TIN VÀ KHÔNG TIN

Trong thời đại 4.0 này, việc tin một người đã chết rồi ba ngày sau sống lại được coi là điều nhảm nhí và điên rồ.  Điều đó chẳng có chi lạ.  Bởi lẽ, vào thời các tông đồ, các quan chức Rô-ma và những người lãnh đạo Do Thái Giáo cũng đã cho việc các ông khẳng định Đức Giê-su đã chết và đã sống lại là điều tào lao.  Các tông đồ không vì thế mà nhụt chí, vì các ông không thể không nói ra những điều mình được mắt thấy tai nghe (x. Cv 4,21).  Hơn thế nữa, các ông còn lấy mạng sống mình đề đảm bảo những gì các ông nói.

Hai mươi thế kỷ đã qua, có rất nhiều người tin vào Đức Giê-su Phục sinh, nhưng cũng có rất nhiều người phủ nhận Người.  Thống kê mới nhất của Tòa Thánh cho thấy, Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, dân số thế giới là 7.785.769.000 (Bảy tỷ, bảy trăm tám mươi lăm triệu bảy trăm sáu mươi chín ngàn người) trong đó số tín hữu Công giáo là 1.375.852.000 (Một tỷ ba trăm bảy mươi lăm triệu tám trăm năm mươi hai ngàn người).  Như vậy, tỷ lệ người Công giáo trên toàn thế giới ở mức 17,67%.  Đó là chưa tính những tín hữu Ki-tô thuộc các giáo phái khác.

Một người đã chết nay sống lại là điều khó tin, ngay cả với ông Tô-ma, một trong mười hai tông đồ.  Ông đặt ra những điều kiện cho niềm tin của mình, mặc dù trước đó, ông đã tận mắt chứng kiến những phép lạ ngoạn mục Chúa Giê-su đã làm.  Ông đại diện cho trường phái hồ nghi, ở thời nào cũng có, nhất là trong thời đại của chúng ta hôm nay.  Trường phái này chỉ tin vào những gì cảm nhận bằng giác quan.

Tuy vậy, khi đặt ra những điều kiện để tin như ông Tô-ma, là chúng ta đặt Thiên Chúa ngang hàng với người phàm.  Nói cách khác, khi đòi phải có điều kiện, thì không còn là đức tin nữa, vì tin là chấp nhận những thực tại vô hình hay những thực tại mình không cảm nhận bằng giác quan.  Hơn nữa, nếu đặt để niềm tin của mình nơi quyền năng của Thiên Chúa, thì cần xác tín: “không có gì mà Chúa không làm được.”

Mặc dù ông Tô-ma chẳng có lý do gì để thách thức Thiên Chúa, nhưng Chúa Giê-su Phục sinh vẫn chấp nhận lời thách thức đó.  Vào ngày thứ tám sau sự kiện phục sinh, Chúa Giê-su đã hiện ra với các tông đồ, có cả Tô-ma.  Cuộc gặp gỡ này đã chứng minh những lời các tông đồ nói trước đó là xác thực.  Đức Giê-su nhắc lại những thách thức của ông Tô-ma trước đó.  Trước những lời này của Chúa, ông Tô-ma chẳng còn nói được điều gì.  Ông chỉ có thể thưa với Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”  Đây là lời tuyên xưng đức tin.  Đây cũng lời sám hối, đồng thời diễn tả niềm xác tín vào Đấng Phục sinh.  Chúng ta lưu ý: ông Tô-ma không còn gọi Chúa Giê-su là Thày như trước đó, mà ông tuyên xưng Người là Chúa và là Thiên Chúa.  Những danh xưng này cho thấy ông đã thực sự tin vào Đức Giê-su.  Đây cũng là lời tuyên xưng đức tin của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi.

Trong cả ba năm A,B,C, của Chúa nhật thứ hai Phục sinh, Phụng vụ đều cho chúng ta nghe cùng một bản văn, đó là trình thuật về sự cứng lòng của ông Tô-ma trong Tin Mừng theo thánh Gio-an.  Mặc dù Chúa Giê-su Phục sinh là nhân vật quan trọng nhất, nhưng xem ra ông Tô-ma lại dành một vị trí đặc biệt trong trình thuật này.  Phải chăng Phụng vụ muốn lưu ý chúng ta: vẫn còn đó những Tô-ma, trải qua mọi thời đại.  Rất nhiều người giống như Tô-ma, chủ trương học thuyết thực nghiệm.  Họ chỉ tin vào những gì mắt thấy tai nghe.  Các tông đồ, là những chứng nhân mắt thấy tai nghe và kể lại cho chúng ta sự kiện Chúa sống lại với niềm xác tín.  Trước Công nghị Do Thái, các ông tuyên bố: Đức Giê-su, vị ngôn sứ thành Na-gia-rét, là người có quyền năng trong lời nói và hành động, đã chết và đã sống lại.  Các ông sẵn sàng lấy mạng sống để làm chứng cho điều các ông nói.  Một điều kỳ diệu, là các tông đồ vốn là những người dân chài chất phác ít học, nhưng lại uyên bác và trích dẫn Thánh Kinh để minh chứng rằng các lời ngôn sứ xưa kia đã thành hiện thực.

Chúa Giê-su Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta.  Tác giả sách Tông đồ Công vụ diễn tả sức sống kỳ diệu của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi: cộng đoàn đông đảo “chỉ có một lòng một ý.  Không ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.”  Điều gì đã làm nên sự kỳ diệu ấy?  Thưa, Đấng Phục Sinh.

Thời nào cũng thế, vẫn còn đó những người tin và những người không tin vào Đức Giê-su.  Tuy vậy, khi tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết và sống lại, các Ki-tô hữu được trở nên con Thiên Chúa.  Thánh Gio-an tông đồ viết: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.”  Đó là cuộc sinh hạ trong đức tin và ân sủng.  Họ cũng sẽ chiến thắng thế gian như Đức Giê-su đã chiến thắng.  Các Ki-tô hữu cần thường xuyên ý thức về sức sống mới trong tâm hồn và cuộc sống của mình, để củng cố đức tin và thực sự nên giống Đức Giê-su Phục sinh.  Chúng ta thấy đó là lý do tại sao Phụng vụ nhấn mạnh và cầu nguyện cho những người tân tòng, trong mùa Phục sinh.

Chúa nhật II Phục sinh cũng là Chúa nhật kính Lòng Chúa thương xót.  Xin cho chúng ta cảm nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, thể hiện qua cuộc đời và sứ mạng của Đức Giê-su nơi trần thế, nhất là qua cuộc khổ nạn và phục sinh vinh quang của Người.  Xã hội hôm nay rất thiếu vắng lòng thương xót.  Đó là nguyên nhân dẫn tới bạo lực, hận thù và xung đột chia rẽ.  Khi cảm nhận lờng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta sẽ sống khiêm tốn hơn và dễ dàng thực thi lòng thương xót đối với tha nhân.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

MUỐN NHIỀU HƠN

“Đừng giữ Thầy lại!”

“Bạn có thể có được Thiên Chúa bao nhiêu tuỳ thích!  Chúa Kitô trao chìa khoá kho tàng vào tay bạn.  Nếu một người được phép vào kho vàng thỏi của ngân hàng, lấy bao nhiêu tuỳ thích; nhưng anh ấy chỉ lấy mấy cắc, thì lỗi tại ai mà anh ta nghèo?  Hãy muốn thật nhiều!  Và đừng quên, Chúa Kitô luôn ‘muốn nhiều hơn’ cho bạn!” – Alexander MacLaren.

Kính thưa Anh Chị em,

“Chúa Kitô luôn ‘muốn nhiều hơn’ cho bạn!”  Đó cũng là những gì Ngài muốn cho Maria trong Tin Mừng hôm nay.  Sau khi sống lại, Ngài hiện ra cho cô với dáng vẻ một người làm vườn.  Cô muốn ôm chân Ngài; Ngài nói, “Đừng giữ Thầy lại!”  Tại sao?  Ngài muốn cô thay đổi cách nhìn, lối xử với Ngài một cách hoàn toàn khác!  Ngài ‘muốn nhiều hơn’ cho cô!

Maria hết lòng vì Thầy, bằng chứng là cô có mặt dưới chân thập giá; hoặc do lòng thương xót, Ngài đã trục xuất bảy quỷ cho cô!  Mặc dù sự gắn bó và lòng sùng kính dành cho Chúa Giêsu đẹp đẽ và rất thanh khiết – tuy chưa hoàn thiện – Maria chỉ muốn Thầy Chí Thánh được trả lại cho cô theo cách cô muốn.  Vì lý do đó, Ngài bảo, “Đừng giữ Thầy lại!”

Khi nói thế, Chúa Giêsu muốn nói với Maria rằng, “Mối quan hệ của con với Ta sẽ sớm thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, thiêng liêng hơn, thiên đàng hơn.  Nó không còn ở cấp độ con người!  Ta sẽ không chỉ là bạn của con; Ta ‘muốn nhiều hơn’ cho con.  Ta muốn con yêu Ta “hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực;” Ta sẽ sớm ở trong con và con ở trong Ta; Ta sẽ ở trong tim con, nên một với con, và trở thành Lang Quân của con cho đến đời đời!”  Đây là ‘một cuộc hôn nhân thiêng liêng giữa trời với đất,’ ‘một hiệp thông mầu nhiệm giữa người với Chúa,’ ‘một tương quan mới giữa Đấng Cứu Chuộc với tội nhân.’  Họ sẽ cùng Ngài ‘xe duyên;’ và điều này chỉ có thể xảy ra một khi Chúa Giêsu đã lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha sau khi hoàn tất sứ mệnh trên dương thế!

Sẽ rất bất ngờ khi bạn và tôi đọc lại những lời này – “Đừng giữ Thầy lại!” – với ý thức rằng, Chúa Giêsu ‘muốn được giữ lại’ hơn bao giờ hết!  Ngài muốn ‘được ôm chặt’ với sự hiểu biết rằng, Ngài đã thực sự lên cùng Cha!  Ngài muốn chúng ta ‘ôm chặt’ Ngài trong Thánh Thể, trong Lời, trong tha nhân.  Ngài muốn chúng ta bám lấy Ngài với từng thớ thịt, từng hơi thở của mình; Ngài muốn ở cùng, trở nên mỗi người để biến đổi từng người theo cách thức riêng của Ngài.  Maria đang tận hưởng hạnh phúc này; và quà tặng đó cũng đang được trao cho bạn và tôi ngay hôm nay chứ không đợi đến mai ngày trên thiên đàng.

Anh Chị em,

“Đừng giữ Thầy lại!”  Chúa Phục Sinh ‘muốn nhiều hơn’ cho bạn và tôi!  Ngài muốn chúng ta gói lấy “những vàng thỏi,” chứ không chỉ nhặt “mấy cắc.”  Ngài muốn chúng ta yêu Ngài tha thiết hơn từng ngày, từng giờ; từ đó, sống cho Ngài từng phút, từng giây.  Ngài không chỉ ‘muốn nhiều hơn’ trái tim yêu thương của chúng ta; nhưng thật bất ngờ, cả những tội lỗi cùng những gì ‘hơi hướng thế tục’ nơi mỗi người.  Đó là tất cả những gì Ngài đang chờ, và đang muốn nhất.  Hãy dâng Ngài thời giờ, sức khoẻ, niềm vui và cả thập giá.  Phải, cả thập giá!  Thú vị thay, thập giá đó là sự ươn hèn, các tính hư nết xấu và cả tội lỗi!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con khôn ngoan ôm lấy ‘vàng thỏi,’ đừng nhặt ‘tiền cắc!’  Để con yêu Chúa hơn từng ngày, sống thánh hơn từng giờ cho Đấng hằng yêu con từng giây!” Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế