LUYỆN HÌNH – NƠI CHỐN VẪN CÒN TÌNH YÊU

“Hãy chiếu soi lửa hồng vào đêm tối sâu thẳm hồn con, lửa tình yêu, lửa huyền siêu, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân” (Phanxicô).

Vâng, đây là Điệp khúc của bài hát, do nhạc sĩ Phanxicô sáng tác, mà ai cũng biết.  Để gợi hứng cho bài chia sẻ Lễ Các Linh Hồn, xin được mượn lời bài hát ý nghĩa nầy.  Thật ra, lời bài hát là về Chúa Thánh Thần, nhưng cảm nhận phù hợp với lễ các Linh Hồn, vì chính Chúa Thánh Thần tác động đến.  Vâng như vậy có thể minh định rằng: “Lửa tình yêu, lửa huyền siêu” nầy đang tác động đến luyện hình, nơi các linh hồn đang được thanh luyện vì chính Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân.  Vâng Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân cho người trần thế, và nơi các linh hồn trong luyện hình.  Để minh chứng cho điều nầy chúng ta hãy cùng suy niệm về “Luyện Hình.”

“Luyện hình” là nơi dùng hình thực thanh luyện, có nghĩa là “bị phạt.”  Nhưng “phạt” có thời gian, không như hỏa ngục, nơi “phạt” đời đời.

Như vậy, nơi “phạt” luyện hình vẫn còn tình yêu.  Thiên Chúa vẫn yêu thương các linh hồn nơi luyện hình, như yêu con người dương thế.  Bởi vì luyện hình mặc nhiên không phải là nơi luận phạt vĩnh viễn.  Như chúng ta biết Giáo Hội Công Giáo có ba thành phần, Chiến Đấu (Lập Công), Chiến Thắng (Khải Hoàn), Đau khổ (Đền Tội).  Như vậy chỉ có thành phần Giáo Hội Khải Hoàn mới hoàn toàn chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Quốc.  Còn thành phần Giáo Hội Lữ Hành và Giáo Hội Đền Tội là hai thành phần chưa được chiêm ngắm Thánh Nhan Thiên Chúa.  Bởi vì hai thành phần nầy chưa hoàn toàn tẩy trắng áo mình trong Máu Con Chiên vì vậy thành phần Giáo Hội Đau Khổ cũng như thành phần Giáo Hội Lữ Hành đều có chung một niềm khao khát như nhau, đó là còn xa cách Thánh Nhan Thiên Chúa.  Chỉ khác nhau ở một điểm là: Giáo Hội Lữ Hành là thành phần còn điều kiện lập công, còn giáo hội Đau Khổ thì mất “quyền” lập công.  Vì vậy các ngài cần đến sự trợ giúp của chúng ta, nói cách khác, các ngài là những cầu thủ bị “việt vị”, tức “liệt vị”, không còn “cựa quậy” gì nữa.  Nên chi từ đó “sự chết” theo tín lý công giáo là như vậy, một là lên Thiên Đàng, hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa, đó là các thánh, Giáo Hội Chiến Thắng.  Hai là vào luyện hình, nơi chờ đợi để thanh luyện.  Xin miễn bàn nơi thứ ba.  Vì vậy, Lửa thánh luyện cũng chính là: “Lửa Huyền Siêu, Lửa Tình Yêu”, do chính Thánh Ân của Chúa Thánh Thần.  Theo đó, lửa luyện hình vẫn là hình thức yêu thương, nhưng nơi đó, tình yêu “bị động”, có nghĩa là chỉ hưởng nhờ , chứ không được chủ động “lập nên” như chúng ta, ví dụ như đọc kinh, lần hạt, hay làm việc bác ái, v.v…  Nên chi lửa tình yêu, lửa huyền siêu chiếu vào chỉ một việc là thanh luyện.  Dù là Thánh Ân, nhưng giống như “mất quyền tự do”, nên chi các ngài phải chịu thua thiệt.  Tình yêu của Thiên Chúa nơi các linh hồn cũng là vô biên, nhưng hữu nhiên tình yêu Thánh Ân không phải là “hai chiều” giống như trần thế.  Đó là lý do, người ở trong luyện hình cần đến chúng ta, Giáo Hội lập công.

Như vậy, trần gian không phải là Thiên Đàng, cũng vậy, không phải là Luyện Hình.  Nhưng trần gian có vị thế của trần gian.  Theo đó, trần gian thì hạnh phúc hơn Luyện Hình, Thiên Đàng hạnh phúc hơn trần gian.  Hiểu như vậy, chúng ta phải yêu mến các Đẳng linh hồn, bằng cách cầu nguyện, dâng việc lành, hy sinh để đền thay, cầu thay cho các ngài, đó là bác ái Kitô giáo cho người đã khuất mà chưa được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa.  Đây là một hành động cao đẹp, đồng thời là nghĩa cử cứu độ.  Mặc nhiên, quyền xét đoán là duy mình Thiên Chúa, nhưng việc bác ái đối với các linh hồn thì chính là như việc truyền giáo vậy.  Thương người có 14 mối, thì bảy mối thương linh hồn, như vậy, hồn xác bằng nhau.  Nay các linh hồn không còn trong thân xác, thì các ngài được yêu thương trong linh hồn.  Vì linh hồn mà được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa, thì không gọi là linh hồn, mà được gọi là thánh.  Khi các ngài được cứu độ trọn vẹn thì các ngài ở trên thiên đàng, thì mặc nhiên các thánh là các ngài sẽ cầu bàu cho chúng ta.  Theo đó, Luyện Hình là nơi được “Lửa Hồng” chiếu soi, lửa huyền siêu, lửa tình yêu, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều Thánh Ân.

Dù rằng lời ca từ không dành cho các linh hồn trong Luyện Hình, nhưng từng lời ca từ trong bài hát cho chúng ta một sự kết nối đầy ý nghĩa Công Giáo.  Vì vậy lễ các linh hồn, xin chia sẻ theo ý tưởng nầy, hầu mang đến tính hiệp thông trong Giáo Hội.  Nếu như khi còn trên dương thế, trong thân xác hữu hạn, nhưng ý thức được tính huyền siêu bởi lửa tình yêu thì hạnh phúc cho tất cả chúng ta.

Mong rằng “Lửa Huyền siêu” mà Thánh Linh Thiên Chúa luôn chiếu soi trên các linh hồn nơi Luyện Hình chính là “Lửa Tình Yêu” duy nhất, mà Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều xuống trên các linh hồn.

Chúa Giêsu Kitô đã dùng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người để cứu rỗi các linh hồn, thì chính là các linh hồn trong Luyện Hình.  Vì phàm nhân nơi trần thế hoặc sẽ là các thánh, hoặc sẽ là các linh hồn.  Còn nếu ở trong Hỏa Ngục, thì xin miễn bàn.

Vì, “Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành đã hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã qua đời, vì cầu nguyện cho họ để được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh (2 Mcb 12, 45).  Chúng ta hãy dâng thánh lễ và các việc lành để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.”  (Trích Lịch Phụng Vụ).

Lạy Chúa Thánh Linh, Ngôi Ba Thiên Chúa xin tiếp tục tuôn đổ Thánh Ân trên các linh hồn nơi Luyện Hình, để chính lửa hồng mà Chúa chiếu soi là “Lửa Tình Yêu, Lửa Huyền Siêu trên các linh hồn.  Vì các linh hồn cũng chính là thành phần đáng được hưởng công nghiệp Máu Cứu Chuộc của Đức Giêsu Kitô.  Amen!

Trần Đình Phan Tiến

LOẠI NHÀ NÀO CÁC CON MUỐN XÂY CHO TA?

Điều gì đúng và điều gì không đúng?  Chúng ta đấu tranh rất nhiều về các vấn đề đạo đức, thường là với một biện minh cho mình.  Và đa số chúng ta rơi vào tình trạng tự cho mình là đúng mỗi khi tranh luận về tội.  Điều gì cấu thành tội và điều gì cấu thành tội trọng?  Các phái Kitô giáo và các trường phái tư tưởng khác nhau dựa trên nhiều loại lý luận Kinh Thánh và triết học để cố gắng giải quyết vấn đề này, thường là có các bất đồng gay gắt và tạo ra nhiều tức giận hơn là đồng thuận.

Phần nào đó là chuyện hẳn nhiên, vì các vấn đề đạo đức phải tính đến sự bí ẩn của tự do con người, các hạn chế vốn có trong tình huống ngẫu nhiên và số lượng các tình huống tồn tại khác nhau giữa người này với người kia.  Trong bất kỳ tình huống cụ thể nào cũng không dễ dàng phân biệt được đâu là đúng, đâu là sai, thậm chí còn khó hơn để phân biệt đâu là tội và đâu là không.

Dù không có ý định xúc phạm đến các tiếp cận các vấn đề đạo đức một cách kinh điển của các giáo hội và các nhà tư tưởng đạo đức của chúng ta, tôi nghĩ rằng có một cách tốt hơn để tiếp cận lành mạnh hơn, xét đến tự do, đến các giới hạn của con người và hoàn cảnh hiện sinh đặc biệt của từng cá nhân.  Cách tiếp cận không phải của riêng tôi, mà là cách tiếp cận được tiên tri Isaia đưa ra, ngài đưa ra câu hỏi này của Chúa cho chúng ta: Các ngươi sẽ xây cho Ta ngôi nhà nào?  (Isaia 66, 1) Câu hỏi này là nền tảng cho tinh thần môn đệ và tất cả các lựa chọn đạo đức của chúng ta.

Các ngươi sẽ xây cho Ta ngôi nhà nào?  Giáo dân có đức tin nói chung đã hiểu điều này theo nghĩa đen, và vì vậy từ thời cổ đại cho đến ngày nay, họ đã xây đền thờ, nhà thờ chính tòa, vương cung thánh đường, các đền thánh nguy nga tráng lệ để thể hiện đức tin của họ vào Chúa.  Điều đó thật tuyệt vời, nhưng lời mời mà tiên tri Isaia nói, trước hết và quan trọng nhất, là loại ngôi nhà mà chúng ta có ý định xây dựng bên trong lòng mình.  Làm thế nào để chúng ta giữ hình ảnh và sự giống Chúa trong cơ thể, trong trí tuệ, trong tình cảm, hành động của chúng ta?  Loại “nhà thờ” hay “thánh đường” nào trong con người chúng ta?  Đó là câu hỏi sâu hơn về lối sống đạo đức.

Vượt lên trình độ sơ đẳng, việc chúng ta có quyết định về mặt đạo đức không còn được hướng dẫn bởi câu hỏi đúng hay sai, điều này có tội hay không.  Thay vào đó, nó nên được hướng dẫn và thúc đẩy bởi một câu hỏi cao hơn: Các ngươi sẽ xây cho Ta ngôi nhà nào?  Tôi muốn sống hết nhân tính và tư cách môn đệ của tôi ở mức độ nào?  Tôi muốn tự phục vụ bản thân nhiều hơn hay tôi muốn quảng đại hơn?  Tôi muốn hèn hạ hay cao quý?  Tôi muốn tự thương hại hay có tâm hồn cao thượng?  Tôi muốn thực hiện các cam kết của mình hoàn toàn trung thực hay tôi cảm thấy thoải mái khi phản bội người khác và chính tôi một cách ẩn giấu?  Tôi muốn nên thánh hay muốn tầm thường?

Ở mức độ trưởng thành trong tư cách môn đệ (và trong sự trưởng thành của con người), câu hỏi không còn đặt ra nữa, điều này có đúng không?  Đó không phải là câu hỏi của tình yêu.  Câu hỏi của tình yêu là, làm thế nào tôi có thể đi sâu hơn?  Tôi có thể sống tình yêu, sự thật, ánh sáng và lòng chung thủy ở mức độ nào?

Tôi xin đơn cử một ví dụ đơn giản dễ hiểu để minh họa điều này.  Chúng ta hãy xem vấn đề khiết tịnh tình dục: thủ dâm có sai và tội không?  Tôi đã từng nghe một giáo sư đạo đức có quan điểm về điều này, ông phản ánh sự thách thức của tiên tri Isaia.  Ở đây, trong một cách diễn đạt, ông đã đưa ra vấn đề: “Tôi không nghĩ việc ngữ cảnh hóa câu hỏi này, cũng như các văn bản thần học đạo đức cổ điển là hữu ích, khi nói rằng đó là một rối loạn nghiêm trọng và tội nghiêm trọng.  Tôi cũng không nghĩ sẽ hữu ích khi nói những gì nền văn hóa và phần lớn tâm lý học đương đại đang nói, rằng đó là sự thờ ơ về mặt đạo đức.  Tôi nghĩ, một cách hữu ích hơn để tiếp cận vấn đề này là không nhìn nó qua lăng kính của đúng hay sai, tội hay không.  Thay vào đó, hãy tự hỏi mình câu hỏi: tôi muốn sống ở mức độ nào?  Tôi muốn thực hiện đức khiết tịnh, lòng trung thành và sự trung thực của tôi ở mức độ nào?  Vào lúc nào trong cuộc đời, tôi muốn chấp nhận gánh thêm căng thẳng mà trong tư cách môn đệ và nhân tính của tôi đòi hỏi tôi?  Tôi muốn trở thành người như thế nào?  Tôi muốn trở thành người hoàn toàn minh bạch hay người có những thứ phải che giấu?  Tôi có muốn sống trong sự tiết độ hoàn toàn không?”  Tôi muốn là “đền thờ” nào?  Tôi có thể xây loại nhà nào cho Chúa?

Tôi tin đây là cách lý tưởng mà chúng ta nên có, trước các lựa chọn đạo đức trong cuộc đời.  Chắc chắn đây không phải là linh đạo dành cho những người có sự phát triển đạo đức quá kém hoặc bị suy giảm đến mức họ vẫn còn đấu tranh với các đòi hỏi căn bản nhất của Mười Điều Răn.  Những người như vậy cần trợ giúp khắc phục và điều trị và đó là một trách vụ khác (dù rất cần thiết).

Và một điểm nữa, sự lựa chọn luân lý này đến với chúng ta, cũng như tất cả các lời mời từ Chúa, như một lời mời, chứ không như một mối đe dọa.  Chính qua tình yêu chứ không qua đe dọa mà Chúa mời gọi chúng ta vào đời sống và làm môn đệ, Ngài luôn nhẹ nhàng hỏi chúng ta: loại nhà nào con muốn xây cho Ta?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

TIẾNG NÓI CỦA SỰ THINH LẶNG

Sự gì phải đến sẽ đến.  Sự thinh lặng là điều tất nhiên phải đến với bất cứ ai.

Tôi đón chờ nó.  Thánh ý Chúa muốn vậy.
Tôi đón chờ bằng tâm tình tạ ơn.

Tôi tạ ơn Chúa về mọi ơn lành Chúa đã ban cho tôi.  Một trong những ơn tôi phải tạ ơn đặc biệt, đó là ơn sống đức tin.

Đức tin mà tôi đã lãnh nhận cũng giống đức tin Chúa ban cho mọi con cái Chúa.  Nhưng tôi sống đức tin ấy trong nhiều tình tiết khó khăn.  Những khó khăn ấy xem ra nhiều tín hữu cũng đã trải qua.  Nhưng họ không nói ra.

Nếu hôm nay, tôi nói ra đôi chút, thì thiết tưởng đó cũng là tiếng nói chung của sự thinh lặng.  Sự thinh lặng như một hiện diện làm chứng và hiệp thông của tôi và của nhiều người.

Nhìn lại con đường sống đức tin trong lòng Quê Hương và Hội Thánh, tôi thấy đức tin của tôi và của nhiều người đã mang mấy điều sau đây.

1. Một đức tin mang dấu ấn sự sợ hãi

Sự sợ hãi trong đời sống đức tin của nhiều người chúng tôi là một sự thật nên nói ra.  Bởi vì tin trong sợ hãi là điều xấu.

Ta hãy nhớ lại sự sợ hãi của Tiên tri Êlia.  Vì sợ bà hoàng hậu Ideven, Tiên tri Êlia đã đi trốn.  Ban đầu ông trốn vào sa mạc, rồi đi suốt 40 ngày đêm cho tới núi Khôrep.  Lúc thì ông ngủ dưới gốc cây, lúc thì ông ngủ trong hang (x. 1 V 19,3-9).  Êlia là tiên tri, mà còn sợ hãi đến mức đó.

Nếu cần thêm một minh chứng nữa về sự sợ hãi trong đức tin, chúng ta có thể nhìn lại các Tông đồ Chúa Giêsu.  Ở vườn cây dầu, khi thấy Thầy mình bị bắt, các ngài quá sợ, đã chạy thoát thân (x. Mc 14,50).  Sau khi Chúa phục sinh, các Tông đồ vẫn còn sợ.  Họ họp nhau trong phòng đóng kín cửa (x. Ga 20,19).

Còn chúng ta, khi gặp nhiều trường hợp khó khăn, có người như cảm thấy mất hết các điểm tựa quen thuộc.  Đức tin bấy giờ như chiếc xuồng nhỏ trôi giữa biển cả sóng cao gió mạnh.  Trong sợ hãi đức tin chúng tôi đã chỉ còn biết tìm về một mình Chúa mà thôi.  Và Chúa đã đến như Đấng Cứu Độ đầy tình thương xót.

2. Một đức tin mang dấu ấn sự đau khổ

Đức tin của chúng tôi không những đã trải qua nhiều sợ hãi, mà cũng đã nếm nhiều đau khổ.  Những đau khổ lớn nhất là do thử thách về sự vâng phục ý Chúa.

Để dễ hiểu khía cạnh này, chúng ta có thể nhắc đến trường hợp ông Abraham.  Ngài được Chúa dạy phải sát tế con mình là Isaac (x. St 22,1-19).  Một gương vâng lời nữa gây nhiều đau khổ là trường hợp Đức Mẹ Maria.  Mẹ vâng lời Chúa, nhưng vâng lời đó sẽ là một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn Mẹ (x. Lc 2,35).

Vâng lời của nhiều người chúng tôi cũng đã gây nên những mất mát.  Chúng tôi vâng lời, mà không biết sự gì sẽ xảy ra, và mình sẽ được lợi gì.  Phép lành của Chúa không được hứa hẹn.  Cái hợp lý không xuất hiện với những lý luận tự nhiên.  Sự vâng lời như dồn mình tới tận cùng giới hạn sự am hiểu, mà mình cho là sáng suốt.

Nhưng khi đức tin chịu vâng phục ý Chúa với sự chấp nhận hy sinh, thì con người chúng tôi đã khám phá ra rằng: Đời sống đức tin không thể tách rời khỏi sự vâng phục ý Chúa.  Đó là một mầu nhiệm.  Chính ở điểm đó mà nhiều người chúng tôi mới trở thành chứng nhân âm thầm của đức tin.

3. Một đức tin mang dấu ấn sự cô đơn

Ngoài đau khổ và sợ hãi, đức tin của chúng tôi còn mang dấu ấn của sự cô đơn.

Hình ảnh sống động nhất về sự cô đơn là hình ảnh Chúa Giêsu trên Thánh giá.  Lời Người kêu thảm thiết: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34) diễn tả một sự cô đơn khủng khiếp.

Trong các người tin theo Chúa, không thiếu người đã trải qua những trường hợp cô đơn ghê sợ.  Hoài nghi tiếp nối hoài nghi.  Nhưng hoài nghi lại nuôi đức tin.  Rồi đức tin lại nở sinh những hoài nghi mới.  Con người sống đức tin như bị rơi vào con đường hầm tăm tối.  Họ cầu nguyện, nhưng cảm thấy quá khô khan.  Họ tìm Chúa, nhưng cảm thấy như Chúa vắng mặt.  Họ nhìn xung quanh xem có ai tin được, nhưng hình như mọi người đều dửng dưng xa tránh.

Nếu ai hỏi họ tại sao đức tin họ lại cô đơn, thì họ không cắt nghĩa được.  Và đó là cảnh cô đơn mênh mông rùng rợn.  Nếu hỏi họ cô đơn nào nguy hiểm nhất?  Thì đôi khi họ chỉ nói trống là: Từ nội bộ.  Và đó là sự nghịch lý chua chát, mà Thánh Gioan đã nói ngay ở đầu Phúc âm của Ngài (x. Ga 1,11).

Xã hội và Giáo hội là chiến trường giữa thiện và ác.  Khi não trạng coi trọng của cải danh vọng hơn đức tin đức ái phát triển mạnh ở đó, thì những ai đi ngược lại sẽ bị cô đơn.  Sự cô đơn của đức tin thường hay bén nhạy.  Nó cũng dễ đưa con người tới những suy tư về ý nghĩa cuộc đời và các biến cố.  Những suy tư như thế là cửa mở ra về cõi đời đời.

Với “Tiếng nói của sự thinh lặng” trên đây, tôi muốn nói lên cảm tưởng này của tôi là: Đức tin ví được như một viên ngọc quý Chúa ban.  Viên ngọc quý này sẽ phải được giữ gìn, và sẽ được sáng lên nhờ những thử thách.  Có nhiều thử thách, nhưng nên để ý nhiều hơn đến sợ hãi đau khổ và cô đơn.  Vì thế, việc mà Chúa muốn chúng ta thực hiện không phải là tránh được những thử thách đó.  Hành trình sống đức tin như thế sẽ phác họa lại lời Thánh Tông đồ Phaolô xưa:

“Kho tàng ấy, chúng ta lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi.  Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt.  Chúng tôi luôn mang trong thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống cũng biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4,7-10).

Với nhận thức trên đây, tôi xin tạ ơn Chúa vì hành trình đức tin.  Dù trong thing lặng, hành trình ấy chính là những vượt qua, nhờ cuộc thương khó của Chúa Giêsu là mục tử nhân lành.  Người luôn ở trong đời sống chúng ta.

Xin âm thầm tạ ơn Chúa trong cõi thinh lặng.
Xin âm thầm tạ ơn Chúa với những người thinh lặng.

Gm. G.B. Bùi Tuần

TÌNH YÊU LÀ LẼ SỐNG

Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: “Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống”. Thế nhưng, “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:

Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!

Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”. Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.

Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.

Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.

Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.

Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.

Lm Giuse Tạ Duy Tuyền (Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

CHÚA CÓ THIÊN VỊ KHÔNG?

Chúa có thương một số người nào đó nhiều hơn những người khác không?  Chúa có thiên vị không?

Đây là vấn đề tranh cãi từ hàng thế kỷ nay: Liệu có một chủng tộc nào được Chúa chọn?  Có phải một số người nào được định trước sẽ lên thiên đường hay xuống địa ngục không?  Có phải Chúa thương người nghèo hơn người giàu?  Có phải Chúa thương người có tội hơn người ngay thẳng?  Có phải Chúa thương người trinh tiết hơn người lập gia đình?  Ít nhất là nhìn bề ngoài, có vẻ như thánh kinh nói rằng Chúa thương một số người hơn những người khác.  Nhưng có đúng như vậy không?

Khó mà trả lời được câu hỏi này, vì phần nào đó là một câu hỏi sai lầm.  Thông thường, bất cứ khi nào chúng ta dựng lên những kiểu đối lập như thế (Có phải Chúa thương người này hơn người kia?), thì chúng ta đang lập ra một lối đi trên một con đường sai:

Ví dụ, khi Chúa Giê-su nói cả thiên đàng vui mừng khi có một người trở lại hơn là vui với chín mươi chín người không cần hối cải; thì không phải Chúa khẳng định thương người có tội sâu đậm hơn người ngay thẳng.  Đối với Chúa Giê-su, khi nói trong hoàn cảnh cụ thể này, là không hề ngụ ý nói tới người ngay thẳng.  Chỉ đang nói với kẻ có tội (những người cảm thấy cần phải trở lại) và những người tự cho là mình ngay thẳng (những người có tội nhưng chưa hiểu mình cần ăn năn hối lỗi).  Hối cải, ít nhất trong bối cảnh đặc biệt này, không phải là một điều kiện tiên quyết cho đời sống Ki-tô hữu.  Không hề có ngụ ý về người ngay thẳng ở đây, chỉ những người có tội, và hành trình Ki-tô luôn luôn là một hành trình của trở lại, một sự quay về ràng, như đàn chiên quay về chuồng.  Chúng ta mở lòng ra để nhận tình thương yêu của Chúa bất cứ lúc nào chúng ta nhận ra điều đó.  Chúa thật sự thiên vị những kẻ có tội, nhưng những kẻ có tội bao gồm tất cả chúng ta.

Điều này cũng đúng đối với chuyện có phải Chúa thương người nghèo hơn người giàu hay không.  Một cách xác quyết, Giê-su nói rằng Chúa ưu ái người nghèo, nhưng như vậy có phải là Chúa thương người giàu ít đi không?

Thêm một lần nữa, chúng ta phải cẩn trọng trong cách chúng ta đặt những phạm trù này tương phản với nhau: nghèo tương phản với giàu.  Điều được khẳng định ở đây không phải là khi chúng ta nghèo thì Chúa thương chúng ta hơn so với khi chúng ta giàu.  Mà đúng hơn, ý ở đây là Chúa thương chúng ta trong cái nghèo nàn của chúng ta, và khi chúng ta chấp nhận mình nghèo thì dễ dàng mở lòng ra để được yêu thương và dễ dàng bày tỏ lòng biết ơn hơn.  Đối với Chúa Giê-su, chỉ có hai loại người: những người nghèo và những người chưa tiếp xúc với cái nghèo nàn của mình.  Và cũng không phải là Chúa thích chúng ta nghèo và thương chúng ta hơn khi chúng ta nghèo.  Mà đúng ra, chính là khi chúng ta nghèo và tiếp xúc với cái nghèo của mình thì chúng ta dễ dàng mở lòng ra với tình thương hơn, kể cả tình thương của Chúa lẫn tình thương của người khác.  Chúa thật sự thiên vị người nghèo, nhưng, giá như chúng ta hiểu đúng tình trạng của mình, rằng những người nghèo bao gồm tất cả chúng ta.

Nguyên tắc này cũng cần được áp dụng đối với các vấn đề chung quanh vấn đề thiêng liêng và vấn đề tình dục.  Có phải Chúa thương chúng ta hơn khi chúng ta chưa trọn vẹn về mặt tình dục so với khi trọn vẹn không?

Phúc âm nhấn mạnh rằng Chúa Giê-su sinh ra từ một trinh nữ, được chôn trong một nấm mồ chưa từng chôn ai, và vì thế, chúng ta được mời gọi để có một trái tim trinh trắng.  Bởi điều này mà trên con đường thiêng liêng Ki-tô cũng như trong các truyền thống linh đạo của mọi tôn giáo lớn trên thế giới, từ xưa đến nay vẫn luôn luôn có một dòng tư tưởng cho rằng cách nào đó Chúa ban phước cho những ai sống đời độc thân hơn những người lập gia đình, rằng sự trinh trắng là tình trạng tinh thần được ưu ái hơn.  Có phải Chúa thương chúng ta hơn nếu chúng ta là những người trinh trắng?

Chúng ta lại phải cẩn trọng trong cách đặt những phạm trù này tương phản với nhau: trinh trắng và không trinh trắng.  Lời dặn ở đây là Chúa thương những gì là trinh trắng trong bản thân chúng ta.  Mối quan hệ tương phản ở đây không phải là giữa những ai ngủ một mình và những người không ngủ một mình, mà là giữa những người bảo vệ những gì trinh trắng trong bản thân, và những người không làm như vậy; giữa những người có thể đổ mồ hôi máu để tiếp tục chịu đựng căng thẳng khi sống mà không tuyệt đích thoả mãn (tất cả mọi loại) và những người không làm như vậy.  Chính khi chúng ta bảo vệ những gì trinh trắng trong bản thân và khi chúng ta không bỏ qua những giai điệu thầm kín chính đáng của cuộc sống vì những căng thẳng của mình là lúc chúng ta mở lòng ra hơn để tiếp nhận tình thương yêu, tình thương yêu của Chúa và tình thương yêu của con người.

Chúa thật sự thiên vị những người trinh trắng, nhưng, nếu chúng ta sống với lòng khiêm cung và nhẫn nại đúng mực, thì những người trinh trắng đó gồm tất cả chúng ta.

Cũng có thể nói như vậy về việc Chúa Giê-su trân trọng trẻ con như những con người lý tưởng.  Không phải Người dạy rằng Chúa thương trẻ con hơn người lớn.  Sự tương phản này không phải là giữa trẻ con và người lớn, mà là giữa những ai, giống như trẻ con, biết họ cần được giúp đỡ, và những người vì kiêu căng hay vì tổn thương đã không còn thừa nhận họ cần Chúa hay cần ai khác.  Chính khi chúng ta thừa nhận sự thật sâu xa rằng chúng ta không thể tự mình mà đầy đủ thì chúng ta mới mở lòng ra để Chúa và người khác ưu ái.  Chúa thật sự thiên vị những ai giống như trẻ con, nhưng, hy vọng là trẻ con bao gồm tất cả chúng ta.

Chúa có đối xử thiên vị hay không?  Có, nhưng không phải là giữa những người khác nhau, mà là giữa những trạng thái khác nhau trong chính tâm hồn chúng ta.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

HÌNH AI ĐÂY?

Mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có ý chí.  Có lý trí để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến.  Trước khi dựng nên loài người, Thiên Chúa phán: “Ta hãy dựng nên con người như hình ảnh Ta và giống Ta… và Thiên Chúa đã thực hiện dự định ấy: Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa.”  Cái hình ảnh ấy con người mang trong mình từ khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên giống Chúa hơn.  Tư tưởng ấy Chúa Kitô đã nhắc lại cho chúng ta hôm nay trong dịp tranh luận với nhóm Pharisêu.

Chúa là sự thật hiện thân, là chân lý vĩnh cửu, nên Ngài rất ghét những kẻ giả hình: bề ngoài thơn thớt nói cười mà bề trong nham hiểm giết người không gươm.  Họ định đến gài bẫy để bắt lỗi Chúa thế mà họ chỉ dùng toàn những lời tâng bốc xu nịnh: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật… chẳng vị nể ai…”  Chúa không thể chịu được cái giọng dối trá ấy, vì đối với Ngài thì “có phải nói là có, không thì nói là không, còn những cái quá trớn đều là xấu xa.”  Vì không thể chịu được nên Chúa đã phải gọi họ là bọn giả hình, và Ngài đã cho họ biết những mánh lới quỷ quyệt của họ không làm gì nổi Ngài.  Chúa bảo họ cho Ngài xem một đồng tiền vẫn đóng thuế.  Thời ấy ở Palestine, dân chúng tiêu dùng hai thứ tiền: khi đóng thuế vào đền thờ thì bắt buộc phải dùng tiền Do Thái, bởi vì theo luật Do Thái, không một hình ảnh sinh vật nào được đưa vào khu vực đền thờ, mà tiền ngoại quốc lại thường có hình người hay vật, còn tiền Do Thái chỉ có số và niên hiệu mà không có hình ảnh gì.  Trái lại, khi nộp thuế cho chính phủ bảo hộ thì phải dùng tiền Rôma, tiền của Xêda.  Ai đổi lấy tiền ấy, tức là bằng lòng đóng thuế.  Chúa bảo đưa Chúa xem không phải là Chúa không biết thứ tiền ấy, mà Ngài chỉ muốn đưa họ vào chính cái bẫy mà họ đã gài định mưu hại Chúa.  Nghĩa là Chúa làm cho họ thú nhận bằng lời nói và việc làm rằng họ muốn hay ít nữa bằng lòng đóng thuế cho Xêda rồi.  Chúa sẽ không trả lời câu họ hỏi có nên hay không nên nộp thuế mà Ngài chỉ nói: “Của Xêda thì trả về Xêda”, nghĩa là các ông đã có tiền của Xêda tức là các ông đã sẵn sàng đóng thuế cho Xêda rồi, còn hỏi làm gì nữa?  Hãy đưa cái của nợ ấy mà hoàn lại cho Xêda, thế là xong.  Câu trả lời của Chúa còn bao hàm một ý nghĩa về quyền lợi của chính phủ hay chính quyền hợp pháp, “Quyền hành hợp pháp là do Thiên Chúa.”

Thánh Phaolô đã viết như thế cho giáo đoàn Rôma và Ngài còn thêm: “Những gì ta nợ ai thì phải trả cho người ấy”, mắc sưu thì trả sưu, mắc thuế thì trả thuế, mắc tôn trọng thì trả tôn trọng, mắc yêu mến thì trả yêu mến.  Những cái đó cũng là những món nợ: nợ vật chất và tinh thần.  Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đòi hỏi ở chúng ta.  Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi, mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa.  Để làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng, Chúa Giêsu đã không ngần ngại thêm: “Và hãy trả về Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa.”  Chúng ta nợ Chúa những gì?  Chúng ta nợ tất cả.  Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Ngươi có cái chi mà ngươi đã không nhận được?  Nếu ngươi đã nhận được ở chỗ khác thì sao lại hãnh diện như là không.”  Ngoài những đức tính, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người: linh hồn, lý trí, ý chí, những cái chúng ta nhận được khi thụ thai, những cái làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh, nhiều vốn khác nữa.

Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh Con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xoá đi được, nhưng chưa được rõ lắm.  Không những chúng ta có nhiệm vụ bảo tồn hình ảnh ấy được nguyên vẹn, mà chúng ta còn có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, tươi đẹp.  Hình ảnh ấy không thể chỉ là bức hoạt họa hay hí họa.  Bức họat họa chỉ làm trò cười cho thiên hạ thôi.  Bức hình ấy phải là bức ảnh truyền thần tô mầu, đúng chân dung Chúa Kitô: Chúa là Đấng đáng yêu mến, quý trọng… thì hình ảnh của Ngài cũng phải gợi lên được những tâm tình ấy, nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng yêu mến quý trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí họa của Chúa.

Những người mới tập vẽ hay những họa sĩ kém khi vẽ một bức chân dung xong, cho dù cố gắng mấy vẫn còn phải đề tên người được vẽ ở dưới, không thì người xem bức hình ấy sẽ không biết là ai.  “Hình này là hình ai đây?”  Câu ấy có thể là một câu mà Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng?  Có biết bao tín hữu đều là những bức hình cần phải đề tên rõ ở dưới, nghĩa là nếu không có một mẫu ảnh, một tấm áo hay một huy hiệu nào trên người họ thì người khác không thể biết được họ là tín hữu.  Trên cổ họ có lẽ lúc nào cũng cần phải đeo một tấm bảng nhỏ ghi: “Đây là một tín hữu”, bởi vì họ không mang trên mình họ, trong con người họ, trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động của họ một nét nào là nét Chúa nữa.

Hôm nay, Chúa đòi và mong muốn chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Chúa đã trao cho chúng ta khi chúng ta được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội, và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi Chúa, mà còn phải là một hình ảnh đẹp gấp bội nữa, bởi vì nén vàng nén bạc trao cho chúng ta cần phải sinh lời ra nữa, bức hình trao cho chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.  “Hình ai đây?”  Hằng ngày chúng ta hãy tự cảnh tỉnh mình như thế: tôi làm việc này, tôi nghĩ ngợi như thế, tôi ăn nói như vậy có giống Chúa không?  Hành động này, tư tưởng ấy, lời nói kia là hình ảnh ai đó?  Chúa hay Xêda?  Hãy trả ngay cho Xêda những gì là của Xêda.  Và nhất là hãy giữ lại để trao về cho Chúa những gì là của Chúa.

Sưu tầm

THEO ĐẠO NHỜ GƯƠNG SÁNG

Trong bộ phim Tiểu Sử Thánh Têrêxa thành Lisieux đạo diễn đã chọn nữ diễn viên Lindsay Younce thủ vai Têrêxa.  Điều đáng nói là sau khi hoàn thành bộ phim, nữ diễn viên ngoại đạo này đã xin theo đạo Công Giáo.

Cô nói: “Quá trình trở lại đạo công giáo của tôi đã bắt đầu ngay trước lúc tôi khởi sự cuốn phim, tuy nhiên tôi đã đợi cho xong phim rồi mới hòan thành quá trình đó.  Tôi nghĩ rằng việc được biết thánh Têrêxa đã dẫn tôi tới nhiều khía cạnh của đức tin công giáo mà tôi chưa được làm quen, đặc biệt là niềm vui phát sinh từ đau khổ khi bạn dâng nó lên Thiên Chúa như một của lễ.  Bạn xin cho được đau khổ, bạn thấy vui trong đau khổ và đó có thể là những điều nhỏ mọn mà bạn tiến dâng lên mỗi ngày.

Điều mà cô cảm phục chính là thái độ sống nhịn nhục và phục vụ ân cần của thánh Têrêxa với nữ tu già Augustine.  Một người nữ tu rất khó thương, thế mà thánh nữ vẫn yêu thương và biến hành vi ấy thành của lễ cứu độ trần gian để rồi thánh nữ đã có thể nói: “Nếu có tình yêu thì dù cúi xuống nhặt một cái kim cũng đủ cứu độ thế giới.  Và ngài cũng nói: “ơn gọi của ngài là tình yêu.

Ở đời người ta rất cần gương sáng.  Gương sáng của người vợ có thể biến đổi người chồng nghiện ngập sa đọa thay đổi đời sống.  Gương sáng của cha mẹ sẽ dẫn dắt con cái đi trong chân thiện mỹ.  Gương sáng của người tín hữu có thể biến đổi người lương dân và giúp họ đón nhận tin mừng.

Nữ diễn viên Younce đã được ơn theo đạo Công Giáo nhờ đọc tiểu sử và nhập vai thánh Têrêxa, và có lẽ đời sống của chúng ta nếu sống đúng tinh thần Kitô hữu là sống cho tình yêu thì chắc chắn sẽ mang về cho Chúa biết bao linh hồn.

Nhưng đáng tiếc, vì cuộc sống phản chứng của chúng ta đã khiến bao người lương dân ngã lòng, thất vọng khi chúng ta sống thiếu công bình, bác ái, yêu thương.  Đôi khi chúng ta còn gây nên những bất đồng, khổ đau cho tha nhân như Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đã từng đại diện cho toàn thể Giáo hội xin lỗi anh em lương dân vì đời sống phản chứng Tin Mừng.

Hôm nay lễ khánh nhật truyền giáo là dịp cho chúng ta xác định ơn gọi của chúng ta là truyền giáo.  Giáo hội Chúa Kitô thiết lập để sai đi truyền giáo.  Người Kitô hữu là chi thể của Giáo hội cũng phải biết cộng tác vào chương trình truyền giáo theo khả năng và hoàn cảnh của mình.  Mỗi người có thể là tay chân, là môi miệng, là mắt, là tai… đều phải tỏa sáng Tin mừng trong khả năng của mình.

Có thể bạn là người nghèo thì hãy sống khó nghèo, đừng vì nghèo mà sinh đạo tặc hay sống xa lánh Giáo hội.  Hãy làm chứng cho thế giới biết rằng cuộc đời chỉ là một hành trình tiến về thiên quốc là nơi không còn đau khổ bởi đói, bởi hận thù chiến tranh, thế nên chúng ta hãy tin tưởng và bước đi trong hoàn cảnh của mình.

Có thể bạn là người giầu có, quyền thế hãy biết tận dụng ơn huệ Chúa ban để tôn vinh Chúa qua đời sống chia sẻ, cảm thông với những mảnh đời bất hạnh.

Có thể bạn là người bệnh tật, hay già nua, hãy dâng nỗi đau phần xác của mình để cầu nguyện cho Giáo hội, hãy cầu cho Giáo hội của Chúa có nhiều thợ lành nghề để mở mang Nước Chúa.

Có thể bạn là người khỏe mạnh, hãy cảm tạ Chúa bằng chính đời sống dấn thân cho Tin Mừng tùy theo khả năng của mình.

Người ta nói rằng bạn chỉ có thể làm gương sáng nếu biết đặt tình yêu vào công việc của mình.  Không có tình yêu sẽ không có những nghĩa cử đẹp cho đời.  Không có tình yêu chúng ta sẽ biến môi trường sống của mình thành một sa mạc khô cằn.  Chỉ có trong tình yêu chúng ta mới hết lòng quan tâm, chia sẻ và làm điều gì đó cho tha nhân.

Ước gì chúng ta luôn biết yêu mến Giáo hội, yêu mến công việc của Giáo hội để tùy theo hoàn cảnh chúng ta trở thành chứng nhân cho Nước Chúa.  Amen.

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

THÁNH TÊRÊSA AVILA, TRINH NỮ, TIẾN SĨ HỘI THÁNH

Lạy Chúa, từ nay con muốn quên đi chính mình, hầu chỉ chú tâm vào việc con có thể làm gì để phụng sự Chúa, và con không còn ý muốn nào khác ngoài Thánh Ý Chúa.

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Thánh nữ Têrêsa sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515, tại Avila, nước Tây Ban Nha, trong một gia đình quý tộc đạo đức.  Lúc nhỏ, thánh nữ rất thích đọc sách tu đức và hạnh thánh tử đạo, thấy các ngài can đảm hy sinh chịu khổ chịu chết vì Chúa, và được nên thánh trong Hội thánh.  Có lần ngài bảo em: “Chúng ta hãy đến chỗ người ta đang bắt đạo, để chị em mình được chết vì đạo, được Chúa thưởng lên thiên đàng hưởng phước với các thánh.”

Thánh nữ chỉ mong được lên thiên đàng, và rất sợ hình khổ hỏa ngục.

Têrêsa có lòng kính mến Đức Mẹ đặc biệt.  Ngày ngày, ngài lần chuỗi Mân Côi để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ.  Và năm lên 12 tuổi, khi mẹ ngài mất, ngài đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ, xin Đức Mẹ nhận ngài làm con, và hứa suốt đời sống xứng đáng làm con Đức Mẹ.

Năm 1530 nhân tuần cấm phòng tại tu viện thánh Augustinô, thánh nữ cảm thấy ước nguyện đi tu mỗi lúc một thôi thúc mạnh mẽ trong tâm hồn, Ngài trở về ngỏ ý xin cha cho phép vào tu trong dòng Carmelô, nhưng cha Ngài nhất định khước từ.  Dầu vậy, Têrêsa không sờn lòng, ngài vẫn kiên trì hun đúc ý chí cầu nguyện sống tận hiến theo tiếng Chúa gọi.  Một hôm thánh nữ phân vân không biết quyết định làm sao, theo tiếng Chúa  gọi hay vâng lời cha già, thì một câu nói của thánh Giêrônimô đã giúp ngài định hướng dứt khoát cho cuộc đời của mình: “Cả khi cha mẹ con, nằm lăn trước cửa để ngăn cản con đi tu, thì con cũng cứ can đảm bước đi vì tiếng Chúa trong con hơn…”  Thế là chim bằng vỗ cánh vút cao trên nền trời xanh thẳm.

Năm 1533, Têrêsa vừa đúng 18 tuổi, ngài nhất định cất bước lên đường vào tu trong dòng “Nhập thể.”  Sống cuộc đời mới, thánh nữ hân hoan như cá gặp nước, ngài tiến bộ rất nhanh trên đường tu đức.  Ngày 2.11.1535 ngài được mặc áo dòng.  Cuộc đời tưởng sẽ êm suôi nhưng không phải thế.  Bao nhiêu cơn cám dỗ nặng nề về đức tin và ý hướng tận hiến nổi lên.  Thêm vào đó là tâm trí mệt mỏi, bệnh thần kinh xuất hiện hành hạ đến nỗi bề trên phải cho ngài về nhà uống thuốc nghỉ bệnh.  Ơn kêu gọi trải qua một cơn sóng gió nặng nề.  Nhiều khi thánh nữ cảm thấy chán nản, muốn nhắm mắt để mặc thế gian lôi cuốn.  Thế nhưng ý Chúa nhiệm mầu.  Chính lúc Têrêsa cảm thấy mình yếu đuối hơn cả thì lại là lúc Chúa hoạt động nơi ngài mạnh hơn hết.  Quả thế, một hôm thánh nữ đang say sưa mơ tưởng những sự thế gian, thì bàn tay quan phòng của Chúa đã đến đúng lúc thức tỉnh thánh nữ.  Tiếng nói mầu nhiệm của Chúa đã lọt vào lòng thánh nữ: “Cha không muốn con mê mải sự thế gian và tiếp xúc với người đời mà cha chỉ muốn con tiếp xúc với các thiên thần.”

Năm 1558, vào sau dịp lễ Phục Sinh, thánh nữ được trông thấy hai bàn tay của Chúa Giêsu rồi tiếp sau là khuôn mặt sáng ngời của Ngài.  Lần khác Chúa cho thánh nữ trông thấy địa ngục đầy dẫy những hình khổ và lửa đỏ cháy ngùn ngụt thiêu đốt những linh hồn tội lỗi…

Những thị kiến ấy đã gợi lên nơi thánh nữ ý tưởng phải lập một dòng nhiệm nhặt hơn, chuyên lo đền tội.  Thiên Chúa đã chúc lành cho ý định của ngài và giúp ngài thực hiện.

Ngày 24.8.1562, tu viện đầu tiên đã mọc lên ở Avila và ngày ngày có nhiều thiếu nữ xin gia nhập.  Quy luật dòng rất nghiêm nhặt, như đi chân không, chú trọng đến việc ăn chay, hãm mình đánh tội, thức khuya dậy sớm, đọc kinh cầu nguyện rất nhiều.  Và cũng từ đó, các tu viện được xây cất thêm mỗi ngày một đông, chứng tỏ Thiên Chúa rất hài lòng với công việc lớn lao của thánh nữ.

Cầu nguyện và suy ngắm chiếm điạ vị ưu tiên trong tinh thần tu đức của thánh nữ.  Phương pháp cầu nguyện tốt nhất là đặt mình trước mặt Chúa và nhận biết sự nhỏ bé, hèn mọn của mình.

Đề tài thánh Têrêsa ưa nguyện ngắm hơn cả là đời sống hy sinh và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.  Vì thế trong mọi hoàn cảnh, thánh nữ luôn múc lấy sức mạnh nơi thánh giá Chúa và luôn luôn tâm niệm lời Chúa phán: “hãy vác thánh giá và theo Chúa.”  Thánh nữ đã viết: “Tôi không phàn nàn về thân phận của tôi, quả thực tôi không yếu đuối như những phụ nữ khác.  Tôi có một trái tim quả cảm.  Thiên Chúa nâng đỡ những ai quyết tin tưởng nơi Ngài.  Chúa là sức mạnh, là nơi nương tựa và hướng đạo của tôi.”

Thánh Têrêsa đã sống và đã chết với lòng tin tưởng ấy.  Thánh nữ hay than thở với Chúa: “Lạy Chúa, dù thành công hay thất bại, dù vui sướng hay đau khổ con vẫn một lòng tin tưởng vào Chúa.”  Thánh nữ qua đời tại Alba de Tormes ngày 05.10.1582 hưởng thọ 67 tuổi.  Năm 1622 đức Gregoriô XV phong ngài lên bậc hiển thánh.  Năm 1970 Đức Thánh Cha Phaolô VI tôn phong ngài lên hàng tiến sĩ của Giáo Hội.

II. NHỮNG HÌNH ẢNH ĐẬM NÉT VỀ CUỘC ĐỜI CỦA THÁNH TÊRÊSA AVILA

1. Bên cạnh những danh xưng mà người ta gán cho ngài như: Vị cải tổ dòng Cát Minh, người con của Giáo Hội, nhà đại chiêm niệm, nhân chứng của Thiên Chúa tình yêu thì hình ảnh đậm đà và đẹp nhất người ta thích nói về ngài là hình ảnh Têrêsa của Chúa Giêsu.

Giai thoại nổi tiếng sau đây cho chúng ta thấy điều đó.

Hồi ngài ở đan viện Toledo, một ngày kia, ngài bỗng thấy một cậu bé khôi ngô, thánh nữ ngạc nhiên dừng bước hỏi:

–  Này em, em tên gì?

Cậu bé không trả lời ngay, nhưng hỏi ngược lại:

– Thưa bà, vậy bà tên chi?

– Tôi tên là Têrêsa của Chúa Giêsu. Thánh Nữ đáp.

Cậu bé mỉm cười rất dễ thương tiếp lời:

– Tôi, tôi tên là … Giêsu của Têrêsa!

Nói xong, cậu bé “Giêsu của Têrêsa” biến mất…

Đức Thánh Cha Gioan XXIII rất thích câu chuyện này.  Ngài ghi lại trong quyển nhật ký của Ngài mấy dòng tư tưởng sau đây:

“Tôi phải sống thế nào để Chúa Giêsu cũng nói với tôi, như thuở xưa Ngài đã nói với Thánh Têrêsa thành Avila: “Tôi tên là Giêsu của Têrêsa.”  Vậy tiên vàn, tôi phải là Angêlô của Chúa Giêsu trước đã…”

Vâng!  Mỗi người chúng ta phải là người của Chúa Giêsu.

2. Khi đã trở nên người của Chúa Giêsu thì thánh Têrêsa sẵn sàng sống tuân theo mọi đòi hỏi của Chúa.

Ngài luôn cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ nay con muốn quên đi chính mình, hầu chỉ chú tâm vào việc con có thể làm gì để phụng sự Chúa, và con không còn ý muốn nào khác ngoài Thánh Ý Chúa”.

Trên đường đi lập đan viện Burgos, thánh Têrêsa gặp phải nhiều đau khổ nên đã thốt ra những lời sau đây: “Ôi lạy Chúa, phần thưởng của Chúa dành cho kẻ phục vụ toàn là những thử thách gay go.  Thánh nữ liền được nghe tiếng Chúa nói: “Đó là cách Ta đối xử với các bạn thân của Ta!” Têrêsa đáp lại: “Đúng rồi, có gì lạ đâu, chính vì thế mà Chúa có ít bạn tâm phúc!

Sưu tầm

THÁNH GIOAN 23, GIÁO HOÀNG

Đức Thánh Cha Gioan XXIII là người đã triệu tập Công Đồng Vatican II, mở cánh cửa Giáo Hội ra với thế giới bên ngoài, và đem một sinh khí mới vào đời sống của Giáo Hội.

Triệu tập Công đồng là một công việc vĩ đại, phát xuất từ nhiều lo lắng cho tương lai Giáo Hội với quá nhiều vấn đề khó khăn, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lại vẫn thường cầu nguyện rất đơn sơ nhẹ nhàng trước giờ đi ngủ: “Lạy Chúa, Giáo Hội là của Chúa, con chỉ là tôi tớ.  Giáo Hội mạnh yếu thành đạt là trách nhiệm của Chúa.  Con đã làm bổn phận của con, giờ này đến giờ con đi ngủ, xin Chúa ban phúc lành cho con.”  Nói thế rồi, Ngài đi vào giấc ngủ ngon.  Như vậy, dù thường xuyên suy tư trăn trở cho Giáo Hội, ngài lại rất thực tế sống tinh thần phó thác – giống như chỉ chuyên chăm hoàn tất bổn phận hằng ngày của mình với “Mười Điều Tâm Niệm” mà ngài đã đề ra cho mình:

1. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống tích cực trọn vẹn, chứ không tìm cách giải quyết mọi vấn đề của đời mình.

2. Ngày hôm nay, tôi sẽ chú ý đặc biệt đến dáng vẻ của mình: ăn mặc đơn sơ, không lớn tiếng, lịch sự trong cách ứng xử; tôi sẽ không phê phán ai; tôi cũng sẽ không đòi ai phải ứng xử hoặc kỷ luật ai, trừ ra chính con người của mình.

3. Ngày hôm nay, tôi vui sướng tin chắc rằng tôi được tạo dựng để sống hạnh phúc, không chỉ cho đời sau mà ngay cả từ đời này.

4. Ngày hôm nay, tôi sẽ sống theo hoàn cảnh của mình, mà không đòi hỏi hoàn cảnh phải phù hợp với những ước muốn của tôi.

5. Ngày hôm nay, tôi sẽ dành 10 phút để đọc điều gì thật hữu ích, và luôn nhớ rằng lương thực cần cho cuộc sống như thế nào thì đọc điều hữu ích cũng cần thiết để nuôi dưỡng cho linh hồn mình như vậy.

6. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm một điều tốt mà không kể cho ai nghe.

7. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một điều tôi không thích: và nếu tôi bị tổn thương, thì tôi cũng không cho ai biết điều này.

8. Ngày hôm nay, tôi sẽ hoạch định một chương trình cho riêng tôi: tôi có thể không theo sát được từng chữ, nhưng tôi sẽ có một chương trình như thế. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: cẩu thả và lừng khừng, không dám quyết tâm.

9. Ngày hôm nay, tôi tin chắc rằng, dù thế nào đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn yêu thưong tôi như chỉ có mình tôi trên thế gian này.

10. Ngày hôm nay, tôi sẽ không sợ hãi gì. Tôi sẽ không ngần ngại thưởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên và tin tưởng vào lòng nhân ái của con người và cuộc đời.

Thực thế, trong vòng 12 tiếng đồng hồ, tôi chắc chắn có thể làm tốt điều mà tôi nghĩ rằng sẽ thật kinh hoàng nếu phải làm nó suốt cả đời.

Đức Gioan XXIII cũng thường được gọi là “Giáo hoàng Gioan nhân hậu.”  Ngài coi mình là “con cái của Thánh Phanxicô” khi gia nhập Dòng Ba Phanxicô lúc còn là một chủng sinh.  Vị Giáo hoàng khiêm tốn này thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: “Tôi là Giuse, người anh em của quý vị.”

Vị Giáo hoàng thứ 261 này có tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola.  Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh Angelo được rửa tội.  Người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu.  Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo lắng chăm sóc của ông.

Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội, nên sau khi xong bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana.  Ngày 07-11-1892, cậu gia nhập chủng viện Bergamo.  Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thầy được gửi về Roma vào tháng Giêng năm sau để vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo.

Ngày 13 tháng 7 năm 1904, mới hai mươi tuổi rưỡi, thầy đậu tiến sĩ thần học.  Ngày 10 tháng 8 năm 1904, thầy được thụ phong linh mục trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày hôm sau trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô.  Dịp này, ngài quyết tâm tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo hội.

Sau một thời gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng Hai năm 1905, khi ngài được chọn làm thư ký của Giám mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi.

Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác.  Từ năm 1906, ngài đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học trong chủng viện: Lịch sử giáo hội, Giáo phụ và Hộ giáo.  Từ năm 1910, ngài cũng phụ trách môn Thần học cơ bản.  Ngài nghiên cứu lịch sử địa phương, xuất bản tác phẩm viết về những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử Giáo hoàng.  Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo phận “La Vita Diocesana” và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên hiệp những Phụ nữ Công giáo.

Khi Thế chiến thứ I bùng nổ, vào năm 1915 ngài làm tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ, chăm sóc thương binh trong các bệnh viện ở Bergamo.  Vào tháng Bảy năm 1918, ngài dấn thân phục vụ cho những người lính bị bệnh lao.

Tiếp theo, ngài được giao phụ trách công việc của Bộ Truyền giáo tại Ý, đồng thời cũng làm linh hướng trong chủng viện.  Ngài đã thực hiện một chuyến đi lâu dài ra ngoại quốc để thi hành kế hoạch của Tòa Thánh nhằm mang về Roma những tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo và viếng thăm một số giáo phận Ý để quyên góp nguồn tài trợ và giải thích về công việc mà ngài đang phụ trách.

Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952.  Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Roma vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria để giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó.  Trong hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931.  Ngài phục hồi được mối quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria.

Vào ngày 27-11-1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp.  Các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican.  Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một số lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople sau nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.

Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã thận trọng giữ được tính trung lập, giúp cho cả hàng ngàn người Do Thái khỏi thành nạn nhân diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.

Ngài được bổ nhiệm về làm Khâm sứ tại Paris vào ngày 30 tháng 12 năm 1944.  Một hoàn cảnh khá phức tạp đang chờ đợi.  Chính phủ lâm thời buộc tội Giáo hội hợp tác với chính phủ Vichy và đòi Giáo hội phải thoái vị ba mươi giám mục.  Nhờ sự bình tĩnh và linh động của vị tân sứ thần, chỉ có ba vị bị bãi nhiệm.  Phẩm chất con người của ngài đã mang lại sự kính nể trong bối cảnh ngoại giao và chính trị tại Paris.

Sau khi lãnh tước vị hồng y, ngài được chuyển về Venice vào ngày 5 tháng 3 năm 1953 và hoàn thành nhiệm vụ giám mục tại đây cách tốt đẹp với những chuyến thăm viếng mục vụ, cử hành Công nghị giáo phận, thực hiện kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với Kinh Thánh…

Ngày 28 tháng 10 năm1958, ngài được bầu chọn làm giáo hoàng.  Một vị Giáo hoàng nhận chức khi đã bảy mươi bảy tuổi khiến nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp.  Nhưng ngay từ đầu, Đức Gioan XXIII đã tỏ ra là một giáo hoàng của thời đại: khôi phục lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù của giáo phận Rôma, triệu tập Công nghị giáo phận…

Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01 năm 1959.  Các mục tiêu ban đầu của Công đồng được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962: không phải là để đưa ra những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm đương đại.  Đức Giáo hoàng Gioan XXIII mời gọi Giáo hội, thay vì lên án và công kích, hãy hướng về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội là đón nhận tất cả mọi người.  Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, các giáo hội Kitô khác cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần nhau hơn.

Vào mùa xuân năm 1963, Đức Gioan XXIII được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, xác nhận những nỗ lực của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như vai trò của ngài trong cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962.

Ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm 1963 và được phong thánh vào ngày 27-4-2014 lúc 10g tại Vatican.

(Tổng hợp) – https://tgpsaigon.net

TIỆC CƯỚI VỚI BỐN NGHỊCH THƯỜNG

Cách đây 9 năm, 29-4-2011, Hoàng tử William của hoàng gia Anh và công nương Kate Middleton đã trao đổi lời thệ ước hôn nhân tại Đại Thánh đường cổ kính Westminter.  Đây là lễ cưới cung đình.

Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu cũng đã ví Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử.  Chuyện từ 20 thế kỷ trước, ta tưởng như chuyện đời xưa mà lại không cũ chút nào, vì mới diễn ra gần đây.

Mùa xuân 1947 cả thế giới chú ý đến hàng tít lớn trên trang nhất của báo chí cho biết công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ sánh duyên cùng hoàng tử Philip gốc Hi lạp.  Cuộc tình duyên này quan trọng vì công chúa Elisabeth sẽ lên ngôi kế vị vua cha trị vì không những vương quốc Anh, Bắc Ai-len và còn đứng đầu khối Thịnh Vượng Chung gồm trên 50 nước lớn nhỏ (Ấn, Canada, Úc…).  Lễ được tổ chức tại Thánh đường Westminter cổ kính ngày 20/11/47.  Người ta không những nhìn xem hai nhân vật chính là cô dâu chú rể nhưng còn chăm chú điểm danh những nhân vật quan trọng từ quốc trưởng, tổng thống, vua chúa… đến các nhà quí tộc, tài phiệt.  Không ai được mời mà muốn vắng mặt trong lễ cưới, trong tiệc mừng long trọng như vậy.  Đó là chuyện bình thường dễ hiểu.

Nhưng dụ ngôn của Chúa hôm nay ví Nước Trời như một chuyện bình thường: vua mở tiệc cho hoàng tử, nhưng lại mang đầy những chi tiết không bình thường chút nào, nếu không nói là nghịch thường quá khác lạ.  Ta nhận ra được ít là bốn khác lạ nghịch thường so với một đám cưới tương tự trong đời thường: dửng dưng – đổ máu – mở rộng – thanh trừng.

1. Dửng dưng

Đám cưới của Hoàng tử tức con vua ai lại chẳng muốn tham dự, vì một miếng đầu làng đã bằng một sàng xó bếp, huống gì là một miếng ở cung đình, một chỗ ngồi chung quanh vua lại mang vinh dự biết bao cho kẻ được mời.  Đó là chưa kể có thể có những chức tước được ban, những cơ hội phát đạt…  Thế mà trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói, khách không thèm đến.  Một lần giấy mời từ trước, hai lần sai gia nhân, họ đều dửng dưng để ngoài tai.  Dụ ngôn nói rất rõ: Vua sai đầy tớ đi gọi những kẻ đã được mời, nhưng họ không đến.  Vua lại sai đầy tớ khác dặn, hãy nói với khách mời, tiệc sẵn rồi, heo đã quay, bò đã thui, lẩu đã sôi…  Họ vẫn dửng dưng, và đưa ra những lý do chẳng có tầm cỡ chút nào: người thì nói mắc đi thăm trại (thăm lúc nào chẳng được), kẻ thì nói đi buôn (buôn quanh năm chứ đâu một ngày), một lần thiếp mời cộng với hai lần sai hai nhóm đầy tớ khác nhau tới mời, khách vẫn dửng dưng.

2. Đổ máu

Khi toán đầy tớ thứ nhất tới nài nỉ khách đi dự tiệc, vì mọi sự đã sẵn, thì có nhiều khách đã không những không thèm đến dự mà còn “bắt các đầy tớ của vua, hành hạ rồi giết luôn.”  Máu đã đổ!  Chuyện rất lạ.  Và vua khi nghe được thì cũng trả đũa không kém khác thường: sai quân lính đi giết bọn sát nhân đó (mạng đổi mạng) và thiêu hủy luôn thành phố của chúng.  Sự trả đũa quá tay!  Máu đổ nhiều trong ngày cưới.  Năm 1989, tháng 11, tại Saigon, cô Hồng Cẩm còn mười ngày nữa là đám cưới của cô.  Cô dựng xe trước nhà bị hung thủ đến cướp xe đâm chết.  Máu đã đổ.  Điều cảm động là trong tang lễ, người ta mặc áo cưới cho cô.  Đó là một chuyện lạ, lạ mà cảm động.  Còn trong dụ ngôn cũng lạ, khác lạ, nhưng lạ của tàn sát tập thể ngay trong ngày cưới.

3. Mở rộng

Khi khách được mời không thèm tới, khi kẻ xứng đáng chẳng đoái hoài, thì vua mở rộng cửa phòng cưới, mời tất cả mọi người không phân biệt giàu nghèo, đui què, tàn tật, và không phân biệt cả tốt xấu, thánh nhân lẫn quỉ sứ: mời tất tần tật vào, cũng là một chuyện lạ.  Thánh Luca thuật dụ ngôn tương tự như Matthêu hôm nay kể tới hai lần sai đầy tớ đi mời: mời lần đầu, chỗ còn trống, phải mời thêm một lần nữa: lượm lặt khắp hang cùng ngõ hẻm cho đầy bàn tiệc cưới.  Thật ra vào thời Chúa Giêsu đã xảy ra một chuyện gần tương tự, được ghi lại trong sách Talmud: ông Bar Majan người thu thuế giàu có đã tổ chức một tiệc lớn chiêu đãi chức sắc trong thành, những vị này từ chối lời mời.  Thế là thay vì nhìn mâm cỗ bị hư, ông cho mời những người nghèo tới dùng bữa.  Dụ ngôn của Chúa Giêsu không dừng lại ở đó mà còn mở ra một chuyện khác lạ nữa: đó là thanh trừng.

4. Thanh trừng

Mời đột ngột, người ta đang đi ăn xin cũng mời vào, đang quét rác cũng kéo vô thì làm sao chuẩn bị y phục đàng hoàng.  Vậy mà vua vào thấy một kẻ không mặc áo cưới thì nổi giận.  Đáng lẽ đuổi ra là cùng, đàng này vua ra lệnh: trói chân tay nó lại, ném vào nơi tối tăm, ở đấy đầy khóc lóc và nghiến răng.  Chuỵện quá lạ!  Người ta đã tìm cách giải thích nhiều kiểu cho đỡ lạ kỳ như áo cưới sẵn có nơi tiền đình, trước khi vào phòng tiệc thì khoác vào thôi.  Nhưng lời giải này cũng bị bác vì chẳng hề có tục lệ đó nơi người Do thái bấy giờ.  Người ta còn tìm nhiều giải thích khác như hai dụ ngôn tiệc cưới và áo cưới riêng biệt được ghép chung lại, nên nhiều khi không khớp.  Nhưng dầu sao thanh trừng quá đáng như thế vẫn là một chuyện lạ!

Bốn chuyện lạ trong dụ ngôn: dửng dưng của khách được mời; đổ máu quá nhiều trong ngày cưới, mở rộng quá đáng cánh cửa cho mọi người vào, rồi lại thanh trừng khắt khe kẻ chưa kịp mặc áo cưới.  Tất cả các chuỵện lạ đó chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của lịch sử – lịch sử dân Israel và lịch sử cứu độ – chứ không thể hiểu được trong khung cảnh tiệc cưới.

Những kẻ dửng dưng, đó là dân Israel chính tông chẳng đoái hoài gì đến con vua là Giêsu Kitô: vị tân lang chàng rể.

Đổ máu là họ, dân Israel đã giết các tiên tri, đổ máu những người được Chúa sai đến báo tin vui cho họ.

Mở rộng là ơn cứu độ của Chúa dành cho mọi hạng người bất kỳ đen trắng vàng đỏ, nô lệ, tự do, nam hay nữ, kể cả trung tính…

Thanh trừng là, một khi được mời tới phải biết mặc lấy Chúa Kitô là áo cưới, mặc lấy con người mới, không thể khác.

Dụ ngôn với những chuyện lạ nhắm vào người Do Thái Pharisêu, nhưng cũng có thể nhắm vào chúng ta.  Ta được thánh tẩy ngay từ nhỏ, tức được mời dự tiệc cưới từ đầu, nhưng biết đâu ta lại dửng dưng, coi chừng sẽ bị Chúa “mửa” ra.  Cũng có thể ta mới được thánh tẩy, là Đạo Mới, tức mới được “thu gom” để vào phòng cưới, nhưng ta lại không mặc áo cưới – coi chừng sẽ bị thanh trừng.  Không thể chỉ dựa vào lý lịch: tôi là con cháu các thánh tử đạo oai hùng Việt Nam.

Xin Chúa cho chúng ta kẻ được mời trước hay là kẻ đến sau đều biết giữ gìn chiếc áo trắng thánh tẩy ngày nhận Phép Rửa Tái Sinh, đó chính là chiếc áo cưới mà Chúa đòi hỏi để ta được vào dự tiệc cưới Nước Trời đời đời. Amen.

Anphong Nguyễn Công Minh, ofm