NGƯỜI THÂN CẬN

Khi nói đến Thiên Chúa hoặc Thượng Đế, người ta liên tưởng tới vị Thần Linh thống trị và cách biệt hoàn toàn thế giới loài người.  Kinh Thánh nói với chúng ta: nếu Thiên Chúa cao cả và chí thánh, thì Ngài lại rất gần gũi và yêu thương con người.  Giáo huấn của Ngài bao gồm những điều cụ thể, giúp con người dễ dàng đón nhận và thực thi.  Tác giả sách Đệ nhị Luật (Bài đọc I) khẳng định: “Luật của Chúa rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.”  Thiên Chúa là Đấng giàu lòng nhân hậu.  Ngài cảm thương nỗi khốn khổ cơ hàn của con người.  Do tội lỗi, nhân loại ở bên bờ vực thẳm của sự chết.  Thiên Chúa đã ra tay cứu vớt con người và giúp họ phục hồi.

Sự gần gũi yêu thương của Thiên Chúa được diễn tả trong câu chuyện Người Samari nhân hậu. Người Samari là hình ảnh của Đức Giêsu. Người bị đánh bầm dập nửa sống nửa chết là hình ảnh của nhân loại đáng thương do tội lỗi. Người Samari đã săn sóc người bị nạn đưa anh vào quán trọ, dặn dò chủ quán chu đáo. Tất cả những cử chỉ đó đều diễn tả sứ mạng của Đấng Cứu thế nơi trần gian. Người mang trên thân mình mọi tội lỗi nhân loại để nhân loại được tự do. Thánh Phaolô đã diễn tả với chúng ta trong Bài đọc II: “Đức Giêsu là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo…. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”.

Câu chuyện người Samari nhân hậu hàm chứa những bài học sâu sắc đối với chúng ta.

Nhân vật mở đầu câu chuyện là một người tiến sĩ luật. Ông đại diện cho giới trí thức và thượng lưu. Cuộc đối đáp giữa ông và Chúa Giêsu chứng tỏ ông chỉ hỏi để thử Chúa Giêsu. Chính tác giả cũng xác định điều này, khi ông viết: “Có người thông luật kia muốn thử Đức Giêsu, mới đứng lên hỏi Người rằng…”.  Với nghệ thuật trình bày rất hấp dẫn, câu chuyện cho chúng ta thấy sự hoán đổi của những vấn đáp rất tài tình, để rồi người hỏi lại là người trả lời:

“Thưa Thày, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Đây là câu hỏi của vị tiến sĩ Luật. Sau đó, chính ông ta là người đưa ra những gợi ý để trả lời cho câu hỏi của mình: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Trong phần này, người tiến sĩ Luật đã trích dẫn sách Đệ nhị Luật (6,5) và sách Lêvi (19,18). Đây là giáo huấn cốt lõi của Lề Luật. Sau này Chúa Giêsu cũng nhắc lại để trả lời một vị kinh sư, khi ông này hỏi: “Thưa Thày, trong mọi điều, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12,28). Vị tiến sĩ Luật đã đặt câu hỏi, rồi chính ông ta lại trả lời.

“Nhưng ai là người thân cận của tôi?” – vị tiến sĩ Luật đã đặt câu hỏi. Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi, mà Người kể một câu chuyện về người Samari nhân hậu. Cuối câu chuyện này, Người hỏi lại vị tiến sĩ: “Vậy, theo ông nghĩ, trong ba người đó (tư tế, Lêvi và người Samari) ai đã tỏ ra là người thân cận với người bị rơi vào tay kẻ cướp? Và, vị tiến sĩ đã trả lời: “Chính là kẻ đã thực lòng thương xót đối với người ấy”. Trong câu trả lời này, những danh xưng, chức vụ và dòng dõi xem ra đã trở thành vô nghĩa, mà điều quan trọng là sự cảm thương, lòng nhân hậu. Chỉ có lòng nhân hậu mới đáng kể. Lòng nhân hậu vượt lên tất cả mọi danh xưng và chức vụ. Hai người đi qua, thày tư tế và Lêvi, chỉ quan tâm đến lý thuyết, mà họ quên thực hành. Họ dửng dưng trước nỗi đau của người bị nạn. Câu hỏi được vị tiến sĩ đặt ra là: “Ai là người thân cận của tôi?” đã được đảo ngược thành: “Tôi là người thân cận của ai? Giá trị giáo huấn là ở chỗ đó. Đối với người Samari, ông chỉ thấy trước mắt ông là một con người bị nạn. Ông không bận tâm xem người đó thuộc dòng tộc nào. Ông cũng không tìm cách khoe khoang việc mình làm. Hành động của ông âm thầm khiêm tốn và đậm tình người.

“Ông hãy đi và làm như vậy” – Vị tiến sĩ vừa khoe khoang sự hiểu biết và lòng đạo đức của mình ở trên kia, giờ đây được Chúa giáo huấn: ông mới chỉ thông thạo về lý thuyết thôi. Ông cần phải thực hành những gì ông hiểu biết. Ông hãy cố gắng để trở nên người thân cận với người khác, như thế ông mới thực sự đạt tới sự hoàn thiện.

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Tác giả Luca bỏ lửng câu chuyện ở đây để độc giả tiếp tục suy tư và cảm nhận mình có thể là nhân vật vị tiến sĩ Luật trong câu chuyện. “Hãy làm như vậy”, tức là có tâm tình bao dung quảng đại như người Samari. Chúng ta biết, giữa người Do Thái và người Samari có mối thù truyền kiếp. Người Do Thái thường coi người Samari là người ngoại đạo. Khi tranh luận với Chúa Giêsu, những người Do Thái nói một cách khinh miệt: “Chúng tôi bảo ông là người Samari và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao” (Ga 8,48). Vậy mà dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, người Samari lại có tâm hồn nhân hậu, hơn cả tư tế và Lêvi, vì ông này đã dừng chân cứu giúp người bị nạn.

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” – Câu kết rất đơn giản, cũng là câu trả lời cho câu hỏi ở đầu trình thuật: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (câu 25). Đó cũng là thông điệp mà Phụng vụ muốn gửi đến mỗi người chúng ta.

TGM Vũ Văn Thiên

NGAY CẢ MẸ TÊRÊXA CŨNG SUÝT TỪ CHỐI TIẾNG CHÚA GỌI

Khi nhìn vào những vị thánh, chúng ta thường có khuynh hướng xem đó là những người với vầng hào quang thánh thiện, chứ không phải những người với những đấu tranh chật vật như mọi người chúng ta.  Cách nghĩ như thế khiến các thánh ít giống con người, và có vẻ quá xa vời đến nỗi chúng ta không thể noi gương các vị được.

Quyển Tình yêu làm nên thánh Têrêxa của David Scott muốn đảo ngược chuyện này . Ông suy ngẫm về những khía cạnh cuộc đời của Mẹ Têrêxa thành Calcutta vốn thường bị bỏ qua, chẳng hạn như 18 năm mẹ sống trong Nhà kín Loreto ở Calcutta, và không thấy được những cảnh khốn cùng bên ngoài bức tường nhà kín.  “Sự biến đổi của mẹ hướng đến người nghèo, là một tiến trình chậm rãi,” ông Scott xác nhận.

Và đặc biệt hơn nữa là những chi tiết mà ông Scott đưa ra về đêm tối tâm hồn hơn 50 năm của mẹ, và thị kiến vào năm 1947 khi Mẹ Têrêxa thấy Chúa Giêsu và Đức Mẹ khiến Mẹ dấn thân cho người nghèo và người hấp hối.  Dù cho Mẹ đã hủy các ghi chú và nhật ký của mình, nhưng một tập các lá thư Mẹ gửi cho các linh hướng của mình trong năm 1947 đã cho thấy có những lúc Mẹ kháng cự lại yêu cầu của Chúa Giêsu khi Ngài muốn có “các Nữ tử Bác ái, ngọn lửa yêu thương của Ta giữa những người nghèo, người bệnh, người hấp hối, những đứa trẻ trên đường phố.”

Chúa Giêsu đã bảo Mẹ là “người bất tài nhất, yếu đuối và tội lỗi, nhưng chính vì thế Ta muốn dùng con cho vinh quang của Ta!  Chẳng lẽ con từ chối sao?”  Mẹ Têrêxa mô tả việc Mẹ phản đối yêu cầu khẩn thiết này và “bảo Chúa Giêsu tìm một người khác, nói rằng Mẹ sợ những khó khăn và lời chế giễu Mẹ sẽ phải chịu.  Mẹ hứa sẽ trở thành một nữ tu tốt nếu Ngài để Mẹ ở yên bình trong nhà kín.  Nhưng Ngài cứ tiếp tục nài nỉ Mẹ, thách thức Mẹ: “Con từ chối làm việc này cho Ta sao?”

Tất cả những chuyện này khiến chúng ta thấy thật không tương hợp với hình ảnh cảm tính của mình về sự thánh thiện.  Nhưng nó cho thấy các vị thánh rất giống chúng ta, và đôi khi các vị phải rất vất vả trong việc đón nhận lời mời gọi của Chúa.  Và chúng ta hẳn cũng nghĩ một chuyện này: Liệu Mẹ Têrêxa đã nói “không” với Chúa?  Biết bao nhiêu người đã từ chối những thúc đẩy của Thần Khí hay của chính Chúa Kitô, chống cự lại công cuộc cứu độ?

Từ năm 1957, những năm đầu tiên Mẹ bắt đầu cảm thấy mình bị Chúa bỏ rơi, dù cho sau đó Mẹ vẫn bắt đầu hoạt động sứ mạng của mình, Mẹ Têrêxa có viết cho một linh hướng của mình rằng: “Họ nói những người trong hỏa ngục chịu đựng đau khổ muôn đời vì mất Chúa…  Trong lòng con cũng đang cảm giác nỗi đau mất mát khủng khiếp đó… cảm thấy Thiên Chúa không hiện hữu… cảm thấy như mình chối bỏ Chúa.  Xin cầu nguyện cho con để con không trở thành một Giuđa với Chúa Giêsu trong đêm tối đau đớn này.”

Mẹ đã xin những người khác hủy các lá thư của Mẹ đi.  Nhưng tôi mừng vì có những người đã không làm theo ý Mẹ.  Vì nhờ như thế, chúng ta mới thấy Mẹ Têrêxa anh hùng đến thế nào, và cũng con người đến thế nào.

Francis Phillips
J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ Catholic Herald

CHÂN DUNG THÁNH THOMAS TÔNG ĐỒ

Ngày 3 tháng Bảy hằng năm là ngày mừng kính Thánh Tôma, vị Tông đồ “nổi tiếng” là có lòng cứng như sáp nguội.  Thánh Tôma có biệt danh là “Tôma Đa Nghi,” và còn được gọi là Điđymô (nghĩa là “sinh đôi”), phiên âm theo Việt ngữ là Thọ-mai.

Có lần Chúa Giêsu nói: “Anh em đừng xao xuyến!  Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.  Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.  Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.  Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14:1-4).  Thánh Tôma hồn nhiên hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14:5-6).  Và rồi Chúa Giêsu nói câu nổi tiếng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.  Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6).

Khi nghe các Tông đồ khác kể lại việc họ đã tận mắt gặp Chúa Giêsu phục sinh, Thánh Tôma đã không tin.  Khi Chúa Giêsu hiện ra lần nữa, cũng có mặt Thánh Tôma ở đó, Chúa Giêsu bảo ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy.  Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.  Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20:27).  Chắc chắn Thánh Thomas không dám sờ vào, mà chỉ còn biết cúi đầu, sụp lạy và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con!  Lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20:28).  Câu này trở thành câu tuyên tín minh nhiên trong Tân ước.

Tội nghiệp Thánh Tôma!  Ngài bị “chết tên” với cái nickname “Tôma Đa Nghi.”  Nhưng nếu ngài không nghi ngờ thì ngài cũng tin.  Câu tuyên xưng đức tin của Thánh Tôma đã cho các Kitô hữu một lời cầu nguyện mãi mãi đến tận thế.  Thánh Tôma cũng gợi ra một lời khen của Chúa Giêsu dành cho các tín hữu: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).  Có thể coi đó là mối phúc thứ chín.

Truyền thống nói rằng Thánh Tôma đã ra khỏi biên giới Đế quốc Rôma để rao giảng Tin Mừng, đi xa tới tận Ấn Độ.  Ngài tới Muziris (Ấn Độ) năm 52, và rửa tội một số người mà ngày nay vẫn gọi là “Kitô hữu của Tôma” (Saint Thomas Christians, tiếng Ấn Độ là “Mar Thoma Nasrani” hoặc gọi tắt là “Nasrani”).  Sau đó, Thánh Tôma bị đâm chết bằng cây thương dài ở Ấn Độ, thi hài ngài được đưa tới Mesopotamia hồi thế kỷ III, và rồi lại được chuyển tới nhiều nơi khác.  Năm 1258, người ta đưa hài cốt ngài tới Abruzzo, thuộc Ortona (Ý), trong một nhà thờ, và người ta gọi là Nhà thờ Thánh Tôma Tông đồ.  Thánh Tôma được tôn vinh là Thánh bổn mạng của Ấn Độ, và tên ngài vẫn “nổi tiếng” trong số các “Kitô hữu của Tôma” ở Ấn Độ.

Truyền thống cho biết rằng Thánh Tôma bị đâm chết tại Mylapore, gần Chennai, lúc 72 tuổi.  Thánh Tiến sĩ Ephrem nói rằng Thánh Tôma bị giết ở Ấn Độ, thi hài ngài được thương nhân Khabin đem đi an táng tại Urhai (Edessa).

Thánh Tôma có tiếng là người “cứng lòng” nhưng lại rất can đảm, vì dám rủ các bạn cùng chết với Sư Phụ.  Có thể điều ngài nói là mạnh mẽ, quyết liệt, nhưng có thể ngài chỉ do bộc phát, do thẳng tính, nghĩ sao nói vậy, chứ chưa hẳn ngài đã dám liều mạng thật khi bày tỏ sự sẵn sàng chết với Chúa Giêsu – vì khi Thầy Giêsu bị bắt thì cũng chẳng thấy tăm hơi Thánh Thomas đâu.  Nhưng dù sao cũng thật đáng khen, vẫn xứng đáng làm gương cho chúng ta.

Cơ hội là khi Chúa Giêsu đề nghị đi tới Bêtania sau khi Ladarô đã chết, các Tông đồ không trở lại Giuđê, vì người Do-thái tìm cách ném đá Chúa Giêsu.  Bêtania gần Giêrusalem, nghĩa là phải đi bộ ngay giữa lòng quân thù và hầu như là chết chắc!  Nhận ra điều này, Thánh Tôma đã nói với các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (Ga 11:16).  Thánh Tôma can đảm lắm nên mới động viên các bạn như vậy!  Tuy bản tính đa nghi, nhưng một khi đã tỏ tường thì Thánh Tôma tin thật, không gì lay chuyển.  Cứng lòng tin có thể mang hai ý nghĩa: Cứng lòng không chịu tin – chai cứng, hoặc cứng cáp lòng tin – vững tin.

Thiết tưởng cũng nên biết điều này: Thánh Tôma là bổn mạng của những người đa nghi, những người mù, các kiến trúc sư, các thợ xây, và các nhà thầu xây dựng.

Lạy Thánh Tôma Tông Đồ, xin cầu thay nguyện giúp để chúng con cũng vững tin vào Đức Giêsu Kitô đến hơi thở cuối đời. Amen.

Trầm Thiên Thu

CHỮ TIN

[Tín khúc Ga 20:19-29 ≈ Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49]

Nói gì thì nói, mặc ai
Tô-ma nhất quyết một lời: Không tin!
Tưởng là đá cứng khó mềm
Ai dè đá ấy lại liền chảy tan!
Người tin – giải thích không cần
Không tin – giải thích chẳng còn ích chi [1]
Tin là phần phúc diệu kỳ
Đâu có dễ gì không thấy mà tin!
Tin là không có dị đoan
Vẫn cần lý trí cân phân rạch ròi
Cũng không nhẹ dạ tin người
Nói gì nghe nấy, tức thời gặp nguy!
Tin là điều rất diệu kỳ
Được nên công chính là nhờ đức tin [2]
Vững tin vào Chúa uy linh
Vì Ngài là Đấng nhân lành, xót thương.
Chúa ơi, xin hãy đỡ nâng
Vì con yếu kém về lòng kính tin
Biến con dẫu cứng cũng mềm
Tô-ma ơi, chớ bỏ quên phận này!

Trầm Thiên Thu
[1] Thánh Bernadette: “Với người tin thì không cần giải thích, với người không tin thì giải thích cũng vô ích.”
[2] Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6.