LẤY LÀM LẠ VÌ HỌ KHÔNG TIN

Sau khi cho chúng ta chứng kiến quyền năng của Đức Giêsu mạnh hơn cả cái chết, thánh Maccô đưa chúng ta đi theo Người về nơi quê quán là Nadarét.  Tiếng đồn về Đức Giêsu đã vang khắp nơi, lôi kéo người bốn phương tìm đến với Người (Mc 3, 7-8), nay về thăm quê, chúng ta tưởng rằng Đức Giêsu sẽ được dân làng đón tiếp linh đình, kèn trống râm ran, như cảnh “trạng về làng vinh quy bái tổ.”  Chuyện diễn ra không như chúng ta nghĩ.  Tuy về quê quán của mình, nhưng Người cũng chờ đến ngày Sabát mới vào hội đường rao giảng.  Phản ứng đầu tiên của dân làng là “rất đỗi ngạc nhiên.  Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế?  Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?  Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”  Thế ra họ cũng đã nghe biết về những phép lạ Người làm ở khắp nơi.  Họ rất đỗi ngạc nhiên.  Nhưng họ bỗng như bị xối nước lạnh lên đầu, khi họ nhìn thấy thân nhân của Người ngồi chung quanh họ trong cùng một hội đường.  Thân nhân đã từng bị kích động vì dư luận, cho rằng Người đã mất trí và họ đã kéo nhau đi bắt Người về (Mc 3, 20-21.31-32), nhưng đã về tay không.  Nhìn mặt Người thì vẫn là mặt bác thợ con bà Maria, từng làm thuê cho họ.  Nhìn quanh, họ thấy anh em, chị em, bà con của Người, những người vẫn chen vai sát cánh với họ hàng ngày, trong cái làng quê nhỏ bé mà ai cũng biết mọi người, mọi nhà.  “Và họ vấp ngã vì Người.  Đức Giêsu phải ngao ngán nói với họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.  Quả như câu tục ngữ xưa của Việt Nam: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh.  Kết cục: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay lên trên một bệnh nhân và chữa lành họ.  Lại như một câu tục ngữ Việt Nam: “Bụt nhà không thiêng; “người phụ nữ” đã được Người tuyên dương: “Lòng tin của con đã cứu chữa con; ông trưởng hội đường đã được Người khích lệ: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” còn dân làng Nadaret thì Người cũng phải “lấy làm lạ vì họ không tin.  Thế là chuyến thăm quê cũ chẳng có gì phấn khởi. (x. Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).

Cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39) đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu không được tiếp đón tại quê nhà và Ngài đều nói đến ý tưởng: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Ga 4,44).  Nhưng mỗi Tin Mừng thuật lại câu chuyện với các chi tiết khác nhau và đặt trong những bối cảnh văn chương khác nhau.  Tin Mừng Máccô đặt trình thuật “Đức Giêsu bị rẻ rúng tại quê hương mình” (Mc 6,1-6) sau trình thuật “Đức Giêsu chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Giaia sống lại” (Mc 5,21-43).

Quê hương Nadaret của Chúa Giêsu chẳng là trái ngọt nhưng là trái đắng với vị chát chối từ, và chua cay thành kiến.  Dẫu vậy Ngài không than van, không giận dữ hay oán trách quê nhà.  Ngài vẫn hiện diện thật hiền lành và khiêm hạ để đón nhận thực tế.  Quê hương là “chùm khế ngọt” của mỗi con người.  Nhìn về quê hương Nadaret của Chúa Giêsu, thật khác lạ.  Ngài trở về quê mà không được dân làng ủng hộ, trái lại họ đã xem thường Ngài và xúc phạm đến Ngài.  Tại sao?

Bởi lẽ, họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon.”  Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nadaret này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, mấy ai quan tâm đâu!  Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, đi từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội.  Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu?  Ông ấy bỏ quê nhà đi một thời gian, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế nhỉ?  Một quá khứ và hiện tại như vậy đã khiến họ vấp phạm.  Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Dân làng Nadaret quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu.  Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy lý lịch để thẩm định về Ngài.  Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch.”  Chính Nathanael cũng còn mang nặng quan niệm thành kiến đó: “Nadaret có cái gì tốt đâu?” (Ga 1,46).  Những người Do thái cố chấp nhìn Đức Giêsu bằng lăng kính của thành kiến quê hương và họ đã đưa Ngài lên ngọn đồi và định xô xuống vực.

Đức Giêsu “ngạc nhiên vì sự không tin của họ.”  Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.  Dân làng Nadaret “vấp ngã vì Người,” họ không chấp nhận, họ không thể tin vào Đức Giêsu.  Ngài mạc khải cho họ về nguồn gốc thiên sai của mình qua những lời giảng dạy khôn ngoan và các phép lạ, nhưng họ lại chỉ bám lấy thành kiến cố hữu.  Chính thái độ bám ghì lấy, không dám buông bỏ những hiểu biết giới hạn nên họ không thể nhận biết Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ.  Đức Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ không tin.

Dân làng Nadaret không tin vì thành kiến.  Họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi.  Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Đức Giêsu mở ra cho họ.  Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế.  Đức Giêsu không sống như một siêu nhân, Ngài sống bình dị như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình.

Những người đồng hương của Đức Giêsu thật “dại”, thay vì “một người làm quan cả họ được nhờ” nhưng họ lại đánh mất cơ hội khi quan niệm “bụt nhà không thiêng.  Thành kiến kiểu “nhìn mặt là biết số nhà” khiến người ta không ít lần rơi vào sai lầm khi nhìn đến tha nhân.

Thành kiến là ý kiến có sẵn từ lâu trong đầu óc, không thay đổi được.  Thành kiến có thể là của cá nhân hay của tập thể.  Nếu là của tập thể thì nó tích tụ từ lâu đời qua nhiều thế hệ và hầu như không thể thay đổi được.  Thành kiến là những nếp suy nghĩ, quan điểm, niềm tin chủ quan sẵn có, thường là tiêu cực đối với một người, một nhóm người dựa trên lối sống, nghề nghiệp, quan điểm chính trị, màu da, sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo, giới tính…  Thành kiến thường được định hình trong con người theo thời gian, từ trải nghiệm của bản thân, do được tuyên truyền, do thế hệ trước truyền lại, do môi trường sống.  Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi.

Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả sai lầm hoặc nguy hại.  Ai đeo kính đen nhìn cái gì cũng tối tăm; lưỡi đắng ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ.  Yêu nên tốt, ghét nên xấu.  Yêu nhau yêu cả đường đi.  Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.  Thật dễ để nhận ra hay để nói về sai lầm của người khác.

Thành kiến làm cho người ta mù quáng, không nhận định khách quan nên khó có thể đối thoại, cởi mở với người khác, không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi tha nhân.

Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng sự kiện dân làng Nagiarét ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường, và kết thúc bằng sự ngạc nhiên của Chúa khi Ngài thấy họ không tin.  Làm sao họ không ngạc nhiên được khi lời rao giảng và những dấu lạ Ngài làm tỏ rõ Ngài là Đấng đầy quyền năng và khôn ngoan?  Thế nhưng, sự ngạc nhiên ấy không đủ để thay đổi thành kiến của họ về Ngài.  Họ không thể chấp nhận một bác thợ bình thường, là người đồng hương họ quen biết, lại là vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến.  Và càng không thể chấp nhận được một con người như Ngài lại cả dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô.  Hạnh phúc được tin vào Đức Kitô, đáng lẽ họ nhận được lại bị mất vì một thành kiến.

ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần trong Hội Thánh “không bao giờ đóng kín nơi chính mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ.  Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết Tin Mừng và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn” (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 45).

Đức Maria được ca tụng là có phúc vì đã tin (Lc 1,45).  Chúng ta cũng thật có phúc vì đã tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và là Đấng Cứu Thế của nhân loại.  Đức tin là ân huệ quý giá nhất trong cuộc đời, nhờ đó, mọi việc, dù nhỏ bé, âm thầm đến đâu, vẫn có ý nghĩa và có thể đem lại niềm vui, bình an cho cuộc đời.

Mỗi ngày mới, chúng ta hãy bày tỏ lòng tri ân Chúa đã thương ban cho mình ơn đức tin qua đời sống chuyên cần cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, tham dự Thánh Lễ.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy hạnh phúc khi đi theo Chúa, khi làm môn đệ Ngài.  Xin Chúa giúp con sống tốt tư thế môn đệ ấy.  Xin giúp con luôn quảng đại và khiêm tốn trong lời nói, trong những nhận định về nhau và nhất là xin cho con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em con.  Amen!

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

CHỨNG TÁ CỦA SỰ HIỆP NHẤT TRONG ĐA DẠNG

Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô.  Mừng kính các ngài, chúng ta nhớ đến hai đấng như là những mẫu gương sáng ngời về đời sống chứng tá cho đức tin qua tinh thần hiệp nhất trong đa dạng.  Các ngài còn được ví như những người tiên phong trong công cuộc loan báo Tin Mừng; như những vì sao sáng trong Giáo Hội; như những vị tướng anh hùng trong trận địa đức tin.

Tuy nhiên, nhìn lại cuộc đời của hai thánh, chúng ta thấy các ngài là những con người rất đỗi bình thường.

Thánh Phêrô được biết đến như một con người bình dân học vụ, phát xuất từ một gia đình bình thường làm nghề ngư phủ, không gì nổi trội và nhiều điểm bất toàn như: tính nóng nảy, ăn nói không thông, cư xử cục mịch, nhanh tin nhưng cũng vội phủ nhận, can trường nhưng cũng không thiếu những lúc nhát đảm, và tội lớn nhất của Phêrô chính là chối Chúa đến ba lần.

Còn thánh Phaolô thì: xuất thân từ một gia đình tri thức, ăn nói thông thạo, lý luận sắc bén, tài cao hiểu rộng…  Ngài còn được biết đến dưới bóng dáng của một kẻ bắt đạo khét tiếng.  Quả thật, Phaolô ghét Danh Giêsu đến nỗi chỉ cần ai nói về Danh ấy thôi thì Phaolô cũng tìm mọi cách để triệt hạ.

Nhưng từ lúc Phêrô nhận ra ánh mắt nhân từ của Đức Giêsu khi ông chối Ngài đến ba lần; Phaolô được Đức Giêsu mặc khải qua vụ ngã ngựa lịch sử và chữa cho sáng mắt cách lạ thường, thì cả hai đấng đều có chung một thái độ là cảm nghiệm được Đức Giêsu yêu thương đặc biệt, nên ăn năn sám hối và quyết tâm thay đổi cuộc đời.

Nếu trước kia, các ngài ghét danh Giêsu, hay sợ không dám nói và làm chứng về Danh ấy, thì giờ đây, cả hai đều chỉ còn mối lợi tuyệt đối là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của các ngài mà thôi và suốt cuộc đời còn lại dù thuận tiện hay không, các ngài luôn sẵn sàng loan báo về Đức Giêsu và ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho nhân loại qua cái chết trên Thập giá và sự phục sinh vinh hiển.

Thật vậy, nơi các ngài, tuy nhiều điểm khác biệt, nhưng từ khi Đức Giêsu chiếm lĩnh tâm hồn, các ngài đã trở nên chứng nhân cho Chúa: can đảm, kiên trung và chấp nhận chết để bảo vệ đức tin và lời giảng của mình là xác thực.

Các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất cho Đức Giêsu.  Các ngài đã chấp nhận sự đa dạng, nhưng hiệp nhất với nhau trong cùng đức tin và lòng mến.

Hai con người; hai tính cách; hai lối rao giảng khác nhau, nhưng cả hai đều có chung một mục đích.  Chính Đức Giêsu đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một nơi tình yêu và trong Ngài.

Lời nguyện tiền tụng thánh lễ hôm nay cho thấy rõ nét tính cách của hai Tông đồ trụ của Giáo Hội: thánh “Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân” (x. Lời Tiền Tụng).

Thật vậy, thánh Phêrô và Phaolô đã trở nên biểu tượng đức tin bất khuất cho Giáo Hội, trở nên đá tảng xây dựng Kinh Thành Muôn Thủa, trở nên kiểu mẫu của sự hiệp nhất trong đa dạng.

Được như thế, là vì các ngài khác nhau trong những điều phụ, nhưng hiệp nhất với nhau trong những điều chính và cùng chung một tình yêu trong tất cả mọi hoàn cảnh.

Vì thế, các ngài xứng đáng lãnh phần thưởng mà Thiên Chúa trao tặng cho người tôi tớ trung tín và khôn ngoan, được muôn dân truyền tụng và thiên hạ muôn đời còn tưởng nhớ chính nhân.

Nhân dịp mừng lễ của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng ta nhận ra sự quan phòng kỳ diệu mà Thiên Chúa đã ban cho các ngài.  Đồng thời cũng từ cuộc đời, ơn gọi và sứ mạng của hai thánh, chúng ta học được nơi các ngài những bài học quý báu trong hành trình môn đệ và sứ mạng của chúng ta:

Trước hết, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được nhận ra ơn gọi và chỗ đứng của mình trong lòng Giáo Hội để sẵn sàng thi hành bổn phận cách đặc thù mà Chúa muốn chúng ta thực thi để danh Chúa được rạng rỡ.

Thứ đến, chúng ta cũng nhận ra sứ mạng cứu độ phổ quát mà Thiên Chúa muốn trao ban cho nhân loại, hầu sẵn sàng loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi và mọi thời, để đem lại niềm vui, hy vọng cho con người và thế giới hôm nay.

Tiếp theo, chúng ta hãy noi gương các ngài để yêu mến Chúa tha thiết, khiêm tốn, sám hối, trở về, can đảm và sẵn sàng làm chứng cho Đấng đã hiến mình làm của lễ đền tội cho chúng ta.

Cuối cùng, noi gương các ngài, chúng ta sẵn sàng ngoan ngùy để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, hầu trở nên dấu chỉ của sự hiệp nhất và làm cho sự phong phú, phổ quát của ơn cứu độ được loan đi đến tận chân trời góc bể.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo Hội hai mẫu gương tuyệt vời là thánh Phêrô và Phaolô.  Qua cuộc đời của các ngài, xin cho chúng con biết cùng nhau xây dựng sự hiệp nhất trong Giáo Hội bằng sự cảm thông, tôn trọng trong khi thi hành sứ vụ, hầu Tin Mừng được loan đi khắp nơi, bằng nhiều cách thế khác nhau nhưng vẫn giữ được sự tinh tuyền của đức tin.  Amen.

 Jos.Vinc. Ngọc Biển

ĐỐI DIỆN VỚI GIỜ PHÚT KHÓ KHĂN CỦA CHÚNG TA

Phân định không phải là chuyện dễ dàng.  Chúng ta thử giải quyết vấn đề nan giải này: khi chúng ta thấy lòng mình ở trong tình trạng lo âu cực độ, liệu chúng ta có lơ đi cho rằng một đau đớn như thế là dấu chỉ rằng đây không phải là nơi phù hợp với chúng ta, rằng có cái gì đó sai lầm ở đây không?  Hoặc, như Chúa Giêsu, chúng ta chấp nhận ở lại và nói với chính mình, với người thân, với Chúa: “Con sẽ nói gì bây giờ, cứu con khỏi giây phút này sao?”

Khi Chúa Giêsu đối diện với cái chết sỉ nhục trên thập giá, Tin Mừng Thánh Gioan có ám chỉ đến việc Ngài được đề nghị một cơ hội để trốn thoát.  Một phái đoàn người Hy Lạp, qua trung gian thánh Philiphê đề nghị Chúa Giêsu đi với họ, đến một nhóm sẽ đón Ngài và thông điệp của Ngài.  Như thế Chúa Giêsu phải chọn: Chịu đựng nỗi thống khổ, tủi nhục và chết với cộng đoàn, hay từ bỏ cộng đoàn này để đến với cộng đoàn sẽ chấp nhận mình.  Chúa Giêsu đã làm gì?  Chúa Giêsu cũng sẽ đặt câu hỏi: “Tôi sẽ nói gì bây giờ, cứu tôi khỏi giây phút này sao?

Dù câu này được xem là câu hỏi, nhưng đó là câu trả lời.  Ngài đã chọn ở lại, đối diện với lo âu, với sỉ nhục, với đau đớn vì Ngài thấy đây là lòng trung tín chính xác, Ngài được mời gọi trong chính tình yêu mà Ngài rao giảng.  Ngài xuống thế để nhập thể, để giảng dạy thế nào là tình yêu thực sự và bây giờ cái giá phải trả cho những chuyện này là sỉ nhục, là lo âu, Ngài biết và chấp nhận những gì đòi hỏi Ngài bây giờ.  Nỗi đau Ngài chịu không có nghĩa là Ngài đã làm cái gì đó sai, Ngài ở không đúng nơi, hoặc cộng đoàn này không đáng để Ngài chịu đau khổ này.  Ngược lại: nỗi đau được hiểu là cách thể hiện lòng trung tín sâu thẳm nhất của chính sứ vụ và thiên chức của Ngài.  Cho đến lúc này, chỉ có những lời kêu xin Ngài, bây giờ chúng ta xin Ngài nâng đỡ chúng ta trong thực tế; Ngài cần phải nuốt khó khăn để làm.

Tôi sẽ nói gì bây giờ, cứu tôi khỏi giây phút này sao?  Chúng ta có đủ khôn ngoan và quảng đại để nói những lời này khi, trong sự dấn thân riêng của mình, chúng ta bị thách thức chịu đựng nỗi lo âu nóng bỏng trong lòng này không?  Khi Chúa Giêsu đặt câu hỏi này, những gì Chúa phải đối diện là tấm gương gần như hoàn hảo cho các tình huống mà đôi khi chúng ta phải đối diện.  Trong hầu hết mọi dấn thân, nếu chúng ta trung thành thì sẽ có khi chúng ta phải chịu đựng một nỗi lo âu trong lòng (và cũng có khi do hiểu lầm bên ngoài), chúng ta phải đối diện với một quyết định khó khăn: nỗi đau và sự hiểu lầm này (dù cho đó là do sự non nớt của chính mình) có phải là dấu chỉ tôi ở không đúng chỗ, tôi phải ra đi và tìm một ai khác, một cộng đoàn nào khác cần đến tôi không?  Hoặc bên trong nỗi lo âu nội tâm này, hiểu lầm do bên ngoài, do sự non nớt của cá nhân tôi, tôi được gọi để nói: Tôi sẽ nói gì bây giờ, cứu tôi khỏi giây phút này sao?  Đây là điều tôi đã được gọi!  Tôi sinh ra để làm điều này!

Tôi nghĩ câu hỏi này rất quan trọng vì thường nỗi lo thường xuyên trong lòng có thể làm lung lay các cam kết dấn thân chúng ta, thúc đẩy chúng ta buông bỏ.  Các hôn nhân, các ơn gọi sống đời sống thánh hiến, các dấn thân làm việc cho công lý, cho cộng đoàn tu sĩ và các dấn thân cho gia đình, bạn bè có thể bị buông bỏ vì đương sự nghĩ rằng không ai được gọi để sống trong lo âu tột độ, bị sầu khổ và hiểu lầm như vậy.  Thật vậy, ngày nay nỗi đau, sầu khổ, hiểu lầm chung chung được xem như dấu chỉ để từ bỏ những chuyện mình đã dấn thân để đi tìm một ai khác, một cộng đoàn khác sẽ khẳng định mình, thay vì xem đây là dấu chỉ, bây giờ, chỉ có bây giờ, chỉ có giờ phút này, bên trong sự lo âu đặc biệt, sự hiểu lầm này, chúng ta mới có dịp mang lại ân sủng cho đời sống dấn thân của mình.

Tôi đã chứng kiến nhiều người từ bỏ hôn nhân, từ bỏ chức thánh, từ bỏ đời sống tu trì, từ bỏ cộng đoàn tôn giáo, từ bỏ bạn bè thân yêu, từ bỏ các dấn thân phục vụ cho công lý và hòa bình vì có một lúc nào đó họ cảm nhận mình quá đau và bị hiểu lầm.  Và trong nhiều trường hợp này, tôi cũng thấy thực tế hóa ra là một điều tốt.  Tình huống họ gặp không tốt cho họ cũng như cho người khác.  Họ phải được cứu khỏi “lúc này.”  Trong một vài trường hợp, điều ngược lại là đúng.  Họ đau đớn tột cùng, nhưng nỗi đau đó là lời mời đến một nơi sâu đậm hơn, mang lại sự sống hơn trong đời sống dấn thân của họ. Họ rời đi, ngay lúc họ nên ở lại.

Chắc chắn, phân định không phải là chuyện dễ.  Không phải lúc nào cũng vì thiếu quảng đại mà chúng ta từ bỏ dấn thân.  Một số người quảng đại nhất, vị tha nhất mà tôi quen biết đã từ bỏ hôn nhân, chức thánh, đời sống tu trì hay bỏ giáo hội của mình.  Nhưng tôi viết điều này vì ngày nay, nhiều tài liệu tâm lý và thiêng liêng đáng tin cậy không đủ làm nổi bật thách thức, như Chúa Giêsu đã trụ vững bên trong nỗi đau đớn tột cùng, hiểu lầm, nhục nhã của mình, thay vì bỏ đi để đến với một ai đó, một cộng đoàn nào đó chấp nhận và hiểu nỗi khao khát của mình, thì chúng ta chấp nhận nó sẽ mang đến sự sống hơn khi nói: Tôi sẽ nói gì bây giờ, cứu tôi khỏi giây phút này sao?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

ĐẤNG CHỮA LÀNH

Thế giới của chúng ta đang phải đối mặt với đại dịch Covid-19.  Đã gần 2 năm, đại dịch gây biết bao hậu quả nghiêm trọng trong mọi lãnh vực.  Một con virus mắt thường không thấy mà có sức phá huỷ ghê gớm.  Số người chết vì Covid-19 tính đến giữa tháng 6-2021 đã lên tới gần 4 triệu người.  Một số người đã nhận định đại dịch là hình phạt của Thiên Chúa.  Lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta: không phải vậy.  Thiên Chúa không bao giờ là tác giả của sự dữ.  Không những thế, Ngài còn là Đấng chữa lành những thương tổn về tinh thần và thể xác của con người.

Thiên Chúa không tạo nên sự ác. Ngài cũng không muốn cho con người phải chết. Tác giả sách Khôn ngoan nói với chúng ta như vậy. Tình yêu thương của Thiên Chúa thể hiện qua việc Ngài tạo dựng vũ trụ trời đất và con người.  Một tác giả đã viết: yêu thương tức là muốn cho người khác hiệu hữu (Aimer, c’est vouloir que l’autre soit).  Chúng ta được hiện hữu trên đời là do kết quả tình yêu thương của Thiên Chúa.  Một câu hỏi được đặt ra: nếu Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, vậy sao con người vẫn phải chết?  Vì quỷ dữ ghen tỵ nên cái chết đã xuất hiện trên thế gian.  Vậy, tại sao sự dữ vẫn hiện hữu: thưa, do con người gây nên.  Con người không tuân thủ trật tự Chúa đã xếp đặt, đi ngược lại ý muốn của Đấng Tạo Hoá, phá huỷ công trình sáng tạo của Ngài, nên sự dữ vẫn tồn tại trên thế gian.

Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai.  Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến thế gian để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất (x. Lc 19,10).  Trong trình thuật của thánh Máccô hôm nay, chúng ta sẽ thấy có 4 nhân vật chính: Chúa Giêsu, người cha đang đau khổ, bé gái 12 tuổi đã chết và người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm.

Hai nhân vật, ông trưởng Hội đường và người phụ nữ, đều có điểm giống nhau là đức tin, tuy mỗi người thể hiện một cách khác nhau.  Ông trưởng Hội đường thì trực tiếp đến gặp Chúa và xin Người chữa lành con gái ông đang đau nặng gần chết.  Người đàn bà thì kín đáo tế nhị hơn, vì bệnh của bà không tiện nói ra, nhưng ý chính là bà tin vào quyền năng xuất phát từ Chúa Giêsu.  Người phụ nữ chỉ mong sao chạm được vào áo Chúa; viên cai quản Hội đường lại sấp mình nài nỉ van xin.  Cả hai hình thức đức tin đều xuất phát từ lòng xác tín và cậy trông.  Hai người đều tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể làm được điều họ đang kêu xin.  Tuy vậy, xem ra sự xác tín của người phụ nữ có vẻ mạnh mẽ hơn.  Bà không dám được Chúa biết đến hay can thiệp.  Bà chỉ cần chạm vào áo Người.  Trong khi đó, viên cai quản Hội đường, khi thấy con mình đã chết, đã bị dao động băn khoăn.  Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều nhắc đến “đức tin.”  Nếu Người ngỏ lời với người phụ nữ để khen đức tin của bà, thì với viên cai quản Hội đường, Người lại mời gọi ông hãy vững tin.  Người hiểu tâm trạng của ông khi nghe tin con mình đã chết.  Người cũng hiểu nỗi khổ đau của người phụ nữ mang bệnh lâu năm cần được chữa lành.

Trước nhu cầu của hai nhân vật này, Chúa Giêsu như một lang y vừa quyền thế vừa luôn sẵn sàng phục vụ.  Xin lưu ý: chủ đề chính của Tin Mừng thánh Máccô là trình bày Chúa Giêsu như một người phục vụ.  Hai phép lạ được trình bày đan xen, vừa gây sự hấp dẫn vừa diễn tả nhu cầu cấp thiết của các bệnh nhân: bé gái và người đàn bà.

Vì con người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa” (x St 1,27), mỗi tín hữu có sứ mạng làm cho sự tốt lành của Chúa lan tỏa nơi lòng cuộc đời.  Nếu hôm nay, Đức Giêsu không hiện diện hữu hình bằng xương bằng thịt để chữa lành những bệnh nhân, thì Người lại đang mượn cánh tay và tấm lòng của chúng ta để đem tình thương đến cho người bất hạnh, đem niềm vui cho người sầu khổ và đem tự do cho người bị giam cầm.  Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu thành Côrintô hãy quảng đại trong cuộc lạc quyên giúp người nghèo.  Theo vị Tông đồ dân ngoại, Đức Giêsu là gương mẫu cho chúng ta về lòng quảng đại, vì Người là Đấng “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em được giàu có” (Bài đọc II).  Mọi sự chúng ta có đều do Chúa ban.  Hơn nữa, chúng ta giàu có là do Chúa đã trở nên nghèo vì chúng ta.  Chính vì thế, san sẻ cho tha nhân là chúng ta làm cho hình ảnh Chúa trở nên rạng ngời nơi cuộc đời này.  Sự sẻ chia không làm cho chúng ta nghèo đi, nhưng trái lại, giúp cho chúng ta trở nên phú quý hơn trong cuộc sống.

Người đàn bà bị bệnh đã mười hai năm được Chúa chữa lành.  Bé gái con ông trưởng hội đường đã chết được Chúa cho sống lại….  Biết bao điều kỳ diệu hôm nay Chúa vẫn đang thực hiện nơi lòng cuộc đời, nếu chúng ta có đức tin vững vàng và lòng cậy trông sâu xa.  Ông Chesterton, văn sĩ, thần học gia và triết gia người Anh (1874-1936) đã viết: “Hãy cầu nguyện như thể mọi sự đều tùy thuộc vào Thiên Chúa.  Hãy hành động như thể mọi sự đều tùy thuộc vào chúng ta.  Quả vậy, khi quyền năng của Thiên Chúa và thiện chí của con người gặp gỡ nhau, thì những điều kỳ diệu sẽ xảy đến trong cuộc đời.

TGM Vũ Văn Thiên

CHỨNG NHÂN CỦA CÕI VĨNH HẰNG

Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gì hấp dẫn cả.  Y phục thì khó nghèo.  Ăn uống khổ cực.  Cách sống khắc khổ.  Chỗ ở thô sơ.  Lúc ở rừng rú, lúc thì sa mạc, nay đây mai đó.

Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này.

Điều đó chứng tỏ những vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá trị con người.  Thước đo giá trị con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh những chân thiện mỹ vĩnh hằng.

Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài.

Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân

Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ.  Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường.  Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc.  Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa.  Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế.  Ngài mong muốn bước xuống thực thấp, thực sâu để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ.

Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay.  Họ tu thân mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vị, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước.

Khi phong hoá bị suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao.  Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc.  Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn.  Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng.  Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ nhưng rất căn bản.  Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh.

Vì thế, đối với tôi,

Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài

Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi.  “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2).  Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7).  Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8).  Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới.  Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.

Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian…  Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài…  Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29-34).

Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối.  Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế.  Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi.

Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó.  Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy.  Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ.  Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài.  Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động.  Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita.

Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách

Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin.  Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3).  Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan.  Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế.  Mình đã giới thiệu Đấng đó.  Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây?  Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan.  Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay.  Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng.

Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa.  Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô.  Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô.  Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế.  Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu.

Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng.  Ngài nhìn về phía trước.  Ngài sống cho phía trước.  Phía trước có cõi đời đời.  Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người.  Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách.  Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay.  Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người.

Xin thánh Gioan Baotixita cầu bầu cho chúng ta.

Đức Cha JB. Bùi Tuần

ĐẤU TRANH ĐỂ CÓ LỜI CHÚC LÀNH CỦA CHA

Khi học cấp hai, chúng tôi phải học thuộc lòng một số bài thơ của William Blake.  Chúng tôi chẳng hiểu gì nhiều nhưng chúng có vần điệu quá hay, lại dễ nhớ nên nó vẫn còn trong đầu tôi đến ngày hôm nay.

Một trong các bài thơ đó có bài Nỗi buồn Trẻ con:

Mẹ tôi rên rỉ!  Cha tôi khóc.
Tôi lao vào thế giới hiểm nguy này.
Bất lực, trần truồng, khóc ầm ĩ
Như con quỷ núp trong bóng mây

Vùng vẫy trong tay cha
Giãy đạp phá lớp tã
Mệt và nản, thôi tôi nghĩ tốt nhất
Nên làm nũng trên ngực mẹ cho rồi.

Tất cả mọi quyển sách về nhân loại học, tâm lý học, và thiêng liêng có thể tóm trong bài thơ này: chúng ta đấu tranh để được cha chúc phúc, vui buồn lẫn lộn khi bị xa mẹ, lòng quặn thắt, sự trầm cảm không thể tránh khỏi khi trưởng thành, và tác động của nó trên đời sống tinh thần của chúng ta.  Chỉ vài chữ ẩn dưới vài câu vần điệu đơn giản, Blake đã nắm trọn vấn đề; nhưng, như đã thú nhận, lúc còn nhỏ dù có học thuộc lòng, tôi cũng không thấy được chút gì trong đó cả.

Vài năm về trước, sau một buổi giảng lễ, tôi nhớ lại bài thơ này.  Phúc Âm Chúa Nhật hôm đó nói về phép rửa của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đến sông Jordan để thánh Gioan làm phép rửa.  Thánh Gioan nhận Ngài xuống nước, và khi ra khỏi mặt nước (hình ảnh của sự sinh ra đời), thì trời mở ra, và tiếng Chúa Cha phán: “Này là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con!”

Điểm mà tôi nhắm đến trong bài giảng hôm đó khá thẳng thắn: Tôi chỉ đơn giản nói là khi chúng ta được rửa tội, Chúa Cha cũng nói những lời như thế với mỗi người chúng ta: “Này là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con!”  Bài giảng của tôi như thế là bảo đảm về ngôn từ, nhưng không phải.  Ngay sau khi lễ kết thúc, một thanh niên đến gặp tôi, bực dọc và tỏ ra rất khó chịu về bài giảng của tôi.  Anh chia sẻ, anh vừa được bảo lãnh tại ngoại, và đang chờ tuyên án.  Anh đi lễ Chúa Nhật hôm đó để cố chuẩn bị sẵn sàng đối diện với những gì sắp đến, nhưng tác dụng của buổi lễ lại đi ngược với hy vọng của anh.  Nó làm anh thêm tức giận và kích động, đặc biệt là bài giảng của tôi.  Và anh trình bày sự thất vọng của mình như sau: “Tôi ghét bài giảng của cha vì nó không thật!  Chưa có ai hài lòng về các việc tôi làm, nhất là cha tôi!”

Không có gì ngẫu nhiên khi chàng trai này sắp vào tù; anh không được cha anh chúc phúc.  Cũng như nhân vật trong bài thơ của Blake, anh “vùng vẫy” trong tay cha mình.  Cha anh, không như Thiên Chúa, không như Chúa Cha, không bao giờ chúc lành cho anh, có nghĩa là không bao giờ hiện diện đủ hay thực sự quan tâm đến anh, và ông cũng không đủ khả năng để vui mừng trước nhân cách và năng lực của đứa con trai, do đó anh không phải là một mối lo, cũng chẳng là nỗi thất vọng của ông.  Về căn bản, người con trai này chưa bao giờ là nguồn vui chính cho người cha, và đó là một thiếu thốn đau lòng.

Thèm khát được người cha chúc phúc có lẽ là nỗi thèm khát sâu đậm nhất của thế giới ngày nay.  Ngày nay, câu này đúng cả về mặt thiêng liêng lẫn nhân bản, và sự thật này quá hiển nhiên, bằng chứng là chúng ta thấy rõ nơi ngôn ngữ cơ thể của mọi người, đặc biệt là ở nam giới khi được nghe nhắc về điều này.

Và điều gì xảy ra khi chúng ta không được cha mình chúc lành đủ?  Gần như các hệ quả của nó nằm ẩn dưới bề mặt và không quy lỗi cho người cha, trừ khi người ta đạt đến ở một mức độ ý thức nào đó và nhận ra mình bị thương tổn đến chừng nào.  Đa phần sự thiếu vắng lời chúc lành của người cha chưa được cảm nhận rõ, một cơn khát, một quặn thắt tâm hồn, thiếu niềm vui, một cảm nhận mình chưa bao giờ đủ tốt.  Cảm giác này thường biểu lộ qua sự giận dữ, không tin tưởng bậc thẩm quyền, và ở một tình trạng khủng hoảng nhẹ thường đưa con người đến các hình thức khác nhau của trầm cảm, ám ảnh về thành tựu, và cả tình dục, thứ có vẻ là thuốc chữa bá bệnh cho họ.  Nó cũng có thể có một tác động tiêu cực nghiêm trọng về mặt tôn giáo.  Theo tư tưởng của Freud có một tiền đề cho rằng phần lớn những cơn giận dữ trút xuống thể chế tôn giáo chính là cơn giận nhắm đến người cha hay những người đóng vai trò người cha trong đời bạn.  Điều này giúp giải thích tại sao quá nhiều người có ít hoặc chẳng có bất kỳ một mối liên hệ ý nghĩa nào với các tôn giáo có tổ chức, lại nổi cơn giận dữ với tôn giáo và các giáo hội.

Vậy giải pháp là gì?  Làm sao đẩy cơn quặn thắt tâm can này ra khỏi tâm hồn chúng ta, nếu như chúng ta không được cha mình chúc lành cho đủ?

Linh đạo Kitô giáo dạy chúng ta phải đón nhận bằng cách trao ban.  Như lời Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô, khi cho là lúc nhận.  Chúng ta không thể tự làm cho mình hạnh phúc, nhưng có thể làm cho người khác hạnh phúc.  Do đó, chúng ta không thể buộc bất kỳ ai chúc phúc cho mình, nhưng chúng ta có thể chúc phúc cho người khác.  Sự viên mãn và hạnh phúc nằm ở đó.  Nói một cách đơn giản, khi hành động như Thiên Chúa, chúng ta bắt đầu cảm nhận như Thiên Chúa… và Thiên Chúa không bao giờ phải khốn khổ vì giận dữ và khủng hoảng như thế.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN

Thiên Chúa có hiện hữu không?  Nếu có, tại sao Ngài dửng dưng với nỗi thống khổ của con người?  Đó là câu hỏi nhiều người thường đặt ra, khi đối diện với đau khổ thử thách trong cuộc đời.  Không dễ đưa ra một câu trả lời cho câu hỏi trên.  Đau khổ là một thực tại gắn liền với cuộc sống con người.  Dù cao sang giàu có đến mấy, con người ta không tránh khỏi đau khổ.  Nếu thoát khỏi đau khổ do thiếu thốn vật chất, thì lại vướng vào đau khổ về tinh thần.  Lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa luôn hiện diện giữa con người và Ngài sẽ ra tay cứu giúp họ vào lúc Ngài muốn.

Chúng ta còn nhớ rõ buổi chiều ngày 27-3-2020, khi đại dịch Covid-19 đang lên đến đỉnh điểm tại châu Âu và châu Mỹ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự một buổi cầu nguyện chưa từng có trong lịch sử.  Tại quảng trường thánh Phêrô, trong thời tiết mưa và lạnh của Rôma, chỉ mình Đức Thánh Cha với mấy người phụ tá hiện diện.  Đức Thánh Cha đã cùng với cả thế giới Công giáo cầu nguyện cho đại dịch chấm dứt.  Một buổi cầu nguyện đầy cảm xúc.  Trong giờ cầu nguyện này, Bài Tin mừng theo Thánh Máccô được đọc lên để diễn tả bối cảnh thế giới.  Đức Giêsu ở trên thuyền với các môn đệ.  Bão ập đến.  Chúa đang ngủ.  Các môn đệ kinh hãi kêu với Chúa: chúng con chết mất!  Chúa Giêsu đã dẹp yên bão tố bằng một lời ra lệnh.  Biển trở lại an bình.  Diễn giải Lời Chúa, Đức Thánh Cha trấn an chúng ta: Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện với nhân loại đang gánh chịu đại họa do dịch bệnh.  Như Người ở trên cùng một chiếc thuyền với các môn đệ, nay Chúa cũng đang hiện diện giữa chúng ta.  Sau khi truyền lệnh cho sóng gió và biển yên lặng, Chúa quở trách các môn đệ: “Sao nhát thế! Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”  Từ bài Tin Mừng, Đức Thánh Cha mời gọi thế giới hãy tin tưởng vào Chúa, hãy liên đới với nhau trong lúc hoạn nạn và chắc chắn Chúa sẽ giải cứu chúng ta.

Trong truyền thống của một số nền văn hoá cổ xưa, biển là quyền lực của sự dữ.  Biển cũng như một quái vật, nuốt chửng vào lòng những nạn nhân bị đắm tàu thuyền hay đuối nước.  Qua mạc khải của Thánh Kinh, Thiên Chúa quyền năng thống trị biển.  Ngài ra lệnh cho chúng và chúng phải vâng phục.  Điều này được thể hiện trong Bài đọc thứ nhất trích sách ông Gióp: “Ta phán: ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa.”  Thiên Chúa cũng điều khiển mọi thế lực hùng mạnh mà con người thường tôn thờ như các thần linh.  Thánh vịnh 106 được chọn làm Đáp ca trong thánh lễ cũng diễn tả ý tưởng này.  Nội dung Thánh vịnh làm cho ta liên tưởng tới câu chuyện ngôn sứ Giôna: ông đi tàu thuỷ sang một hướng khác để trốn khỏi lệnh truyền của Chúa sai ông đi Ninivê.  Bão tố đã nổi lên và biển chỉ yên lặng khi thuỷ thủ ném ông Giôna xuống biển.  Qua sự kiện này, quyền năng của Thiên Chúa thể hiện, khiến người ngoại tôn vinh và thờ lạy Ngài.

Đại dịch Covid-19 đã hoành hành thế giới từ 2 năm nay. Đ ại dịch ấy chắc chắn sẽ kết thúc, nhờ nỗ lực cố gắng của con người.  Người tín hữu chúng ta tin rằng Thiên Chúa tác động qua các nhà chuyên môn để nghiên cứu ra những loại thuốc phòng chống và chữa trị dịch bệnh.  Dịch bệnh sẽ hết, cuộc sống của chúng ta vẫn tiếp tục và như thế sóng gió bão táp vẫn vây bủa cuộc sống của chúng ta.  Thực vậy, đời sống con người được sánh ví như một cuộc vượt biển.  Trong cuộc vượt biển này, có biết bao sóng gió thử thách vây bọc chúng ta.  Có những lúc chúng ta cảm thấy như Chúa vắng bóng trong cuộc đời, giống như các môn đệ kêu van với Chúa: “Thày ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”  Khi kêu lên những lời đó, các ông nghĩ rằng Chúa đang ngủ và bỏ rơi các ông.  Tuy vậy, vào lúc các ông đang gặp gian nguy, Chúa đã can thiệp.  Biển trở lại an bình, và niềm vui cũng trở lai với mọi người.

Thiên Chúa không dửng dưng trước nỗi thống khổ của con người.  Bằng chứng là Ngài đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và chịu khổ hình vì chúng ta.  Phó thác cậy trông nơi Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và mọi thử thách gian nan, đó là lời khuyên của Thánh Phaolô với giáo dân Côrintô.  Thánh Phaolô đã đạt tới sự viên mãn của Đức tin, khi khẳng định: “Từ đây, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người” (Bài đọc II).  Tin vào Chúa Giêsu là đoạn tuyệt với quá khứ, cũng là thay đổi quan niệm về Người, để nên giống Người trong suy nghĩ cũng như trong hành động hàng ngày. Đó là lý tưởng của đời sống Kitô hữu chúng ta.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

LÀM SAO ĐỂ TÌM KIẾM THIÊN CHÚA?

Chúng ta rất dễ hiểu lầm điều này.  Chúng ta luôn mãi tìm kiếm Thiên Chúa, dù cho hầu hết không nhận ra như thế.  Thường thì chúng ta nghĩ tìm kiếm Thiên Chúa là cuộc tìm kiếm có ý thức về mặt tôn giáo, một việc mà chúng ta làm theo khía cạnh tâm linh cuộc sống của mình.  Chúng ta có khuynh hướng nghĩ như sau: Tôi có cuộc sống bình thường và có những mưu cầu của tôi, và nếu có lòng, tôi sẽ thực hiện sự mưu cầu về tôn giáo và tâm linh qua cầu nguyện, suy niệm và giữ đạo để có thể biết Thiên Chúa.  Đáng tiếc thay, đây là một hiểu lầm tai hại.  Cuộc truy cầu bình thường của chúng ta để tìm kiếm ý nghĩa, sự viên mãn, và thậm chí là khoái lạc, thật ra đều là cuộc truy cầu Thiên Chúa.

Trong cuộc đời, chúng ta tự nhiên tìm kiếm những gì?  Theo lẽ tự nhiên, chúng ta tìm kiếm ý nghĩa, tình yêu, người tri kỷ, tình bạn, tình cảm, viên mãn tình dục, tầm quan trọng, sự công nhận, kiến thức, sáng tạo, vui chơi, hài hước và hoan lạc.  Tuy nhiên, chúng ta lại thường không xem những mưu cầu này là tìm kiếm Thiên Chúa.  Khi mưu cầu những thứ này, chúng ta hiếm khi xem chúng là cách để tìm kiếm Thiên Chúa.  Chúng ta nghĩ mình đơn giản chỉ đang tìm kiếm hạnh phúc, ý nghĩa, sự viên mãn và hoan lạc, và cuộc tìm kiếm Thiên Chúa là một việc phải thực hiện theo cách khác, và phải được thực hiện qua những việc thực hành tôn giáo rõ ràng.

Đâu phải chỉ mình chúng ta nghĩ vậy.  Chuyện này đã tồn tại từ xưa rồi.  Như Thánh Âugutinô đã phải đấu tranh với chuyện này, cho đến một ngày, ngài mới nhận ra.  Là người nhiệt thành truy cầu, Thánh Âugutinô dành 24 năm đầu đời để truy cầu những thứ của trần thế: học tập, ý nghĩa cuộc sống, yêu đương, tình dục, và một sự nghiệp đáng trọng.  Tuy nhiên, trước cả khi trở lại đạo, trong lòng ngài vẫn có một khát khao hướng về Thiên Chúa và những gì thiêng liêng.  Nhưng, cũng như chúng ta, ngài lại xem đó là một khát khao tách biệt với những khát khao của ngài đối với trần thế.  Chỉ sau khi trở lại, ngài mới nhận ra được một điều.  Và đây là những lời trứ danh của ngài để mô tả điều ngài đã cảm nghiệm:

“Con đã yêu Ngài quá muộn màng, ôi Vẻ Đẹp muôn đời ban sơ, muôn đời mới mẻ, con đã yêu Ngài quá muộn màng!  Ngài đã ở trong con, nhưng con lại ở ngoài, và con lại tìm kiếm Ngài bên ngoài.  Khi mình chẳng đáng mến, con lao vào những thứ đáng mến mà Ngài tạo dựng.  Ngài đã ở với con, mà con chẳng ở với Ngài…  Ngài đã gọi, đã hét, đã phá tan sự điếc đặc của con.  Ngài làm chớp lòa, chói sáng và phá tan sự mù tối của con.”

Đây là lời thừa nhận thành thật, Thánh Âugutinô đã sống nhiều năm không yêu mến Thiên Chúa, nhưng đó cũng là lời thừa nhận, trong những năm tháng đó, ngài đã hiểu lầm một điều và chính điều đó dẫn đến thất bại của ngài.  Hiểu lầm đó là gì?

Đọc lời tự thú của ngài, chúng ta thường tập trung vào phần đầu, là việc ngài nhận ra rằng Thiên Chúa ở trong ngài bấy lâu nay mà ngài lại không ở trong chính mình.  Đây cũng là đấu tranh triền miên của chúng ta.  Nhưng trong lời tự thú này và trong cuộc đấu tranh triền miên của chúng ta, có một điều khó thấy hơn, chính là việc ngài công nhận rằng trong bao nhiêu năm tháng đó, khi ngài tìm kiếm đời sống trần thế, một cuộc tìm kiếm mà ngài từng xem là chẳng liên quan gì đến việc tìm kiếm Thiên Chúa, thật ra ngài đã tìm kiếm Chúa rồi.  Điều ngài tìm kiếm bao năm qua nơi những sự trần tục và khoái lạc, thật ra chính là tìm kiếm chính Thiên Chúa.  Thật vậy, lời tự thú của ngài có thể được viết lại như thế này.

Muộn, con đã yêu Ngài quá muộn màng, bởi con chẳng ở trong bản thân khi mà Ngài luôn ở trong con, con chẳng biết khi tìm kiếm trong thế trần là con đang tìm Ngài.  Con chưa hề nghĩ cuộc tìm kiếm đó liên quan gì đến Ngài.  Con cứ nghĩ không phải con tìm kiếm Ngài, mà là con tìm kiếm những gì đem lại cho con ý nghĩa, tình yêu, tầm quan trọng, sự viên mãn tình dục, kiến thức, hoan lạc và sự nghiệp.  Con chưa hề nghĩ khát khao của con với những thứ này có liên hệ với khát khao hướng về Ngài.  Con chẳng biết rằng mọi thứ con theo đuổi, mọi thứ con dốc mình, đều có sẵn trong con, trong Ngài.  Muộn quá, con đã hiểu Ngài quá muộn màng.  Muộn quá, con đã quá muộn để hiểu ra rằng điều con quá khát khao và dốc mình lại ở trong Ngài.  Bao năm qua, con chưa hề nghĩ những khắc khoải, sự vị kỷ và mưu cầu khoái lạc của con lại có liên hệ gì đến Ngài.  Mọi việc con dốc mình lại đang ở trong Ngài và Ngài ở trong con.  Muộn quá, con đã nhận ra quá muộn màng.

“Chúng ta được bắn vào cuộc đời với sự điên cuồng của các vị thần.”  Các nhà khắc kỷ Hy Lạp nhìn nhận như thế.  Họ đã đúng.  Cả cuộc đời chúng ta đơn giản chỉ là cuộc tìm kiếm để phản ứng với sự điên cuồng thần thánh trong chúng ta, một sự điên cuồng mà các Kitô hữu đồng nhất với những khát khao vô tận của linh hồn.  Với những khát khao này, như Thánh Âugutinô chúng ta lao vào thế trần tìm kiếm ý nghĩa, tình yêu, tri kỷ, tình bạn, tình cảm, sự viên mãn tình dục, tầm quan trọng, sự công nhận, kiến thức, sự sáng tạo, và hoan lạc.  Mà có lẽ còn hơn cả những truy cầu tôn giáo rõ ràng của chúng ta, cuộc truy cầu trần thế đó thật sự chính là cuộc truy cầu Thiên Chúa.

Mong chúng ta sớm nhận ra điều này, để không phải viết: “Con yêu Ngài quá muộn màng!”

Rev. Ron Rolheiser, OMI

MÁU CÙNG NƯỚC CHẢY RA

Status

Hôm đó là ngày áp lễ, người Do thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sabát, mà ngày sabát đó lại là ngày lễ lớn.  Vì thế họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống.  Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu.  Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.  Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người.  Tức thì, máu cùng nước chảy ra.  Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin.  Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.  Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.

Muốn nhìn thấy Trái Tim của Thiên Chúa, phải đến với Giêsu.  Muốn nhìn thấy Trái Tim của Giêsu, chúng ta có thể đứng từ nhiều vị trí.  Thấy Trái Tim ấy khi Giêsu cúi xuống trên những bệnh nhân và tội nhân, trên người thu thuế và gái điếm, trên phụ nữ và trẻ em.  Thấy Trái Tim ấy khi Giêsu nuôi dân ăn no, hay rửa chân cho các môn đệ.

Nhưng có một chỗ đứng đặc biệt để nhìn thấu Trái Tim của Giêsu, nhìn rõ Trái Tim đó vào lúc yêu bằng tình yêu lớn nhất, chỗ đó là Núi Sọ, lúc đó là buổi chiều thứ sáu, áp lễ Vượt Qua, khi đó Trái Tim ấy đã ngừng đập và bị đâm thâu.  Chỉ riêng Tin Mừng thứ tư kể lại chuyện Đức Giêsu bị đâm vào cạnh sườn, khi Ngài chịu đóng đinh trên thánh giá.  Có Mẹ của Ngài và người môn đệ Ngài thương mến đứng gần bên.  Chính người môn đệ này đã chứng kiến tận mắt và muốn làm chứng một cách nghiêm túc cho các môn đệ tương lai về điều đối với ông thật là quan trọng, để họ cũng tin như ông (c.35).

Câu chuyện xảy ra thật là đơn giản.  Người Do thái muốn hạ xác các người bị đóng đinh xuống, vì chiều thứ sáu là đã bắt đầu ngày sabát, cũng là ngày đầu tiên của tuần lễ Vượt Qua, một đại lễ trong năm.  Thấy Đức Giêsu chết rồi, lính đã không đánh giập ống chân nữa.  “Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người.  Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (c. 34).

Làm sao máu có thể chảy ra khi tim đã ngừng bơm máu và xác đã chết?  Làm sao máu và nước có thể chảy ra một cách có vẻ biệt lập như vậy?  Nhiều nhà khoa học đã tìm cách giải thích hiện tượng này, và đối với họ điều này không phải là không có khả năng xảy ra, đối với một người mới chết, đang ở tư thế thẳng đứng.

Người môn đệ được Chúa mến thương đã chứng kiến cảnh tượng ấy, hẳn đã nhận ra và trân trọng ý nghĩa sâu xa của nó.  Giáo Hội vẫn coi các bí tích được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu.  Máu là máu của bí tích Thánh Thể, nước là nước của bí tích Thánh Tẩy.  Từ cạnh sườn Đức Giêsu chảy ra dòng nước mà Ngài đã hứa ban trước đây.  “Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7, 38-39).  Dòng nước ấy là Thần Khí Ngài ban khi gục đầu tắt thở (Ga 19, 30).

Chính vào giờ Đức Giêsu chịu treo, người ta giết chiên Vượt qua để mừng lễ.  Đức Giêsu mới là Chiên Vượt qua đích thực (Ga 1, 29. 36).  Ngài chết như con chiên hiền lành bị đem đi giết, như người Tôi Trung (Is 53, 7).  Ngài chết như con chiên Vượt qua không bị đánh giập cái xương nào (c. 36).

Lễ Thánh Tâm cũng là ngày thánh hóa các linh mục.  Chúng ta cầu cho các linh mục có trái tim của Thầy Giêsu, trái tim bị đâm thâu, nên đã mở ra để đón mọi người chẳng trừ ai, trái tim yêu đến cùng, yêu bằng tình yêu lớn nhất, yêu đến hiến mạng.

*****************************************

Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người.  Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.  Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có tình bạn thân thiết với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.  Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho, tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.  Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật.  Amen!

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

VƯƠNG QUỐC VÀ GIÁO HỘI

Một ngày kia, bé Sharon, năm tuổi, đến thăm bà ngoại.  Trong cuộc thăm viếng này, bà đã cho cháu một trái dưa leo lớn nằm trong lọ thuỷ tinh.

Bé Sharon rất ngạc nhiên và hỏi: “Ngoại ơi, làm sao trái dưa leo lọt được vào cái chai qua cái miệng nhỏ xíu này?”  Bà ngoại mỉm cười và nói:

“Cháu ơi, nếu bà nói cho cháu nghe bí mật này ngay lập tức, nó sẽ làm hư một bí mật lớn hơn mà bà muốn nói cho cháu nghe sau này.  Hãy suy nghĩ một chút xíu đi.

“Bà biết là cháu sẽ tìm ra câu trả lời.  Và lúc đó, bà sẽ nói cho cháu biết một bí mật lớn hơn.”

Khoảng một tuần sau, bé Sharon thơ thẩn hái bông trong khu vườn của bà ngoại.  Bỗng dưng, nó thấy một cái chai mà trong đó bà ngoại đã nhét vào một nhánh nhỏ với trái dưa leo chút xíu.  Bây giờ nó đã hiểu cách bà ngoại nó làm: bà nhét dưa leo vào cái chai khi nó còn nhỏ và để nó lớn lên ở trong đó.  Nó chạy đến bà ngoại, vừa nhảy nhót vừa nói, “Ngoại ơi, con biết bí mật đó rồi.  Bây giờ ngoại nói cho con biết bí mật lớn đi.  Con không chờ được nữa!”

Bà ngoại nó bắt đầu:

“Bí mật thì như thế này: một thói quen tốt mà cháu tập luyện bây giờ giống như trái dưa leo nhỏ trong cái chai.  Từ từ nó lớn lên và lớn hơn nữa bên trong con người cháu, như vậy khi cháu trưởng thành, không ai lấy đi được đức tính ấy.

“Và như vậy, điều bí mật là thế này: Nếu cháu muốn sau này hạnh phúc thì phải tập luyện một thói quen tốt ngay tự bây giờ.”

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giêsu kể cho chúng ta nghe một bí mật cũng giống như bí mật của bà ngoại cháu Sharon đã kể.

Đức Giêsu gieo một hạt cải nhỏ xíu của Nước Trời trong lòng mỗi người chúng ta.  Nó “đâm chồi và lớn lên” mà không ai biết.

Công việc của chúng ta là nuôi dưỡng nó với sự cầu nguyện và công việc lành cho đến khi nó lớn lên đến độ không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta – dù là những tai hoạ, những bách hại, và ngay cả cái chết.

Ở đây, điều quan trọng cần để ý là sự lớn lên của Nước Trời trong mỗi người chúng ta thì từ từ, thay đổi dần dần.

Cũng giống như cần phải có thời gian để trái dưa leo nhỏ xíu lớn lên trong cái chai, Nước Trời cũng vậy.  Đây là lý do tại sao vẫn còn sự dữ bên trong tâm hồn chúng ta, và nhất là trong thế giới.

Hạt giống của Nước Trời đã được gieo xuống; nó đang mọc lên nhưng chưa đạt đến trọn vẹn.
Đây là lý do chúng ta xin cho “nước Cha trị đến” khi đọc kinh Lậy Cha.
Trong khi đó, “lĩnh vực của Satan” tiếp tục chiến đấu chống với Nước Trời.
Nói cách khác, vương quốc của Satan thì chỉ mới bị kết án tử hình.  Nó chưa bị tiêu diệt.  Và hậu quả là nó vẫn gieo rắc sự thù địch trong thế giới chúng ta.

Điều này đưa chúng ta đến điểm quan trọng thứ hai về Nước Trời.

Không giống như một cây rõ ràng xuất phát từ hạt giống nhỏ xíu, để mọi người đều thấy, Nước Trời thì vô hình và không thể thấy.  Nó là tinh thần.  Đức Giêsu nói:
“Nước Thiên Chúa không đến theo kiểu cách để được thấy.  Không ai có thể nói, ‘Kìa, nó ở đây!  Hay ‘Nó ở kia’; bởi vì Nước Thiên Chúa thì ở trong lòng anh em.” (Luca 17:20-21)

Điều này đưa chúng ta đến với vai trò của Giáo Hội.  Đức Giêsu đã thiết lập Hội Thánh để phục vụ hai mục đích.
Thứ nhất, nó phục vụ như một “hạt giống” mà từ đó Nước Trời sẽ xuất phát.  Thứ hai, nó là một “dấu hiệu” thấy được của vương quốc Thiên Chúa trong thế giới chúng ta.

Cũng giống như Đức Giêsu, Hội Thánh có hai chiều kích: chiều kích thiêng liêng và chiều kích nhân bản.
Chiều kích thiêng liêng thì vô hình.  Không có ai khác hơn là chính Đức Kitô, Người là đầu và là sự sống của Hội Thánh.
Ngược lại, chiều kích nhân bản thì hữu hình.  Đó là các phần tử của Hội Thánh.

Qua đời sống chứng nhân và phụng tự của chúng ta, là các phần tử của thân thể Đức Kitô, chúng ta làm cho Hội Thánh trở nên hữu hình và hoạt động trong thế giới.
Chiều kích nhân bản của Hội Thánh thì giống như bất cứ gì thuộc về con người; nó có khuyết điểm. Điều này không chỉ bao gồm các phần tử, nhưng còn cả giới lãnh đạo: các giám mục và linh mục của Hội Thánh.
Bởi vì có khuyết điểm, nó không luôn luôn trưng ra được “diện mạo của Đức Kitô” cho thế giới thấy như nó phải thi hành.
Nó cũng dễ sa ngã tội lỗi và vẫn phải tranh đấu để trở nên điều mà Thiên Chúa đã mời gọi.
Hậu quả là trong cuộc lữ hành trần thế của Hội Thánh, nó luôn luôn là một sự pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối.
Sẽ luôn luôn có đủ ánh sáng cho những ai thành tâm muốn được thấy và cũng đủ tối tăm cho những ai không muốn.
Đây là điều nó phải như vậy.  Ánh sáng của Hội Thánh không bao giờ trùm lấp chúng ta.  Nó chỉ mời gọi chúng ta.
Nói cách khác: khi nói đến sự hiện diện của Hội Thánh, nó không bao giờ quá sáng tỏ đến độ chúng ta không cần phải thắc mắc gì cả.
Nó cũng không ẩn giấu quá kín đến độ người thành tâm muốn tìm kiếm phải lầm lạc.  Nó luôn luôn mở rộng cho cả hai điều khả dĩ.
Và đây là điều phải như vậy.  Đức Giêsu tôn trọng sự tự do con người.  Đức Giêsu không ép buộc chúng ta phải đi theo Người.
Hãy để tôi kết thúc với một đoạn trích từ bài thơ thật hay bởi một tác giả vô danh.
Nó hầu như tóm lược những gì mà chúng ta muốn nói.  Bài thơ viết:

Tôi nghĩ không bao giờ tôi thấy được một Giáo Hội đúng như tất cả những gì nó phải là:
Một Giáo Hội mà các phần tử không bao giờ lệch lạc khỏi con đường thẳng và hẹp.
Một Giáo Hội không còn hàng ghế trống trong nhà thờ, và cha xứ không bao giờ phải thất vọng.
Các Giáo Hội tuyệt hảo như thế có lẽ cũng có nhưng tôi chưa bao giờ được biết.
Tuy vậy, chúng ta sẽ làm việc và chơi đùa và hoạch định để làm cho Giáo Hội của chính chúng ta trở nên tốt nhất có thể.

Lm. Mark Link, S.J.