KẾT CỤC CỦA THẾ GIỚI

Mọi người cứ luôn mãi dự đoán kết cục của thế giới.  Trong Kitô giáo, thời tận thế được liên hệ với những ức đoán về lời hứa của Chúa Giêsu khi Ngài thăng thiên, là Ngài sẽ sớm trở lại và đưa lịch sử đến hồi viên mãn, thiết lập vương quốc bất diệt của Thiên Chúa.  Từ đó, đã có nhiều ức đoán về kết cục của thế giới.

Chuyện này đầy dẫy trong thế hệ Kitô hữu đầu tiên.  Họ sống trong ma trận những kỳ vọng mãnh liệt, dự tính rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trước khi nhiều người trong họ qua đời.  Thật vậy, trong Phúc âm theo thánh Gioan, Chúa Giêsu đã bảo đảm với các môn đệ rằng một số người trong họ sẽ không nếm cái chết trước khi được thấy Nước Thiên Chúa.  Ban đầu, điều này được diễn giải là một số người trong họ sẽ không chết trước khi Chúa Giêsu trở lại và ngày tận thế.

Và họ đã sống với kỳ vọng này, tin tưởng rằng thế giới sẽ đến hồi kết trước khi họ chết.  Không ngạc nhiên khi điều này dẫn đến những suy tưởng cánh chung: Đâu là những dấu chỉ báo hiệu tận thế?  Sẽ có những điềm lạ lớn lao trên mặt trăng và mặt trời?  Sẽ có động đất dữ dội và chiến tranh lan tràn khắp thế giới báo trước ngày tận thế?  Nhưng các Kitô hữu tiên khởi tin rằng mình phải sống tỉnh thức, cảnh giác, để bất kỳ lúc nào ngày đó đến, họ sẽ không ngủ quên, thiếu chuẩn bị, hoặc chè chén say sưa.

Tuy nhiên, khi năm tháng qua đi, và Chúa Giêsu vẫn chưa tái lâm, thì họ bắt đầu biến đổi cách hiểu, nên đến thời Phúc âm theo thánh Gioan được viết ra, có lẽ khoảng 70 năm sau khi Chúa Giêsu chết, các Kitô hữu tiên khởi bắt đầu hiểu khác đi.  Giờ họ hiểu rằng lời hứa của Chúa Giêsu về việc một số người đồng thời với Ngài sẽ không phải nếm cái chết trước khi được thấy Nước Thiên Chúa, đồng nghĩa với người đó được đổ tràn Thần Khí Thiên Chúa.  Thật vậy, Chúa Giêsu đã trở lại và thế giới vẫn chưa chấm hết.  Và họ bắt đầu tin rằng, ngày tận thế không nhất thiết phải xảy đến.

Nhưng như thế không thay đổi sự tập trung của họ vào việc tỉnh thức và sẵn sàng.  Nhưng giờ lời mời gọi sống tỉnh thức đó được liên hệ nhiều hơn đến chuyện chúng ta không biết giờ nào mình sẽ chết.  Như thế, lời mời gọi sống tỉnh thức bắt đầu được hiểu là một lời mời của Chúa muốn chúng ta sống trọn vẹn cuộc đời ngay lúc này, và đừng để bị ru ngủ bởi áp lực của cuộc sống thường nhật, đừng chìm trong ăn uống, mua bán, lấy vợ gả chồng.  Tất cả mọi sự bình thường, dù tự thân chúng là tốt, nhưng có thể ru ngủ chúng ta bằng cách giữ chúng ta không thật sự lưu tâm đến cuộc đời của mình.

Và đấy là thách thức cho mỗi một người chúng ta.  Lo lắng thật sự của chúng ta không nên là chuyện thế giới này đột nhiên tận thế, hoặc việc chúng ta bất thần chết đi.  Nhưng điều đáng lo là việc chúng ta sống rồi chết đi, mà không thật sự yêu thương, không thể hiện tình yêu của mình cho đúng, và không cảm nghiệm sâu sắc niềm vui sống đích thực, bởi đang quá vùi mình trong công việc và những áp lực cuộc sống nên không bao giờ sống cho trọn vẹn được.

Do đó, sống tỉnh thức và cảnh giác trong Kinh Thánh, không phải là việc sống trong sự sợ hãi thế giới này sẽ sụp đổ hay sợ ngày chết.  Đúng hơn, đây là vấn đề yêu thương và hòa giải những mối bận tâm chính của mình, là chuyện biết tri ân, cảm kích, kiên quyết, tha thứ, xin lỗi, và lưu tâm hơn đến những niềm vui sống trong cộng đồng nhân loại và trong vòng tay Chúa.

Đức Phật đã cảnh báo về một thứ ngài gọi là “uể oải.”  Chúng ta uể oải là khi chùng người xuống.  Bất kỳ những mệt mỏi, lười biếng, khủng hoảng, lo lắng, căng thẳng, hay áp lực quá dộ đều có thể đánh gục trạm gác của chúng ta và biến chúng ta thành uể oải.  Nhưng điều đó cũng có thể xảy đến cách thể lý và tinh thần.  Chúng ta có thể để sự bận rộn, áp lực, lo lắng, lười biếng, căng thẳng, và bồn chồn đánh gục tư thế tinh thần của mình, để rồi “ngủ thiếp đi” và không còn tỉnh thức cảnh giác nữa.

Chúng ta cần phải tỉnh thức, chứ không phải uể oải.  Nhưng đừng lo về chuyện tận thế hay giờ mình sẽ chết.  Điều đáng lo là tình trạng của chúng ta khi cái chết tìm đến.  Như Kathleen Dowling Singh đã viết trong quyển sách Nét đẹp của Già đi (The Grace in Aging) rằng: “Thật lãng phí khi đi vào giờ hấp hối, mà mang trong đầu những suy nghĩ và phản ứng lo lắng nhỏ nhặt cũ.”

Nhưng còn về chuyện lúc nào sẽ đến ngày tận thế thì sao?

Tôi cho rằng, có lẽ, bởi Thiên Chúa là vô cùng vô tận, nên ngày tận thế sẽ không bao giờ đến.  Bởi sự sáng tạo và tình yêu vô hạn có bao giờ có giới hạn đâu?  Có bao giờ tình yêu vô hạn nói rằng: “Đủ rồi!  Thế thôi!  Đây là giới hạn của tình yêu và sáng tạo!”  Không.  Tình yêu và sáng tạo của Thiên Chúa là vô cùng vô tận.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

TÂM TÌNH CỦA MỘT NGƯỜI MỸ TRONG NGÀY LỄ TẠ ƠN

Tâm tình tạ ơn không chỉ có trong những lúc chúng ta nhận được các phúc lành nhưng cả trong những khi gặp khó khăn thử thách.  Trong ngày lễ Tạ ơn năm nay, dù cho chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào, hãy tạ ơn tình yêu, sự tốt lành và quảng đại của Chúa Giêsu Kitô, Vua của chúng ta.

Hàng năm, vào ngày thứ Năm trong tuần thứ tư của tháng 11, người Mỹ lại mừng lễ Thanksgiving, Lễ Tạ Ơn.   Đó là ngày lễ nghỉ và các gia đình Mỹ và bạn bè thường tụ họp để mừng lễ với nhau.  Đó là ngày người ta tạ ơn về những gì mình có.  Ngày nay ý nghĩa tạ ơn của ngày lễ dường như bị quên lãng và người ta chú ý hơn đến vui chơi, ăn uống, đặc biệt là mua sắm, với những quảng cáo giảm giá không tin nổi trong ngày thứ sáu Black Friday sau đó.  Một người Mỹ đã chia sẻ về ý nghĩa tạ ơn mà chúng ta cần có trong ngày lễ Tạ ơn hàng năm.

Thời gian khó khăn thử thách cũng là thời gian của lòng biết ơn chân thành

Ngày lễ ý nghĩa nhất mà gia đình chúng tôi từng trải qua chính là ngày lễ Giáng sinh cách đây 4 năm, trong một căn phòng ở bệnh viện.  Khi đó, con gái của chúng tôi đang được điều trị bệnh ung thư máu và vợ tôi sống trong bệnh viện cùng với con bé.  Con trai tôi và tôi mang đến bệnh viện các thứ cần thiết cho một cuộc cắm trại dã chiến và 4 người chúng tôi đã cùng trải qua buổi chiều lễ Giáng sinh với nhau, trong tâm tình tạ ơn về món quà là sự hiện diện của mỗi người đối với người khác.

Con gái chúng tôi đã được điều trị ung thư gần một năm và hầu như trong suốt thời gian đó, vợ tôi cùng với con gái ở trong khoa ung thư của một bệnh viện, cách xa đây một giờ đồng hồ lái xe.  Đó là thời gian khó khăn, khi chúng tôi gặp những thánh giá vì bệnh tật của con gái và gia đình thường bị phân ly.  Tuy thế, lúc đó, cũng như bây giờ, chúng tôi ý thức rằng đó thật là thời gian ân phúc cho gia đình chúng tôi.  Chúng tôi đã ý thức về bao điều Chúa đang làm cho chúng tôi.  Chúng tôi có thể nhìn thấy Ngài giúp đỡ cho chúng tôi nhiều như thế nào.  Tóm lại, chúng tôi ý thức chúng tôi phải biết ơn Ngài nhiều thế nào.  Khi chúng tôi nhận ra mình cậy dựa vào Thiên Chúa thật nhiều để vượt qua thời gian thử thách và đau khổ, chúng tôi ý thức được về bao nhiêu tình yêu Ngài chan đổ trong cuộc sống của chúng tôi.  Khi chúng tôi không thể làm ngơ rằng chúng tôi cần Chúa như thế nào, chúng tôi thấy rõ ràng điều Ngài đang làm cho chúng tôi.  Đó là lý do tại sao thời gian thử thách, thường cũng là thời gian của lòng biết ơn sâu sắc và chân thành.

Khó khăn giúp thêm cậy dựa vào sự quan phòng của Chúa

Tôi thường ngạc nhiên khi nói chuyện với các nhà truyền giáo, đang sống trong những tình cảnh thật khó khăn, những người dường như cũng sống với cảm nghiệm thật sự về điều Chúa ban cho họ và biết ơn thật sự về việc Ngài yêu họ như thế nào.  Cuộc sống của họ, thường là không thể dự đoán và không tiện nghi thoải mái, có vẻ như giúp hiểu được thế nào là cậy dựa vào sự quan phòng của Chúa và thái độ biết ơn về những điều nhỏ bé mà Chúa ban cho họ.  Khi chúng ta được sống tiện nghi sung sướng, đủ để bảo đảm những ảo ảnh về sự tự lo liệu của mình, hay chỉ quan tâm đến những ý muốn tầm thường và nhỏ nhoi của chúng ta, thì thật khó mà biết ơn thật sự.

Thành công hay an toàn dễ khiến chúng ta ảo tưởng về sức mạnh của mình

Đây là một nhắc nhở rằng các môn đệ của Chúa Giêsu nên tránh thứ tiện nghi thoải mái mà thế giới thường gọi là thành công hay sự an toàn.  Những ảo ảnh về sự an toàn và tự bảo đảm đang lớn lên và ngăn cản mối liên hệ mật thiết với Chúa, hay thái độ biết ơn về ân phúc của Ngài.  Tóm lại, khi cuộc sống của chúng ta đòi những hy sinh hay gặp những khó khăn, chúng ta có nhiều khả năng nhìn thấy sức mạnh của sự tốt lành của Chúa và biết ơn về cách thức mà Chúa yêu chúng ta.  Nếu chúng ta muốn có sự kết hiệp sâu xa hơn với Chúa, chúng ta nên xem những cách thế mà Chúa mời gọi chúng ta chối từ chính mình vì tình yêu và chúng ta vác lấy thánh giá.  Nếu chúng ta muốn cảm nghiệm lòng biết ơn đến từ kinh nghiệm thật và quyền năng về sự quan phòng của Chúa, chúng ta cần từ bỏ ý nghĩ rằng cuộc sống chúng ta là của chính chúng ta và để dâng nó cho Chúa cách hoàn toàn và tự do. …

Tạ ơn Chúa về thánh giá trong cuộc đời vì qua đó Ngài mặc khải tình yêu cho chúng ta

Trong ngày lễ Tạ Ơn, chúng ta nên cám ơn về những thánh giá mà Chúa đã đặt trong cuộc đời chúng ta – bệnh tật hay khó khăn mà qua đó Chúa Kitô mặc khải tình yêu sâu xa và vững bền của Ngài dành cho chúng ta.  Chúng ta nên xin Chúa tỏ cho chúng ta cách Ngài gọi chúng ta dâng tặng chính mình để yêu thương cách cụ thể hơn và cám ơn Chúa về cơ hội được lớn lên trong ngạc nhiên và cảm kích sự quan phòng của Chúa.  Và chúng ta nên cám ơn Chúa về những thử thách có thể đang ở phía trước chúng ta, có thể giúp đào sâu đức tin của chúng ta và niềm tin cậy vào ơn sủng của Chúa.  Thánh Phaolô đã viết: “Trong mọi lúc, anh em hãy tạ ơn Chúa, vì đây là ý Chúa dành cho anh em trong Chúa Giêsu Kitô.”

Ngày lễ Tạ ơn năm nay, dù cho chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào, hãy tạ ơn tình yêu, sự tốt lành và quảng đại của Chúa Giêsu Kitô, Vua của chúng ta.

Hồng Thủy – Vatican

*******************************************

Tạ ơn Cha vì những gì Ngài đã trao ban,
Tạ ơn Cha vì những gì Ngài đã chối từ,
Tạ ơn Cha vì những gì Ngài đã lấy đi,
Tạ ơn Cha vì những gì Ngài đã cho phép,
Tạ ơn Cha vì những gì Ngài đã bảo vệ con,
Tạ ơn Cha vì những gì Ngài đã tha thứ cho con,
Tạ ơn Cha vì những gì Ngài đã chuẩn bị cho con,
Tạ ơn Cha vì cái chết Ngài đã chọn sẵn cho con,
Tạ ơn Cha vì một nơi Ngài đã dành sẵn cho con trên Thiên Quốc,
Tạ ơn Cha vì đã sáng tạo nên con để yêu Cha mãi mãi,
Tạ ơn Cha vì tất cả!

SỐNG ĐỨC TIN LÀ LÀM CHỨNG

Hôm nay, chúng ta hân hoan, tự hào và hãnh diện khi mừng kính trọng thể lễ các thánh tử đạo Việt Nam.  Với con số 118 đấng đã được Giáo Hội tuyên phong và tôn kính, đây là con số đông đảo nơi sổ bộ các thánh trong Giáo Hội hoàn vũ.  Tuy nhiên, còn hàng trăm ngàn đấng chưa được tuyên phong, nhưng các ngài đều mang một mẫu số chung, đó là chết vì Chúa để làm chứng cho đạo của Chúa là đạo thật.

Như vậy, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, thiết tưởng chúng ta nên gợi lại những gương sáng của các ngài để như một lời nhắc nhớ chúng ta về tấm gương anh dũng qua đời sống chứng tá của các thánh, đồng thời như một lời mời gọi mỗi chúng ta hãy noi gương các bậc tiền nhân qua đời sống đức tin hiện nay.

1. Các ngài là những người đã sống Tin Mừng yêu thương

Trong rất nhiều nhân đức cao đẹp của các thánh tử đạo Việt Nam, thì nhân đức yêu thương, tha thứ của các ngài là nhân đức đi đầu, tiên phong trong hàng loạt các nhân đức.  Các ngài đã noi gương Chúa Giêsu để yêu và yêu cho đến cùng, yêu đến nỗi chấp nhận chết để chứng tỏ tình yêu của mình vào Thầy Chí Thánh mà các ngài đã tin theo (x. Ga 15,13).

Khi sống và diễn tả tình yêu ấy, chúng ta thấy có thánh y sĩ Phan Đắc Hòa.  Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu.  Hay thấy được nỗi đau khổ của cái nghèo hoành hành nơi dân làng, các ngài đã không chịu ngồi yên trong khi nhìn thấy cảnh người anh em đau khổ, đói khát, nên đã chấp nhận vất vả, tăng gia thêm để có của dư giả nhằm giúp anh chị em đang lâm cảnh nghèo túng, trong số đó, phải kể đến thánh Martinô Thọ, ngài sẵn sàng trồng thêm vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo.  Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi nấng những người dịch tả trong vùng.  Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng đàng hoàng như một người bình thường.

Đỉnh cao của tình thương ấy nơi các ngài là yêu luôn cả những người thù ghét mình.  Tình yêu của các ngài là một tình yêu không biên giới.  Lời của Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 43) luôn thường trực trong suy nghĩ, hành động của các thánh.  Về điểm này, chúng ta thấy toát lên chân dung của cha thánh Hoàng Khanh, ngài đã sẵn lòng chữa bệnh cho cả những viên cai ngục trong tù…

Các ngài bỏ qua tất cả, không nghĩ cho riêng mình, không còn lằn ranh giữa bạn và thù, bởi vì: “tận cùng của tình yêu là yêu không giới hạn.”

2. Các ngài là những người sống và chết vì sự thật

Có nhiều cái chết và cách chết.  Những giá trị của cái chết cũng hoàn toàn khác nhau nhờ vào thái độ của mỗi người.  Nhưng chấp nhận cái chết vì sự thật, vì công lý thì thật là điều cao thượng.

Trong Cựu Ước, có cụ Eleazaro, cụ là người cương trực, không chấp nhận giả vờ ăn thịt cúng để được tha (x. 2 Mac 6, 18-31).  Lời dụ dỗ giả vờ bỏ đạo để được tha và thăng quan tiến chức là những chiêu bài mà nhà cầm quyền thời bấy giờ thường xuyên dùng để khuyên dụ các ngài.  Có những đấng nếu chỉ khai mình là lương y chứ không phải là linh mục thì sẽ được tha ngay.  Trong số đó, phải kể đến thánh Lê Tùy, Đỗ Yến, Hoàng Khanh, Nguyễn Văn Hưởng, Lê Bảo Tịnh…  Các ngài đã chấp nhận cái chết để chứng minh cho chân lý và sứ vụ của mình.

Rồi có những đấng các quan chỉ yêu cầu nhắm mắt, giả bộ bước qua thập giá là sẽ được tha như thầy giảng Nguyễn Cần chẳng hạn, thầy đã được quan gợi ý như thế, nhưng ngài đã nói: “Thưa quan, mắt thì nhắm được, chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm.”  Thua keo này, các quan đã bày keo khác!  Có những đấng, họ chỉ yêu cầu đi vòng quanh thánh giá và các quan sẵn sàng tha cho vì coi đây như là hình thức bỏ đạo.  Nhưng các ngài đã khẳng khái khước từ.  Trong số này có thánh Phan Văn Minh, các thầy giảng Hà Trọng Mậu, Bùi Văn Úy và các anh Nguyễn Văn Mới, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Vinh.

Như vậy, mặc cho những lời đường mật hứa hẹn.  Các ngài đã cương quyết không thỏa hiệp.  Các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết, không bước qua thập giá, hoặc bất cứ hình thức nào được trưng ra dưới chiêu bài “đánh lận con đen.”  Các ngài đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho sự thật, công lý.

3. Các ngài là người sống niềm hy vọng Phục Sinh

Chúng ta nhớ lại trong thư gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã viết: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19).  Thật vậy, vì tin vào Đức Kitô, Đấng đã được “Thiên Chúa làm cho […] sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1 Cr 6,14).  Vì thế, các thánh tử đạo Việt Nam luôn coi cái chết như là hy lễ cuối cùng và đẹp nhất dâng lên cho Thiên Chúa để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc Trên Trời.  Niềm tin này đã được thày giảng Hà Trọng Mậu đại diện cho những người bị bắt thưa với quan rằng: “Thưa quan, chúng tôi mong ước về bên Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy”; hay như quan Án Khảm, ngài đã hé mở cho mọi người đang đứng chung quanh mình về một cuộc sống hạnh phúc trên Thiên Quốc khi nói: “Cha con chúng tôi hôm nay vào Nước Thiên Đàng đây”; hoặc như thánh linh mục Nguyễn Văn Hạnh thì nói: “Anh em ở lại, chúng tôi đi về Thiên Đàng nhé”; còn thầy giảng Nguyễn Đình Uyển thì đã bình tĩnh và dõng dạc tuyên xưng niềm tin tuyệt đối vào mầu nhiệm phục sinh khi nghe quan quát lớn: “Mày không bước qua, tao sẽ chém đầu mày” thầy điềm tĩnh trả lời: “Thưa quan, nếu tôi bị chém chết, thì tôi mới hy vọng được phục sinh với Chúa Kitô.”  Khi phải lựa chọn giữa sự sống trần gian và cuộc sống vĩnh cửu, cha thánh Nguyễn Văn Xuyên đã nói một cách xác tín rằng: “Thưa quan, tôi chọn cái chết để được sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu rồi muôn đời bị tiêu diệt.”  Rồi như hạt lúa gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát đi để trổ sinh một mùa lúa bội thu, cha thánh Lê Bảo Tịnh đã nói: “Thân xác tôi đây, các ông muốn làm gì thì làm, tôi sẵn sàng không oán than, nó chết đi, nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang.”  Quả thật, không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô.  Mặc cho đòn vọt, gông cùm và ngay cả cái chết.

4. Cái chết của các ngài là lời tạ ơn

Cuối cùng, cuộc đời, sứ vụ và cái chết của các ngài là một bài ca tạ ơn.  Tạ ơn Thiên Chúa đã tác tạo nên mình, cám ơn những bậc sinh thành đã dày công dưỡng dục và như một gương sáng cho giáo dân noi theo.  Tâm tình này đã được thánh Giám Mục Giuse Diaz Sanjurjo An diễn tả khi tới giờ hành xử đã đến, ngài nói: “Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin quan đừng cho chém tôi một nhát.  Nhưng tôi xin chém tôi 3 nhát: Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến Việt Nam giảng đạo.  Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ đã sinh thành ra tôi.  Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí dù có phải chết cho đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình.  Và như thế họ đáng lãnh phần hạnh phúc cùng các thánh trên Trời.”  Với các thánh Phạm Khắc Khoan và hai thày Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam.  Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình, cha Khoan xướng ba lần lời ALLÊLUIA, mỗi lần với cung giọng cao hơn.  Hai thày cũng lập lại ALLÊLUIA, ALLÊLUIA, ALLÊLUIA ba lần như đêm vọng phục sinh vậy.

Có được tâm tình đó là vì các ngài đều xác tín rằng: “Đối với các ngài, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”, vì thế “Trong mọi thử thách, các ngài đã toàn thắng nhờ Đấng yêu mến các ngài” (x. Rm 8, 37).  Và, giờ chết của các ngài là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu tuyệt đối mà cha ông chúng ta đã dâng lên Thiên Chúa như của lễ tinh tuyền thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa.  Thật vậy: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?  Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo? […] sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8, 35-39).

Cuộc tử đạo của các ngài được ví như người nông dân đã vất vả ra đi gieo giống, để rồi hôm nay hân hoan vì thấy một vụ mùa bội thu: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau sẽ khấp khởi mừng.  Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo.  Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 125,6-7).

Như vậy, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy cùng với các ngài tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã yêu thương các ngài đặc biệt.  Chúng ta cũng ngước lên các ngài để chiêm ngưỡng, noi theo những nhân đức anh hùng, can trường của các ngài để lại hầu mai sau cũng được hưởng hạnh phúc với các ngài trong Cõi Trường Sinh.

Bài học cao quý nhất của các ngài để lại không phải là bài học hận thù, chia rẽ, không phải là ích kỷ nhỏ nhen, không phải là tự phụ kiêu căng, nhưng là bài học của tình yêu, của bao dung, vị tha và khiêm nhường.  Sống được như thế là chúng ta đang làm chứng cho Chúa và đang sống niềm hy vọng phục sinh một cách rõ nét nhất.

Mong thay, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng với các ngài hát lên bài ca Tạ Ơn “TE DEUM” ngay trong cuộc sống hiện tại của mình.

Lạy Chúa, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, xin Chúa cho chúng con xác tín rằng: quê hương của chúng con ở Trên Trời, vì thế chúng con chỉ có một điều duy nhất là làm mọi việc vì Chúa và vì phần rỗi của mình cũng như tha nhân, qua đó biết khước từ những điều bất chính, để sau này chúng con được chung hưởng phúc vinh quang với các thánh trên Thiên Quốc.  Amen!

Jos. Vinc. Ngọc Biển

LỜI HỨA CỨU ĐỘ

Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi.

Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình.  Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa.

Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều.  Họ tranh dành cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội…  Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không.  Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là “Lời nói gỗ – Langue de bois”, có nghĩa là không thực và chỉ là những “xảo ngôn”, hứa cho qua.

Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ.” Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18).  Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25).  Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ.  Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha.  Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12).  Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang.  Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương.  Vương quốc của Người không biên giới.  Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này.

Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái.  Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai.  Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang.  Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này, và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương.  Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.  Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).  “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.

Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi.  Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian.  Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự.  Ngai vàng của Người là cây thập giá.  Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực.  Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.”  Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này?  Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta.  Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người.  Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình.

Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu.  Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy.  Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II).

Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người.  Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người.  Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9).  Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì “Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được” (Kinh Trông cậy).

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái.  Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen.

ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên

KHI NÀO CUỘC ĐỜI CHÚNG TA VIÊN MÃN?

Khi nào cuộc đời chúng ta viên mãn?  Đến một lúc nào đó trong đời, chúng ta có thể nói được: “Chính là đây!  Đây là cao điểm!  Từ giờ tôi chẳng thể làm gì hơn thế này nữa.  Tôi đã dốc hết sức mình!”

Lúc nào thì chúng ta nói được như thế?  Sau khi đạt đến đỉnh cao sức khỏe và sức mạnh thể chất?  Sau khi sinh con?  Sau khi nuôi dạy con cái thành công?  Sau khi có một tác phẩm bán chạy?  Sau khi nổi tiếng?  Sau khi thắng chức vô địch lớn?  Sau khi mừng kỷ niệm 60 năm ngày cưới?  Sau khi tìm được tri kỷ?  Sau khi bình an trở lại, thoát được cơn dằn vặt kéo dài?  Khi nào thì chúng ta có thời điểm đó?  Khi nào chúng ta đi đến tận đỉnh con đường trưởng thành?

Nhà thần nghiệm thời trung cổ, Gioan Thánh Giá nói cho rằng chúng ta đạt đến điểm này khi đến được “tâm điểm thâm sâu nhất của mình.”  Nhưng với ngài, tâm điểm thâm sâu nhất trong linh hồn này, lại không giống với quan niệm thường có của chúng ta.  Với thánh Gioan, tâm điểm thâm sâu nhất này chính là điểm tối đa có thể trong sự tiến triển của con người, sự trưởng thành thâm sâu nhất có thể đạt được trước khi chết.  Nếu thật là thế, thì với một bông hoa, tâm điểm thâm sâu nhất, điểm tột đỉnh tiến triển của nó, sẽ không phải là lúc nở hoa, mà là lúc nó chết và tạo thành hạt giống.  Đó là sự tiến triển xa hơn, là thành tựu tối cùng của nó.

Vậy còn điểm tiến triển tối hậu của chúng ta là gì?  Tôi cho rằng chúng ta có khuynh hướng nghĩ nó như một thành tựu tích cực và cụ thể, như thành công trong sự nghiệp, hay một thành tích về thể thao, trí tuệ hay nghệ thuật đem lại cho chúng ta sự thỏa mãn, công nhận và danh tiếng.  Nhưng nếu nhìn từ quan điểm ý nghĩa sâu xa, có lẽ chúng ta sẽ trả lời theo kiểu khác, nói rằng thành tựu tối hậu của chúng ta là một hôn nhân trọn vẹn, được làm cha mẹ, hay sống cuộc đời phục vụ tha nhân.

Vậy nếu như một bông hoa, khi nào chúng ta sẽ tạo thành hạt giống đây?  Henri Nouwen cho rằng người ta sẽ có những câu trả lời rất khác nhau cho câu hỏi này.  “Với một số người, đó là tận hưởng ánh hào quang của danh tiếng, với số khác, là khi họ được hoàn toàn quên lãng, với một số là khi họ đạt đến tột đỉnh sức mạnh, với số khác là khi họ yếu đuối và vô lực, với một số là khi năng lực sáng tạo triển nở, với số khác là khi họ mất hết tự tin vào năng lực của mình.”

Vậy lúc nào thì Chúa Giêsu tạo thành hạt giống của Ngài, sự viên mãn của Ngài?  Với Chúa Giêsu, đây không phải là ngay sau phép lạ làm cho dân chúng kinh ngạc, cũng không phải khi Ngài đi trên mặt nước, hay khi Ngài vang danh khắp cõi Israel đến nỗi dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua.  Không phải như thế.  Vậy lúc nào Chúa Giêsu không còn gì nữa để vươn đến?

Và Henri Nouwen lại một lần nữa cho chúng ta câu trả lời này.  “Tuy nhiên, chúng ta biết một điều, với Con Người, mọi sự đến hồi viên mãn, khi Ngài mất hết tất cả, mất quyền uy để lên tiếng và chữa lành, mất sự thành công và tầm ảnh hưởng, mất môn đệ và bạn bè, thậm chí là mất cả Chúa của mình.  Khi Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự, bị tước hết phẩm giá con người, Ngài biết rằng mình đã đến thời điểm đó, và nói, ‘Mọi sự đã hoàn tất!’”

Chữ hoàn tất ở đây có gốc Hy Lạp là Tetelesti.  Đây là một diễn đạt được các họa sĩ dùng để nói rõ rằng tác phẩm đã hoàn thiện và không thêm thắt gì nữa.  Nó còn được dùng để thể hiện việc gì đó đã xong.  Ví dụ như, chữ Tetelesti được đóng dấu trên các bản án sau khi phạm nhân đã mãn hạn tù, còn được ngân hàng dùng đóng trên giấy ghi nợ đã trả xong, được gia nhân dùng khi báo cáo với chủ đã hoàn thành công việc, và được các vận động viên thốt lên khi băng qua vạch đích.

Đã hoàn tất!  Một bông hoa chết đi để tạo thành hạt giống, nên cũng hợp lý khi đây là những lời cuối cùng của Chúa Giêsu.  Trên thập giá, vẫn trung tín đến cùng với Chúa Cha, với lời của mình, với lòng yêu thương mà Ngài đã giảng dạy, Ngài thôi sống và bắt đầu chết, và đấy là khi Ngài tạo thành hạt giống của mình, khi thần khí Ngài bắt đầu ngấm vào thế giới.  Ngài đã đến tâm điểm thâm sâu nhất của mình, cuộc đời Ngài đã viên mãn.

Vậy khi nào chúng ta thôi sống và bắt đầu chết?  Khi chúng ta đi từ đóa hoa nở rộ đến tạo thành hạt giống?  Nhìn qua, thì dĩ nhiên là khi sức khỏe, uy lực, danh tiếng và sự thu hút của chúng ta bắt đầu suy giảm và mờ nhạt đi, bị đẩy dần ra rìa và xuống dốc.  Nhưng khi nhìn qua lăng kính cuộc đời Chúa Giêsu, thì chúng ta thấy rằng khi mờ nhạt đi, như một bông hoa đã qua thời điểm bung nở, chúng ta bắt đầu tạo ra một sự gì đó còn hấp dẫn hơn cả nở hoa.  Đó là khi chúng ta có thể nói, “Đã hoàn tất!”

Rev. Ron Rolheiser, OMI

SỰ CHẾT – MỘT HÀNH TRÌNH BIẾN ĐỔI

Sự sống con người được hình thành hết sức kỳ diệu, ta gọi là mầu nhiệm sự sống.  Nó mang một giá trị đặc biệt, vì thế cần phải được cứu chuộc.  Nó không được dựng nên để rồi tiêu tan vĩnh viễn nên phải được biến đổi.

Thiên Chúa đã đặt để trong sự sống con người một sự biến đổi lạ lùng nhằm diễn tả sức mạnh quyền năng của Ngài mà không ai có thể làm hơn được.

Cuộc sống con người là một hành trình biến đổi liên tục về thể xác lẫn tinh thần.  Tất cả đều mang dấu chỉ cho sự phong phú và trật tự kỳ diệu của Đấng Tạo Hoá.  Hành trình biến đổi này còn được nhìn thấy rõ hơn trong sự chết của con người.  Sự chết không là một biến cố chấm dứt trạng thái nào đó của thân xác, tinh thần, linh hồn người ta, nhưng là đi vào một hành trình biến đổi từ trong sâu thẳm của nó.

Mang thân phận xác đất vật hèn là hình bóng của sự mau qua chứ không phải là sự hư không.  Bởi thân xác này đã được dựng nên một cách rất công phu và được cứu chuộc còn lạ lùng hơn nữa.  Do nó được mặc lấy hình ảnh Thiên Chúa, được thánh hiến qua Bí tích Rửa Tội, được trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi, được cứu chuộc bằng giá máu Đức Giêsu nên phải cho nó được sống theo những tính chất ấy mỗi ngày một trọn vẹn hơn.

Dù sự chết có làm cho thân xác người ta rữa nát đi thì cũng không làm mất hình ảnh Thiên Chúa nơi họ.  Nếu Thiên Chúa là thánh thiện tuyệt đối, vẻ đẹp tuyệt đối mà vẫn còn hiện diện trong con người rất tội lỗi, rất xấu xí thì Thiên Chúa cũng không bao giờ chịu mờ đi nơi một thân xác đã chết và dần dần bị tan rã trong lòng đất.  Ngài chỉ hiện diện một cách khác mà thôi.  Vì thế, người ta mới trân trọng hài cốt kẻ chết, viếng thăm nghĩa trang… vì tin ở yếu tố thiêng liêng còn tồn tại nơi kẻ chết.

Khi ngôi nhà là thân xác con người được dọn dẹp sạch sẽ, trang hoàng đẹp đẽ để trở nên một ngôi đền thờ qua Bí tích Thánh Tẩy thì Thiên Chúa sẽ ngự trong họ. “Ta sẽ ngự nơi này vì Ta ưa thích.”  Dấu ấn của bí tích sẽ không phai mờ nói lên sự hiện diện sống động của Thiên Chúa và người ta sẽ được Thiên Chúa biến đổi.  Ai đã chết đi cho tội lỗi thì cũng đựơc cùng Người sống lại (x. Rm 6,8-11).  Thánh Phaolô đã nói về phép Rửa Tội chính là cuộc tái sinh, cuộc biến đổi trong Chúa Kitô để mãi mãi họ thuộc về Người.  Vậy dù có phải chết thì họ vẫn được sống, vẫn được biến đổi nên mới và rất mới nữa.

Thiên Chúa chỉ muốn ngày càng trở nên rõ nét và sống động trong con người, hầu người ta có thể cảm nghiệm và dễ gặp gỡ Người mà thôi (x. Mt 25,31-46), nhưng dường như người ta muốn từ chối và tránh né.  Làm sao người ta có thể biến đổi được nếu chúng ta cứ xa cách Ngài, chạy chốn Ngài?  Tuy nhiên, đối với những ai Ngài đã yêu thương hay luận phạt thì nào ai có thể lẩn trốn trước thánh nhan Ngài được?  Cuộc đời của Augustinô, Phanxicô Xaviê, Inhaxiô… là những bằng chứng rõ rệt.

Ngang qua thân phận người, Thiên Chúa muốn để lại dấu vết mà đôi khi chúng ta không được nhìn thấy trực tiếp Ngài như ông Maisen ngày xưa chỉ được nhìn thấy lưng của Giavê Thiên Chúa (x. Xh 3,1-6).  Cần phải được biến đổi từ từ và chỉ được nên trọn vẹn qua cái chết, vì người ta không thể thấy được tất cả mọi sự bằng con mắt thể xác.  Chỉ có con mắt linh hồn, con mắt đức tin mới thấy được tất cả trong vinh quang Thiên Chúa, nơi mà người ta không còn khóc lóc, than van đau đớn, không còn dựng vợ gả chồng nữa (x. Mt 22,23-33).  Con người được biến đổi từ trong thân phận, trong cái nhìn, trong niềm tin và trong sự chết để trở nên hoàn hảo duy nhất nơi Thiên Chúa.  Hành trình đó là một diễn tả về trật tự nơi thụ tạo, một hồng ân của Thiên Chúa và giá trị của ơn cứu rỗi được thực hiện cho con người.  Khi người ta nhận ra được những giá trị ấy, họ thấy luôn cần phải được biến đổi không ngừng để trở nên giống Thiên Chúa bao nhiêu có thể.  Như vậy, tự thân mình, sự chết không làm cho người ta nên giống Thiên Chúa nhưng là cả một hành trình dài xảy ra trước và sau khi chết nữa.

Đức Giêsu đã đi vào hành trình biến đổi này trong Thánh Thần dưới quyền năng của Thiên Chúa Cha.  Cuộc biến đổi của Ngài qua sự chết để đi vào vĩnh cửu, để đổ tràn Thần Khí cho những ai thuộc về Ngài.  “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).  Công cuộc thực hiện này nằm trong quy trình của Thiên Chúa giúp cho người Kitô hữu không còn lo sợ về tương lai cuộc sống đời đời vì họ đã thuộc trọn về Đức Kitô qua ơn tái sinh của Thần Khí.  Và cũng chính nhờ lòng tin mà người ta được nên công chính (x. Rm 4).

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

DIỄN TỪ VỀ GIÊRUSALEM ĐỔ NÁT

Đứng trên sườn đồi núi Cây Dầu nhìn xuống, các môn đệ trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp lộng lẫy và hùng tráng của đền thờ, óng ánh trong nắng vàng.  Đền thờ Giêrusalem quả là đẹp.  Nó được vua Hêrôđê Cả xây từ năm 20 trước Công Nguyên và chỉ hoàn tất vào năm 63 sau Công Nguyên.  Nền móng của nó được xây bằng những tảng đá khổng lồ, mà một trong những khối đá cân nặng không dưới 370 tấn.

Theo lời sử gia Lamã, Tacite: “Đền thờ giầu sang chưa từng thấy, những đá cẩm thạch, đồ vàng, màn trướng, đồ gỗ ốp tường chạm trổ và những đồ vật quý dâng cúng, làm cho các khách hành hương phải thán phục.  Người ta nói: “Người nào không nhìn thấy Giêrusalem trong vẻ huy hoàng của nó, người ấy không bao giờ thấy niềm vui.  Người nào chưa bao giờ nhìn thấy đền thờ, người ấy chưa bao giờ nhìn thấy một thành phố thực sự đẹp.”

Có thể đây là những lời hơi quá, nhưng dầu sao người Do Thái rất tự hào về sự tráng lệ của đền thờ.  Hơn nữa, đối với họ, đền thờ còn là một dấu chỉ minh nhiên sự hiện diện của Thiên Chúa, Thiên Chúa ở với dân Người nơi đền thờ.  Còn đền thờ, còn giao ước; mất đền thờ, dân tộc họ cũng sẽ diệt vong.

Trước sự ngưỡng mộ chính đáng đó, Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng sẽ có ngày bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.”  Chính vì lời này, Thượng Hội Đồng đã kết án tử (Mt 26,61).  Đức Giêsu biết điều đó nhưng Người không hòa theo sự thán phục của các môn đệ, Người phi bác sự tin tưởng của con người cho rằng, các công trình của họ luôn trường tồn bền vững.  Người cho biết mọi sự chỉ là tạm bợ, dù là những công trình đẹp nhất của nhân loại: Mọi sự sẽ bị tàn phá, đền thờ sẽ bị phá hủy.

Các môn đệ muốn biết khi nào xảy ra và có điềm gì báo trước?  Đức Giêsu không cho biết, Người chỉ giúp họ can đảm và bình thản đón nhận biến cố bằng cách cảnh giác ba điều:

1. Đừng tin những kẻ mạo danh Người

Trong thời gian giữa cái chết của Hê-rô-đê năm thứ tư trước công nguyên và những tàn phá Giêrusalem vào năm 70 rồi năm 135, nhiều người Do Thái tự cho mình là ngôn sứ cuối cùng, hoặc Đấng Messia.  Sử gia Joseph Flavius gọi họ là những tên bịp bợm, những tên cướp cạn có tham vọng thành lập vương quốc của Đấng Messia.  Luca trong sách công vụ có kể tên hai người trong bọn họ: Theodas, người Do Thái đã lôi cuốn được chừng 400 đồ đệ (Cvsđ 5,36).  Và một người Ai Cập đã lôi cuốn được 4000 người đi theo (Cvsđ 21,38).

Đức Giêsu cảnh giác phải đề phòng những kẻ mạo danh Ngài, khi họ nói: “chính Ta đây”, đừng tin.

2. Đừng tin ngày thế mạt đã đến gần

Ngày 30-8-70, tướng Titus đem đại quân đến vây thành Giêrusalem.  Sau một thời gian vây hãm, hàng triệu người bị giết và chết đói, một tên lính cầm một dùi lửa, ném vào trong khuôn viên đền thờ, lửa bốc cháy kinh khủng, không sao dập tắt được, Đền thờ Giêrusalem bị phá huỷ.  Trước biến cố đó, nhiều người nghĩ, ngày thế mạt đã đến gần.  Đức Giêsu cảnh giác: Đừng tin, Người loại bỏ mọi tương quan giữa hai sự kiện.  Theo Luca, nếu người ta gắn liền biến cố đền thờ bị phá huỷ với ngày thế mạt, đó là một hiểm họa, vì sẽ làm cho các Kitô hữu háo hức nghe theo ảo giác của những ngôn sứ giả, của những kẻ bịp bợm cho rằng ngày thế mạt đã gần kề, Nước Thiên Chúa sắp tỏ hiện trong vinh quang, Con Người sẽ ngự xuống trên mây trời.  Các lời loan báo như thế tạo nên một cơn sốt tạm bợ, sẽ gây thất vọng và khủng hoảng đức tin, người ta sẽ sống trong chờ đợi, không làm gì, vì thế Đức Giêsu nói: Đừng tin họ.

Thực vậy, sau khi đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, vua Adrien ra lệnh đào tận gốc vết tích đền thờ cũ và xây lên trên một ngôi chùa thờ thần Jupiter.  Năm 363, vua Giulianô, một người bỏ đạo, cháu Constantin Đại Đế, muốn cho lời Chúa hết linh nghiệm đã cho phép người Do Thái xây lại đền thờ, nhưng có lửa từ dưới nền móng bốc lên thiêu rụi thợ xây.  Công việc bỏ dở và ngày nay trên nền Đền thờ cũ là một giáo đường Hồi giáo, đền Omar.  Đến 2005, Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, ngày thế mạt chưa đến, chỉ biết rằng, giữa hai thời kỳ đó là thời của dân ngoại dầy xéo lên đền thờ, bao giờ tận cùng, không ai biết.

3. Đừng sợ những kẻ bách hại

Đức Giêsu không giấu gì các môn đệ.  Người nói với họ, mọi sự rồi sẽ rất khó khăn.  Khi nói về thế giới, Người rất thực tế, Người nói đến chiến tranh loạn lạc, động đất, dịch bệnh, đói kém.  Khi nói về công việc rao giảng Tin mừng, Người cho biết, họ sẽ bị bách hại, tù đầy, phản bội thù ghét, giết chóc, và kẻ thù có thể chính là người nhà.  Trước những thảm họa và tai ương đó, có thể dễ dàng khiến các Kitô hữu thất vọng và cho rằng họ là những nạn nhân.

Nhưng Đức Giêsu bảo, đó không phải là tai họa, song là cơ hội để người tín hữu làm chứng cho Người và cho Tin mừng.  Trong cảnh tối tăm cần có ánh sáng, trong sai lầm cần có chân lý, trong thù hận cần có yêu thương, trong chiến tranh cần có hoà bình, và trong bách hại cần có chứng tá của Tin mừng.  Trước những bách hại, người Kitô hữu đừng lo phải đương đầu thế nào?  Hãy ghi lòng tạc dạ: “Chính Thầy sẽ ở cùng anh em, sẽ cho anh em nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thù của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được” (Lc 21,14-15).

Lạy Chúa, chúng con đang sống trong một thế giới luôn thay đổi, đầy những thảm họa, xin cho chúng con luôn an tâm trong tình yêu Chúa và được hưởng sự bình an mà thế giới này không thể mang lại. Chúng con cầu xin.

Lm. Giuse Nguyễn An Khang

ĐIỀU ĐÁNG SỢ NHẤT

Gần mười năm trước, một chị dược sĩ Công giáo sau khi đọc một cuốn sách viết về thị kiến hỏa ngục của ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra ở Fatima đã hỏi tôi: “Nhờ đọc cuốn sách này con mới biết Hỏa ngục có thật.  Từ trước đến nay con đâu nghĩ tới!  Cha phải giúp người ta biết điều này!”  Tôi ngạc nhiên vì biết chị là người đạo gốc, lại có anh ruột là linh mục, mà lại có suy nghĩ như thế!  Cũng vậy, khi có dịp đi giảng ở Seattle-WA, một bà mẹ Công giáo than thở với tôi: “Mấy đứa con của con bây giờ nó chẳng chịu đi lễ đi nhà thờ gì nữa.  Vì có lần một cha đến nhà con nói với chúng nó là không có hỏa ngục vì Chúa nhân từ vô cùng!”

Hai sự kiện trên khiến tôi nhớ lại lời Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II viết trong cuốn Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng: “Trong mức độ nào đó, con người đã lạc hướng, các nhà giảng thuyết lạc hướng, các nhà dạy giáo lý lạc hướng.  Chính vì thế họ không còn dám nói lên sự đe doạ của hỏa ngục, và những người nghe họ cũng không còn sợ hỏa ngục.”

Đức Cha Fulton J. Sheen cũng có những nhận xét tương tự trong tác phẩm Chỗ Đứng của Chúng Ta trong Thế Giới của Thiên Chúa như sau: “Nếu có chủ đề nào chói tai những người duy cảm hiện nay, đó là chủ đề về hỏa ngục.  Thế hệ của chúng ta la ó đòi hỏi điều mà một thi sĩ đã gọi là một nhà thuyết giáo yếu mềm… một người không bao giờ đề cập đến hỏa ngục để lọt vào những lỗ tai lịch sự, và thời đại vô hồn của chúng ta muốn một Kitô giáo đã bị dội nước để làm cho Phúc Âm Chúa Kitô không còn là gì hơn một thứ giáo lý dịu ngọt về thiện chí, một chương trình xã hội giúp cải thiện kinh tế, và một kế hoạch nhẹ nhàng của chủ thuyết lý tưởng tiến bộ.”

Đức Cha Sheen còn chỉ ra những lý do khiến người ta chối bỏ thực tại hỏa ngục: Lý do thứ nhất là lý do tâm lý: một người sống buông thả tội lỗi cần chối bỏ hỏa ngục để có thể an hưởng thú vui tội lỗi.  Lý do thứ hai là người ta lầm lẫn giữa hình ảnh hỏa ngục do các họa sĩ tưởng tượng vẽ ra với thực tại về trật tự luân lý.  Và lý do cuối cùng là người ta sai lạc khi tách biệt giáo lý về hỏa ngục ra khỏi sự toàn diện hữu cơ của các chân lý Kitô giáo; trong đó có thực tại về Thiên Chúa là Đấng vừa rất nhân từ vừa rất thánh thiện, thực tại về ơn cứu chuộc được trả bằng Bửu Huyết Chúa Kitô, thực tại về sự tự do của con người để thực hiện nhân đức hay liều mình phạm tội.

Hơn nữa, Đức Cha Sheen còn nhấn mạnh rằng cả hai sự công chính và tình yêu đều đòi hỏi sự hiện hữu của hỏa ngục.  Ngài viết: “Chúa Kitô không bao giờ bảo đảm rằng Người sẽ thành công trong việc khiến mọi người chấp nhận ơn cứu độ.  Chính sự kiện Chúa Kitô đổ ra đến giọt máu hy sinh mạng sống Người để chuộc tội chúng ta cho thấy rằng tội lỗi có thể đưa đến hậu quả kinh hoàng là hỏa ngục.”  Và “Tình yêu tha thứ tất cả ngoại trừ một điều, đó là việc khước từ yêu thương.”

Sự “đe dọa của hỏa ngục” mà Đức Gioan-Phaolô II nói trên đây chính là điều Chúa Giêsu đã nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt.  Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục.  Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48).

Với những kẻ khiến người ta không còn tin vào sự hiện hữu của hỏa ngục như người linh mục lạc đạo đã nói với bà mẹ Công giáo trên đây, Chúa Giêsu đã phải thốt lên những lời thật nặng nề như sau: “Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc cối thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn” (Mc 9:42).  Vì khi một người làm cho kẻ khác đánh mất đức tin và lòng kính sợ Chúa, người ấy đã làm công việc của ma quỷ.  Đúng như Thánh Augustinô viết: “Chúa tìm cách đặt vào lòng người ta niềm kính sợ Người, còn ma quỷ thì tìm cách cất khỏi lòng người niềm kính sợ Chúa.”

Chính vì đã đánh mất đức tin ngay chính và niềm kính sợ Chúa, mà người ta đã dùng mọi thủ đoạn, phạm mọi tội ác, để theo đuổi tìm kiếm của cải, thú vui, danh vọng, quyền thế ở đời này để rồi sẽ phải mang án phạt đời sau.

“Làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy” ở đây là làm cho người ta phạm tội hay đánh mất đức tin; như thế, cũng có nghĩa là làm cho người ta đánh mất sự sống đời đời hay khiến người ta phải bị hư mất đời đời hay sa vào hỏa ngục.  Với Chúa Giêsu, đây chính là điều đáng sợ nhất.  Vì thế, Chúa dạy mọi người phải chấp nhận “chặt tay”, “chặt chân”, “móc mắt”; nghĩa là phải chấp nhận mọi hy sinh hay mất mát, để khỏi phải phạm tội, khỏi mất đức tin, khỏi bị ném xuống hỏa ngục.  Điều này bao gồm việc phải dứt khoát làm hay phải bỏ một số tâm tưởng, lời nói, hành động nào đó, hay phải cắt đứt liên hệ tình thân với những người nào đó, để khỏi phạm tội mất lòng Chúa, để gìn giữ tâm hồn trong sạch ngay thẳng và bảo vệ đức tin toàn vẹn.

Với những lời này, Chúa Giêsu xác định một sự thật mà ngày nay nhiều tín hữu không muốn chấp nhận: sự hiện hữu của hỏa ngục và cơ hội người ta phải vào đó!

Bản Toát Yếu Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo định nghĩa hỏa ngục như sau: “Hỏa ngục là án phạt đời đời dành cho những ai, do sự lựa chọn tự do của mình, chết trong tình trạng có tội trọng.  Hình phạt chính yếu của hỏa ngục là đời đời bị tách khỏi Thiên Chúa.  Chỉ nơi Ngài con người mới có sự sống và hạnh phúc; con người được tạo dựng là để hưởng những điều ấy và họ luôn khao khát những điều ấy.  Đức Kitô đã diễn tả thực tại hỏa ngục bằng những lời này: Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời (Mt 25:41)” (#212).

Nhận biết tầm quan trọng của thực tại hỏa ngục trong các chân lý đời đời, Thánh Anphong Liguori-Quan Thầy các Cha Giải Tội-nhấn mạnh rằng cùng với mầu nhiệm tình yêu Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh Thánh Giá, tứ chung – sự chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục – phải được thường xuyên đề cập đến trong các bài giảng.  Ngài còn nhấn mạnh rằng hai đồ vật mà mỗi tín hữu Công giáo cần phải có trong phòng để nhắc nhở mình sống đức tin là Tượng Chịu Nạn và Chiếc Sọ Người!

Thánh Tiến Sĩ Têrêsa Avila cho rằng thị kiến về hỏa ngục mà Chúa ban cho ngài giúp ngài thêm lòng trung kiên tiến đức rất nhiều.  Chân Phước Phanxicô và Jacinta nhờ thị kiến hỏa ngục Đức Mẹ cho thấy ở Fatima đã hăng hái gia tăng tinh thần hy sinh đền tạ cầu nguyện cho các tội nhân được ơn hoán cải và đã nên thánh ở tuổi thiếu nhi.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hằng ghi nhớ, suy niệm và sống theo lời nguyện quý giá mà Mẹ Maria là Nữ Vương Thiên Đàng với tất cả sự khôn ngoan bởi trời tại Fatima đã dạy chúng con đọc sau từng chục kinh Mân Côi như sau: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con.  Xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục.  Xin đưa các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.”

Lm Phạm Quốc Hưng

CHẾT CHO ĐÚNG

Tôi không muốn chết vì bệnh, tôi muốn chết vì chết!

Ivan Illich đã viết thế.  Vậy nghĩa là gì?  Chẳng phải ta đều chết vì chết sao?  Dĩ nhiên, thực sự chúng ta đều chết vì chết, nhưng trong quan niệm của chúng ta, thường chúng ta chết vì bệnh, hay vì xấu số, do ung thư, bệnh tim, tiểu đường hay do tai nạn.  Đôi khi do cách nghĩ của mình, mà chúng ta thấy ta chết vì bệnh.

Đó là điều mà Ivan Illich đang cố nhấn mạnh.  Phải đối diện và tôn trọng cái chết như một cảm nghiệm nhân sinh bình thường, chứ không phải như một thất bại về mặt y khoa.  Chết là chuyện không thể nào tránh và phải hiểu đó là một mốc trưởng thành cần thiết, một sự mà chúng ta được định về mặt hữu cơ và tinh thần, chứ không phải là sự bừa bãi sai sót trong vòng đời, không phải là một sự bất thường có thể tránh được.  Chúng ta cần hiểu cái chết như người phụ nữ đang lâm bồn chờ đứa con ra đời, không phải một chuyện bất thường hay một can thiệp y khoa nguy hiểm mà là như một sự triển nở trọn vẹn của tiến trình sống.

Chúng ta trả giá cho quan niệm sai lầm của mình về cái chết, một cái giá đắt hơn chúng ta tưởng.  Khi xem cái chết là sự thất bại của y khoa hay một vận rủi, thì nó biến thành một bóng ma đe dọa, và một bóng tối đáng sợ mà chúng ta không dám đương đầu cách ý thức và không dám tìm hiểu nó.

Ernest Becker có nói về một thứ mà ông gọi là “chối bỏ cái chết” và cho rằng khi từ chối đối diện, và tôn trọng cái chết như một tiến trình tự nhiên thay vì một chuyện bất thường, là chúng ta đang tự bần cùng hóa mình vô cùng.  Khi sợ hãi một cách sai lầm đối với cái chết, thì ý thức mơ hồ về sự khả tử của chúng ta trở thành một góc tối mà chúng ta tránh xa.  Chúng ta phải trả giá cho điều này, ngược đời thay, khi sợ cái chết là chúng ta không thể sống cho đúng đắn.

Trong nhận thức về sự sống, Martin Heidegger cũng xác nhận như thế.  Ông cho rằng mỗi chúng ta là “hữu thể hướng đến cái chết”, nghĩa là từ lúc sinh ra chúng ta đã có một tình trạng mãn tính gọi là cuộc đời, và chúng ta chỉ có thể gạt đi nỗi sợ sai lầm kia nếu mình sống đời mình với sự thật không thể bàn cãi đó.  Chúng ta đang chết.  Cách nói của ông có thể khiến ta thấy phức tạp, nhưng như Illich, ông nêu ra một điểm tích cực.  Với Heidegger, xét cho cùng, chúng ta không chết vì bệnh hay vì vận rủi.  Chúng ta chết vì tự nhiên có tiến trình của nó, và tự nhiên điều hành tiến trình đó, và chúng ta sẽ tận hưởng cuộc sống của mình hơn nếu như biết tôn trọng tiến trình tự nhiên đó, vì khi chấp nhận là mình biết trân quý hơn các thời khắc sống và yêu.

Mỉa mai thay, việc trợ tử, với mọi luận điệu phức tạp của nó cho rằng nó giúp chúng ta kiểm soát cái chết, lại là thứ khiến chúng ta chết vì bệnh chứ không phải chết vì chết.

Dĩ nhiên, muốn chết vì chết chứ không phải vì bệnh, không có nghĩa là chúng ta không xem trọng y khoa, và tác dụng của nó với sức khỏe và cứu mạng cho mình.  Chúng ta bị cưỡng bách bởi bản chất, bởi những người thân yêu, bởi thường thức, và bởi một nguyên tắc không thể thay đổi trong luân lý, đòi chúng ta phải thực hiện mọi biện pháp y khoa thông thường có thể để gìn giữ sức khỏe.  Y khoa hiện đại thật tuyệt vời, và nhiều người trong chúng ta, kể cả tôi, được sống đến hôm nay chính là nhờ y khoa hiện đại.  Nhưng chúng ta cũng phải làm rõ rằng khi chúng ta chết, không phải vì thất bại y khoa, mà vì cái chết là cùng đích tự nhiên của chúng ta.  Khi vừa sinh ra khỏi lòng mẹ, là đã xác định sẽ có một lúc chúng ta cần được sinh ra lần nữa từ lòng đất.

Hơn nữa, đón nhận cái chết như thế không phải là kiểu khắc kỷ tiêu cực xóa bỏ mọi vui thú trong đời.  Ngược lại, như bất kỳ ai từng rơi vào tình trạng cận tử, họ sẽ cho chúng ta biết cái chết sẽ làm cho mọi thứ trong đời càng quý giá hơn bao giờ hết, bởi họ không còn xem chúng là thứ mặc nhiên.

Cần chú ý điểm này.  Không cần nói chuyện này với giới trẻ, những người chối bỏ cái chết dữ dội, và với nguyên do tốt.  Dù người trẻ không nên cố ý lờ đi sự khả tử hoặc sống như thể mình sẽ không bao giờ chết, nhưng người trẻ chưa nên tập trung vào cái chết.  Việc của họ là xây dựng tương lai cho mình và cho thế giới.  Họ có thể đối diện với cái chết sau.  Nói một cách ẩn dụ, là họ cần tập trung hơn vào việc nuôi dưỡng bào thai hơn là lo chuyện lâm bồn.

Và trong những lời dạy của Chúa Giêsu có một điều nghịch lý vô cùng.  Ai cố giữ mạng sống mình thì sẽ mất, và ai thí mạng sống mình thì sẽ tìm được nó.  Hẳn Ivan Illich sẽ đồng ý như thế.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

MẦU NHIỆM CÁNH CHUNG

Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống mai sau, cuộc sống mà chúng ta đang vươn hướng tới.  Nghĩ về cái chết và cuộc sống mai hậu không phải là một thái độ mang vẻ bi quan, nhưng ngược lại, đây là cách thức để khơi dậy niềm hy vọng và giúp chúng ta sống cuộc sống hiện sinh cho thật ý nghĩa.  Chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin khi đọc kinh Tin kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.”  Đó là niềm hy vọng cánh chung của mọi Kitô hữu, bởi vì chết không phải là hết.  Cái chết không kết thúc cuộc sống chúng ta một cách vô nghĩa, nhưng nó chính là cửa ngõ đưa dẫn chúng ta vào cuộc sống vĩnh hằng.  Đây cũng là sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay gợi mở.

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Luca thuật lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và nhóm Saducêo.  Nhóm này không tin có sự sống lại.  Đối với họ, chết là một dấu chấm hết.  Những người Saducêo đưa ra câu chuyện giả định và có tính ngụy tạo về một phụ nữ có 7 đời chồng để gài bẫy Đức Giêsu.  Nếu Chúa trả lời có sự sống lại, thì không thể giải quyết vấn đề ai là chồng chính thức của người phụ nữ ấy trong cuộc sống mai sau, còn nếu Chúa trả lời không, đương nhiên họ có thêm một đồng minh.  Tình thế tiến thoái lưỡng nan.  Câu trả lời của Chúa Giêsu là một khẳng định chắc chắn mang tính thần khải về sự sống lại trong ngày sau hết.  Tuy nhiên Ngài không nói rõ cuộc sống ấy sẽ như thế nào, vì tâm địa hẹp hòi của người Do thái lúc bấy giờ chưa thể lãnh hội được chân lý của mầu nhiệm.  Ngài chỉ cho họ biết rằng trong đời sống mới, con người sẽ sống như các thiên thần, không còn chuyện dựng vợ gả chồng như cuộc sống hôm nay.  Chúa cũng từ từ vén mở cho chúng ta biết về thực tại cánh chung.  Trong cuộc sống mai hậu sẽ không còn khổ đau và chết chóc, bởi vì con người đi vào cuộc sống trường cửu.

Thời cựu ước, tư tưởng về cuộc sống mai sau rất mờ nhạt.  Sách Macabê là quyển sách đầu tiên nói về sự sống lại.  Bảy anh em nhà Macabê đã can đảm tiếp nhận cái chết với niềm tin tưởng này.  Trước khi lìa đời, họ đã nói với vua Antiôkhô: “Chúng tôi chết vì luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời (2Mac 7, a)” hoặc “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại.  Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đời đời đâu” (c.14).  Sau này, khi Guiđa thắng trận và thu gom các tử thi, ông đã gom tiền gửi về Giêsusalem để dâng lễ tạ tội cầu cho những người đã chết.  Tác giả thư Macabê còn chú thích thêm: “Thật thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho kẻ đã chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn (2 Mac 12,44).  Niềm tin về sự sống lại mai sau được Đức Giêsu dần dần khai sáng.  Thánh Phaolô đã nhắc đi nhắc lại về niềm tin này, như trong Rm chương 8; Rm 6,8; 1 C 15,20-23; 2 C4, 14-15; Pl3, 20; 2Tm2,8-13 v.v…

Mọi người đều phải chết

Để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, chúng ta phải đi qua cái chết.  Đây là một thực tại mà không ai có thể trốn tránh.  Ngày xưa vua Tần Thủy Hoàng đã sai phái cả ngàn y sĩ tài giỏi đi khắp nơi săn lùng những thang thuốc quý để ông được trường sinh bất tử, nhưng cuối cùng ông cũng phải chết giống như mọi người.  Biết bao anh hùng hào kiệt đã lẫy lừng một thời, được mọi người ca tụng như những vĩ nhân ‘đời đời sống mãi’, nhưng tất cả cũng đều đã chết.  Xác của họ có đặt trong những lăng tẩm nguy nga để mọi người đến kính viếng, cũng chỉ là một nắm xương khô mà thôi.  Triết học kinh điển của Hy Lạp nổi tiếng với tam đoạn luận ‘Mọi người đều phải chết, Socrate là người, nên(ergo) Socrate cũng phải chết’.  Tam đoạn luận ấy cũng được ứng dụng cho mỗi người trong chúng ta.

Là Kitô hữu, chúng ta chuẩn bị đón nhận cái chết như thế nào.

Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại.  Hồi còn bé, ban đêm ông ngủ bên mẹ.  Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết.  Giữa đêm khuya vắng, có tiếng khóc não nuột vang lên.  Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ.  Nó hỏi mẹ: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?”  Câu hỏi của đứa bé khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời làm sao.  Bà bật ngồi dậy vào bàn và mở Kinh Thánh ra đọc.  Trong Tin Mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn viết: “Trước lễ Vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, Ngài phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha.  Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).  Gấp sách lại, bà trở về giường nói với đứa trẻ: “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng.”  Đây là khuôn mẫu từ cái chết của Chúa Giêsu để giúp chúng ta suy gẫm và chuẩn bị đón nhận cái chết nơi mình.  Khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã từng run sợ khi đối diện trước cái chết.  Ngài sợ đến mức độ mồ hôi và máu toát ra.  Tác giả thơ Do Thái đã viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.  Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ (Dt5,7).  Mọi người chúng ta cũng vậy, theo bản năng tự nhiên, ai cũng sợ hãi khi tiếp cận cái chết.  Nhưng với niềm tin và lòng yêu mến, chúng ta sẽ chiến thắng.  Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Tình yêu mạnh hơn sự chết’’ (Rm 8, 39).  Thánh nữ Têrêsatrên giường hấp hối đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang tiến về cõi sống.”  Mới đây người ta cho đăng hình một nữ tu rất xinh đẹp, lúc nào trên môi cũng nở nụ cười cho dầu đang phải chiến đấu chống lại những đau đớn do bệnh ung thư.  Vị nữ tu này khi chết, trên gương mặt xinh xắn vẫn nở một nụ cười rất tươi.  Người phụ nữ trẻ này đã an bình trở về với Chúa và kết thúc cuộc hành trình trần gian không một chút lưu luyến.

Kết luận:

Một linh mục nọ tổ chức tại giáo xứ một lễ an táng khá đặc biệt.  Ngài báo trước từ lâu để đông đảo mọi người đến tham dự.  Giữa nhà thờ ngài đặt một cỗ quan tài.  Theo truyền thống, trước khi đưa thi hài ra phần mộ, quan tài được mở nắp để từng người đến tiễn biệt người quá cố lần cuối.  Nhưng khi mọi người nhìn vào quan tài để xem người nằm trong đó là ai, họ không thấy gì, chỉ thấy một tấm gương lớn, phản chiếu chính khuôn mặt của họ.  Vị linh mục chú thích: “Mỗi ngày anh chị em hãy tự mai táng chính mình.”

Thiên Chúa là tình yêu.  Nếu chúng ta sống sung mãn trong tình yêu, chúng ta sẽ trở nên bất tử vì được thông dự vào bản tính củaThiên Chúa, là Đấng không bao giờ chết.  Đây là phương cách giúp chúng ta thực hành để đạt đến sự bất tử trong cuộc sống vĩnh hằng mai sau.

Lm. GB. Trần Văn Hào