NỐI KẾT VỚI CHÚA KITÔ

Truyện kể về một người sống trong một làng hẻo lánh thuộc miền thượng du.  Nhờ một cơ hội hiếm có, ông được đặt chân lần đầu tiên đến một thành phố.  Tuy không có nhiều tiền, nhưng ông cũng muốn đem về một cái gì đó để khoe với dân làng.  Sau khi đã thăm nhiều nơi trong thành phố, một trong những cái làm ông thích thú nhất là các ánh đèn chiếu sáng trong phố.  Với số tiền trong túi, ông đã mua một ít bóng điện và công tắc điện.  Vừa khi trở về tới làng, việc đầu tiên là ông treo những bóng đèn đó trong nhà ngoài ngõ trước nhà ông.  Làng xóm qua lại thấy lạ nên hỏi, nhưng ông chỉ trả lời: Chịu khó chờ đi.  Đến tối sẽ biết.  Khi ánh mặt trời vừa ngả bóng, ông trịnh trọng bật các công tắc.  Nhưng lạ quá, bóng đèn chẳng sáng gì cả.  Tội nghiệp cho ông.  Chẳng ai bảo cho ông biết là cần phải có dòng điện thì bóng đèn mới chiếu sáng được.

Hồi nhỏ tôi có anh bạn rất giỏi về khoa nói.  Chuyện gì hắn cũng nói vào được.  Một hôm hắn nghe bài hát “Thầy là cây nho, các con là cành” hắn liền nhái ngay ra “Thầy là con cua, các con là càng.  Càng nào kết hợp cùng cua sẽ bò nhanh hơn cáy…”  Cả bọn chúng tôi vỗ tay hoan hô, nhưng ông thầy dạy giáo lý nghe được gọi hắn lên cho hắn một bài ‘moral’ khá dài.  Ngày nay nghĩ lại, ông thầy hơi nghiêm nghị.  Những nơi như ở Việt nam thời xưa, biết cây nho thế nào đâu.  Nhưng nói con cua thì ai cũng biết. Nên càng cua cần liên kết với thân cua, chúng ta cần liên kết với Chúa Giêsu.

“Không có Thầy, các con không thể làm gì được” (Ga 15:5).  Sống trong cuộc đời, nhiều người nghĩ rằng họ có tất cả: bằng cấp có, việc làm có, gia đình có, nhà cửa xe hơi có.  Nhưng khi bóng chiều của cuộc đời buông xuống, khi nhắm mắt lìa đời, họ mới biết họ chỉ có hai bàn tay trắng.  Họ có thể thành công trong cuộc đời, nhưng vì không được nối kết với nguồn gốc sự sống đích thực, nên “lời lãi cả thế gian, mà thiệt hại phần linh hồn thì được ích gì?” (Mt 16:26).

Nếu họ đã biết liên kết với Chúa Kitô, thì họ đã “sinh nhiều trái” (Ga 15:5).  Tuy là theo giáo lý của Chúa Kitô, để có thể “sinh nhiều trái”, điều đòi buộc là phải hy hiến chính mình.  Hoa quả đầu tiên phát sinh do sự hy hiến bản thân này chính là tình yêu.  Một tình yêu dám hy hiến bản thân mình vì người mình yêu.  Vì là những cành cây được nối liền với thân cây là Chúa Kitô, chúng ta tin rằng sức mạnh và ân sủng của Chúa đang tuôn chảy vào tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta có thể sống tình yêu hy sinh như Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta.

Qua Bí tích Rửa tội, các Kitô hữu đã được nối kết với Chúa Kitô.  Nhưng nối kết với Chúa Kitô mà thôi thì chưa đủ.  Chúng ta cũng cần phải cắt tỉa những cành, những nhánh cây đang cản trở chúng ta sống đời yêu thương.  Những cành cây cần phải cắt tỉa là những thành kiến, những ác cảm thù hận, những lối sống buông thả ích kỷ.

Cắt tỉa những cành cây độc hại rồi, chúng ta cũng cần phải củng cố những cành cây tốt mỗi ngày mỗi nối kết chặt chẽ hơn với thân cây.  Chúng ta cần năng lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, để chúng ta được nuôi dưỡng bởi ân sủng của Chúa, giúp chúng ta tăng triển trong niềm Tin Yêu.  Ngoài ra, Lời Chúa là kho tàng quan trọng cho đời sống tâm linh của chúng ta.  Lời Chúa soi đàng hướng dẫn chúng ta sống theo gương lành Chúa Kitô đã để lại cho chúng ta trong Phúc Âm.

Thế giới chúng ta đang sống có thể đem đến cho con người một cuộc sống thoải mái, đến nỗi nhiều người nghĩ rằng họ không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa.  Nhưng khi chúng ta để tâm nhìn lại bản thân, chúng ta biết rằng chúng ta rất cần Chúa.  Một cuộc sống xem ra thoải mái, thường thì lại bị xen lẫn với lắm khổ đau.  Chỉ với ơn Chúa, chúng ta mới tìm được sức mạnh để chịu đựng, tìm được ý nghĩa cho những khổ đau và gánh nặng trong cuộc đời.  Nếu chúng ta có Chúa trong cuộc đời, và nếu chúng ta để cho Chúa thanh tẩy con người của mình, chúng ta có thể trở nên những cành cây với nhiều hoa trái tốt tươi.  Những hoa trái không những làm tươi mát cuộc sống của chính mình, mà còn nuôi dưỡng lòng tin yêu mến Chúa của nhiều tâm hồn.

Lm. Gioan Cao Vũ Nghi, CRM

LỜI CẦU NGUYỆN CHÂN THÀNH

Gần đây, tôi có nhận được một lá thư của một phụ nữ có cuộc sống vạn phần đắng cay nuốt hết vào lòng.  Trong vài tháng, cô bị chồng ly dị, bị mất việc, bị buộc phải rời khỏi ngôi nhà cô đã sống lâu nay, bị kẹt trong chỗ ở mới vì lệnh phong tỏa Covid, và bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư nan y.  Thật quá sức chịu đựng.  Có lúc, cô đã sụp đổ, lòng đầy tức giận và chỉ muốn bỏ cuộc.  Cô hướng về Chúa Giêsu trong cay đắng: “Nếu Chúa có đó, dù chắc là không có đâu, thì Chúa biết những chuyện này chứ?  Chúa có bao giờ cô đơn như thế này đâu!”  Tôi nghĩ chúng ta ai cũng có những lúc như thế này.  Chúa có biết những cảnh này không?

Nếu chúng ta tin vào Tin Mừng, thì Chúa Giêsu biết hết những cảnh này, không phải bởi ngài có ý thức thần thánh, nhưng bởi như người phụ nữ tôi vừa kể, Ngài biết ngay từ đầu cảnh phải đơn độc, bị gạt ra ngoài thế giới bình thường của nhân loại.

Điều này đã rõ ràng ngay từ khi Ngài ra đời.  Tin Mừng nói rõ cho chúng ta biết, Mẹ Maria phải sinh Chúa Giêsu trong chuồng bò vì nhà trọ không còn chỗ.  Do người chủ trọ nhẫn tâm!   Tội nghiệp ông ta đã phải chịu chê trách hàng thế kỷ. Tuy nhiên, nghĩ như thế là bỏ sót điểm chính của câu chuyện và hiểu sai ý nghĩa của nó.  Bài học của câu chuyện này không phải là về sự tàn nhẫn vô lương tâm ngự trị thế gian, hay là thế giới quá bận tâm đến bản thân mà chẳng để ý thấy Chúa Giêsu giáng sinh, mặc dù những ý này cũng đúng.  Đúng ra, điểm mấu chốt là, Chúa Kitô, được sinh ra như một kẻ ngoài lề, một kẻ nghèo hèn, một người ngay từ đầu đã không được đặt vào guồng quay chính của xã hội.  Như tác giả Gil Bailie nói, Chúa Giêsu là người bị tất cả nhất trí loại trừ.  Sao có thể khác được chứ?

Với con người của Chúa Giêsu, với thông điệp trọng tâm của Ngài là tin mừng cho người nghèo, và với việc Ngài đi vào cuộc sống nhân loại để trải nghiệm mọi điều trong đó, kể cả đau đớn và sỉ nhục, khi mà đáng ra Ngài có thể sinh ra trong cung điện, được nhiều hỗ trợ và tâm điểm của mọi chú ý yêu thương.  Khi đồng cảnh ngộ với người nghèo, Ngài đã phải sinh “ngoài thành phố” như cách nói của tu sĩ Merton, và nó mang một ý nghĩa ẩn dụ lớn lao.  Ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã biết nỗi đau và tủi nhục của người bị loại trừ, người chẳng có chỗ trong xu thế chủ đạo trần thế.

Khi xem kỹ các Tin Mừng, chúng ta thấy, chẳng nỗi đau, về cảm xúc hay thể lý nào, mà Chúa Giêsu chưa trải qua.  Có thể nói, không một ai, bất chấp nỗi đau của chính mình, có thể nói với Chúa Giêsu rằng: Ngài đâu phải trải qua những gì con đã trải qua!  Chúa Giêsu đã trải qua hết rồi.

Trong những năm mục vụ, Ngài đã đối diện với chối bỏ, chế nhạo và bị đe dọa liên tục, có lúc phải trốn đi như tội phạm lẩn trốn.  Ngài cũng cô độc, ngủ một mình, không có được những sự thân mật bình thường của con người, không có gia đình riêng của mình.   Rồi trong cuộc thương khó và cái chết, Ngài đã trải nghiệm những nỗi đau cảm xúc và thể lý cùng cực nhất. Về cảm xúc, Ngài đã “đổ mồ hôi máu”, và về thể lý, khi chịu đóng đinh, Ngài đã trải qua nỗi đau cùng cực, sỉ nhục cùng cực mà một con người có thể gánh chịu.

Như chúng ta đã biết, đóng đinh thập giá được người La Mã dựng lên như hình phạt tử hình, nhưng họ còn nghĩ xa hơn thế nhiều.  Nó được dựng lên để tạo ra đau đớn và sỉ nhục nhiều nhất có thể cho người chịu nạn.  Chính vì thế mà thỉnh thoảng người ta cho người chịu đóng đinh dùng thuốc phiện, không phải để làm giảm cơn đau, nhưng để người đó không ngất đi và thoát khỏi cơn đau này.  Đóng đinh cũng được dùng để sự sỉ nhục lên đến cùng cực.  Và để làm thế, họ lột trần người bị đóng đinh, phơi bày bộ phận sinh dục, và trong cơn co thắt lâm tử, bộ ruột lỏng ra sẽ là sự tủi nhục cuối cùng.  Một vài học giả còn cho rằng trong đêm trước khi vác thập giá, có khi Ngài còn bị binh lính xâm hại tình dục.  Thật sự, không có nỗi đau hay sỉ nhục nào mà Ngài chưa gánh chịu.

Theo Kinh viện, cầu nguyện được định nghĩa là nâng tâm trí và tâm hồn lên cùng Thiên Chúa.  Sẽ có những điểm chùng xuống trong cuộc đời chúng ta, khi hoàn cảnh buộc chúng ta phải nâng tâm trí và tâm hồn lên với Chúa theo một cách có vẻ đi ngược với cầu nguyện.  Có lúc, chúng ta sẽ tới điểm bùng nổ, khi mà trong sự sụp đổ, giận dữ, hổ thẹn và tuyệt vọng, chúng ta nghĩ không một ai, kể cả Thiên Chúa, quan tâm đến chúng ta, chúng ta cực kỳ cô độc, và thế là, dù có ý thức hay không, chúng ta sẽ đối đầu với Chúa Giêsu qua những lời này: “Chúa biết gì về chuyện này chứ!”  Và Chúa sẽ lắng nghe lời đó như một lời cầu nguyện, một tiếng kêu chân thành từ cõi lòng, hơn là một lời bất kính.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

THINH LẶNG NỘI TÂM

Chúng ta đang sống trong thời bùng nổ thông tin.  Chúng ta cập nhật tin tức hằng ngày, đọc “tin” rồi “tức.”  Đến nỗi, chúng làm cho một số người mất phương hướng, không biết đứng vào đâu cho vững, bởi muôn vàn những sự xấu xa quanh mình.  Để rồi, họ không còn tin vào bản thân và đủ tin vào tha nhân.  Có thể nói, đó là hình thức “khủng bố” về thông tin.  Đã đến lúc, chúng ta cần dành những phút thinh lặng để lượng giá thông tin hầu rút ra những thông điệp giúp cuộc sống có ý nghĩa hơn.

Dường như con người ngày nay sợ đối diện với thinh lặng?  Vì đối với họ, thinh lặng là một hình thức phủ nhận hiện hữu bản thân cách nào đó.  Thế nên, họ nói luyên thuyên hoặc nghe bất cứ sự gì để bớt cảm giác trống rỗng trong tâm hồn.  Ở những nơi buôn bán sầm uất, họ kích thích người khác mua sắm bằng cách mở nhạc kích động nhằm tác động tâm lý người mua mau mắn quyết định chọn lựa sản phẩm của mình.  Ở tư gia, họ thoải mái chọn các kênh truyền hình mình yêu thích để vui cửa vui nhà…  Chưa hết, giới trẻ thể hiện đẳng cấp của mình bằng cách nghe những loại nhạc rẻ tiền, yêu nhau ba ngày rồi xa nhau.  Những bài hát đại loại như thế đã tiêm nhiễm những tâm hồn nhạy cảm khiến giới trẻ ngày nay yêu cuồng sống vội, sống thử sống hoang…  Đã đến lúc, chúng ta cần dành những phút thinh lặng để lượng giá cuộc sống của mình, rằng: những gì mang lại cho ý nghĩa cuộc sống của tôi?

Thinh lặng không có nghĩa là câm nín mà là để lắng nghe.  Chúng ta được Thượng Đế ban cho một cái miệng để nói nhưng có hai tai để lắng nghe.  Thinh lặng để lắng nghe, lắng nghe để thuận theo.  Lắng nghe tiếng Chúa mời gọi trong từng khoảnh khắc cuộc sống và thuận theo ý muốn của Người.  Đó là thái độ đúng đắn của người khao khát sống tâm linh và đi tìm ý nghĩa cuộc sống.

Lắng nghe

Chúng ta thinh lặng để lắng nghe những gì?

Trước tiên, chúng ta cần lắng nghe những tiếng thổn thức của lòng mình.  Bạn có phải là người đam mê danh vọng?  Bạn thích nghe những lời nói uy quyền và cũng thích dùng “quyền” để “hành” người khác.  Bạn thích ăn trên ngồi trốc, ăn trắng mặc trơn…  Những thứ ấy giúp người khác đánh giá đẳng cấp của bạn, tạo “thương hiệu” cho bản thân mình.  Bạn có phải là người đam mê trục lợi?  Bạn thích vơ vét về cho mình mọi sự cả những gì thuộc quyền sở hữu của người khác.  Bạn phá kho lẫm nhỏ để xây kho chứa lớn hầu lấp đầy tham vọng của mình.   Bạn dễ nghe tiếng nói của tiền bạc hơn là tiếng thét gào đói khổ của tha nhân.  Bạn như chú cọp no mồi đang nằm vuốt ve bộ cánh của mình…  Bạn có phải là người đam mê sắc dục?  Sự tươi mát của người khác là niềm hương phấn cho bạn.  Nhân phẩm của con người chỉ đáng giá một cuộc mua vui.  Mọi sự trên đời được ban cho con người để chỉ thụ hưởng…  Bạn cần lắng nghe những thổn thức của lòng mình để nhận ra những cám dỗ danh, lợi và thú đang cuộn trào trong tâm hồn để biết mình hơn.  Thinh lặng khả dĩ giúp người ta biết mình và tự chủ.

Cũng liên quan đến chiều kích cá nhân, để có thể lắng nghe tiếng Chúa, con người phải thinh lặng và cô tịch đến mức hoàn toàn nghĩa là chết đi con người cũ của mình.  Điều này nhà thần học Maurice Zundel đã kinh nghiệm khi nói rằng: “Chỉ có thinh lặng của toàn thể bản thể con người, trong cái chết của cái tôi mới có thể nghe được tiếng vang vọng nhiệm mầu của cái thinh lặng nơi Thiên Chúa”.[1]

Tiếp đến, thinh lặng để lắng nghe tiếng nói của tha nhân.  Trong lúc chúng ta mưu tìm mọi thuận lợi cho bản thân mình thì đâu đó, tiếng gào thét của bao người đau khổ; những Ladarô của thời đại đang ngồi trước cửa nhà bạn.  Họ là bản trắc nghiệm cho lòng trắc ẩn của bạn.  Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói thật chí lý: Thiên Chúa đặt để những người bất hạnh quanh bạn để giúp bạn thi thố lòng quảng đại.  Có thể chúng ta vẫn lắng nghe nhưng đưa mắt làm ngơ.  Đức Phanxicô đã mạnh mẽ cảnh báo con người thời đại về thái độ toàn cầu hóa sự dửng dưng.  Sự dưng dửng ấy làm giảm trừ tính người trong chúng ta.  Bởi đó, chúng ta cần thinh lặng để lắng nghe tiếng nói của tha nhân, để nhạy bén và đồng hành với những mảnh đời bất hạnh.  Thinh lặng giúp khai thông lòng trắc ẩn nơi sâu thẳm lòng người.

Sau hết, thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa. Kinh nghiệm của ngôn sứ Elia cho ta thấy: phải thinh lặng đủ mới ý thức Chúa đến trong cơn gió hiu hiu.  Khi khước từ cuộc chiến thắng với 450 tư tế của Baal và chạy trốn mọi thế lực trần gian, ông mới sẵn sàng bước vào cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.  Chính trong sự bất lực khi ông thốt lên: “Chúa ơi đủ rồi, hãy lấy mạng con đi, vì con cũng không hơn gì các bậc cha ông con xưa” (1V 19,4) mà ông có thể dễ dàng lắng nghe tiếng Thiên Chúa.  Chính trong sự bất lực, buông xuôi tưởng chừng như vô vọng, Thiên Chúa lại tỏ mình ra cho ta mà chỉ có một tâm hồn thinh lặng biết lắng nghe mới nhận thức giờ Chúa viếng thăm.

Đôi khi, chúng ta thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa nhưng vì sự hiểu biết của ta có thể cản trở một cuộc tiếp xúc với Chúa đích thực.  Evagre le Pontique đã lưu ý chúng ta: “Sự tĩnh lặng có khả năng làm tan biến mọi tư tưởng, mọi hình ảnh của ta về Thiên Chúa.  Chỉ như thế, chúng ta mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa thật”.[2]  Điều này đã được minh chứng rõ nét trong cuộc đời thánh Toma Aquino.  Đọc trọn bộ Tổng luận thần học và những tác phẩm của ngài, chúng ta mới nhận ra sự uyên bác của thánh nhân và những tư tưởng ấy ngày nay vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong Giáo Hội.  Thế mà, khi được vị thư ký hỏi: sao ngài không hoàn tất bộ Tổng luận này vì chỉ còn ít chương, ngài trả lời một cách chân thành: tôi coi tất cả như rơm rác.  Và từ đó, ngài đã ngưng mọi việc tri thức, bắt đầu cuộc sống thinh lặng và chiêm niệm.  Chúng ta không được ngài chia sẻ về những kinh nghiệm thiêng liêng trong cuộc tiếp xúc với Thiên Chúa, nhưng một khi coi những gì mình viết là rơm rác thì chúng ta cũng liên tưởng đến thánh Phaolô khi ngài quả quyết: “…tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3,9).  Đó là những người đã đạt được Đức Kitô trong hành trình tâm linh.

Sau khi thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa, chúng ta đi thêm bước nữa là thuận theo ý muốn của Ngài.

Thuận theo

Có thể nói, trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta là những người mò mẫm đi tìm thánh ý Thiên Chúa.  Chính những sa sẩy trong cuộc sống mà chúng ta ý thức rằng chúng ta qui về bản thân hơn là thuận theo ý muốn của Ngài.

Mỗi ngày chúng ta không ngừng thực hiện những cuộc chọn lựa.  Nếu chúng ta không thiết lập bậc thang giá trị đúng đắn, nghĩa là qui về Nước Thiên Chúa và Đức Công chính của Ngài, chúng ta vẫn còn lầm lạc.  Điều này đòi buộc chúng ta phải có óc phân định, sống theo Thần Khí mà kinh nghiệm của thánh Inhã, Tổ phụ dòng Tên, sẽ là một kim chỉ nam cho đời sống tâm linh của chúng ta.  Một trong những cách được ngài đề nghị trong tập Linh Thao là phân biệt tiếng thần dữ và tiếng Chúa.  Tiếng thần dữ thường ồn ào, xáo trộn, gây mất bình an; trái lại, tiếng Chúa luôn nhẹ nhàng, lâu bền và thiết lập bình an trong tâm hồn.  Biện phân được đâu là tiếng thần dữ hay đâu là tiếng Chúa đã khó, thực hành càng khó hơn.  Đó cũng là kinh nghiệm giằng co nội tâm của thánh Phaolô: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15b).  Đúng thế, ý chí con người muốn hướng về ý Chúa, nhưng vì bản tính yếu đuối, con người lại muốn tìm sự dễ dãi, mà đường thênh thang dẫn đến diệt vong.  Ngay như Chúa Giêsu, một khi biết ý muốn của Cha là hoàn tất con đường thập giá, Người cũng xin được miễn uống chén đắng; song, ngay sau đó, Người đã hoàn toàn sẵn sàng khi thốt lên: “Xin đừng theo ý con, một vâng theo ý Cha” (x. Lc 22,42).

Có thể nói, chính những giờ phút sống thinh lặng và cô tịch hoàn toàn mà Chúa Giêsu đã đọc ra ý muốn của Cha, và cũng nhờ một thái độ vâng phục hoàn toàn mà ý muốn cứu độ của Cha đã thành toàn.  Những giọt mồ hôi máu của Chúa Giêsu là cái giá phải trả cho một cuộc chiến đấu nội tâm không ngừng nơi Người.

Xét cho cùng, thinh lặng nội tâm chỉ có ý nghĩa thực sự khi tạo cho mỗi chúng ta một không gian tốt khả dĩ giúp chúng ta sống ý muốn của Cha trong sứ mạng đặc thù của mình.  Và một điều chúng ta cần xác tín rằng: ý muốn của Cha lớn hơn bản thân ta vì nhờ đó, ý định của Ngài thành toàn trong cuộc đời ta.  Làm sao cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa nếu không miệt mài tìm kiếm ý muốn của Chúa?  Chính thinh lặng nội tâm sẽ giúp ta dần dần khám phá bản thân, sống hết mình với tha nhân và hết tình với Thiên Chúa.

Còn bạn, bạn làm gì để sống một cuộc sống có ý nghĩa trong một xã hội ồn ào và trống rỗng như ngày nay?  Thách đố ấy vẫn luôn đeo bám bạn.  Thiết tưởng, chúng ta cần nhắc lại lời khích lệ của Đức Phanxicô: “Những sự dữ của thế giới chúng ta và của Giáo Hội không phải là một lý do để giảm bớt sự dấn thân và nhiệt tình của chúng ta.  Hãy chỉ coi chúng như những thách đố để lớn lên”.[3]

Những thách đố có giúp bạn lớn lên?  Sự lớn lên của chúng ta hệ tại ở việc để Chúa hành động trong cuộc đời ta.  Chính trong thinh lặng nội tâm, chúng ta sẽ khám phá ra Chúa Giêsu là giải đáp cho mọi vấn đề và Người là ý nghĩa cuộc đời ta.

Eymard An Mai Đỗ O. Cist.
Nguồn: simonhoadalat.com

[1] Marc Donzé, Tư tưởng thần học của Maurice Zundel, chuyển ngữ Nguyễn Thị Chung, Nxb Tôn Giáo, tr.609.

[2] Anselm Grun, Hãy mở giác quan bạn cho Thiên Chúa, Nxb Phương Đông, tr.57.

[3] Đức Phanxicô, Sđd, số 84.

LÀM SAO NGHE ĐƯỢC TIẾNG CHÚA?

Cuộc sống luôn náo nhiệt.  Ồn ào trong mọi nơi mọi lúc.  Con người như lạc lõng giữa muôn vàn âm thanh trong thế giới ồn ào.  Có đôi khi chúng ta không còn nghe được tiếng gọi của sự thật hay tiếng nói của lương tâm.

Anh A đã từng nhiều lần vào tù vì tội tham lam trộm cắp nhưng anh nói giữa cuộc đời bon chen anh không bao giờ nghe được tiếng nói của lương tâm mà chỉ nghe những thét gào của tranh giành, lừa đảo và bon chen…  Anh bảo rằng mình không biết phải sống thế nào cho đúng với lương tâm, vì lương tâm đồng nghĩa thua thiệt và mất mát.

Chị B cũng từng ngụp lặn trong biển tình say đắm.  Với chị có sắc đẹp là có tiền, có tình.  Chị chỉ nghe thấy tiếng gọi của đồng tiền và thú vui xác thịt.  Chị được người đời đeo đuổi réo gọi vì chị có nhan sắc trời cho.  Cuộc đời chị cần tiền để bồi dưỡng thân xác và được cưng phụng.  Thế giới của chị luôn phải chạy theo tiếng gọi của đồng tiền và sắc đẹp.

Cậu C bảo rằng giữa một thế giới chạy theo tiếng gọi của danh lợi thú làm sao nghe được tiếng Chúa.  Tiếng gọi của tình, tiền, và quyền luôn hấp dẫn, lôi cuốn khiến con người luôn bị lạc lối một trong ba tiếng gọi ấy!

Điều đáng buồn là con người dường như mất định hướng trong thế giới náo nhiệt hôm nay.  Con người dường như không bao giờ hạnh phúc trong danh lợi thú khi họ vất vả tìm kiếm, và càng không có bình yên trong thế giới đầy bon chen giành giựt để sống.  Vậy làm sao con người có thể thoát ra được thế giới náo nhiệt này?

Người ta kể rằng một lần đội vệ binh đang đứng làm thành hàng chào một vị quan lớn tới thăm.  Đúng lúc vị quan lớn gần tới thì một đàn cừu ở đâu hiên ngang đi ra.  Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu chiếm lĩnh.  Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:

– Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường.

Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường nhưng vô vọng!

Một người lính liền nói: xin mọi người yên lặng.  Và từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng đang réo gọi.  Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo.  Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.

Giữa muôn vàn tiếng ồn ào của đám đông, chỉ cần thinh lặng, một chút lặng yên thôi, cũng đủ để đàn chiên nghe được tiếng gọi của người chăn dắt.  Thế giới chúng ta đang sống cũng có quá nhiều tiếng động xô bồ và âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe được tiếng nói của lương tâm của sự thiện, và càng không thể lắng lòng để nghe được tiếng gọi Đức Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành.

Phải chi chúng ta cũng có được những khoảnh khắc trầm lắng quý giá như thế, để rồi nghe được thứ thanh âm của sự tĩnh lặng, nghe được lời gọi của Thiên Chúa và nhận ra Người?  Phải chi chúng ta cũng biết trao tặng cho chính mình mỗi ngày một vài phút cô tịch để đọc Lời Chúa, để nghe và nhận ra tiếng thì thầm của Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta: “Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành.  Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi.  Chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử.”

Hôm nay lễ Chúa chiên lành, là dịp để chúng ta tạ ơn vì Ngài luôn yêu thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta bằng muôn nghìn cách.  Dù cuộc đời có biết bao cám dỗ mời mọc chúng ta vào con đường tội lỗi.  Có biết bao đam mê khiến chúng ta lầm đường lạc lối.  Có biết bao con đường dẫn chúng ta xa lìa sự sống đời đời.  Nhưng Chúa luôn ở bên và kêu gọi chúng ta ra khỏi bến mê tội lỗi.  Xin cho chúng ta biết nhận ra tiếng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa.  Vì ở nơi Ngài mới có hạnh phúc bền vững còn những danh lợi thú chỉ là phù vân mau qua và chẳng bao giờ đem lại niềm vui trường cửu cho ta.  Amen!

Lm. Tạ Duy Tuyền

PHÊRÔ, CÂU CHUYỆN TÌNH GHI NHỚ!

Từ xưa đến nay, những nhân vật được chọn để giữ một vai trò trọng yếu nơi một tổ chức thường là những người có những biệt tài nào đấy: thông minh, có tài quản trị, có khả năng ngoại giao tốt…  Thế nhưng, nhìn đến những con người mà Chúa đã chọn để thay Chúa phân phát ơn lành từ trời cho thế giới, ta lại thấy một điều hoàn toàn ngược lại.  Ngay từ thời điểm bắt đầu đời sống công khai, Đức Giêsu đã mời gọi một số người cùng đi với Ngài, ở lại với Ngài, để Ngài huấn luyện và sai đi.  Trong số nhóm người thân tín nhất với Đức Giêsu, Phêrô được chọn làm người đứng đầu, nhờ việc ông được Chúa Cha mặc khải cho biết về căn tính Kitô của Đức Giêsu.  Phêrô không phải là người xuất sắc nhất trong nhóm, cũng không phải là người thánh thiện nhất trong nhóm.  Ông lại còn là người chối Chúa khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn.  Đặt một ngư phủ vô học làm nền tảng cho Giáo Hội của mình, rõ ràng Đức Giêsu đã làm một chuyện thật ngược ngạo từ trước đến nay trong lịch sử nhân loại.

Lần đầu tiên Phêrô nghe nói về cái tên Giêsu là nhờ người anh em Anrê kể lại.  Sau khi nghe Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa, Anrê và Gioan đã đi theo Đức Giêsu và đã ở lại với Người ngày hôm ấy.  Không biết chuyện gì đã xảy ra vào khoảng thời gian định mệnh này, nhưng sau khi trở về, Anrê đã quả quyết với Phêrô là ông đã được nhìn thấy Đấng Mêsia.  Chắc hẳn là Phêrô cũng nóng lòng, mong chờ một dịp nào đấy thuận lợi để ông cũng có diễm phúc được gặp Đấng Thánh này.

Chẳng biết là cơ duyên hay tình cờ, điều ông mong chờ xảy đến vào một buổi sáng đẹp trời, khi ông vừa trở về sau một đêm đánh cá chẳng thành công như ông mong muốn.  Cái nghề ngư phủ này lúc nào cũng phải tùy thuộc vào vận may.  Đã không được con cá nào, người mỏi mệt vì một đêm thức trắng, ông và gia đình lại còn phải cặm cụi vá lại chiếc lưới rách tả tơi.  Nhưng có ai ngờ, vào cái ngày mà ông cho là ê chề thất bại, cuộc đời ông lại được mở sang trang, nhờ một cuộc gặp gỡ không dự báo trước.  Đang khi ông làm việc, Giêsu từ đâu bước tới, theo sau là lũ lượt những con người.  Giêsu ngỏ lời mượn chiếc thuyền của ông làm bệ giảng, và xin ông chở Ngài ra xa một tí để Ngài có thể chia sẻ những bài học hay cho dân chúng đang háo hức chờ đợi trên bờ.

Niềm hạnh phúc dâng cao, Phêrô chưa kịp hiểu được điều gì đang xảy ra.  Giữa biết bao con thuyền đang đỗ bến, con thuyền của ông được chọn.  Giữa biết bao ngư phủ đang ở đây, ông là người được ngỏ lời.  Giờ đây, khi Ngài đang trao ban những lời vàng quý giá, ông là người ở gần Ngài nhất, nghe rõ những gì Ngài nói nhất.  Hàng ngàn hàng vạn người đang đua nhau để tiếp cận, trong số đó, chắc là có nhiều người danh giá và giàu có hơn ông.  Vậy mà một con người đức cao vọng trọng như Giêsu, lại để ý đến thân phận nhỏ bé của ông.  Trong thoáng chốc, ông quên đi hết tất cả cái mệt mỏi của mình, kể cả cái thất bại vừa trải qua.  Ông đang hạnh phúc!

Cứ ngỡ là sau khi mượn chỗ để giảng thuyết, Giêsu sẽ cảm ơn ông, rồi nhờ ông đưa vô bờ trở lại.  Sau đó, đường ai nấy đi, không còn gặp mặt nữa.  Nhưng thật bất ngờ, Giêsu tiếp tục trò chuyện với ông, mời gọi ông hãy chèo thuyền ra xa hơn một tí nữa, để đánh cá.  Phêrô chẳng muốn đi tí nào!  Giêsu đã khơi lại trong ông nỗi buồn của đêm trước.  Cái mệt mỏi và chán nản vừa được xua tan đi, bỗng dưng quay trở lại.  Kinh nghiệm đánh cá lâu năm của ông mách bảo ông rằng lời mời gọi ấy của Giêsu mới thật ngớ ngẩn biết bao.  Nhưng vì Thầy, vì để làm Thầy vui, ông cố gắng tận dụng chút sức lực còn lại thực hiện một cuộc mạo hiểm mới.  Ông vốn dĩ đã thần phục Đức Giêsu vì tiếng lành đồn xa của Ngài, và vì vừa được nghe những bài giảng sâu sắc của Ngài, nay, ông càng kinh khiếp hơn vì phép lạ mà ông vừa chứng kiến.  Ông như được dẫn vào trong một thế giới siêu nhiên, nơi đó, ông thấy mình nhỏ bé quá chừng.  Ông quỳ xuống, một cử chỉ thể hiện sự thấp kém của mình trước mặt Đấng Chí Tôn.

Ngày hôm ấy và khoảnh khắc đáng ghi nhớ ấy, chắc có lẽ sẽ đọng mãi trong tâm hồn ông, vì đó là lúc mà ông nghe rõ bằng chính đôi tai mình lời mời gọi của Thiên Chúa, muốn ông bỏ hết mọi sự mà bước theo Ngài.  Có vẻ như chẳng phải ngẫu nhiên mà Giêsu đến nhờ ông, rồi giảng cho ông nghe, rồi mời ông đi thả lưới.  Chính tại nơi bờ biển hồ thân quen hàng ngày với ông đây, trở thành nơi kỷ niệm và làm chứng cho cuộc tình gắn bó keo sơn giữa ông và thầy Giêsu chí thánh của mình.  Vài năm sau, khi cuộc tình ấy đã trải qua nhiều chông chênh thử thách, kể cả bội phản, ông sẽ nghe lại lời mời gọi này một lần nữa, cũng tại nơi đây, trên bờ biển hồ này, vào lúc bình minh ngợp trời nắng.

Ánh bình minh là dấu chỉ báo hiệu cái qua đi của một đêm dài âm u lạnh lẽo của thất bại và chán chường.  Nó là khởi điểm cho một sự khởi đầu mới với những bất ngờ và niềm vui.  Lời mời gọi của Giêsu dành cho ông đã đến vào những lúc bình minh và cũng có tác dụng hệt như một ánh bình minh vậy.  Cuộc đời ông đã sang trang khi nghe lời mời ấy lần đầu tiên.  Và cứ mỗi lần ông nghe lại lời ấy, một hành trình mới lại được mở ra.  Lần sang trang cuối cùng là khi ông thấy Thầy mình vác thập giá quay trở lại thành Giêrusalem khi ông tìm cách bỏ trốn.  Nên đồng hình đồng dạng với Chúa, đó là niềm mơ ước của ông.  Ngày xưa, trên chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé của ông, đầu ông đã một lần cúi xuống bái thờ Ngài.  Giờ đây, trên thánh giá gỗ treo thân ở đây, một lần nữa ông lại xin phép cho đầu mình được hướng xuống đất.  Một cuộc tái ngộ giữa ông và Thầy Giêsu lại tiếp tục diễn ra.  Lần này, không phải nơi bờ hồ, hay trên chiếc thuyền đánh cá, nơi ông đã từng mê mẩn hứng lấy từng lời nói của Thầy, nhưng là trên Thiên Đàng, nơi ông có thể gắn kết với Thầy trọn vẹn, nơi đánh dấu cho sự nguyên tuyền và hoàn hảo của tình yêu mà ông và Thầy đã cố gắng dựng xây.

Giêsu đã xuất hiện trong cuộc đời của Phêrô ngay trong những thất bại và ê chề ông đang nếm trải.  Chính điều đó càng làm cho ông càng thấy bất ngờ và hạnh phúc hơn.  Gắn kết cuộc đời mình với Giêsu, từ chỗ người ngư phủ lưới cá, Phêrô đã trở thành vị tông đồ lưới người.  Cùng với Chúa, ông không ngừng chèo chiếc thuyền Giáo Hội ra chỗ nước sâu, thu về cho Chúa biết bao linh hồn đang sa cơ lạc lối.  Có ai ngờ một con người tầm thường như Phêrô, sau khi đến với Giêsu, đã được trở nên một con người phi thường như thế?  Nhìn hình ảnh Phêrô, chúng ta có quyền nghĩ đến những điều tuyệt diệu mà Thiên Chúa sẽ thực hiện trên chúng ta nếu chúng ta luôn bám víu vào Người.  Ngay giữa đêm đen của cuộc sống, biết đâu Người sẽ đến với ta và trao ban cho ta lời gọi mời nào đó, làm biến đổi trọn vẹn con người ta.  Chiêm ngắm chuyện tình giữa Giêsu và Phêrô, chúng ta hãy tự hỏi mình xem: Giêsu đã đến bên đời tôi trong hoàn cảnh nào?  Đâu là khoảnh khắc tôi thấy Giêsu đụng chạm đến trái tim tôi?  Giữa tôi và Giêsu có một kiểu bình minh nào giống như Ngài đã có với Phêrô không?

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
Nguồn: http://dongten.net

CHIỀU KÍCH VŨ TRỤ CỦA SỰ PHỤC SINH

Một nhà phê bình từng hỏi linh mục thần học gia Pierre Teilhard de Chardin như thế này: “Cha đang cố làm gì thế?  Sao cha lại nói về nguyên tử và phân tử lúc nói về Chúa Giêsu Kitô?”  Câu trả lời của ngài: Tôi đang cố diễn đạt một cách có hệ thống một Kitô học đủ rộng để có thể nói đến Đức Kitô, bởi Đức Kitô không chỉ là một sự kiện của nhân loại mà là một hiện tượng toàn vũ trụ.

Về căn bản, ý của cha là Đức Kitô không chỉ đến để cứu rỗi nhân loại, Ngài đến để cứu rỗi cả địa cầu nữa.

Thấu suốt này thật sự cần thiết để hiểu trọn những hàm ý trong sự phục sinh của Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại.  Thân xác là một hữu thể vật chất, nên khi thân xác (chứ không chỉ linh hồn) sống lại, thì có gì đó cao hơn thuần tâm linh và tâm lý.  Có một điều gì đó cực kỳ vật chất trong chuyện này.  Khi xác chết sống lại, các phân tử và nguyên tử được sắp đặt lại.  Sự phục sinh không chỉ là sự thay đổi gì đó bên trong ý thức của con người.

Sự phục sinh là căn cứ cho niềm hy vọng của con người, không có nó, chúng ta không thể hy vọng vào một tương lai có gì đó vượt ngoài những giới hạn ngột ngạt của đời này.  Trong sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta được trao ban một tương lai mới, vượt quá cuộc đời này của chúng ta.  Tuy nhiên, sự phục sinh cũng đem lại một tương lai mới cho trái đất, cho hành tinh vật chất của chúng ta.  Đức Kitô đến để cứu rỗi địa cầu, chứ không chỉ những người sống trên địa cầu.  Sự phục sinh của Ngài bảo đảm một tương lai mới cho địa cầu cũng như những loài cư ngụ trên đó.

Cũng như chúng ta, địa cầu này cần được cứu rỗi.  Cứu rỗi khỏi cái gì?  Để hướng đến điều gì?

Theo nhận thức Kitô giáo đúng đắn, địa cầu không chỉ là sân khấu cho nhân loại, không chỉ là một thứ nếu không có chúng ta, nếu chỉ có nó, thì vô giá trị.  Như nhân loại, nó cũng là tác phẩm của Thiên Chúa, là con của Thiên Chúa.  Thật vậy, trái đất vật chất là mẹ của chúng ta, là ma trận nảy sinh chúng ta.  Xét tận cùng, chúng ta không tách biệt với thế giới tự nhiên, nói đúng hơn, chúng ta là một phần của thế giới tự nhiên tự ý thức.  Chúng ta không tách biệt với địa cầu và nó không chỉ tồn tại vì lợi ích của chúng ta, không chỉ là sân khấu cho diễn viên con người rồi bị bỏ không khi vở kịch đã hết.  Thụ tạo vật chất có giá trị của nó, không phụ thuộc vào chúng ta.  Chúng ta cần phải công nhận điều này, và không phải chỉ để sống có đạo đức với thiên nhiên hơn hầu cho địa cầu có thể tiếp tục cung cấp không khí, nước và thức ăn cho các thế hệ con người mai sau.  Chúng ta cần công nhận giá trị cố hữu của địa cầu.  Nó cũng là tác phẩm của Thiên Chúa, nó là mẹ của chúng ta, và số mệnh của nó là chia sẻ sự vĩnh hằng cùng chúng ta.

Hơn nữa, như chúng ta, nó cũng là thứ sẽ bị mục rữa.  Nó cũng có giới hạn thời gian, cũng khả tử.  Nếu không có sự can thiệp từ bên ngoài, nó cũng không có tương lai.  Khoa học từ lâu đã dạy chúng ta về định luật biến thiên.  Nói đơn giản, định luật đó nói rằng năng lượng trong vũ trụ đang giảm dần, mặt trời đang ngày càng cạn lửa. T uổi đời còn lại của trái đất, cũng như tuổi đời của chúng ta là đếm được, là hữu hạn.  Có thể là cả tỷ tỷ năm, nhưng đếm được là hữu hạn.  Chúng ta biết rằng, cũng như cuộc đời chúng ta rồi sẽ đến lúc kết thúc, thì địa cầu cũng có hồi kết.  Nếu không có sự tái tạo từ bên ngoài, thì cả trái đất lẫn con người sống trên nó đều không có tương lai.

Thánh Phaolô đã nói rõ điều này trong thư gửi tín hữu Rôma, rằng thụ tạo, vũ trụ vật chất, là thứ phù du, và nó đang rên rỉ khát khao được giải phóng để tận hưởng sự tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa.  Thánh Phaolô cam đoan với chúng ta rằng địa cầu sẽ hưởng cùng một tương lai như nhân loại, là sự phục sinh, sự biến đổi vượt quá hình dung hiện thời của chúng ta, một tương lai vô tận.

Địa cầu sẽ được biến đổi cách nào?  Nó sẽ biến đổi theo cùng một cách như chúng ta, qua sự phục sinh.  Sự phục sinh đem lại cho thế giới tâm linh và vật chất của chúng ta một sức mạnh mới, một sắp đặt mới cho vạn vật, một hy vọng mới, một thứ quá căn nguyên (và vật chất) đến nỗi chỉ có thể so sánh với sự tạo dựng ban đầu, khi các nguyên tử và phân tử của vũ trụ này được Thiên Chúa tạo ra từ hư không.  Trong sự tạo dựng khởi nguyên đó, tự nhiên được hình thành, và hiện thực cũng như những quy luật của nó hình thành mọi sự cho đến khi Chúa Giêsu phục sinh.

Tuy nhiên, trong sự phục sinh, có một chuyện mới xảy ra chạm đến mọi khía cạnh của vũ trụ, từ linh hồn và tâm thần trong mọi con người cho đến mọi lõi của mọi nguyên tử và phân tử.  Không phải tình cờ khi thế giới xác định thời gian theo mốc đó.  Chúng ta đang ở năm 2021 sau sự tái tạo tận căn đó.

Sự phục sinh không chỉ mang tính tâm linh.  Trong sự phục sinh, các nguyên tử vật chất của vũ trụ được sắp đặt lại.  Cha Teilhard đã đúng.  Chúng ta cần một tầm nhìn đủ rộng để thấy được chiều kích vũ trụ của Đức Kitô.  Sự phục sinh là cho con người và cho cả địa cầu.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

CHO HỌ XEM TAY VÀ CẠNH SƯỜN

Biến cố Đức Giêsu Phục Sinh quả là một biến cố vô cùng quan trọng, vì nhờ biến cố này các tông đồ, và qua các tông đồ đến các Kitô hữu, hiểu biết hơn về Đức Giêsu và về Thiên Chúa.  Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời qua Đức Giêsu Kitô.

1. Đức Giêsu cố chứng minh cho các tông đồ Ngài thực sự đang sống

Theo tin mừng Luca hôm nay, trong khi hai môn đệ trên đường Emmau trở về đang loan báo tin mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, thì Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông.  Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma.  Đức Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!  Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc.24, 39).  Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (Lc.24, 40).

Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không?  Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng.  Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc.24, 41-43).  Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống.  Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người.  Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin.  Tuy dù được báo trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).

Thân phận con người, lúc này biết, lúc khác phân vân nghi ngờ.  Ngôi Lời Thiên Chúa đã tự hủy để nhập thể làm người, nên Ngài chấp nhận thân phận con người cách hoàn toàn, nghĩa là, cũng bị cám dỗ, và ngay cả không biết, hoặc lúc này biết lúc khác phân vân nghi ngờ.  Vì vậy, Đức Giêsu sống lại, là điều rất mới đối với các tông đồ và con người.  Tuy nhiên, một khi được ơn trở thành chứng nhân phục sinh, các tông đồ luôn loan báo tin mừng đặc biệt này, và đã đem chính mạng sống làm chứng cho tin mừng các ngài rao giảng.

2. Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh

Trong cuộc tranh luận với những người Do Thái, Đức Giêsu nói: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời.  Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi…  Vì nếu các ông tin Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi” (Ga.5, 39.47).  Kinh Thánh được một số người coi như lá thư Thiên Chúa viết cho tất cả mọi người qua trung gian dân tộc Do Thái.  Đức Giêsu cũng có thể được coi là lá thư, là biểu hiện, biểu chứng, biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.

Đức Giêsu là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa cho con người.  Qua Đức Giêsu, con người biết hơn về Thiên Chúa và cũng biết hơn về chính con người.  Các tạo vật đều mặc khải Thiên Chúa ở một mức độ nào đó.  Những nhân vật đáng kính trong lịch sử dân tộc Do Thái cũng như trong lịch sử những dân tộc khác, và nhất là trong những tôn giáo khác, cũng là chứng nhân của Thiên Chúa ở một mức độ nào đó, nhưng Đức Giêsu là một con người đặc biệt, phản ánh Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa một cách tuyệt vời, bởi vì Ngài là chính Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

Kinh Thánh là tác phẩm của Thiên Chúa, nhưng cũng là tác phẩm của con người.  Người ta có thể đọc Kinh Thánh đơn thuần như một tác phẩm thuần túy nhân loại, và người ta có thể hiểu được phần nào con người và xã hội thời đó.  Hôm nay, theo tin mừng Luca, các tông đồ đã được Đức Giêsu mở trí để hiểu Kinh Thánh.  Kinh Thánh không được viết để dạy chân lý khoa học, nhưng để giúp con người biết hơn về Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người biết hơn về Đức Giêsu là tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa cho con người.

3. Thật sự biết Thiên Chúa hàm chứa tuân giữ lệnh truyền của Ngài

Niềm tin và cuộc sống phải đi liền với nhau.  Niềm tin không chỉ là những điều một người chấp nhận và không liên hệ hay chi phối đời sống họ.  Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc.2, 17).  “Nếu nói mình biết Thiên Chúa mà không giữ các lịnh truyền của Thiên Chúa, thì đó là kẻ nói dối” (1Ga.2, 4).

Biết Thiên Chúa, không phải là chấp nhận một số mệnh đề phát biểu về Thiên Chúa, nhưng còn bao hàm chính thái độ sống và cuộc sống của mỗi người.  Cái “biết sống động” này được diễn tả qua đời sống cầu nguyện, qua việc chọn lựa trong đời sống thường ngày, qua cách cư xử với người khác…  Tuy vậy trong thực tế, có nhiều người “tin” nhưng không “sống”, những người này họ chưa thực sự biết Thiên Chúa, cái biết của họ mới chỉ trên bình diện chấp nhận một điều là đúng.  Những ai giữ lệnh truyền của Thiên Chúa, là những người biết Thiên Chúa thực sự.

Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã chi phối trọn vẹn đời sống các tông đồ.  Các ngài đã ra đi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh.  Các ngài đã dám chết vì chính đạo.  Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã biến đổi đời bao con người, đã biến đổi đời các tông đồ, đã làm bao người “bỏ thế gian” để sống dành riêng cho Thiên Chúa.  Các ngài là những người biết Thiên Chúa thật sự.

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

SAO CON LẠI KHÓC

Trong đời, ai cũng có lúc khóc.  Khóc thầm lặng.  Khóc cho vơi niềm đau.  Kinh cầu tuyệt vọng là kinh cầu trong nước mắt.  Kinh cầu mong hy vọng cũng là lời kinh khao khát đẫm lệ.

Vũ trụ dường như đã có dan díu với tiếng khóc trước khi hình thành hay sao mà bây giờ ở đâu cũng thấy có nước mắt.  Có tiếng thở dài trên đường, có tiếng thở muộn phiền lúc nghỉ ngơi.  Tiếng than bên đời là buồn nhiều hơn vui.

Những trang Kinh Thánh thưở xưa cũng đong dài nhiều dòng nước mắt.  Nhưng câu chuyện nước mắt của Mađalena thật đặc biệt.  Bà khóc hai lần, hai lần khác nhau.

Ngày đó, Mađalena khóc bên chân Chúa, nước mắt và hương thơm.  Trong buổi chiều ấy, Chúa không nói gì.  Chúa cứ để Mađalena khóc.  Chúa nhận nước mắt như nhận quà tặng ân tình.  Còn Mađalena muốn đem nước mắt hòa vào hạnh phúc dầu quý cho bay đi những cơn mưa phùn của linh hồn rêu phong năm xưa.  Chiều đó, người đàn bà ấy không nói gì.  Thinh lặng và nước mắt thôi.

Thế rồi, cũng người đàn bà ấy, một sáng nọ bà khóc, buổi sáng đến mộ đá tìm xác Chúa. Nhưng tiếng khóc lần này không như tiếng khóc thuở xưa.

“Bà Maria đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc.  Bà vừa khóc, vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt xác của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân.  Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!”  Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu.  Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc?  Bà tìm ai?”  Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về” (Yn 20:11-15).

Một Mađalena, mà hai khung trời, hai dòng nước mắt khác nhau.  Một con tim mà hai nhịp đập, hai thổn thức khác biệt.

–   Ở nhà Biệt phái: Ngày ở nhà ông Simon Biệt Phái, nước mắt bà Mađalena rơi xuống chân Chúa, nhưng chảy ngược vào tâm hồn.  Mađalena khóc thầm lặng không tiếng nói.  Bên mộ đá: Hôm nay, bên mộ đá Mađalena oà vỡ khóc thành lời nói.  Bà thổn thức báo tin cho Phêrô và Yoan.  Bà vội vã hỏi “Người làm vườn.”  Bà quả quyết với thiên thần: “Người ta lấy mất Chúa tôi rồi” (Yn 20:13).

–   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Simon, Mađalena kín đáo tìm cách vào tận phòng tiệc cho nước mắt rơi trên sàn nhà.  Bên mộ đá:  Hôm nay, Mađalena đứng ở ngoài mộ mà thôi, tiếng khóc vang bên phía ngoài.

–   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, nước mắt Mađalena rơi trước mọi người, rơi trên chân Chúa.  Bên mộ đá: Hôm nay, nước mắt rơi trong cát bụi.

–   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, Chúa để Mađalena ngồi cạnh mình lấy tóc cùng nước mắt mà lau chân.  Bên mộ đá: Hôm nay, Chúa không cho nước mắt kia chạm tới Ngài.

–   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, trong tiếng khóc, Mađalena bị người ta kết án. Bên mộ đá: Hôm nay, Mađalena kết án người khác trong tiếng khóc của mình.  Không bằng chứng mà Mađalena dám báo tin cho Phêrô bằng cách đổ tội cho người khác rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ” (Yn 20:2).

–   Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, trong dòng nước mắt, Mađalena nhìn rõ Chúa.  Bên mộ đá: Hôm nay, cũng là nước mắt, Mađalena nhìn Chúa nhưng ngỡ là ông làm vườn. “Thưa ông, nếu ông đem Người đi thì cho tôi biết ông để Người ở đâu?” (Yn 20:15).

–   Ở nhà Biệt Phái:  Ngày ở nhà ông Biệt Phái, Chúa thương dòng nước mắt ấy thiết tha.  Bên mộ đá:  Hôm nay, Chúa chất vấn: “Bà kia, sao lại khóc?”

*******************************

Lạy Chúa, cũng một con người được Chúa yêu, mà sao một lần khóc thì Chúa như bùi ngùi, một lần khóc thì Chúa nhìn dòng nước mắt mà hỏi: “Bà kia, sao bà lại khóc?”  Câu trả lời của Chúa như ngạc nhiên về dòng nước mắt ấy.  Câu hỏi như từ chối, như nói rằng dòng nước mắt ấy không cần thiết.  Tại sao vậy Chúa?

Tiếng khóc nào cũng có ý nghĩa.  Nước mắt nào mà không chứa đựng nghẹn ngào.  Càng nguyện vọng, nước mắt càng mặn cay, nước mắt ấy phải quý lắm chứ.  Vậy tại sao Chúa lại hỏi: “Bà kia, sao bà khóc?”

Chỉ có một lần Chúa khóc, đó là trước cái chết của Lazarô.  Cái chết nào mà không mất mát, nghẹn ngào, chính Chúa mà còn khóc.  Vậy tại sao hôm nay Chúa lại bảo Mađalena đừng khóc nữa.  Nhờ Chúa khóc trước cái chết của Lazarô, nên hôm nay, con phải suy nghĩ về nước mắt, tiếng khóc, nỗi đau của Mađalena trước mộ đá.

Khi Chúa khóc trước cái chết của Lazarô thì người chung quanh nói với nhau rằng: “Kìa, nhìn xem Ngài thương Lazarô dường bao” (Yn 11:36).  Như vậy, nước mắt của Chúa hôm Lazarô chết không phải là nước mắt tiêu điều.  Cái khóc của Chúa không là tuyệt vọng mà là tình thương.

Còn nước mắt của Mađalena bên mộ Chúa, có thương đó mà cũng có xót xa.  Chúa sống lại, nhưng Mađalena phao tin rằng người ta lấy xác Chúa.  Bà không nhìn thấy, nhưng bà nghi ngờ và đổ lỗi cho việc Chúa không còn trong mộ đá là xác Chúa đã bị đánh cắp!  Nước mắt chúng con trước cái chết của người thân yêu có lẽ cũng mang dáng dấp cả hai.  Có thương nhưng lại thương trong xót xa, và nỗi xót xa ấy nhuốm màu đau tuyệt vọng như của Mađalena.  Vì chưa hiểu niềm tin Phục Sinh, nên không thấy xác Chúa thì Mađalena cảm thấy ngày một mất mát lớn lao.  Nỗi mất mát ấy là của Mađalena, cho nên thương Chúa mà xót xa cho mình.  Xót xa và tuyệt vọng làm Mađalena nghi ngờ và đổ lỗi cho nhiều người.

Vì xót thương trước cái chết của người thương yêu, nhiều khi chúng con cũng không tránh khỏi những phàn nàn, trách nhiều nguyên nhân, có khi trách cả Chúa.  Xin Chúa cho chúng con hiểu hơn về mầu nhiệm Phục Sinh trong sự chết.

Nước mắt bên mộ đá đã đưa Mađalena vào những vùng mây mờ không chứng cớ.  Đấy là nước mắt thiếu ánh sáng Phục Sinh.  Trong nước mắt xúc cảm nhạt nhoà, bà không nhìn rõ Chúa đứng ngay bên cạnh.  Chính Chúa đó mà bà lại hỏi ông để xác Chúa tôi ở đâu.

Chúng con cũng thế thôi, vào những giờ đau đớn quá, chúng con không bình tâm nhìn thấy Chúa bên cạnh mình nữa.  Nước mắt đau đớn làm nhoà cái nhìn về sự sống đời sau.  Mađalena đã bừng tỉnh khi Chúa gọi tên bà.  Vậy con xin Chúa cũng gọi tên con trong những giờ chán nản tuyệt vọng để hồn con được an ủi.

Chúa khóc trước cái chết của Lazarô chỉ vì thương.  Xin cho nước mắt chúng con trước nỗi biệt ly cũng chỉ có một tình cảm ấy mà thôi, là chúng con hãy thương mến nhau.  Người chung quanh nhìn trước mắt Chúa mà nói: “kìa Ngài thương Lazarô biết bao.”  Chớ gì nước mắt chúng con hôm nay cũng như vậy, để một người ra đi là đem yêu thương về đầy giữa chúng con, những kẻ ở lại.

Tình thương thì đem chúng con gần lại, còn nỗi tuyệt vọng sẽ làm đời sống chúng con rã rời.  Con hiểu, cũng trước cái chết, Chúa đã khóc.  Mà cũng trước cái chết, Chúa không muốn Mađalena khóc.  Chúa muốn tiếng khóc của tình thương thôi chứ không muốn tiếng khóc tuyệt vọng.  Vì Chúa là Phục Sinh.

“Vì sao con lại khóc?”  Con mong lời Chúa hỏi Mađalena thưở xưa cũng là lời Chúa hỏi con hôm nay trong nỗi buồn này.  Con hiểu lời ấy như một an ủi nhắc con về niềm tin Phục Sinh đằng sau nỗi chia ly vĩnh biệt.  Con hiểu vì sao Chúa đặt câu hỏi ấy, vì trước giờ từ biệt Chúa đã căn dặn con: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Yn 14:3).  Chúa mong chúng con ở bên Chúa như vậy thì khi người thân yêu của chúng con ra đi là giây phút Chúa chờ đón.

Mađalena chỉ nhìn vào mộ đá, vì thế nước mắt chỉ là trời sương buồn nản phủ xuống hồn.  Chúa đã không muốn nước mắt ấy.  Xin cho nước mắt của chúng con hôm nay không bám víu vào nỗi mất mát cho vơi niềm đau.  Nhưng qua nước mắt, chúng con cho rơi đi những gì thiếu sót chúng con đã đối xử với nhau những ngày còn sống, để nước mắt hôm nay rửa tâm hồn chúng con cho đẹp hơn.

Xin Chúa cho nước mắt của chúng con hôm nay không kéo về những chiều hoàng hôn tuyệt vọng, mà rửa niềm tin chúng con sáng hơn để chúng con thấy người thân yêu đang ở bên Chúa và đang cầu bầu cho chính chúng con.  Amen.

Lm Nguyễn Tầm Thường, sj.

ĐỊNH NGHĨA LÒNG THƯƠNG XÓT

Hôm nay lễ lòng thương xót Chúa.  Thiết tưởng chúng ta cần hiểu lòng thương xót nghĩa là gì?  Thương xót nghĩa là sự biểu lộ lòng xót xa đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn.  Lòng thương xót đối với Chúa còn là sự khao khát muốn làm vơi đi những nỗi đau khổ đó.  Như vậy, lòng thương xót của Chúa là sự biểu lộ tình thương trước những hoàn cảnh khó khăn của dân Chúa.

Lòng thương xót của Chúa không như con người.  Vì con người thương xót nhưng có chọn lựa, có tính toán.  Cùng hoàn cảnh nhưng chúng ta thương người này và có thể ghét người kia.  Thế nhưng, lòng thương xót của Chúa thì trải rộng cho mọi người.  Không toan tính.  Không chọn lựa.  Ngài yêu thương con người bất kể tình trạng luân lý của họ.  Bởi vì, Chúa vẫn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân.

Thế nên, lòng thương xót của con người chúng ta thì giới hạn.  Chúng ta có thể xót thương kẻ cơ hàn.  Xót thương những người già yếu, bệnh tật bị bỏ rơi.  Xót thương những trẻ nhỏ bị lạm dụng, bị bóc lột nơi cha mẹ hay người nuôi dưỡng.  Và chắc chắn chúng ta sẽ chẳng bao giờ xót thương những phường tội lỗi như: trộm cắp, mại dâm, hay tham ô.  Chúng ta thường không thương xót họ mà có khi còn nguyền rủa họ.

Lòng thương xót Chúa thì không giới hạn.  Ngài yêu thương mà không cần nhìn xem họ là ai?  Ngài chỉ bận tâm đến nhu cầu của con người và ra tay nâng đỡ.  Thánh Kinh bảo rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được.  Thế nhưng, Chúa đã không chấp tội con người, Ngài cũng không giáng phạt theo như tội ta đã phạm.  Lòng thương xót của Chúa trải rộng trên con người.  Trên người lành cũng như người dữ.  Ngài luôn biểu lộ lòng thương xót cho bất cứ ai đến với Ngài.  Lòng thương xót ấy không dừng lại ở nơi kẻ yêu Ngài mà còn dành cho cả kẻ ghét Ngài, xỉ nhục và kết án Ngài.  Chính trong đau thương khổ nhục mà Ngài vẫn xót thương những kẻ đang hành hạ Ngài khi Ngài cầu nguyện cùng Cha: Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.

Có lẽ với bản tính con người, chúng ta sẽ thù hận kẻ giết hại chúng ta một cách oan uổng.  Có lẽ chúng ta cũng kinh tởm kẻ vô ơn, phản bội với chúng ta.  Thế mà, Chúa Giê-su dường như không còn nhớ đến tội lỗi của con dân thành Giê-ru-sa-lem.  Ngài đã tha thứ cho kẻ làm nhục Ngài.  Ngài cũng tha thứ cho những môn đệ đã bỏ Ngài trong tuần thương khó.

Vâng, khi Chúa sống lại Ngài không tìm ai để trách móc, kêu oan.  Và dường như Ngài cũng không bận tâm đến lỗi lầm của các môn sinh.  Ngài đã trao bình an cho các môn sinh mỗi khi hiện ra với họ.  Ngài biết trong lòng các ông còn một nỗi buồn vì phản bội, vì bỏ rơi Thầy trong gian nguy.  Ngài biết sau khi Chúa sống lại lòng các tông đồ còn rối bời hoang mang lo sợ, bất an vì mặc cảm tội lỗi, mặc cảm phản bội Thầy.  Chúa đã biết điều đó nên đã đi bước trước để ban bình an cho các ông.

Sứ điệp lễ lòng Chúa thương xót là sứ điệp của yêu thương.  Thiên Chúa vẫn tiếp tục xót thương dân Người.  Lòng thương xót của Chúa không bị tội lỗi của con người cản trở mà vẫn đong đầy cho những ai đến với Ngài.  Lòng thương xót Chúa vẫn xoa dịu những ai đang bất an vì tội lỗi.  Lòng thương ấy vẫn đang chữa lành cho những ai đang đau khổ bệnh tật tâm hồn hay thể xác.  Lòng thương xót ấy vẫn là căn tính của Thiên Chúa rất yêu thương và xót thương dân Người.

Ước gì mỗi người chúng ta biết tín thác vào lòng thương xót Chúa cho dẫu chúng ta còn mang đầy những vết thương của yếu đuối lỗi lầm.  Hãy để cho lòng thương xót Chúa chữa lành những tật nguyền của chúng ta.  Ước gì khi chúng ta đã hưởng nếm lòng thương xót vô bờ của Chúa thì cũng biết trao ban lòng thương xót ấy cho anh em.  Xin Chúa ban cho chúng ta cũng có một tấm lòng bao dung để gạt qua những thành kiến, những đố kỵ, ghen tương mà đón nhận nhau trong yêu thương chia sẻ.  Xin Chúa giúp chúng ta cũng trở thành một chứng nhân cho lòng thương xót của Chúa bằng tình yêu hiến dâng phục vụ tha nhân. Amen.

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM

Đức Giêsu đã phục sinh.  Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Giêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một người như bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được?  Đức Giêsu Phục Sinh chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.

Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức Giêsu Phục Sinh hiện diện

Sau khi Đức Giêsu phục sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa.  Và dưới tác động của Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại.  Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào Đức Giêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức Giêsu Phục Sinh cho con người thời đó.

Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con người.  Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại.  Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả Đức Giêsu.  Chính Đức Giêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha” (Ga.14, 12).

Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm nay.

Đức Giêsu Phục Sinh là Thiên Chúa

Đức Giêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái không thể chấp nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62).  Người Do Thái không thể chấp nhận những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài.  Nếu Ngài không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.

Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài!  Như vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.

Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể.  Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người?  Tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá?  Tại sao Ngài mãi mãi là người?  Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người như bao người.  Thiên Chúa làm tất cả cho con người.

Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con

Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu nói với các tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.”  Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Giêsu.

Sứ mạng của Đức Giêsu, của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa!  Để làm được điều này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu con người đến chết.

Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng.  Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức Giêsu.  Thập giá minh chứng tình yêu.  Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu.  Tình yêu cải biến, chinh phục lòng người.

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm