CANH TÂN CÁCH THỰC HÀNH ĐỨC TIN

Cứ mỗi độ xuân về, người dân Việt chúng ta, sau khi đón xuân mới, là khởi đầu chiến dịch đi lễ hội đầu năm.  Từ một hai thập kỷ trở lại đây, nhờ đời sống kinh tế được cải thiện, những lễ hội truyền thống sau một giấc ngủ dài trong thời bao cấp, được khôi phục khắp nơi, đua nhau nở rộ như nấm mọc sau mưa.  Nhìn chung, những lễ hội này diễn tả truyền thống văn hóa phong phú của người Việt, và đều góp phần tích cực giúp con người hướng thiện.  Tuy vậy, khá nhiều lễ hội bị nhuốm màu thương mại và mê tín dị đoan, mang theo những hệ lụy không đẹp do cách hành xử thiếu văn hóa, như cướp giật, đánh nhau đến đổ máu.  Lễ hội đang bị lạm dụng nghiêm trọng và làm mất đi ý nghĩa linh thiêng.

Vào thời Chúa Giêsu, Đền thờ Giêrusalem là nơi thiêng thánh cũng bị lạm dụng.  Người ta buôn bán chiên bò, chim câu và đổi tiền.  Tất cả những dịch vụ này cũng núp dưới danh nghĩa phục vụ khách hành hương, nhất là vào dịp lễ trọng của người Do Thái là lễ Vượt qua.  Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh này.  Người đã nghiêm khắc xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ.  Cả bốn thánh sử đều ghi lại sự kiện này, nhưng Thánh Gioan là người diễn tả hành động của Chúa Giêsu một cách mạnh mẽ quyết liệt nhất: “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ.”  Tuy vậy, nếu ba tác giả của Tin Mừng nhất lãm đều nói đến việc Đức Giêsu “đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ,” thì thánh Gioan lại cho biết, Chúa chỉ yêu cầu mang các loại hàng hóa trần tục xâm nhập Đền Thờ và làm cho nơi thánh trở thành chốn thương mại.  Phải chăng Thánh Gioan muốn nói với chúng ta: Chúa Giêsu không xua đuổi con người tội nhân, nhưng xua đuổi những hành động tội lỗi, và như thế, Người mời gọi chúng ta hãy canh tân cách thực hành Đức Tin.

Từ đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã mời gọi chúng ta canh tân đổi mới cuộc đời.  Canh tân để làm cho trái tim, tâm hồn và cuộc đời của chúng ta được đổi mới.  Chúa nhật thứ Ba của Mùa Chay, Phụng vụ dạy chúng ta hãy xem xét lại cách tôn thờ Chúa của mình.  Nói cách khác, mỗi chúng ta là người tin vào Chúa.  Đức tin ấy phải được thể hiện qua tâm tình thờ phượng Chúa.  Có nhiều người tin Chúa mà không thực hành các bổn phận của đức thờ phượng.  Thờ phượng Chúa là nhận ra quyền năng vô biên và tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đồng thời dâng lời tạ ơn, ca tụng và cầu nguyện với Ngài.  Đối với một số tín hữu, đức tin của họ mang tính vụ lợi, tức là chỉ chạy đến nài van Chúa khi gặp hoạn nạn gian nan, còn những lúc khác thì không cần biết Chúa là ai.  Nhiều người khác coi Chúa như Bà Chúa Kho, đến để xin lộc và vay tiền lúc đầu năm với hy vọng năm mới phát tài.

Hành động của Chúa Giêsu khi xua đuổi chiên bò ra khỏi Đền thờ được gọi là “thanh tẩy Đền thờ.”  Quả thật, Chúa muốn khôi phục tinh thần thờ phượng đích thực, không nhuốm màu thương mại và cạnh tranh vật chất.  Mùa Chay cũng giúp ta thanh tẩy đời sống đức tin và tâm tình thờ phượng Chúa.  Những thực hành đạo đức của cộng đoàn cũng như cá nhân phải dẫn đưa người tín hữu đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đấng đang sống và đang hiện diện giữa chúng ta.  Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong Tông huấn Đức Kitô đang sống như sau: “Chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta cách nay hai ngàn năm.  Điều này không ích gì cho chúng ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta.  Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta đang sống.  Người là Đức Kitô phục sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn” (số 124).  Những lời trên đây của Đức Thánh Cha giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống hiện tại.  Nhiều người tín hữu chỉ coi Người như một vĩ nhân đã lùi vào dĩ vãng.  Không phải như vậy.  Người đang sống và hiện diện giữa chúng ta.  Nếu ý thức được điều ấy, lời nói, cử chỉ và cách sống của chúng ta sẽ thận trọng hơn.  Lời cầu nguyện và việc thờ phượng Chúa sẽ thấm đượm tâm tình mến yêu hơn.  Xác tín điều đó, người tín hữu cảm thấy như được chạm tới Chúa, được Người hướng dẫn và soi sáng đường đi nước bước trong cuộc đời.

Gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đang sống, sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn trong cuộc sống hằng ngày.  Bài sách thánh trích sách Xuất hành ghi lại luật Giao ước Thiên Chúa ban cho dân Israel qua ông Môisen mà chúng ta vẫn gọi là Mười điều răn.  Có thể nói Mười điều răn trong sách Xuất hành là bộ luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại.  Vì dân tộc Do Thái là một dân được tuyển chọn, nên phải có một bộ luật làm tiêu chuẩn và để duy trì trật tự trong việc điều hành cai quản, làm chuẩn mực chung cho mọi nền văn hoá và mọi dân tộc.  Rất tiếc, nhiều Kitô hữu, nhất là những bạn trẻ, không thuộc kinh Mười Điều Răn, vì vậy, họ không định hướng được cuộc đời của mình.  Họ nói tin vào Chúa mà không biết Chúa là ai và phải làm gì để thực hành Đức Tin.

Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem.  Người cũng dùng máu Người đổ ra trên thập giá để thanh tẩy tội lỗi của nhân loại.  Hai ngàn năm nay, Giáo Hội không ngừng rao giảng mầu nhiệm thập giá, “điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ” (Bài đọc II).  Trái lại với sự xét đoán của thế gian, Đức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.  Có những lúc, người tin vào Chúa bị coi như những người điên rồ hoặc những người đi ngược dòng.  Tuy vậy, cũng như sự điên rồ của thập giá đã cứu vớt nhân loại, những ai theo Chúa Giêsu, dù có thể bị coi là ngu dại, chắc chắn sẽ tìm được sự thanh thản trong tâm hồn và niềm vui của Đấng phục sinh.  Mùa Chay cũng là mùa suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu.  Thập giá là một huyền nhiệm của tình thương Thiên Chúa.  Thập giá không phải là câu chuyện của quá khứ, nhưng là câu chuyện của hiện tại.  Thập giá đang đi ngang qua những mâu thuẫn gia đình, những khó khăn về tài chính tiền bạc, những xung khắc trong mối tương quan với người xung quanh, những thất bại trong học vấn, những bế tắc trong nghề nghiệp.  Đó là những thập giá mà chúng ta đang phải vác đi.  Vác thập giá không phải là cam chịu, nhưng là đón nhận và hóa giải những thất bại và khúc mắc thành kinh nghiệm, để rồi nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ vượt lên những khó khăn, biến gian khổ thành niềm vui và biến nước mắt thành nụ cười.  Quả vậy, khi có lòng bao dung, sự kiên nhẫn và nhất là tình yêu quảng đại, chúng ta sẽ có thể hoá giải mọi thương đau trong cuộc đời.

Đức tin của người Công giáo không phụ thuộc vào mùa lễ hội và những cạnh tranh.  Lòng yêu mến Chúa và tâm tình thờ lạy tôn vinh Ngài như hơi thở, như cơm ăn nước uống đối với người tín hữu.  Con người cần có Chúa để hiện hữu, để hoạt động và để nên trọn lành.  Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, dâng lên Chúa tâm tình yêu mến và cầu xin Ngài trợ lực để vượt lên mọi khó khăn thử thách, những điều này làm cho đức tin của chúng ta nên vững mạnh.

Mùa Chay là mùa canh tân đổi mới.  Canh tân cách thực hành Đức Tin là điều kiện thiết yếu để chúng ta đổi mới cuộc đời.  Bởi lẽ, nhờ Đức Tin tinh tuyền, chúng ta mới có thể sống Đạo chân thành trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

HOÁN CẢI

Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.

Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày.  Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.

Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình.  Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình.  Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.

Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy.  Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:

– Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước.  Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.

–  Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa.  Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.

– Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm.  Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.

Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt.  Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa.  Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục.  Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.

Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc.  Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:

– Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi?  Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi?  Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó.  Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó.  Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.

– Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp?  Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.

Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:

– Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm.  Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.

– Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn.  Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.

– Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:

Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó.  Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.

Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.

Trích trong Sợi Chỉ Đỏ

CÁI TÔI GIÀY VÒ VÀ QUÁ ĐỖI PHỨC TẠP CỦA CHÚNG TA

Nói cho cùng, cuộc đời chúng ta đâu phải chỉ có bình yên và thanh thản.  Có thể nói, chúng ta luôn phần nào thê thảm.  Nhưng chuyện đó không nên làm chúng ta sợ hãi.  Thê thảm không phải là một từ miệt thị.  Từ này có gốc Hy Lạp là pathos, nghĩa là đau đớn.  Thê thảm nghĩa là sống trong đau đớn, và chúng ta đều như thế bởi vì chúng ta được tạo nên như thế.

Có lẽ các bạn sẽ nghĩ như thế thì chẳng hợp lý gì cho lắm.  Chúng ta được tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên chẳng phải mỗi người chúng ta, dù cuộc sống có thảm đến đâu thì vẫn mang một phẩm giá đặc biệt và tính thần thiêng nào đó trong người sao?  Chúng ta có phẩm giá đặc biệt đó thật.  Tuy nhiên, bất chấp những chuyện này, và phần lớn lại là do những chuyện này, cuộc sống của chúng ta có khuynh hướng phức tạp cũng như đầy đau đớn.  Tại sao lại như vậy?

Không dễ để mang lấy sự thần thiêng.  Sự vô hạn trong chúng ta không dễ tương hợp với cái hữu hạn.  Chúng ta mang trong mình một ngọn lửa quá thần thiêng, đến nỗi khó mà tìm được sự bình an trong đời này.

Sự đấu tranh đó đã bắt đầu có từ đầu đời.  Để tạo cái tôi cho một đứa bé còn rất nhỏ, chúng ta cần một loạt truyền thụ về tinh thần và đến cuối cùng, nó lại hạn chế ý thức của chúng ta.  Trước hết, chúng ta cần phân biệt bản thân và người khác (kia là mẹ, đây là mình), rồi chúng ta cần phân biệt giữa cái có sự sống và cái không có sự sống (con chó thì sống, con búp bê thì không), tiếp theo, chúng ta cần phân biệt giữa cái vật chất và cái ý thức (đây là cơ thể mình, nhưng tâm trí mới giúp mình suy nghĩ).  Cuối cùng, và quan thiết nhất, khi làm mọi chuyện này, chúng ta cần chia ra cái mà chúng ta có thể xử lý một cách có ý thức và cái vượt quá tầm xử lý có ý thức của mình.  Từ đó, chúng ta tạo nên cái tôi, nhưng chúng ta còn tạo nên một cái bóng, cụ thể là một vùng trong chính mình, tách biệt khỏi ý thức của mình.

Và chúng ta phải lưu ý, cái bóng của chúng ta, trước hết và trên hết, không phải là bóng tối lẩn khuất.  Đúng hơn, nó là mọi sự sáng và sinh lực trong bản thân mà chúng ta không thể xử lý một cách có ý thức.  Tôi cho rằng hầu hết chúng ta đều quen thuộc với những lời của bà Marianne Williamson, đã được Nelson Mandela trích dẫn trong bài diễn văn nhậm chức: Nỗi sợ thâm sâu nhất của chúng ta không phải là sợ chúng ta bất đạt.  Nỗi sợ thâm sâu nhất của chúng ta là sợ chúng ta mạnh quá mức.  Chính ánh sáng, chứ không phải bóng tối, mới là điều làm chúng ta sợ nhất.

Ánh sáng trong chúng ta làm chúng ta sợ, vì nó chính là điều không dễ mang lấy.  Nó cho chúng ta phẩm giá cao quý và sự thâm sâu vô hạn, nhưng nó cũng cho chúng ta sự phức tạp và khắc khoải thảm thê.  Bà Ruth Burrows, một trong những ngòi bút thiêng liêng hàng đầu của thời chúng ta, đã mở đầu tự truyện của bà như sau: Tôi được sinh ra trong thế giới này với sự nhạy bén bị giày vò và cuộc sống của tôi chẳng dễ dàng gì.  Các bạn sẽ không ngờ một nhà thần nghiệm, một nữ tu bền đỗ hơn 70 năm cuộc đời, lại nói câu này.  Các bạn cũng sẽ không ngờ rằng trong cuộc sống bà phải đấu tranh ánh sáng bên trong mình không khác gì đấu tranh với bóng tối bên trong và bao quanh mình.  Điều này cũng đúng với mỗi chúng ta.

Trong sách Giảng viên, có một câu nhiều người biết, nói rằng Thiên Chúa làm cho mọi thứ trở nên đẹp đẽ vào đúng thời đúng điểm của nó.  Tuy nhiên, đoạn đó không kết thúc theo một cách êm đềm.  Đoạn kết nói rằng trong khi Thiên Chúa làm cho mọi thứ trở nên đẹp đẽ vào đúng thời đúng điểm của nó, Ngài cũng đưa sự vô tận vào tâm hồn con người, nên từ đầu đến cuối, từ bẩm tính, chúng ta cứ lạc nhịp với thời gian và các thời.  Cả phẩm giá đặc biệt và sự phức tạp bệnh hoạn của chúng ta đều có nguồn gốc nơi sự bất thường trong bản tính chúng ta.  Chúng ta cưu mang quá nhiều, vượt quá cuộc sống đời này.

Thánh Augutinô diễn tả một cách kinh điển: Lạy Chúa, Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, và tâm hồn chúng con khắc khoải mãi cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.  Câu này tóm gọn cả nhân học và linh đạo.  Phẩm giá và sự khắc khoải luôn mãi của chúng ta có cùng một nguồn gốc.

Vì thế chúng ta cần tự cho mình sự chấp thuận thần thiêng để có một tâm hồn hoang dại, khắc khoải, vô độ, phức tạp và đầy xung lực.  Cả tâm lý học và linh đạo quá thường xuyên phụ lòng chúng ta khi cho chúng ta ấn tượng mình nên sống mà không có những hỗn loạn và khắc khoải.  Phải thừa nhận rằng khi chúng ta bất đạt về tinh thần thì những thứ này có thể bủa vây chúng ta dữ dội hơn nữa, nhưng dù cho chúng ta có sống tốt thế nào đi nữa, thì nó vẫn cứ bủa vây chúng ta.  Sự thật là, nếu chúng ta là người nhạy cảm sâu sắc, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm nhận sự phức tạp của mình rõ ràng hơn một người thiếu nhạy cảm hoặc đã làm tê dại sự nhạy cảm bằng những thứ xao lãng khác.

Một người bạn từng viết thư cho Karl Rahner, phàn nàn rằng mình đã không tìm được sự viên mãn mà ông mong mỏi trong đời.  Ông bày tỏ sự thất vọng với chính mình, với cuộc hôn nhân và công việc của mình.  Rahner mới viết thư khuyên rằng: Trong nỗi giày vò của sự thiếu hụt tất cả mọi thứ có thể đạt được, đến tận cùng, chúng ta học biết rằng, trong đời này, tất cả mọi hòa âm đều phải dang dở.  Trong đời này, không thể có hòa âm trọn vẹn, và lý do không phải bởi linh hồn của chúng ta khiếm khuyết, mà là bởi chúng mang trong mình sự thần thiêng.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

LÊN NÚI

Nếu Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ muốn đưa chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Người.  Vào sa mạc để sống tinh thần khổ chế của chay tịnh; lên núi cao để được biến đổi, canh tân.

Trong truyền thống Thánh Kinh, núi cao thường được coi như nơi thuận tiện để con người được gặp gỡ Thiên Chúa.  Ba tháng sau khi ra khỏi Ai Cập, các vị kỳ lão đại diện cho Dân Do Thái được ông Môisen dẫn lên đỉnh núi Sinai để gặp Chúa.  Tại đây Chúa ban cho họ Luật Giao ước (x. Xh chương 19).  Ngôn sứ Elia trong cuộc chạy trốn vua Akháp đã đi bốn mươi ngày đêm để đến núi Horeb.  Ở đó, ông được gặp Chúa và tìm được sức mạnh để có thể đối diện với những khó khăn trong sứ mạng (x. 1V chương 19).  Trong Tân ước, núi cao cũng là những địa điểm gắn liền với giáo huấn của Chúa Giêsu.  Chính trên núi cao mà Người giảng tám mối phúc thật, được coi như Luật Mới của Tin Mừng.  Cũng trên đỉnh núi, người biến hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ.  Và cuối cùng, trên núi cao, Đấng Phục sinh đã gặp gỡ các môn đệ và sai các ông đi khắp thế gian để tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Người đã thực hiện khi còn tại thế.

Để lên được núi cao, con người phải buông bỏ những ràng buộc.  Người nào mang quá nhiều hành trang sẽ khó có thể tới đỉnh núi.  Lên núi thiêng liêng là bỏ bớt những tham lam ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen để con người thanh thoát.  Chỉ khi nào chấp nhận buông bỏ, chúng ta mới gặp được Chúa.  Có hai cuộc lên núi được đề cập trong Lời Chúa hôm nay, đó là Bài đọc I trích sách Sáng thế và Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô.

Ông Abraham sinh được một mụn con vào lúc đã một trăm tuổi và ông đặt tên là Isaac.  Tên gọi này có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho tôi cười,” như chính bà Sara vợ ông đã giải thích (x. St 21,1-7).  Chẳng cần phải nói, chúng ta cũng biết hai ông bà yêu quý cậu con trai nối dõi tông đường này thế nào, vì đây là niềm hy vọng và là niềm vui duy nhất của ông ở tuổi xế chiều.  Tuy vậy, Chúa muốn thử thách lòng trung thành của Abraham, và Ngài truyền cho ông sát tế con mình làm của lễ toàn thiêu trên một ngọn núi.  Dưới ngòi bút của tác giả, Abraham được diễn tả như một người kiên định và hoàn toàn phó thác vào Chúa.  Đối với ông, thánh ý Chúa là điều tối quan trọng, những điều khác chỉ là vô nghĩa, kể cả đứa con độc nhất của mình.  Nếu Abraham đã trung thành với Chúa, thì Chúa không bỏ rơi ông.  Chúa có cách can thiệp của Ngài.  Chính Chúa sẽ tìm ra một giải pháp, một lối thoát cho hoàn cảnh này.  “Chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ!” – lời nói của Abraham với con mình đã khẳng định sự xác tín của ông.  Và, quả thật là Chúa sẽ liệu, như chúng ta thấy ở phần kết của câu chuyện.  Ngọn núi từ đó được mang tên “Núi Đức Chúa sẽ liệu.”  Qua vị sứ thần, Thiên Chúa đã ghi nhận lòng vâng lời, trung thành và tín thác của ông, khi ông không ngần ngại sát tế đứa con thừa tự của mình.  Chính do lòng trung thành này mà Thiên Chúa hứa cho ông những điều tốt đẹp ở tương lai.  Đó là một dòng dõi đông đảo và được chúc phúc.

Cuộc lên núi thứ hai được diễn tả như một cuộc thần hiện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.  Tác giả Mác-cô cẩn thận ghi rõ chi tiết thời gian “sáu ngày sau” ở đầu trình thuật.  Đó là sáu ngày sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ nhất cuộc thương khó và phục sinh.  Trước lời loan báo này, xem ra các ông không hiểu gì.  Vậy nên ông Phêrô mới can gián Người và bị Người gọi là Satan (x. Mc 8,33).  Chính trong bối cảnh ấy là Chúa dẫn ba môn đệ thân tín lên núi và Người biến hình đổi dạng trước mắt các ông.  Ba môn đệ đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi.

Các ông ngỡ ngàng trước cảnh tượng mà các ông nhìn thấy.  Nơi đây, các ông chứng kiến một cuộc “thần hiện” huy hoàng: Chúa Giêsu không còn dáng vẻ của một người thường như mọi ngày, nhưng Người đã tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa, vinh quang sáng ngời, quyền năng mạnh mẽ.  Bóng mây bao phủ và tiếng nói từ trời là cách diễn tả Thiên Chúa Cha.  Ngài giới thiệu cho mọi người biết sứ mạng Thiên Sai của Con Một Ngài.  Hai nhân vật nổi bật của Cựu ước, ông Môisen tượng trưng cho Lề Luật, ông Elia tượng trưng cho truyền thống ngôn sứ, đều hiện ra cùng lúc để làm chứng về Chúa Giêsu.  Đối với độc giả Do Thái, khi đọc những dòng trình thuật này, chắc chắn họ không thể thắc mắc gì về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu.  Người là Đấng được Lề Luật và các Ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để cứu độ con người.  Ba môn đệ là những người được biến đổi trước hết.  Nếu trước đó sáu ngày, ông Phêrô còn ngờ nghệch và nghi nan, thì hôm nay khi chứng kiến Chúa biến hình, ông lại choáng ngợp trước vẻ huy hoàng của cuộc biến hình.  Ông đã ngỏ lời làm ba lều, một cho Chúa, một cho ông Môisen và một cho ông Elia.  Tác giả Phúc âm không quên chú giải thêm: ông không biết mình nói gì, vì kinh hoàng.  Khi chứng kiến cuộc “thần hiện” này, quan niệm về Đấng Thiên sai nơi ba tông đồ không còn mang những nét trần tục, nhưng hoàn toàn thần thiêng.  Nhờ sự biến đổi này, các ông xác tín vào Thày mình, Đấng họ đã từ bỏ mọi sự mà tin theo.

Trong cuộc sống thường nhật, giữa bao nhiêu bon chen tính toán trần tục, chúng ta thường bị cám dỗ và có nguy cơ trở nên tầm thường, ti tiện trong ứng xử.  Mùa Chay là mùa “lên núi” để tập sống tinh thần của Abraham, tín thác cậy trông vào Chúa.  Mùa Chay cũng là mùa lên núi như các tông đồ để cảm nhận rõ hơn sứ mạng của Đấng Cứu thế, với xác tín Người đang hiện diện giữa chúng ta.  Theo Chúa chính là một cuộc leo núi, kiên trì, liên lỉ.  Trong cuộc leo núi, có nhiều người bỏ dở ngang đường vì không đủ can đảm trút bỏ những vướng víu ngăn cản tiến lên.  Mùa Chay giúp ta nhìn lại chặng đường mình đã đi, nhiều khi không phải là lên cao nhưng trái lại, đang là những tụt dốc, làm chúng ta càng ngày càng trở nên xa Chúa và xa rời anh chị em mình.  Sám hối ăn năn, giao hòa với Chúa và với anh em, từ bỏ lối mòn của quá khứ để dám lên đường khởi đầu một hành trình mới, đó chính là một cuộc “lên núi” thiết thực đối với chúng ta.

“Chúa không hứa ban cho chúng ta một cuộc hành trình êm ả, Người chỉ hứa giúp ta đến đích an toàn” (John Gower – Thi sĩ người Anh, thế kỷ 14).

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

HOA TRÁI THINH LẶNG

“Như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất!”

Trong “Thoughts in Solitude”, “Hoa Trái Thinh Lặng”[1] – người viết dịch, Thomas Merton nhận định, “Cuộc sống của con là lắng nghe, cuộc sống của Chúa là dạy bảo!  Lắng nghe và đáp trả là việc của con; nhờ đó, con được cứu độ.  Vì thế, con phải lặng thinh!”

Kính thưa Anh Chị em,

“Con phải lặng thinh!”  Cùng với cảm nhận của Thomas Merton, Lời Chúa hôm nay nói đến tĩnh lặng và hoa trái của nó từ một ‘chuyển động kép!’  Một từ trời xuống, lời Thiên Chúa; một từ đất lên, lời con người – Kinh Lạy Cha – ‘hoa trái thinh lặng!’

Chỉ vỏn vẹn hai câu, Isaiah mô tả tuyệt vời Lời kỳ vĩ của trời, “Như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời…; lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả” – bài đọc một.  Lời Thiên Chúa là Lời biến đổi, Lời nuôi sống, Lời củng cố hy vọng!  “Kinh Lạy Cha” Chúa Giêsu dạy hôm nay là ‘kết quả của Lời’ “trở về trời.”  “Nó là ‘ma trận’ của mọi lời cầu Kitô giáo; vì lẽ, mọi ước nguyện được thể hiện trong Kinh Lạy Cha.  Một mặt, nó như chiêm ngưỡng Thiên Chúa, sự huyền bí, vẻ đẹp và sự tốt lành của Ngài; mặt khác, nó như một lời khẩn xin chân thành, can đảm, về những gì chúng ta cần.  Thiên Chúa yêu tôi.  Đó là một bảo đảm tuyệt vời!” – Phanxicô.

Cầu nguyện là ‘hoa trái thinh lặng!’  Vậy mà, xem ra không ít người coi thường những hoa trái đó!  Họ thích nói nhiều, muốn được hiểu nhiều, nhưng không học cách lắng nghe.  Chúng ta thường không thể lắng nghe, vì không quen thinh lặng!  Mẹ Têrêxa từng viết, “Cầu nguyện là ‘hoa trái thinh lặng!’”  Đúng thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng, cầu nguyện là để lắng nghe hơn là để nói.  Khi ở cùng một người hiểu biết về một chủ đề mà bạn quan tâm, bạn hạn chế nói nhiều và dành bản thân để lắng nghe.  Chúa Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha, điều đó có nghĩa là, mối quan tâm chính của chúng ta trong cầu nguyện là nên hỏi Ngài về Chúa Cha; và sau đó, chuyên tâm lắng nghe!

Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta cầu; tuy nhiên, chúng ta cần hỏi, bởi khi hỏi, chúng ta ý thức có những nhu cầu mà chỉ một mình Ngài mới có thể ban.  Hãy hỏi Chúa Giêsu về điều gì cần nhất cho sự cứu rỗi của mình!  Đó là lý do tại sao Ngài dạy “Kinh Lạy Cha.”  Cầu nguyện với lời kinh này còn nhắc chúng ta rằng, Thiên Chúa là Cha của mọi người; và mọi người thực sự là anh em của nhau.

Anh Chị em,

“Cuộc sống của con là lắng nghe, cuộc sống của Chúa là dạy bảo!”  Thiên Chúa không ngừng dạy dỗ chúng ta qua Lời, qua những con người, cũng như qua các biến cố.  Ngài mong ước mỗi sứ điệp của Ngài “thấm vào đất lòng” chúng ta và trổ sinh hoa trái.  Hoa trái đầu tiên Ngài chờ mong có lẽ là bạn và tôi biết lặng thinh để lắng nghe Ngài; lắng nghe từ ‘đôi tai của trái tim’ trong giây phút hiện tại; để sau đó, vượt lên chính mình và làm theo tiếng nói ấy!  Đây là một hành trình không bao giờ ngưng nghỉ; làm theo tiếng nói ấy chính là biến đổi!  Cầu nguyện là lắng nghe và cầu nguyện còn là biến đổi!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để kinh nguyện của con rộn ràng nhưng hời hợt, ồn ào nhưng vô hồn; dạy con để Lời ‘thấm vào đất lòng’ khi con thực sự là con trước Chúa là Cha!”  Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

LÀM MỚI LẠI ĐỜI SỐNG TRONG MÙA CHAY NÀY

Mùa Chay sẽ là một mùa của ân sủng nếu chúng ta biết sống dấn thân trong Mùa này.  Chúng ta sẽ sống trọn vẹn Mùa Chay nếu chúng ta có đủ khao khát mạnh mẽ.  Chúng ta cần phải chuẩn bị tâm hồn mình.  Chúng ta có thể chuẩn bị tâm hồn qua việc nhận ra rằng, chúng ta mong muốn lớn lên trong tự do, tinh thần của chúng ta cần ủi an và trải nghiệm niềm vui thực sự biết bao, cùng bao nhiêu điều trong đời sống của chúng ta cần phải thay đổi.

Việc sửa soạn tâm hồn là một tiến trình chuẩn bị những khát vọng của chúng ta.  Điều này có ý nghĩa là thực hành một khả năng dự liệu.  Nếu tôi hình dung Mùa Chay như là một “sự thử thách” hay thời gian tôi sợ hãi theo nghĩa nào đó, thì tôi không để mình quá xa rời nó.  Mùa Chay là một thời điểm để chuẩn bị trước cho một số điều tuyệt vời sẽ xảy đến.

Trọng tâm của chúng ta: Những gì Thiên Chúa muốn trao tặng cho chúng ta

Khả năng phán đoán thực hành và dự liệu của chúng ta sẽ tăng triển dễ dàng hơn nếu chúng ta bắt đầu hình dung về những gì Thiên Chúa muốn trao tặng cho chúng ta.  Một số điều nào đó mà chúng ta thực sự mong đợi sẽ đến.  Nếu chúng ta chú tâm quá nhiều vào những gì chúng ta đang tiếp tục làm hay không làm, chúng ta có nguy cơ bỏ lỡ quà tặng mà Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta.  Mùa Chay là mùa hy vọng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho ta.  Mọi ân sủng đều đến từ Thiên Chúa và vì thế, ân sủng là quà tặng của Thiên Chúa.  Ân sủng ấy được trao ban để giải thoát chúng ta , giúp chúng ta yêu mến tha nhân như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.  Điều chúng ta muốn là lãnh nhận những gì Thiên Chúa trao tặng.

Lời mời gọi của Thiên Chúa

Mùa Chay là mùa của lời mời gọi mà Thiên Chúa ngỏ cùng con người cách cá vị sâu xa.  “Hãy quay về với ta, với trọn cả tấm lòng,” Đức Chúa của chúng ta phán (x. Gioen, 2,12).  Chúng ta đáp lại, “chúng con sẽ trở về,” nhưng chúng ta không thực sự sẵn sàng, tâm hồn của chúng ta không được chuẩn bị.  Chúng ta muốn quanh co, vòng vo và lảnh tránh.  Chúng biện minh rằng, linh hồn của chúng ta vẫn chưa hoàn thiện.  Chúng ta nghĩ rằng mình không sẵn sàng để Thiên Chúa yêu thương.  Vâng, dĩ nhiên tôi muốn có một mối tương quan sâu xa hơn với Thiên Chúa, chúng ta nói chân thành với chính mình như vậy.  Chúng con sẽ… sớm.  Thiên Chúa tiếp tục gọi: “hãy trở về với ta, với trọn tâm hồn con.”

Bắt đầu những khuôn mẫu mới trong suốt Mùa Chay

Một số điều mà tất cả chúng ta có thể làm đó là dấn thân phản tỉnh nhiều hơn trong suốt mùa Chay này.  Chúng ta có thể thực hiện một điểm phản tỉnh cách đơn giản để càng ngày càng tinh tường hơn, ý thức hơn về những gì chúng ta đang trải qua, nhận thức rõ hơn về những hành vi mang tính tự phát của mình.  Sau đó, chúng ta có thể bắt đầu chú tâm tới nhiều hơn khát vọng của chúng ta.  Trong suốt Mùa Chay, chúng ta có thể duyệt xét lại những ước ao đó và thấy những điều nào trong đó cần thanh luyện, những gì chúng ta cần loại bỏ, những khát khao tích cực nào chúng ta cần thực hiện.  Việc gọi tên cho những khát khao sâu thẳm nhất của chúng ta sẽ hướng dẫn những chọn lựa mà chúng ta thực hiện để thiết lập nên những khuân mẫu mới cho Mùa Chay.

Hãy trở về với ta với trọn tâm hồn ngươi

Ngay từ ngày đầu tiên của Mùa Chay, trong bài đọc của thứ Tư Lễ Tro, lời mời gọi của Thiên Chúa đối với chúng ta thật rõ ràng: “Hãy trở về với ta trọn cả tâm hồn” (Gioen 2, 12).  Đó là lời mời gọi tha thiết mà Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta – với ta trong một cung cách cá vị, riêng tư.  Thiên Chúa mời gọi tôi bỏ bớt đi những gì mà tôi còn khư khư giữ lại giữa chính mình và Thiên Chúa.

Thiên Chúa muốn chúng ta nhận ra rằng, tiêu chuẩn, cung cách phán đoán, yêu thương của chúng ta thật khác biệt so với cách thức của Thiên Chúa, và nhỏ mọn hơn rất nhiều.  Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta.  Vì toàn bộ mùa Chay hay trọn cả cuộc sống, Thiên Chúa luôn yêu thương từng người trong chúng ta.

“Lạy Chúa xin tạo cho con tấm lòng sạch trong” như Thánh Vịnh 51,12 thưa lên cùng Chúa.  “Xin ban lại cho con niềm vui được Ngài cứu độ.”  Đây đích thị mới là những gì mà Thiên Chúa là Đấng yêu thương muốn trao ban cho chúng ta, đó là niềm vui cứu độ.

Andy Alexander, SJ, Maureen McCann WaldronChuyển ngữ: Joseph Trần Ngọc Huynh, S.J.Nguồn: https://www.loyolapress.com/our-catholic-faith/liturgical-year/lent/articles/articles/renewing-our-lives-this-lent

SỨC MẠNH ĐỂ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa.  Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Người cảm thấy đói.  Satan xuất hiện, mon men lại gần để cám dỗ.  Chúa đã chiến thắng Satan bằng sức mạnh Thánh Thần và Lời Thiên Chúa.

1. Ba cơn cám dỗ

– Cơn cám dỗ thứ nhất phát xuất từ cái đói.  Ma quỷ gợi ý cho Chúa Giêsu “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi” (Mt 4,3).  Cơn cám dỗ về bánh nói lên ước muốn căn bản nhất là bản năng sinh tồn của con người.  Thân xác với những khát khao thèm muốn luôn đòi hỏi phải được nuôi nấng, chiều chuộng và vỗ về.

– Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên thượng đỉnh đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống coi!  Bởi đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,5).  Ma quỷ dùng Tv 91,11 để gợi ý cho Chúa Giêsu nhảy từ nóc đền thờ xuống, xem Thiên Chúa có biểu lộ quyền năng của Người hay không.  Cám dỗ thách đố Thiên Chúa biểu lộ quyền năng để tìm vinh quang cá nhân.  Đó là bản năng đối kháng lại những giới hạn của cuộc sống nhân sinh.  Con người thường muốn quên đi những điều kiện sinh sống giới hạn của mình.  Họ muốn cất cánh bay lên cõi thần tiên bằng men rượu, ma túy, lạc thú…

– Trong cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đem Chúa Giêsu lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người thấy các nước thiên hạ và các thứ phú quý, rồi nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những cái ấy, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi…” (Mt 4,9).  Một cơn cám dỗ đã hằng theo đuổi dân Israel, chẳng những trong thời gian hành trình sa mạc mà cả khi định cư trên đất Palestina.  Đó là thờ lạy các tà thần mong được giàu sang, quyền thế, có khả năng thống trị các quốc gia khác.  Bản năng thống trị, cái “ý chí quyền lực” nằm sẵn trong mỗi một con người.  Người ta thường muốn cai trị và sai khiến những người yếu hơn mình.  Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó.  Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, lạc thú, vật chất, tiện nghi, sắc dục.

Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đều đã bắt đầu bằng chữ “nếu.”  Chúng khởi sự bằng một lý luận với những lý do có vẻ chính đáng, hợp lý và đáng ao ước để tấn công vào những đòi hỏi của bản năng con người Giêsu.

Tuy là ba cơn cám dỗ, nhưng vẫn chỉ là một.  Bởi trọng tâm của vấn đề chính là gieo rắc sự khủng hoảng của niềm tin.  Chúa Giêsu bị cám dỗ nghi ngờ về căn tính Con Thiên Chúa của chính mình.  Cả ba Phúc âm Mátthêu, Máccô, Luca đều mô tả cơn cám dỗ ngay sau khi Chúa chịu phép Rửa ở sông Giođan, và có tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3.17).  Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu quay lưng lại với sứ mạng đã nhận từ nơi Chúa Cha (GLTC #394).

Cơn cám dỗ Chúa Giêsu cũng giống như cơn cám dỗ của Ađam và Eva trong bài đọc một (St 2,7-9;3,1-7).  Ma qủy gieo sự nghi ngờ và mất niềm tin nơi những kẻ được gọi là con cái Thiên Chúa.  Qua bản năng ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa và sau cùng, con người sa ngã ở “ý chí quyền lực,” bản năng đòi bá chủ và thống trị vì muốn ngang hàng với Thiên Chúa.

Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer.  Không vượt qua được cơn cám dỗ, Lucifer đã trở thành Satan.

Thụ tạo đầu tiên trong con người là Ađam và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ.  Và hai Nguyên Tổ này cũng đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ.

Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.

Chúa Giêsu sau khi đã trải qua những cám dỗ và thắng các cám dỗ cũng thấy được điều này, nên Người đã dạy các môn đệ không được coi thường bằng cách dựa vào sức lực, tài trí, và khả năng của riêng mình.  Người dạy phải cầu nguyện và xin ơn Chúa Thánh Thần: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.  Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ.”

2. Sức mạnh nào giúp vượt thắng cám dỗ?

Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình, nhưng mà Người đi cùng với Chúa Thánh Thần.

– “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1).

– “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa.  Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

– “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về.  Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).

Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.

Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực.  Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.

Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742).  Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1).  Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với các thánh trên trời.

Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta.  Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng… hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ.  Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).

3. Cầu khẩn và kêu xin Chúa Thánh Thần bằng cách nào?

– Khi thằng quỷ dâm ô xúi tôi mở những emails lạ, dụ dỗ tôi tò mò đi vào những websites của Trư Bát Giới…  Tôi phải mau mắn và thành tâm xin Chúa Thánh Thần soi lòng mở trí để tôi nhận ra rằng: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.  Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục (Mt 5,28-29).

– Khi thằng quỷ gian dối xúi tôi nói dóc, nói xạo, nói quanh co, nói sai sự thật, lừa bịp thiên hạ… tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để tôi có thể nhớ lời của Chúa Giêsu phán dạy tôi rằng: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có,’ ‘không’ thì phải nói ‘không.’ Thêm thắt điều gì là do ác quỷ mà ra!” (Mt 5,37).

– Khi thằng quỷ kiêu căng, ngạo mạn xúi tôi phê bình chỉ trích người này, xét đoán người kia, lên án người nọ… thì tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần giúp tôi nhớ rằng: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán.  Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6,37).

– Khi bị thằng quỷ dâm ô xúi tôi ly dị, bỏ chồng, phụ vợ, làm giấy ly dị giả… tôi phải cầu xin với Chúa Thánh Thần ngay để Ngài giúp cho tôi hiểu rằng “[Tôi và người bạn đời của tôi] không còn là hai [nữa], nhưng chỉ là một xương một thịt.  Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,8-9).

– Khi thằng quỷ kiêu căng xúi tôi khoe khoang, tự kiêu tự đại… thì tôi xin Chúa Thánh Thần nhắc nhở cho tôi rằng: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục… kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 11,2; 16,18).

– Khi thằng quỷ giận hờn xúi tôi giận người này, ghét người kia, thù người nọ… thì tôi phải cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng để tôi hiểu rằng: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.  Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.  Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt (Mt 5,22).

– Khi thằng quỷ dâm dục xúi bẩy tôi đi ngoại tình, ăn chơi trác táng, quan hệ bừa bãi… tôi phải van nài Chúa Thánh Thần, xin Ngài nhắc nhở cho tôi nhớ rằng: “Thân xác [của con] là Đền Thờ của [Ta đấy nhé!  Chớ có làm cho nó ra ô uế!]” (1 Cr 6,19).

Sau khi chịu phép Rửa tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ.  Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần.  Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu!  Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!

Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần.  Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa.

Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.

Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng.  Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài.  Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ.  Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi.  Ngài sẽ ban thêm sức mạnh.  Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong.  Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

TỰ DO CHỨ KHÔNG PHẢI TRO BỤI

Lại một mùa Chay thánh về với chúng ta.  Bầu không khí ba ngày Tết vẫn còn đó.  Chúng ta đã xin Chúa ban bình an cho Năm Mới, chúng ta chúc tết ông bà cha mẹ, anh chị em và chúc tết nhau.  Trước hôm qua, chúng ta đã xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, và hôm nay cùng toàn thể Giáo hội bước vào Mùa Chay Thánh.

Thoát khỏi ảo tưởng chạy theo tro bụi

Mùa Chay thánh mở đầu bằng lễ Tro, một biểu tượng mang đầy ý nghĩa.  Với nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng,” hoặc: “Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi“ (SLRM).

Lúc cúi mình nhận Tro lên đầu làm chúng ta liên tưởng đến sự chóng qua, mau hết.  Và cũng để nói với chúng ta một cách tế nhị và thực tế rằng, bao nhiêu điều mà ngươi đang chạy theo, làm cho ngươi vất vả, sẽ chẳng còn lại gì.  Dù ngươi có cơ cực hay giầu sang đến đâu đi nữa, ngươi sẽ chẳng mang theo được gì từ cuộc sống này.  Những thực tại trần thế sẽ biến tan, như tro bay theo chiều gió.  Của cải là tạm bợ, quyền lực là tạm thời, thành công sớm vụt tắt.  Thứ văn hóa hào nhoáng bên ngoài đang thịnh hành ngày nay làm cho người ta sống cho những thứ chóng qua, đó thực là một sự lường gạt lớn.  Vì nó như một ngọn lửa: cháy xong, nó chỉ còn lại tro.”  Từ nhận xét đó, Ðức Thánh Cha nhắc nhở rằng: “Mùa chay giải thoát chúng ta khỏi những ảo tưởng chạy theo tro bụi.”  Nhưng chẳng ai giải thoát chúng ta được ngoài Chúa, vì “Thiên Chúa dẫn chúng ta đi qua sa mạc đến tự do” (Tựa đề của Sứ điệp mùa Chay 2024).

Trong Sứ điệp mùa Chay, Đức Thánh Cha viết: “Mùa Chay là thời gian hoán cải, thời gian tự do” (x. PHAN-XI-CÔ, Sứ điệp Mùa Chay 2024).  Quả thật, chúng ta được dựng nên giống hình Chúa, làm con cái Chúa chứ không phải thân nô lệ, “không giống như Pharaô, Chúa không muốn thần dân mà là con cái” (ibi.,).  Đức Thánh Cha viết tiếp: “Cảnh nô lệ đã làm dân Israel tê liệt trong sa mạc, ngăn cản họ tiến lên” (ibi.,).  Đức Thánh Cha thừa nhận: “Mọi người đều có thể bám vào tiền bạc, địa vị, mục tiêu, truyền thống…  Những thứ “Thay vì giúp chúng ta tiến bước, chúng sẽ làm chúng ta tê liệt” (ibi.,).  Đức Thánh Cha khích lệ chúng ta tận dụng sa mạc là nơi chốn trong đó “sự tự do của chúng ta có thể lớn lên thành một quyết định của cá nhân không quay trở lại tình trạng nô lệ”  (ibi.,).

Mùa Chay giúp chúng ta khám phá ra rằng, chúng ta được tạo thành cho ngọn lửa nồng cháy mãi, chứ không phải cho thứ tro tắt ngúm ngay; chúng ta được tạo thành cho Thiên Chúa, chứ không phải cho thế gian; cho cuộc sống vĩnh cửu trên Trời, chứ không phải cho sự lường gạt dưới đất này; cho tự do của con cái Chúa, chứ không phải để làm nô lệ sự vật.

Tóm lại, lễ Tro có nghi thức làm phép tro và xức tro là dịp để chúng ta suy nghĩ về bụi tro, cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng làm con, được Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi.

Sứ điệp Lời Chúa

Các bài đọc (Ge 2,12-18; 2C 5,20-6,2; Mt 6,1-6.16-18) vang lên, kêu gọi chúng ta hoán cải tâm hồn: trong tương quan nội tâm với Thiên Chúa và tương quan xã hội với loài người.

Lời Chúa qua miệng tiên tri Giô-en thôi thúc chúng ta, “Hãy thổi kèn lên khắp Sion, hãy ra lệnh ăn chay” (Ge 2,15).  Lời ấy mời gọi chúng ta: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc…  Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (2,12-13).

Những lời trên gợi lên cho ta cả một bầu khí trang trọng ở trong lịch sử Dân Israel bấy giờ đang lầm than khổ sở, kiệt sức, hao mòn.  Họ bất lực, không thể tự chỗi dậy.  Chúa sai tiên tri Giô-en đến, bảo họ thống hối ăn năn; trở về với Chúa; xin Ngài tha thứ và cứu độ.  Ðó là đường lối duy nhất để được cứu vãn.  Thế nên, từ già đến trẻ, từ tư tế đến thứ dân, từ cô dâu mới cưới đến người góa phụ khổ sở, toàn dân, cả nước hãy tuyên bố mở mùa chay tịnh, ăn năn thống hối các lỗi lầm để được giải thoát và cứu độ.

Hôm nay, Giáo hội cũng muốn mượn lời tiên tri Giô-en, tâm tình của thánh Phao-lô để khai mạc mùa Chay thánh.  Đồng thời khuyên con cái mình sống mùa Chay thánh cho nên. “Hãy làm hoà cùng Chúa đi… Bây giờ là cơ hội thuận tiện” (x. 2 Cor 5,20-6,2).  Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Dịp thuận tiện đến rồi…  Bây giờ là cơ hội thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát” ( 2 Cor 5,…).  Ta hãy bắt chước con cái Israel ngày trước và toàn dân Chúa ngày xưa, lấy tro rắc trên mình để công bố ý chí đi vào mùa Chay thánh, mà thống hối canh tân, để đi vào con đường tốt đẹp và hạnh phúc hơn.  Tin Mừng thánh Mát-thêu hôm nay cũng đề ra cho chúng ta những việc làm trong mùa Chay là: Ăn chay,  cầu nguyện và làm phúc (x. Mt 6, 1-6; 16-18).

Cách thức cầu nguyện, làm phúc và ăn chay

Vậy chúng ta ăn chay, cầu nguyện thế nào, và bố thí ra sao?

Thánh Gio-an Kim Khẩu viết: “Chay tịnh là linh hồn của cầu nguyện, và làm phúc là sự sống của chay tịnh.  Đừng ai tách rời ba việc ấy, vì chúng không thể tách rời nhau được.  Ai chỉ làm một trong ba, hay không làm đủ cả ba một trật, thì người ấy chẳng làm gì hết.  Vì thế, ai cầu nguyện thì cũng phải giữ chay, ai giữ chay thì cũng phải làm phúc.  Ai cầu xin mà ao ước được Chúa nhậm lời thì phải biết lắng nghe lời người khác xin mình. Ai không từ chối lắng nghe lời người khác xin thì dễ được Chúa lắng nghe.

Ai mong ước được Thiên Chúa thông cảm điều mình đói khát, hãy thông cảm với người đang đói khát.  Ai mong được thương xót, hãy thể hiện lòng thương xót.  Ai kiếm tìm lòng tốt, hãy làm điều tốt.  Ai muốn được người ta cho mình, thì hãy cho người khác.  Người cầu xin cho mình điều chính mình đã từ chối người khác, quả là người bất lương.  Thánh Gio-an Kim Khẩu nói: Này bạn, bạn hãy trở nên mẫu mực về lòng thương xót.  Nếu bạn muốn được thương xót như thế nào, bao nhiêu, mau lẹ chừng nào, thì chính bạn hãy thương xót người khác cách mau lẹ cũng chừng ấy và cũng một cách thế như vậy.

Vì thế, cầu nguyện, làm phúc và ăn chay, cả ba việc họp lại thành một, vừa bênh vực, vừa là lời biện hộ, vừa là lời cầu xin cho chúng ta theo ba hình thức.  Theo Đức Thánh Cha Phan-xi-cô: “Cầu nguyện, bố thí và ăn chay không phải là ba việc làm độc lập, mà là một động tác duy nhất cởi mở và dứt bỏ: loại bỏ những thần tượng đang đè nặng chúng ta, loại bỏ những ràng buộc đang giam cầm chúng ta. Khi đó trái tim teo tóp và cô độc sẽ thức tỉnh.  Vì thế hãy chậm lại và dừng lại (x. PHAN-XI-CÔ, Sứ điệp mùa Chay 2024).

Lạy Chúa Thánh Thần, xin nâng đỡ những quyết tâm của chúng con trong suốt hành trình của mùa Chay thánh.  Amen!

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

HƯỚNG VỀ MỘT MÙA XUÂN MỚI

Trong ngày đầu năm, người ta thường tặng cho nhau những lời thật tốt đẹp như : “Vạn sự như ý,” “An khang thịnh vượng,” “tràn đầy hạnh phúc,” “phúc lộc dồi dào”…  Đôi khi những lời chúc mang tính cách hài hước như : “Vạn sự như ý, tỷ sự như mơ;”  hoặc giới trẻ chúc nhau: “Tiền vô như nước Sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như… cà phê phin!”  Tất cả những lời chúc đó đều hướng đến sự hạnh phúc mà ai cũng mong chờ.

Tuy nhiên, trong thánh lễ Giao Thừa, qua phụng vụ Lời Chúa, chúng ta nhận được những lời chúc phúc tốt đẹp nhất từ chính Chúa.  Những lời chúc phúc được thể hiện qua “Tám MốiPhúc Thật.”

Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó.
Phúc cho những ai hiền lành.
Phúc cho những ai đau buồn.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính.
Phúc cho những ai thương xót người.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính…

Tám mối phúc thật chính là những cánh cửa của tâm hồn, được mở ra để đón nhận làn gió xuân, làn gió đem đến hạnh phúc và bình an cho tâm hồn trong năm mới này.

Tâm hồn chúng ta đã được quét dọn sạch sẽ, nhưng nếu những cánh cửa hạnh phúc ấy không được mở ra để đón nhận ánh sáng của Chúa, tâm hồn ta vẫn mãi chìm ngập trong bóng tối của đau khổ và thất vọng.

Cánh cửa hạnh phúc của “Tám Mối Phúc” còn mở ra cho chúng ta một tương lai tràn đầy niềm vui và hy vọng, giúp cho ta nhìn ra một thế giới rộng rãi hơn, bao la hơn của tình yêu thương.  Cánh cửa ấy mở ra để chúng ta gặp được Thiên Chúa và anh em mình.

Tuy nhiên, để mở ra được những cánh cửa hạnh phúc ấy, chúng ta phải có chìa khóa của sự hy sinh, chìa khóa mang hình cây thập giá của đời phục vụ quên mình.  Chiếc chìa khóa ấy đang nằm trong bàn tay chúng ta.

Ngày xưa, tại thành phố kia có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố có thể trả lời được tất cả mọi thắc mắc của những ai đến vấn kế.

Một hôm, có một người chăn cừu từ trên núi cao đi xuống xin gặp nhà hiền triết.  Anh ta nắm chặt trong tay một con chim sẻ và hỏi nhà hiền triết: “Xin ngài cho tôi biết: con chim sẻ tôi đang cầm trong tay sống hay chết?”

Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy của người chăn cừu.  Nếu ông bảo con chim còn sống, tức khắc người chăn cừu sẽ bóp con chim chết trước khi mở bàn tay ra.  Còn nếu ông bảo con chim đã chết, lập tức anh ta sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.

Sau khi suy nghĩ, nhà hiền triết trả lời: “Con chim sẻ ngươi đang cầm trong tay sống hay chết là tùy ở ngươi.  Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết.”

Hạnh phúc cũng giống con chim sẻ kia: đang nằm trong bàn tay ta, đang ở rất gần ta, đang ở bên cạnh ta.  Hạnh phúc đích thực của đời ta là chính Thiên Chúa.  Tuy nhiên, chúng ta có hạnh phúc hay không là tùy ở chính chúng ta: chúng ta có để cho Chúa sống trong chúng ta và chúng ta sống trong Ngài không.

Trong năm mới, chúng ta hãy dâng vào tay Chúa tất cả dự định tương lai và mọi chương trình sắp thực hiện.  Chúng ta tin rằng: trong bàn tay Chúa, chúng ta luôn sống trong an bình và hạnh phúc.

Anh chị em thân mến

Năm cũ đang dần dần khép lại và năm mới đang dần dần mở ra cho chúng ta.  Năm cũ đang lui dần vào quá khứ và năm mới đang từ từ dẫn chúng ta vào tương lai.  Quá khứ – Tương lai – không nằm ở trong tay chúng ta.  Một giây qua đi chúng ta không thể nào tìm lại được.  Một phút chưa tới chúng ta cũng chẳng có cách nào để có được nó trong tay.  Thời gian không nằm trong tay của con người nhưng nằm trong tay của Thiên Chúa.  Chính Thiên Chúa mới là chủ của thời gian nhưng Thiên Chúa lại ban thời gian đó cho con người để con người sử dụng.  Con người sử dụng thời gian để làm gì thì Sách Giảng Viên đã có những gợi ý rất hay:

Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:
có thời để chào đời, có thời để lìa thế;
có thời để trồng cây, có thời để nhổ cây;
có thời để giết chết, có thời để chữa lành;
có thời để phá đổ, có thời để xây dựng;
có thời để khóc lóc, có thời để vui cười;
có thời để than van, có thời để múa nhảy;
có thời để quăng đá, có thời để lượm đá;
có thời để ôm hôn, có thời để tránh hôn;
có thời để kiếm tìm, có thời để đánh mất;
có thời để giữ lại, có thời để vất đi;
có thời để xé rách, có thời để vá khâu;
có thời để làm thinh, có thời để lên tiếng;
có thời để yêu thương, có thời để thù ghét;
có thời để gây chiến, có thời để làm hòa
Vì mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi.
Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt.
Điều gì đang có, xưa kia đã có,
điều gì sẽ có, xưa đã có rồi.
Người công chính cũng như kẻ gian ác đều sẽ bị Thiên Chúa xét xử.
Vì mọi sự, mọi việc, đều có thời, có lúc.  (GV 3,1-8;14-15)

Vâng quả đúng như vậy: mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời và thời giờ đi thật mau.

Dù ta muốn hay không muốn,
bằng lòng hay không bằng lòng,
vui hay buồn,
sướng hay khổ,
thời giờ vẫn cứ đi, luôn luôn đi về phía trước.

Trong một bài thơ cổ, người ta đọc thấy những dòng chữ này:

Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười tôi khóc
thì lúc đó thời gian bò tới
Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn
thì thời gian đi bộ
Khi tôi trưởng thành, tôi là người chững chạc
thì thời gian chạy
Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, tuổi già
thì thời gian bay
Chẳng bao lâu nữa là tôi chết
Thì thời gian đi mất
Ôi lạy Chúa, khi cái chết đến
thì ngoài Chúa ra, không còn gì là quan trọng nữa.

Trong đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo hội nhắc cho mọi người biết: Thời gian là của Chúa.  Đó là một sự thật vô cùng quan trọng, rất quan trọng đối với mọi sinh vật được sinh ra trên hành tinh này.  Thế nhưng đã có rất nhiều người vô tình hay cố tình quên đi điều hết sức quan trọng đó.  Thời gian là của Chúa.

Nữ hoàng Êlizabeth bên Anh sẵn sàng trả giá cả hàng triệu mỹ kim cho bất cứ một ai có thể kéo dài cuộc đời của bà thêm 5 phút để bà giải quyết nốt những việc còn lại, nhưng chẳng ai làm được việc đó.

Vậy tôi phải sử dụng thời giờ Chúa ban cho tôi như thế nào?

Sưu tầm

VÂNG PHỤC, TÍN THÁC VÀ TRI ÂN

Ngày 20 tháng 9, 1940, Nguyễn Trọng Trí nhập trại phong Quy Hòa, thời Mẹ Maria Juetta.  Sau ba tuần, nhờ sự chăm sóc tận tụy của các nữ tu dòng Phan Sinh (Franciscaine), bệnh tình Trí thuyên giảm..  Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt của Trí đều đều như kinh Nhật Tụng: 5 giờ sáng dậy đi nhà nguyện đọc kinh, sốt sắng dâng lễ, rước lễ.  7 giờ cùng anh em bệnh nhân dùng điểm tâm cháo trắng với đường tán đen.  8 giờ được băng bó, uống thuốc hoặc chuyện vãn với anh em đồng bệnh.  11 giờ cơm trưa rồi nghỉ ngơi.  14 giờ 30 Lên nhà nguyện đọc kinh lần hạt đến 17 giờ dùng cơm chiều…  Trí là một người rất sùng kính Đức Mẹ Maria, lúc nào cũng cầu xin Đức Mẹ và thứ bảy nào cũng xưng tội.  Suốt hơn một tuần, từ 30 tháng 10, 1940 đến 7 tháng 11, 1940, Trí bị bệnh kiết lỵ nặng nên mất sức!  Đêm ngày 8. 11. 1940 Trí lấy hai tập giấy pelure, dùng bút chì cùn trong áo veston sáng tác bài thơ cuối cùng La Pureté de l’ Âme (Tâm Hồn Thanh Khiết) để ca tụng Đức Maria cùng các bà mẹ dưới đất là thân mẫu và các nữ tu Phan Sinh đã săn sóc Trí.  Đây là bút tích cuối đời của Trí.  Khi ông Nguyễn Văn Xê đưa Mẹ Nhất Maria Juetta, người Pháp, đọc bài viết này, Mẹ Juetta nói: “Giỏi quá, uổng quá, Hàn Mạc Tử là một thiên tài hiếm có!  Nhưng Mẹ xin phép tác giả đổi chữ “nénuphards” (hoa súng) thay cho chữ “lotus” (hoa sen) vì cuộc đời tu sĩ của chúng tôi tại đây với các bệnh nhân phong, chính là những bông hoa súng lên xuống theo con nước và bập bềnh trôi nổi như mọi vật trong hồ, chứ không dám tự nhận mình như những bông hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”

Sau 52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi.  (Lm Trần Quý Thiện, Tưởng niệm nhà thơ Công giáo Hàn Mặc Tử).

Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã sống 52 ngày cưối đời thật trong sáng với tinh thần sám hối trở về, hân hoan chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, tán dương Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc qua những vần thơ tuyệt vời.  Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô tường thuật Đức Giêsu chữa lành người phong, căn dặn đi trình thầy tư tế và không được tiết lộ.  Nhưng khi được chữa lành, anh không thể nín lặng, công khai vui mừng rao truyền và loan tin vui.

Lời cầu xin của anh là gương mẫu cho bất cứ ai thành tâm nguyện cầu, xin Chúa xót thương cứu giúp: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.”  Anh hoàn toàn xin vâng theo Thánh Ý Chúa toàn năng, khiến Đức Giêsu chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.”

Vâng phục

“Nếu Ngài muốn,” Với lời khẩn cầu tha thiết, trân trọng Đấng Thiên Sai, anh bệnh phong tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, toàn quyền nắm giữ sinh mệnh, cũng như sức khỏe, hạnh phúc, bình an của mình.  Lời nguyện xin khiêm hạ này cũng gợi nhớ “Xin Vâng” của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” (Lc 1, 38).

Người bệnh phong không dám biểu lộ ý riêng của mình, vả lại không thân thưa, thì Đức Giêsu cũng đã thấu suốt nguyện vọng ấp ủ từ bao lâu rồi.  Anh hoàn toàn vâng theo Thánh Ý toàn năng, sẵn sàng chấp thuận Thiên Chúa định đoạt thân phận, không hề oán than.  Một đức tin vững chãi qua cơn thử thách thật nặng nề.

Trước cuộc khổ nạn kinh hoàng, Đức Giêsu cũng làm gương sáng chói về đức vâng lời, Người ba lần cầu nguyện: “Cha ơi, nếu được xin cho chén này rời khỏi con.  Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. ” (Mt 26, 39-44).

“Chúa Cứu Thế đã cách mạng, muôn triệu người hưởng ứng, khẩu hiệu của Ngài: “Vâng lời đến chết!” (Đường Hy Vọng, số 395).

Tín thác

“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.”  Hoàn toàn tín thác vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, người bệnh phong công khai tin cậy, trao thân gửi phận cho Đức Giêsu cứu giúp.  Người Kitô hữu liệu có luôn xác tín vào Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, được Chúa Giêsu truyền cho chị nữ tu Faustina Kowalska hay chăng?  “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa.”  Có hoàn toàn vững tin như lời nguyện Hiệp Lễ chăng?  “Lạy Chúa, con không đáng rước Chúa vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch.”

Vì đặt trọn niềm tin và hy vọng vào Chúa, người phong không ngần ngại lỗi luật Do Thái, phải chịu cách ly với người lành.  Đức Giêsu vì thương yêu, chí nhân chí ái, cũng vô tư vượt qua điều luật này, khi Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.”

“Con người hy vọng để sống, để tiếp tục sống.  Con người sẽ quay về với ai có thể mang lại cho họ niềm hy vọng lớn lao nhất: Niềm hy vọng ấy, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10).  Niềm hy vọng ấy, Chúa ban qua tay Mẹ Maria:”Nguồn hy vọng của chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 962).

Tri ân

Được chữa lành, anh quên ngay lời Đức Giêsu căn dặn “đừng nói gì với ai cả.”  Bởi vì lòng anh tràn ngập niềm tri ân, cảm tạ Thiên Chúa.  Anh không thể giữ niềm vui, ân huệ cho riêng mình, mà hân hoan công khai chia sẻ với mọi người về hồng ân mới lãnh nhận nhưng không.  Nên vừa đi khỏi, anh đã rao truyền và loan tin ấy khắp nơi.”

Lòng Mến tràn đầy của anh đã lan tỏa khắp nơi, khiến dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Đức Giêsu.  Niềm tri ân, lòng cảm mến đã biến anh thành chứng nhân sống động, rao giảng Tin Mừng đến tha nhân.  Anh không sở hữu ơn cứu độ cho riêng mình, mà trái lại anh đã thực hiện đúng ba bước như mới đây Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích.  Ngài cho rằng có ba tiêu chuẩn để không không tư nhân hóa sự cứu rỗi: “Đức Tin vào Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta, Đức Cậy khích lệ chúng ta nhìn tới những lời hứa và tiến đi về phía trước và Đức Mến là chăm sóc lẫn nhau, khuyến khích tất cả chúng ta thực hành bác ái và các việc lành.” (Đồng Nhân, Vietcatholic, ĐTC: Thành phần ưu tú của Giáo hội không được biến đức tin làm của riêng mình)

Lạy Chúa Giêsu, xin cứu thoát chúng con khỏi bệnh phong, khỏi bệnh liệt kháng tâm hồn, xin cứu chúng con khỏi vũng lầy tội lỗi, khỏi thung lũng đầy nước mắt này, xin ban cho chúng con biết sám hối, ăn năn trở về cùng Chúa hằng ngày.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn che chở chúng con khỏi những căn bệnh nan y thời đại là đánh mất Tin, Cậy, Mến.  Xin Mẹ cầu bầu, cứu giúp chúng con thoát khỏi cạm bẫy ba thù, để được Mẹ dắt dìu chúng con theo Chúa luôn.  Amen!

Alphonse Marie Trần Bình An