KINH NGHIỆM THIÊNG LIÊNG

Ngoài lý thuyết hoặc thực hành, kinh nghiệm đóng một vài trò quan trọng trong bất cứ lĩnh vực nào.  Đời sống thiêng liêng cũng thế.  Khi càng để ý thực tập hoặc theo đuổi kinh nghiệm thiêng liêng, người ta càng dễ nhận ra ý Chúa và dễ dàng chiến thắng những cơn cám dỗ.  Chính Chúa Giêsu cũng đi theo con đường này.  Hằng ngày Ngài cầu nguyện với Chúa Cha.  Càng quan sát và lắng nghe, Đức Giêsu càng biết rao truyền chân lý của Chúa Cha.  Hoặc nói đúng hơn, Đức Giêsu có rất nhiều kinh nghiệm thiêng liêng.  Điều này được thánh sử Luca đúc kết trong một câu: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.” [1] (Lc 2,52).

1. Khôn ngoan trong đời sống thiêng liêng

Kinh nghiệm là “những kiến thức và kỹ năng mà bạn đạt được thông qua làm việc gì đó trong một khoảng thời gian, một quá trình đạt được kinh nghiệm này.” (Oxfordlearnersdictionaries).  Hoặc định nghĩa theo thần học gia người Đức Karl Rahner: “Kinh nghiệm là một dạng kiến thức nảy sinh từ sự tiếp nhận trực tiếp ấn tượng về một thực tế (bên trong hoặc bên ngoài).” (Rahner & Vorgrimler 1965:162).  Đôi khi người ta cũng hiểu kinh nghiệm thiêng liêng (spiritual) này như là một Linh đạo.  Lý do là từ “Linh đạo” trong tiếng Anh (spirituality) có nguồn gốc Latin Spiritualitas, và giống như các từ cùng gốc với nó là Spiritus và Spiritualis.  Từ này bắt nguồn từ gốc tiếng Hy Lạp pneuma pneumatikos.  Về sau Giáo hội dùng thuật ngữ này (nhất là thánh Phaolô) để mô tả những gì liên quan đến Chúa Thánh Thần.  Chẳng hạn: “Linh đạo là con đường thiêng liêng đưa con người đến với Thiên Chúa, qua Đức Kitô, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.” (Từ Điển Công Giáo).

Theo vài cách hiểu trên, chúng ta thấy Đức Giêsu đã rất giàu kinh nghiệm trong khi cố gắng tìm kiếm và làm theo thánh ý Chúa Cha.  Danh từ “khôn ngoan – σοφία” mà thánh Luca dùng trên đây rất khác so với lối hiểu tục hóa ngày nay.  Ngài không khôn ngoan theo kiểu thế gian, nhưng thông thái trong lãnh vực thiêng liêng. “σοφία – Wisdom” không chỉ trưởng thành về mặt trí tuệ, là khả năng suy ngẫm và hành động hiệu quả bằng cách sử dụng kiến thức, kinh nghiệm, sự hiểu biết, nhưng còn là thấu hiểu lẽ sống và nhìn đời một cách sâu sắc.  Nói cách khác, ơn khôn ngoan Chúa Giêsu đạt được là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.  Sau này, Giáo hội hiểu là: “Ơn giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định được điều thiện đích thực và lựa chọn những phương tiện thích hợp để đặt tới điều thiện đó.” (GLHTCG 1835).

Nếu đặt từ ngữ khôn ngoan trong ngữ cảnh Thánh Kinh, chúng ta thấy Đức Giêsu thực sự đạt đến chiều cao sâu của đời sống thiêng liêng.  Ngài có dồi dào kinh nghiệm thiêng liêng.  Thực vậy, Từ khôn ngoan (חכם) được nhắc đến 222 lần trong Kinh thánh Cựu Ước.  Nó được coi là một trong những đức tính cao nhất của dân Israel.  Nó cũng đồng nghĩa với lòng tốt (חסד) và công lý (צדק).  Theo nghĩa này, chúng ta hiểu tại sao vua Salomon trước khi lên làm vua, ông đã xin với Đức Chúa cho ông sự khôn ngoan.  “Vậy xin Ngài ban cho con được khôn ngoan và hiểu biết để con lãnh đạo dân này.” (2 Sb 1,10).  Khi xin điều này đồng nghĩa với việc ông xin cho mình có kinh nghiệm thiêng liêng để lãnh đạo dân.  Và ông đã thành công trong phần lớn thời gian vương triều của mình.

Thiên Chúa của chúng ta thì khôn ngoan.  “Nơi Đức Khôn Ngoan, có một thần khí tinh tường và thánh thiện, duy nhất và đa năng, tinh tế và mau lẹ, minh mẫn và tinh tuyền, trong sáng và thản nhiên, lanh lợi và chuộng điều lành, bất khuất, từ bi và nhân ái, cương quyết, vững vàng và điềm tĩnh, làm được mọi sự và quan tâm đến mọi điều, thấu suốt mọi tâm can, kể cả tâm can của những người trong sạch, thông minh, tinh tế nhất.” (Kn 7,22-23).  Điều này được thánh Au-gút-ti-nô (354-430) cảm nhận như sau: “Chính Thiên Chúa là sự khôn ngoan cao cả nhất; phụng thờ Thiên Chúa là sự khôn ngoan của con người.” (On the Trinity, Book XIV, 1, 1).  Đây là khôn ngoan trong đời sống thiêng liêng.

2. Khôn ngoan cũng cần được trải nghiệm

Trong đời sống thiêng liêng, rất nhiều lần chúng ta ở giữa tranh sáng và tranh tối.  Bóng tối và ánh sáng đôi khi khó phân biệt.  Thậm chí chúng ta biết ánh sáng, nhưng không muốn theo.  “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại cứ làm.” (Rm 7,19).  Ở đây, tôi xin chia sẻ với quý độc giả ba chiến thuật thiêng liêng để chiến thắng kẻ thù.  Kinh nghiệm này được thánh I-nhã, Đấng Sáng Lập Dòng Tên, ghi lại trong sách Linh thao:

a. Chiến lược chống đối

Kẻ dám chiến đấu mới mong phần chiến thắng.  Trong đời sống thiên liêng cũng vậy.  Thánh I-nhã viết: “Kẻ thù xử sự như đàn bà, vì khi ta chống trả thì nó yếu, và khi ta để mặc thì nó mạnh.  Quả vậy, đặc tính của đàn bà khi gây gỗ với người đàn ông, là mất can đảm và chạy trốn khi người đàn ông thẳng tay chống trả.  Trái lại, nếu người đàn ông bắt đầu chạy trốn và mất can đảm, thì cơn giận, sự trả thù và sự hung dữ của người đàn bà thật không sao lường được.” (Linh thao số 325).  Dĩ nhiên thánh I-nhã chỉ mượn hình ảnh đời thường này để mô tả đời sống thiêng liêng.  Khi ta chống trả lại những cơn cám dỗ chính là lúc ta có cơ hội chiến thắng.  Đôi khi thất bại, nhưng có nhiều lúc thành công.  Nếu để ý, chúng ta sẽ biết được chiến thuật của kẻ thù.  Đây là được gọi là kinh nghiệm thiêng liêng (spiritual experiences).

b. Chia sẻ để cùng nhau chiến thắng

Kinh nghiệm có thể học được từ người khác.  Linh đạo Kitô giáo đã để lại biết bao kinh nghiệm quý giá để giúp chúng ta chiến đấu trong đời sống thiêng liêng.  Một chiến thuật khác mà chúng ta dễ chịu thua trước kẻ thù, đó là chúng ta bị kẻ si tình dụ dỗ.  Trong trường hợp này, thánh I-nhã khuyên chúng ta hãy nói cho người khác biết.  Thật vậy, “khi kẻ thù của bản tính loài người đưa những sự xảo trá và xúi giục của nó vào linh hồn ngay lành, thì mong muốn những điều đó được tiếp nhận và giữ kín.  Nhưng khi linh hồn tỏ ra với cha giải tội tốt hay một người đạo đức nào khác am tường những dối trá và sự hiểm độc của nó, thì nó rất bất mãn, vì nó kết luận rằng không thể đạt tới điều xấu xa mà nó đã bắt đầu, vì sự dối trá rõ rệt của nó đã bị phanh phui.” (LT 326).

Kinh nghiệm trên có thể áp dụng trong nhiều trường hợp, nếu chúng ta muốn thắng kẻ thù.  Tuy vậy, Ma quỷ khôn hơn chúng ta nhiều[2].  Thua chiến thuật này, chúng bày ra chiến lược khác.

c. Để ý đến yếu điểm của mình

Lời đề nghị trên khiến chúng ta mệt mỏi.  Tiếc rằng ai cũng có điểm yếu và thậm chí rất yếu trong cuộc chiến thiêng liêng.  Do đó ma quỷ rất hay sử dụng chiêu thức sau đây để đánh bại chúng ta:

“Kẻ thù lại còn xử sự như một tướng quân để thắng và cướp những gì nó muốn.  Ví như một vị chỉ huy cầm đầu đội quân, sau khi đặt doanh trại và xem xét lực lượng hoặc cách bố trí của một thành trì, sẽ tấn công vào điểm yếu nhất; thì cũng vậy, kẻ thù của bản tính loài người lượn quanh để dò xét những nhân đức đối thần, các nhân đức trụ và các nhân đức luân lý khác của ta, và điểm nào nó thấy ta yếu nhất và dễ nguy nhất cho phần rỗi đời đời của ta, nó sẽ tấn công vào đó và cố hạ ta.” (LT 327).

Ba chiến thuật của kẻ thù trên đây hẳn là bạn và tôi ít nhiều đều trải qua (có kinh nghiệm).  Linh đạo Kitô giáo đã gọi tên từng kinh nghiệm thiêng liêng này.  Biết là một chuyện, nhưng tập và chiến đấu là chuyện khác.  Ngày nay kinh nghiệm thiêng liêng ấy dường như đang bị lãng quên.  Nhất là với nhiều người trẻ, trước thời đại tục hóa, thử hỏi mấy người muốn chiến đấu thiêng liêng?  Nếu đọc được những dòng này, hẳn là bạn cũng muốn tập chiến đấu thiêng liêng.  Xin chúc mừng!  Đừng quên kinh nghiệm chiến đấu thiêng liêng càng mài dũa, bạn càng dẽ dàng chiến thắng cơn cám dỗ.  Chính lúc chiến đấu cũng là lúc chúng ta làm theo thánh ý Chúa.  “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,22-30).  Chúng ta chiến đấu với sự trợ giúp của Thiên Chúa, với kinh nghiệm khôn ngoan của Giáo hội!

d. Kinh nghiệm thiêng liêng giúp chúng ta lớn lên

Khi viết đề mục này, tôi nhớ đến bài nghiên cứu của giáo sư Stephan Pretorius: Tìm hiểu về kinh nghiệm thiêng liêng trong linh đạo Kitô giáo[3].  Trong đó ông đúc kết (xin tóm dịch):

Trong truyền thống Kitô giáo, trải nghiệm linh thiêng là một hiện tượng vẫn còn gây tranh cãi ở một khía cạnh nào đó.  Có nhiều người tin rằng kinh nghiệm thiêng liêng là một khía cạnh rất cần thiết của các tín hữu Kitô giáo.  Người khác cho rằng kinh nghiệm này không còn nữa sau thời Chúa Giêsu sống trên dương thế.  Chỉ khi gặp Chúa Giêsu bằng xương thịt mới gọi là kinh nghiệm thiêng liêng.  Do đó, nếu ai đó có loại kinh nghiệm này chỉ là chuyện bịa đặt, hoặc người ấy có vấn đề về tâm lý.

Nhận xét trên đây Stephan Pretorius có phần nào đúng (nhất là về kinh nghiệm thần bí).  Tuy nhiên, Giáo hội này nay vẫn đang mời gọi chúng ta phân định, trải nghiệm thiêng liêng với Thiên Chúa.  Phân định thiêng liêng là gì, nếu không phải là: “Việc phán đoán dựa trên đức khôn ngoan và sự hướng dẫn của Thần Khí để nhận ra ý Chúa và làm theo sự thúc đẩy của Ngài.”[4]  Tôi vẫn tin rằng kinh nghiệm thiêng liêng có thể diễn ra trong chính đời sống của mỗi người.  Dĩ nhiên không phải ai cũng nhận được kinh nghiệm thiêng liêng trực tiếp mạnh mẽ như trường hợp thánh Phaolô trên đường Đa-mát (Cv chương 9).  Tuy nhiên, trải nghiệm tâm linh này cũng có thể xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.  Càng để ý, càng tập, mỗi tín hữu càng có thể sống lớn mạnh trong ân sủng và sự thánh thiện của Thiên Chúa[5].

Sau cùng, mỗi người sẽ có kinh nghiệm thiêng liêng khác nhau, có khi là hoàn toàn khác.  Linh đạo Kitô giáo cho chúng ta chuẩn mực để đánh giá kinh nghiệm thiêng liêng của mình: tiếp xúc và gặp gỡ Thiên Chúa đang sống động trong Kinh Thánh.  Thiên Chúa trong Kinh Thánh chỉ có một.  Nếu chúng ta trải nghiệm thiêng liêng cùng với Thiên Chúa, nghĩa là kinh nghiệm của chúng ta giống nhau.  Điều này rất cần trong tiến trình hiệp hành tham gia mà chúng ta đang theo đuổi.

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

[1] Καὶ Ἰησοῦς προέκοπτεν τῇ σοφίᾳ καὶ ἡλικίᾳ καὶ χάριτι παρὰ θεῷ καὶ ἀνθρώποις.
[2] https://dongten.net/co-nen-doi-thoai-voi-ma-quy/
[3] Xem bản tiếng Anh: https://www.scielo.org.za/pdf/at/v28s11/08.pdf
[4] Từ Điển Công Giáo, mục từ Phân Định Thiêng Liêng
[5] Tyson, J.R. 1999. Invitation to Christian spirituality. New York: Oxford University Press

BÀI HỌC TỪ TỊNH CỐC

Các tu sĩ có những bí mật chúng ta nên biết. Đây là một vài lời khuyên của các tổ phụ trong sa mạc: Về tịnh cốc và nó sẽ dạy cho con mọi điều con cần biết. Và đây là lời khuyên của Thomas a Kempis trong quyển sách trứ danh Bắt chước gương Chúa Kitô: Sau mỗi lần bạn rời tịnh cốc, khi trở về, tính nhân bản của bạn kém hơn.

Thọat nghe, những lời khuyên này nhắm đến các tu sĩ, tịnh cốc là phòng riêng của mỗi tu sĩ, với một giường nhỏ, một chiếc ghế độc nhất, một bàn viết, một bồn rửa mặt và một đệm quỳ đọc kinh. Các lời khuyên gợi ý là có rất nhiều bài học khi ngồi lại trong khoảng không gian này và có những mối nguy thực sự khi ra khỏi phòng. Lời khuyên này có thể mang ý nghĩa gì đối với người không phải là tu sĩ hay một nữ tu dòng kín?

Những lời khuyên này viết cho tu sĩ nhưng những nguyên tắc sâu xa của chúng có thể được suy rộng ra để tỏa minh triết trên đời sống của từng người.

Đâu là minh triết sâu xa trong những lời khuyên này?

Những lời khuyên này tự nó không nói rằng – như đôi khi ta được dạy – ơn gọi tu trì thì cao hơn ơn gọi thế tục. Cũng như nó không nói rằng tu sĩ hay tu sĩ dòng kín có quan hệ xã hội bên ngoài tịnh cốc là không lành mạnh.

Tịnh cốc ở đây là một ẩn dụ, một hình ảnh, là nơi chốn nội tâm của cuộc sống hơn là phòng riêng của một người. Tịnh cốc nhằm nói đến bổn phận, ơn gọi và lời khấn.

Cốt yếu, nó có nghĩa là:

Về tịnh cốc và nó sẽ dạy cho bạn những chuyện bạn cần phải biết: Hãy ở lại với ơn gọi của mình, với lời khấn của mình, với bổn phận chính đáng, với nhà thờ, với gia đình và chúng sẽ dạy cho bạn biết cuộc sống ở đâu và thế nào là ý nghĩa của tình yêu. Hãy trung thành với các cam kết của mình, và những gì bạn đi tìm rốt cùng sẽ tìm thấy ở đây.

Sau mỗi lần bạn rời tịnh cốc, khi trở về tính nhân bản của bạn kém hơn: Câu này cho chúng ta biết mỗi khi chúng ta không giữ cam kết, không trung tín, không làm những việc mình phải làm thì sau đó, tính nhân bản chúng ta kém đi do sự phản bội này.

Những nguyên tắc này có một ý nghĩa tinh thần rất phong phú: Hãy trung thành với lời khấn, giữ lòng trung tín, nơi làm việc của bạn là trường dòng, công việc của bạn là lời nguyện, gia đình của bạn là tu viện, nhà của bạn là đền thánh, ở lại bên trong nó, đừng phản bội nó, học những gì nó dạy mình, đừng lúc nào cũng nghĩ rằng đời sống là ở chỗ khác, Chúa là ở chỗ khác.

Carlo Carretto, người Ý, văn sĩ nổi tiếng về linh đạo, chia sẻ một câu chuyện minh họa cho chuyện này: Sau khi đi tu được hơn một phần tư thế kỷ và đã sống một mình hàng ngàn giờ trong sa mạc để cầu nguyện, ông đi về thăm mẹ già. Bà là một người đàn bà dành hết thời gian, sức lực vào bổn phận nuôi nấng một gia đình đông con trong suốt một thời gian dài, song song với những năm tháng một mình trong sa mạc của ông, bà quá bận rộn đến nỗi không hề có một chút thì giờ thinh lặng nào trong cuộc sống. Suốt thời gian của ông là thinh lặng. Suốt thời gian của bà là hoạt động. Dù vậy, qua sự thú nhận của ông, có thể cuộc sống của bà chiêm nghiệm hơn cuộc sống của ông. Ngoài ra, ông còn nghĩ bà có thể còn vô ngã hơn ông, bà có một chiều sâu tâm hồn, mà ở giai đoạn này của cuộc đời, ông chỉ mới mơ ước.

Nhưng kết luận mà ông nghiệm ra từ nhận thức đó không phải là có điều gì sai trái trong những gì ông đã làm suốt những năm dài tu trong sa mạc. Ngược lại, có một cái gì rất đúng về những gì mẹ ông làm khi bà tận tâm, vô ngã trong bổn phận làm mẹ, làm vợ. Ông vào tịnh cốc của ông để tịnh cốc đó dạy ông cần phải làm những gì. Bà vào tịnh cốc của bà để tịnh cốc đó dạy bà cần phải làm những gì. Tịnh cốc của ông là tịnh cốc của tu sĩ theo nghĩa kỹ thuật. Tịnh cốc của bà là tịnh cốc theo nghĩa rộng. Cả hai đều sống cuộc sống tu trì, và cả hai tu viện đều dạy họ những gì họ cần phải làm.

Cũng vậy, mỗi phản bội dù nhỏ của ông đối với ơn gọi tu trì đều làm cho tính nhân bản của ông kém đi, mỗi phản bội dù nhỏ của bà trong bổn phận làm mẹ, làm vợ cũng làm cho tính nhân bản của bà kém đi.

Những gì chúng ta tự cam kết chính là tịnh cốc của chúng ta. Khi trung thành với chúng, nghĩa là, trung thành với những bổn phận của chúng ta trong các mối quan hệ cá nhân và nơi chốn làm việc, chúng ta học bài học cuộc sống bằng thẩm thấu. Ngược lại, khi phản bội các cam kết của chúng ta, vốn đi đôi với các quan hệ và nơi chốn làm việc của chúng ta, thì tính nhân bản chúng ta sẽ kém hơn.

Chúng ta tất cả đều là tu sĩ, dù chúng ta ở trong tu viện hay ở ngoài đời, là vợ chồng, cha mẹ, bạn bè, sứ vụ viên trong giáo hội, thầy giáo, bác sĩ, y tá, thợ thuyền, cán sự xã hội, nhân viên ngân hàng, cố vấn tài chánh, chính trị gia, luật sư, nhân viên làm việc trong lãnh vực y tế tâm thần, doanh gia hay người về hưu. Mỗi chúng ta đều có tịnh cốc của mình và tịnh cốc đó có thể dạy cho chúng ta những gì chúng ta cần biết.

Rev. Ron Rolheiser, OMI