HÃY SỐNG NHƯ SẼ CHẾT

Một học sinh miệt mài học tập, sau những năm dài chăm chỉ, hy vọng sẽ nắm trong tay mảnh bằng cấp, nhờ đó có thể vun đắp cho tương lai đời mình.  Tương tự, người lao động muốn làm việc thành thạo, phải có một thời gian gắn bó với việc mình làm, biết đâu nhờ đó tương lai rạng sáng hơn…  Như vậy, sau những năm dài học tập hay làm việc đều là một quá trình.  Để làm thành quá trình, đòi phải có thời gian…

Cùng là một quá trình, đời người là sự góp nhặt thời gian.  Để làm thành một cuộc đời, ai cũng phải một lần có mặt trong thời gian.  Thời gian là cánh cửa mở rộng với cuộc đời của người này, nhưng cũng có thể khép chặt nơi cuộc đời của người khác.  Vì có những cuộc đời dài đến trăm năm, nhưng không ít mảnh đời chỉ mới thành thai trong lòng dạ một ai đó đã vội tắt.  Dẫu thời gian có một chiều dài hay chỉ là khoảng ngắn, đủ để ta gọi đó là cuộc đời.  Cuộc đời là một quá trình dài ngắn khác nhau, cũng giống như học tập hay làm việc đòi cả một quá trình.

Giống nhau đến vậy.  Nhưng lại không giống chút nào với quá trình học tập, làm việc của một học sinh hay một người lao động.  Rất khác, khác xa, khác đến nỗi không thể so sánh!  Sao giống rồi khác?  Chẳng phải mâu thuẫn lắm sao?

Một quá trình học tập, làm việc của một người, đưa tới niềm hy vọng và tương lai sáng sủa phía trước.  Nhưng cái đích cuối cùng mà mỗi cuộc đời phải chạm tới không bao giờ là tương lai sáng sủa, ngược lại, rất oan nghiệt, vì đó là cái chết.  Chết là kết thúc của một hành trình sống.  Chết là không bao giờ hiện diện nữa, là mất hút, là thối rữa, hoặc chỉ còn một chút tro tàn.  Nói cho cùng: Nếu chỉ nhìn trên bình diện thể xác và vật chất, con người chẳng khác một con vật: sống để rồi chết; chết để rồi tàn phai.

Nói như thế, có thể bị coi là bi quan.  Nhưng đó là sự thật.  Vì chân lý cuối cùng trong cuộc đời mỗi người sẽ quy về một sự thật hiển nhiên Là: Có sống, sẽ có chết!  Bạn và tôi đều đặn nhịp bước trong cuộc đời, vẫn cần những khoảnh khắc dừng chân nhìn thẳng vào sự thật bị coi là bi quan ấy để nhận ra mình, nhận ra lẽ sống mà mình đang chọn, cách sống mà mình đang thực hiện.  Nếu cần, điều chỉnh cho phù hợp.

Thật ra, sống hay chết chẳng bi quan với hết mọi người.  Chỉ những ai thiếu đức tin, không tin, nếu có lúc bất chợt suy tư, trước mặt họ đúng là đáng sợ, bi quan, là cả một bầu trời vô định và đen tối, một khoảng không vô tận không biết lấy gì lấp đầy.

Nhưng với người có đức tin, lẽ sống họ chọn sống là chính đức tin, sẽ cung cấp cho họ lối sống phù hợp với đức tin.  Đức tin ấy nung đốt trong lòng họ niềm mến yêu con người, mến yêu cuộc đời.  Chính vì lẽ sống đức tin, niềm mến yêu ấy, họ sống vị tha, khoan dung, biết khước từ sự sang trọng giả tạo, khước từ đam mê sở hữu, đam mê vật chất một cách tha hóa, biến chất đến độ mất lương tri, chẳng còn nhân phẩm…

Bởi đó, nếu thời gian là thước đo những tháng năm dài học tập, làm việc của người học trò hoặc của người lao động, thì thời gian cũng sẽ là cán cân đong đếm cuộc đời mỗi người.  Chiếc cán cân ấy khắc ghi từng con số.  Nếu bạn là người có đức tin, hãy sử dụng cuộc đời mình để khi thời gian càng dài, cán cân thời gian đo cuộc đời càng thêm những chỉ số của sự cộng tác với ơn Chúa, lòng đạo đức, sự thánh thiện, chứ không phải khắc thêm chỉ số của bần tiện, gian dối, giả trá, tội lỗi…

Nếu nói nghĩ về cuối hành trình của cuộc đời mỗi người để nhận ra cái chết đang chờ đón là bi quan, thì hôm nay, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi hãy nhìn thẳng vào nỗi bi quan ấy và suy nghĩ cách thấu đáo về lối sống và lẽ sống mà mình chọn sống.  Đó là câu chuyện nhà phú hộ có dư thừa của cải kia, chỉ biết xây dựng cuộc sống của mình trên đống của cải ấy.  Chính khi ngụp lặn trong đam mê vật chất, nhà phú hộ đã đánh đổi Thiên Chúa, thay vào đó là cái kho của cải to lớn mà ông còn đang dự định xây lại một cái kho khác còn to lớn hơn.

Nhưng khốn nạn cho ông!  Chính khi nhà phú hộ khép kín đời mình trên đống của; khi còn đang ảo tưởng về sự tính toán khôn ngoan của mình; khi ông chất chứa, không chỉ trong kho, nhưng trong chính lòng ông mọi thứ tham vọng trần tục, kiêu ngạo và hưởng thụ, là chính lúc cái chết đang ập đến trên ông.  Lời của Thiên Chúa qua môi miệng Chúa Giêsu còn đó, như một bản án khắc nghiệt dành cho những ai đam mê thế tục đến mức che mờ đức tin, nặng hơn: chối từ đức tin: “Nhưng Thiên Chúa bảo anh ta rằng: ‘Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?’”  Và Chúa kết luận, một lời kết luận cũng khắc nghiệt không kém: “Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy.”

Hóa ra nghĩ về cuối hành trình của sự sống để chuẩn bị cho giờ chết chẳng phải bi quan, nhưng là thái độ lạc quan, rất lạc quan và khôn ngoan, rất khôn ngoan.  Vì nếu ai biết sống như sẽ chết, nghĩa là chuẩn bị sẵn sàng cho cái chết của bản thân như đức tin dạy bảo, chắc chắn người đó thanh thản lắm, tâm hồn thơ thới bình an lắm.  Những người như thế sẽ để lại trong lòng người ở lại nhiều niềm thương, nỗi nhớ vô cùng.

Ngược lại, kẻ chỉ biết xây dựng đời mình bằng cách loại trừ đức tin, bằng hưởng thụ, tham lam, đam mê xấu, tha hồ ngụp lặn trong tội lỗi, suốt đời là những bước đi vô định, để cuối cùng, đứng trước cái chết, rơi vào nỗi hoang mang, lo sợ, lương tâm dằn xé, đó mới chính là nỗi bi quan đến tột cùng, bi quan không gì bằng!  Nỗi bi quan lớn như vậy là bởi sống không định hướng.  Mà sống đã không định hướng, chết tất sẽ mịt mù, bi đát.

Bạn và tôi là người có đức tin, hãy nhớ điều này: Thật ra của cải không xấu.  Xây kho hay hưởng thụ vừa phải những gì Thiên Chúa ban cũng không xấu, “nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (Lc 12, 15).  Đừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích.  Vì người giàu đáng yêu trước mặt Chúa là người biết cho đi.  Làm sao để cuối hành trình trần thế, đến trước tòa Chúa, chúng ta thấy kho của mình trống trơn, vì vừa mới cho đi tất cả.

Lm. Vũ Xuân Hạnh

MỘT VỊ THÁNH DÁM NGHĨ LỚN TRONG ĐỜI TU

Tôi có vài dịp trò chuyện với những người giúp khơi nguồn sáng tạo cho tuổi trẻ.  Họ cố gắng giúp người trẻ tìm được động lực không chỉ để làm giàu, nhưng còn để phát triển một cách bền vững.  Với những năm kinh nghiệm trong nghề, họ trích nhiều ví dụ sống động từ những người đã thành đạt và hạnh phúc trên thế giới.  Những điều họ chia sẻ cứ theo tôi hoài.  Tuy nhiên, là tu sĩ theo Chúa Giêsu, tôi có được phép nghĩ lớn và được làm những điều vĩ đại không?  Nếu cứ lướt trên những đường băng [1] mơ mộng ấy, liệu người tu sĩ có rơi vào con đường danh vọng và cao ngạo kiêu kỳ không?  Rối bời…

Tôi cầu nguyện, hỏi Chúa.  Chiêm ngắm những vị thánh, tôi thấy họ cũng có những ước mơ lớn lao.  Chỉ khác một điều là họ đặt ước mơ, hoài bão ấy trong kế hoạch của Thiên Chúa.  Họ làm mọi thứ vì lòng yêu mến và dấn thân hết mình vì lý tưởng Giêsu.  Một trong những vị thánh mang những đặc tính ấy, chúng ta phải kể đến thánh I–nhã, Đấng sáng lập Dòng Tên.

Trước năm Columbus khám phá ra Châu Mỹ cũng là lúc I–nhã chào đời (năm 1491).  Được sinh ra trong một gia tộc giàu có ở Loyola, Tây Ban Nha, I–nhã mê thích chuyện binh đao thế sự. [2]  Ông thích luyện võ nghệ và ước mơ chinh phục những tiểu thư xinh đẹp.  Người ta ngả mũ tán phục chàng hiệp sĩ I–nhã trong trận chiến ở pháo đài Pamplona (năm 1521).  Hào khí chiến đấu trong ông luôn hừng hực, kết quả là một viên đại bác đã khiến ông gãy chân.[3]  May mà quân Pháp tử tế giúp đưa ông về gia đình để điều trị.

Không hài lòng với lần phẫu thuật đầu tiên, ông đề nghị bác sĩ mổ lần hai để kéo dài chân ông ra.  Đau đớn vô cùng, vì thời đó không có thuốc gây mê, nhưng ông vẫn chấp nhận vì ông cần vẻ điển trai trước nhiều thiếu nữ.  Sau lần phẫu thuật đó, ông vẫn phải chấp nhận đi cà nhắc.[4]

Có lẽ cuộc đời ông thay đổi từ những ngày tháng trên giường bệnh.  Ông nhờ người tìm những sách kiếm hiệp, tiểu thuyết để giết thời gian.  Tiếc là người ta chỉ tìm được cho ông hai cuốn: Gương Chúa Giêsu và Hạnh các thánh.  Thôi thì có còn hơn không!  Ông đọc và đọc.  Trong sách đó, hai vị thánh tác động mạnh đến ông là thánh Phanxicô Assisi, và thánh Đa Minh.[5]  Ông nói hai vị đại thánh này làm được những điều trọng đại, ông cũng sẽ làm được và muốn làm vĩ đại hơn.  Họ ăn chay hãm mình, ông cũng muốn làm hơn họ.  Theo gương hai vị thánh này, I–nhã cũng muốn hiến mình để đi chinh phục Đất Thánh cho Kitô giáo.  Theo đó, người ta thấy tinh thần hiệp sĩ luôn chất chứa trong con người I–nhã.

Từ đó ông lên đường thực thi hoài bão lớn lao.  Thay vì trở lại phục vụ vua trần gian, ông quay sang phục vụ Vua Hằng Sống, đó là Thiên Chúa.  Chắc chắn đường lối huấn luyện của Thiên Chúa sẽ khác đường lối lập nghiệp của người đời hôm nay.  I–nhã tìm nguồn động lực, gợi hứng từ chính Thiên Chúa.  Ông rút lui vào cô tịnh.  Một mình đối diện với chính mình, với Thiên Chúa để ông tìm câu trả lời cho thành công của mình.

Người ta vẫn còn thấy biết bao đau khổ gian nan của chàng hiệp sĩ chập chững trên con đường thiêng liêng.  Ông nhiều lần muốn từ bỏ ước mơ thánh thiện, phụng sự Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân.  Những hào nhoáng vinh quang thế sự thi thoảng ùa về khiến ông rối bời.  Ngoài ra, hình ảnh những tiểu thư đài các khiến ông xao lòng.  Tuy nhiên, sau những lần đó, ông cảm thấy không được gợi hứng nhiều.  Ông thất vọng, nhụt chí và mất sức sống.  Ngược lại, những lần suy nghĩ về Thiên Chúa, những lần cầu nguyện nhiều giờ bên Chúa, ông lại tìm được nhiều hứng khởi; nhiệt huyết yêu mến trong ông dâng trào.  Kinh nghiệm ấy được ông gói gọn trong hai từ: Thần hiệp; nghĩa là, được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa.

Trong khi ở hang động Marêsa chừng 1 năm [6], ông viết lại những kinh nghiệm thiêng liêng trong một cuốn sách: Linh Thao.  Đây là công cụ để giúp người ta dám nghĩ lớn, dám làm lớn trong Thiên Chúa.  Ông lên đường để thực hiện giấc mơ ấy vào năm 1523.  Lúc nào ông cũng được thôi thúc nói về Thiên Chúa và giúp đỡ các linh hồn.  Tâm hồn thính giả cũng bừng sáng khi nghe I–nhã chia sẻ.  Từ đó, ông bắt đầu nổi tiếng.

Chưa dừng ở đó, I–nhã còn nghĩ lớn đến chuyện phải qua Giêrusalem để đi lại những chỗ Giêsu đã đi qua.  Ông muốn giống Đức Giêsu hoàn toàn.  Từ Barcelona, ông bắt tàu vượt biển đến Đất Thánh mà trong tay không có tiền (năm 1523).  Ông đi bằng niềm tin!  Chính Thiên Chúa đã giúp ông đến được Đất Thánh.  Nơi đây, người đời thấy chí khí của ông rõ hơn: ông muốn ở lại để truyền giáo cho người Hồi giáo.  Thời đó, dĩ nhiên không ai cho ông ở lại vì tính chất phức tạp và nguy hiểm của vùng đất này.  Ông bị đuổi về Tây Ban Nha.

Nơi quê nhà vào năm 1524, ông vẫn rong ruổi rao truyền kinh nghiệm thiêng liêng để giúp người ta yêu mến Chúa.  Ông nói những điều liên quan đến đức tin mà một giáo dân như ông thời đó không được phép.  Bởi thế, ông bị giáo quyền tra khảo, bỏ tù và dọa nạt.  Tuy nhiên, vẫn khí chất cương nghị, ông không từ bỏ ước mơ nói về Thiên Chúa cho con người.  Lúc ngoài 30 tuổi vẫn luôn đặt câu hỏi cho mình: “Tôi phải làm gì?”  Đó là câu hỏi đã đẩy ông đến vùng trời Paris.

Số là sau những lần khó khăn với giáo quyền, ông quyết định đi học để làm linh mục.  Vì khi có bằng cấp, ông được phép nói về Thiên Chúa và sẽ được nhiều người tin tưởng hơn.  Ông chọn một trường học tốt nhất thời đó: Đại Học Paris.[7]  Đây là giai đoạn thách đố với một người lớn tuổi (30) như ông, cặm cụi với từng con chữ.  Nhanh chóng ông quen dần với môi trường tri thức, và có những người bạn mới.  Ông gọi họ là những người bạn trong Chúa (friends in the Lord).  Trong đó phải kể đến thánh Phanxicô Xaviê, một người có hoài bão lớn không kém I–nhã.

Lúc này, năm 1534, nhóm của I–nhã có 9 anh em.  Ai cũng nuôi ước mơ lớn và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để tôn vinh Thiên Chúa hơn.  Sau khi tốt nghiệp đại học [8], họ khấn hứa giữ khó nghèo, khiết tịnh.[9]  Họ chọn một thủ lãnh là Chúa Giêsu.  Đó là nhóm Bạn Đường, tiền thân của Dòng Tên sau này.  Họ ước mơ xa hơn là đi đến Đất Thánh để phụng sự Chúa ở đó.[10]  Tuy nhiên, thời đó đang có chiến tranh, nên tàu đi đất thánh rất hiếm.  Trong hoàn cảnh đó, họ bàn thảo nghiêm túc với nhau dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.  Trong văn bản của cuộc họp đó, nhóm đã thống nhất: “Nếu trong vòng một năm không đi được Đất Thánh, họ sẽ về Rôma để đặt mình dưới chân Đức Giáo Hoàng.”  Chiến tranh mỗi lúc một leo thang, nên họ thực hiện kế hoạch về Rôma.

Khi về Rôma vào năm 1536, nhóm mạnh dạn xin với Đức Giáo Hoàng thành lập Dòng và lấy tên là Dòng Giêsu (The society of Jesus).  Bởi, họ biết chỉ có như thế nhóm mới liên kết được với nhau trong Chúa Kitô và trong Giáo hội.  Năm 1539, Giáo hoàng Phaolô III phê chuẩn.  Kể từ đây, ước mơ của I–nhã được Thiên Chúa đặt vào lòng Giáo Hội để phục vụ con người một cách hiệu quả.  Trong vai trò là bề trên tổng quyền, I–nhã cùng với Dòng phát triển nhanh chóng cả về hai phương diện: giáo dục và truyền giáo trên khắp thế giới: Âu, Á, Phi, Mỹ.

Thánh I–nhã qua đời tại Rôma vào ngày 31 tháng 7 năm 1556, để lại một con đường gợi hứng cho biết bao nhiêu người.  Con đường ấy phải bắt nguồn từ Thiên Chúa, và mọi gợi hứng, động lực đều chỉ với một mục đích: Cho vinh danh Thiên Chúa hơn – Ad Maiorem Dei Gloriam.

Trở lại vấn đề trên đây, hóa ra đi tu cũng đòi hỏi người tu sĩ nhiều ước mơ lớn lao.  Thiên Chúa đòi hỏi họ dấn thân hết mình, làm mọi sự với mục đích không vì danh vọng tiền tài.  Đích nhắm cho những cố gắng ấy là để làm cho vinh danh Chúa hơn và giúp cho nhiều linh hồn được cứu độ hơn.  Như thế, nguồn cảm hứng và động lực của người tu sĩ được kín múc từ Thiên Chúa.  Họ sẵn sàng bước vào những cuộc chiến đấu thiêng liêng.  Qua những môi trường huấn luyện như thế, họ biết mình, biết Chúa và biết phải làm gì.

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Nguồn: https://dongten.net/

[1] Đây là tựa đề cuốn sách nổi tiếng: Tony Buổi Sáng, Trên Đường Băng, Nxb Trẻ, 2017.

[2] Như lời thú nhận của thánh nhân: “Mãi cho đến 26 tuổi, ông ta là người chỉ xả thân vào những chuyện hư danh thế tục, đặc biệt ông thích thú về những việc tập luyện võ nghệ với khát vọng mãnh liệt và hư danh làm sao cho mình được nổi tiếng.” (Tự thuật số 1).

[3] Một chân của I-nhã bị thương nhẹ, nhưng chân kia bị gãy nghiêm trọng. Sau khoảng 12-14 ngày ở lại Pamplona, I-nhã được khiêng về gia đình tại lâu đài Loyola trên một chiếc cáng, cách Pamplona chừng 70 dặm.

[4] Khi viết về giai đoạn này, cha Polanco –thư ký của cha I-nhã – cho biết: “Có thể thấy nơi I-nhã là một con người Thiên Chúa tạo nên cho một mục đích lớn lào.”

[5] Ông nói: “Giả như tôi làm điều mà thánh Phanxicô đã làm và điều mà thánh Đaminh đã làm thì sao?”, hay “Thánh Đaminh đã làm điều này; còn tôi, tôi cũng phải làm điều đó. Thánh Phanxicô đã làm điều kia, còn tôi, tôi cũng làm điều ấy.” (Tự thuật số 7).

[6] Inhã lưu lại Manresa trong khoảng một năm từ 25-3-1522 đến tháng 2-1523, sau đó đến Barcelona.

[7] Inhã đã đi bộ tới Paris vào tháng 2 năm 1528.

[8] Năm 1535 I-nhã đã tốt nghiệp hai bằng: cử nhân triết học và cao học thần học tại Đại Học Paris. Một năm sau, I-nhã được thụ phong linh mục và cử hành thánh lễ mở tay tại Rôma.

[9] Trong một nhà nguyện ở Montmatre tại Paris vào ngày 15 tháng 8 năm 1534. Ở đó họ đã khấn khó nghèo và khiết tịnh như là một thân thể tông đồ tu trì đích thực, và họ đã khấn đi Giêrusalem, hoặc Rôma.

[10] Họ đã quyết định phải đi Giêrusalem để sống cả đời mình ở đó cho lợi ích của các linh hồn. Các học giả cho rằng có lẽ lần trước ở Giêrusalem, I-nhã đã ngầm xin phép với những vị có thẩm quyền của Dòng Phanxicô về ý định này.

ĐƯỢC THỤ THAI BỞI HÃM HIẾP, TẠ ƠN CHÚA TÔI KHÔNG BỊ PHÁ THAI

“Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo; dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con.  Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!  Hồn con đây biết rõ mười mươi.  Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.

Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách của Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự.” (Thánh Vịnh 139, 13-16)

Tôi luôn ý thức rằng mình là một người con nuôi.  Tôi nhớ cảnh cha mẹ tôi đã phải đặt tôi ngồi xuống, và giải thích mọi chuyện cho tôi.  Tôi đã khóc cho tới khi ngủ thiếp đi bởi ý nghĩ rằng, họ không phải là cha mẹ ruột của tôi.  Tôi cảm thấy bị bỏ rơi và tổn thương vì điều đó.

Họ yêu tôi rất nhiều và muốn giúp tôi giải quyết những cảm xúc tuôn trào ấy, nhưng họ không biết nó đau đến thế nào.  Họ không thể biết được.  Họ biết cha mẹ mình.  Nhưng tôi thì không.

Cuộc đấu tranh nội tâm ấy tiếp diễn trong nhiều năm.  Tôi đã không biết rằng mình chỉ biết một phần câu chuyện.  Và đến tận trung học, tôi mới phát hiện ra rằng: mẹ đẻ của tôi đã bị hãm hiếp.

Tôi đã không ngừng tưởng tượng ra cảnh tượng ấy trong tâm trí mình – và làm thế nào mà gần như tôi không thể được sinh ra trên đời.  Một phụ nữ trẻ được bạn trai hẹn hò và đưa đón vào một buổi tối trong thành phố.  Anh ta quyến rũ và có tài thuyết phục.  Buổi tối ấy thật tuyệt, và mọi thứ bỗng trở nên tồi tệ.  Cô ấy đã bị hãm hiếp trong buổi hẹn hò.

Chín tháng sau, tôi được sinh ra trong thế giới, bởi một người mẹ không hề mong muốn tôi – thậm chí chẳng muốn biết tôi là trai hay gái.  Không được yêu thương, không được mong muốn, nhưng tôi đã may mắn được cứu thoát khỏi sự tàn bạo của nạo phá thai, thứ tội ác mà chẳng hiểu tại sao lại được chấp nhận trong xã hội của chúng ta.

Tôi đã từng có ý nghĩ rằng, mày là sản phẩm của tội ác, số phận đã định đoạt rằng mày chẳng làm nên trò trống gì cả.  Đó là điều mà ma quỷ nói với tôi.

Trong nhiều năm, tôi đã phải sống với những cảm giác, những ý nghĩ dai dẳng và đáng ghét đó – cái cảm giác rằng số phận đã dành cho tôi điều gì đó khủng khiếp bởi cái cách mà tôi được sinh ra.  Tôi thật đáng thảm hại, hoặc ít nhất đó là điều mà tôi luôn tự nói với mình.

Tôi đã có những ngày, những tuần, những tháng vui vẻ… nhưng rồi lại ủ dột trở lại.  Tôi vẫn nhớ rõ ràng những gì xảy ra vào ngày hôm đó, Satan đã làm cho những lời nói rất tình cờ của mẹ tôi từ sự thật trở thành lời nói dối.  Tôi đã không nói với chính mình rằng mình sẽ chẳng làm nên trò trống gì, mà là ma quỷ nói với tôi rằng mày sẽ chẳng làm nên trò trống gì – bất cứ điều gì cũng có thể làm tôi ngã lòng và đặt câu hỏi về mục đích cuộc đời tôi.

Ai có thể tưởng tượng rằng mình bị hãm hiếp và rồi phát hiện ra rằng mình đang mang trong bụng đứa con của gã đàn ông đó?

Khi còn là học sinh trung học, tôi đã biện minh rằng phá thai có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh bị hãm hiếp – ý tôi là, làm sao bạn có thể mong đợi một phụ nữ chịu mang thai một đứa trẻ bởi hành vi tội ác khủng khiếp đó?  Khoan đã, đó phải chăng là chính tôi… tôi đã đặt câu hỏi về mọi thứ: giá trị của bản thân và thậm chí cả sự tồn tại của chính mình.

Ý nghĩ tự tử đến và đi.  Chỉ cho đến khi tôi tìm kiếm tiếng nói của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, thì ý nghĩ đó mới bắt đầu biến mất.

Tôi hầu như chẳng biết rằng Thiên Chúa mời gọi tôi đến với Ngài.  Ngài muốn gọi tôi ư?  Không thể thế được – Ngài đâu biết gì về tôi, chẳng biết tôi từ đâu tới… “Đúng rồi, Ashley, Ta muốn con,” Tôi mở cuốn Kinh Thánh của mình, tới sách Ngôn sứ Giê-rê-mi-a chương I, câu 5: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi; Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.”

Ngài biết tôi, Ngài đã dựng nên tôi, Ngài yêu tôi.  Bạn thấy đấy, tôi không phải là một sản phẩm lỗi. Thiên Chúa biết điều gì sẽ xảy ra, ngài biết ngày được thành hình, và có một kế hoạch lớn lao hơn cho tôi, mà không ai có thể hiểu hết được.  Thậm chí cha mẹ nuôi của tôi cũng không thể hiểu được, Cha trên trời của tôi đã mặc khải cho tôi ý nghĩa và mục đích mà Ngài đã ghi khắc vào cuộc đời tôi.

Thiên Chúa biến sự dữ thành sự lành.  Tôi là con của Thiên Chúa!  Ngài đã làm cho tôi được nhận nuôi, và công trình lộng lẫy của Ngài thật tốt đẹp, vững chắc và kỳ diệu.  Tôi ở đây để chia sẻ Tin Mừng, và kế hoạch Thiên Chúa dành cho cuộc đời bạn và tôi.  Tôi sống sót – không phải vì một sai lầm, mà nhờ hồng ân Thiên Chúa.

Tất cả chúng ta đều phải nhớ rằng Thiên Chúa có kế hoạch cho cuộc đời của chúng ta.  Chúng ta có thể không thấy và không hiểu hết nó là gì.  Tất cả những gì chúng ta có thể làm hàng ngày là tìm kiếm thánh nhan Thiên Chúa và thánh ý của Ngài.  Chúng ta không được nản chí, khi cảm thấy rằng thế giới đã quay lưng lại với mình, nó phải như vậy.

Nhưng Thiên Chúa không quay lưng với chúng ta.  Ngài đã, và vẫn đang làm chủ mọi sự.  Bởi tôi đã được hoài thai và chào đời trong hoàn cảnh đặc biệt, nên tôi có cơ hội tuyệt vời để lên tiếng chống phá thai và chia sẻ tình yêu của Đức Kitô cho những người đang thiếu.

Hàng ngày tôi đều nhắc nhở mình rằng kế hoạch của Thiên Chúa thì hoàn hảo.  Tôi có diễm phúc được viết và nói về những gì Ngài đã làm cho tôi và thông qua tôi.  Xin ngợi khen Thiên Chúa bởi sự mặc khải của Ngài trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Vì chính Ta đã biết các kế hoạch Ta định làm cho ngươi – sấm ngôn của Đức Chúa – kế hoạch thịnh vượng chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.” (Gr 29, 11)

* Ashley Lawton là một nhà văn, một nhiếp ảnh gia và là một diễn giả Kitô giáo, bà yêu thích việc chia sẻ lời chứng bảo vệ sự sống của mình.  Hiện bà đang cùng chồng và hai con nhỏ sống ở Greenville, Nam Carolina.

Hà An, dịch từ Lifesite – Thái Hà

LỜI KINH TUYỆT DIỆU CỦA MUÔN THẾ HỆ

Trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều mối liên hệ được thiết lập.  Nào là mối liên hệ anh em, bạn bè, đồng nghiệp, cha mẹ, vợ chồng, con cái…, từ đó nảy sinh các mối tương quan như: thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng… Đó là các mối liên hệ tự nhiên.  Tuy nhiên, ngoài các mối liên hệ thông thường trên, nơi các tôn giáo và trong đời sống tâm linh, chúng ta cũng có những mối liên hệ và tương quan với Đấng Siêu Việt.  Vì thế, với người tín hữu Kitô, chúng ta luôn cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong đời sống đức tin của mỗi tín hữu.

1. Kinh lạy Cha, khuôn mẫu cầu nguyện

Với người Công Giáo, tâm tình đó được khởi đi từ chính mẫu gương của Đức Giêsu khi Ngài thường cầu nguyện với Thiên Chúa Cha.  Không những thế, Ngài còn dạy cho các môn đệ của mình cầu nguyện khi một người trong số họ lên tiếng ngỏ lời: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.

Khi được môn sinh bày tỏ ước nguyện, Đức Giêsu đã hướng dẫn các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha.

Qua kinh nguyện này, trước tiên, Đức Giêsu đã giúp cho các môn đệ đi vào mối liên hệ thân tình Cha – con với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời.”  Đây chính là lời nguyện mà chính Đức Giêsu đã thường xuyên thưa lên với Cha Ngài.  Ngài cũng muốn cho các môn đệ có được tâm tình ấy như chính Ngài với Thiên Chúa.

Đây là một hồng ân đặc biệt mà chỉ nơi Kitô Giáo mới có.  Từ đây, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và mỗi người đều được trở thành nghĩa tử của Người.  Khi đã đi vào mối tương quan Cha – con với Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đến thái độ tôn vinh Thiên Chúa: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến.”

Thật ra, Danh Thiên Chúa mãi mãi rạng ngời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.  Vì thế, không cần đến lời tôn vinh của chúng ta thì những điều đó mới được hiện diện và tồn tại.  Không!  Nhưng khi chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như thế, một lần nữa nói lên sự kết hiệp sâu xa giữa ta với Thiên Chúa và từ đó nảy sinh ơn cứu chuộc nhờ được thánh hóa trong Danh Cha.

Tiếp theo, Đức Giêsu hướng các môn đệ đến những nhu cầu của chính mình.  Những lời nguyện đó là: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.”  Đây chính là nhu cầu thiết thực, gắn liền với đời sống thường nhật của con người.  Lời nguyện này muốn bày tỏ tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa là Đấng An Bài và Quan Phòng cho con cái của Người.  Vì thế, đây là lời nguyện vừa mang tính thiết thực, vừa mang tâm tình cậy trông.

Kế đến là lời nguyện xin tha thứ: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con.”  Lời nguyện này nhắc cho người môn đệ biết rằng: mang trong mình thân phận yếu đuối của kiếp người, nên không ai là người không có những sai phạm với Chúa và với nhau.  Vì thế, xin ơn tha tội là điều không thể thiếu trong tâm tình cầu nguyện.  Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chúa thương xót và tha thứ khi chính ta cũng phải rộng lòng xót thương và tha thứ cho anh chị em đã xúc phạm đến mình.  Bởi vì: nếu chúng ta không tha thứ cho nhau, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho chúng ta.

Cuối cùng, lời kinh hướng các môn đệ ý thức sự giới hạn của bản thân, bởi lẽ, con người thường hướng chiều về tội lỗi hơn là điều thiện.  Hơn nữa, trước những bẫy cám dỗ đầy hấp dẫn và bắt mắt, khiến con người chẳng khác gì con thiêu thân lao mình vào đống lửa.  Trước dịp tội và cám dỗ, người môn đệ cần phải có ơn Chúa trợ giúp thì mới có thể chiến đấu và chiến thắng được ba thù.

Khi dạy các môn đệ xong, Đức Giêsu đảm bảo cho những lời nguyện xin ấy nếu phát xuất từ sự chân thành, tin tưởng, phó thác thì chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời, vì: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho.  Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.”

Như vậy, có thể nói, không có lời kinh nào ý nghĩa và giá trị cho bằng Kinh Lạy Cha, bởi vì kinh này do chính Đức Giêsu dạy cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta.  Vì thế, đây là lời kinh tuyệt vời trên hết mọi lời kinh.

2. Thực trạng đời sống cầu nguyện nơi chúng ta

Trong đời sống đạo của chúng ta ngày nay, nhiều người đã bỏ cầu nguyện, hay cầu nguyện chẳng khác gì cái máy, hoặc cầu nguyện là trao phó mọi sự nơi Chúa theo kiểu đào nhiệm.  Trong khi đó, tâm hồn chúng ta không có tâm tình chi cả.  Vì thế, không lạ gì khi thấy nhiều người và có thể chính chúng ta, mỗi khi cầu nguyện là kể ra một dãy dài dằng dặc những nhu cầu của bản thân mà không hề tôn thờ, tạ ơn cũng như hướng tha.  Hay nhiều khi chúng ta lại quá tập trung vào nhu cầu thể xác mà quên mất nhu cầu tâm linh.

Lại có những lúc chúng ta cầu nguyện theo kiểu mì ăn liền, tức là: mong sao Chúa phải là người đáp ứng theo lời nguyện xin càng nhanh càng tốt.  Cầu nguyện như thế, vô hình chung, chúng ta biến Thiên Chúa trở thành đối tượng chỉ để đáp ứng nhu cầu của mình, mà không hề nghĩ đến chuyện kết hợp nên một với Người để trở nên giống Người.

Một tâm tình phù hợp với đức tin, ấy là: khi cầu nguyện, không có nghĩa chỉ là xin ơn và cũng chẳng có nghĩa thuần túy là liệt kê những ước muốn, những kỳ vọng, những điều mà mình muốn xin.  Nhưng cầu nguyện trước hết là tâm tình tôn thờ, thống hối, tạ ơn rồi mới đến xin ơn.

Tuy nhiên, cần phải kiên trì trong lời cầu nguyện.  Chính vì thế, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn: “Người bạn bị quấy rầy” và chưng ra hình ảnh trai lỳ của người làm phiền trong đêm.  Cuối cùng, ông chủ khó tính cỡ nào cũng phải mủi lòng và thi ân cho người bạn sỗ sàng này.  Nói thế, không có nghĩa Thiên Chúa như ông chủ trong dụ ngôn, nhưng đây là hình ảnh biểu đạt một vị Thiên Chúa luôn luôn xót thương con người.  Thế nên, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.

Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, thánh Augustinô đã giải thích: “Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Chúa sẽ ban.  Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn.  Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái.”

Tắt một lời, kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt hảo.  Chính lời kinh này đã liên kết chúng ta nên một với Đức Giêsu và với nhau để dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin trong tâm tình Cha – con.  Cũng chính trong mối liên hệ thân thương này, mà Thiên Chúa không ngừng thi ân giáng phúc cho những ai thành tâm, tin tưởng, phó thác và chạy đến với Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con!  Xin ban cho chúng con biết năng chạy đến với Chúa như con thơ bên lòng mẹ hiền, để được Chúa yêu thương, ban ơn và tha thứ cho những thiếu xót của chúng con. Amen.

Jos. Vinc. Ngọc Biển

SỰ GIÀU CÓ CỦA THIÊN CHÚA LÀ LỜI MỜI GỌI CHO LÒNG QUẢNG ĐẠI 

Mặt trời hào phóng một cách lạ thường, không giây phút nào là nó không chiếu sáng nhất.

Các nhà khoa học cho biết, bên trong mặt trời, cứ mỗi giây có một tỉ lệ tương đương với bốn triệu con voi được chuyển hóa thành ánh sáng, một thứ quà tặng chỉ biết cho đi, không bao giờ biết nhận lại.  Mặt trời vẫn tiếp tục đốt cháy nó.  Nếu sự hào phóng này ngừng lại, đương nhiên tất cả năng lượng sẽ mất nguồn cung cấp, mọi sự sẽ chết và bất động.  Chúng ta, và mọi vật trên hành tinh này, sống được là nhờ sự hào phóng của mặt trời.

Trong sự hào phóng này, mặt trời phản ánh sự giàu có của Thiên Chúa, một sự hào phóng mời gọi chúng ta cũng trở nên hào phóng theo, mở rộng quả tim, dấn thân nhiều hơn để tận hiến bản thân mình trong công việc hy sinh, để làm chứng nhân cho sự giàu có của Thiên Chúa.

Nhưng điều này không dễ.  Một cách bản năng, chúng ta có khuynh hướng tự nhiên là tích trữ và để dành để cho cuộc sống được an toàn.  Bản chất chúng ta là sợ và sống chùm với nhau.  Vì vậy, dù nghèo hay không, chúng ta đều có cảm nhận thiếu thốn, luôn luôn sợ mình không có đủ, và vì không có đủ, chúng ta phải cẩn thận khi cho, chúng ta không thể quá hào phóng được.

Nhưng Thiên Chúa làm ngược lại với điều tự nhiên trên.  Thiên Chúa rộng rãi, giàu có, quảng đại, và hào phóng vượt ra ngoài những lo sợ và tưởng tượng nhỏ nhoi của chúng ta.  Vũ trụ của Thiên Chúa quá phong phú và phi thường.  Kích thước của vũ trụ, chỉ tính riêng về những gì con người đã khám phá, cũng đã là không tưởng tượng nổi.  Quá dồi dào và hào phóng là đặc nét của Thiên Chúa.

Chúng ta thấy điều này qua dụ ngôn Người gieo giống trong Kinh Thánh: Người gieo giống, đại diện cho Thiên Chúa, người mà Đức Giê-su mô tả, không phải là người tính toán, gieo cẩn thận và chỉ gieo ở những mảnh đất màu mỡ.  Người gieo giống này gieo không phân biệt nơi gieo: bên vệ đường, trong bụi gai, trên đá, nơi mảnh đất cằn cỗi, cũng như nơi tốt tươi.  Hình như ông quá dư hạt giống nên có thể nói cách gieo giống của ông xuất phát từ tính hào phóng của sự dồi dào hơn là tính thận trọng của sự thiếu thốn.  Chúng ta cũng thấy sự giàu có này trong dụ ngôn người làm công vườn nho, gia chủ, đại diện cho Thiên Chúa, trả công đồng đều cho tất cả người làm công, không phân biệt ai trước ai sau.  Thiên Chúa, như chúng ta biết, giàu có vô hạn và không bao giờ tính toán chi ly trong việc ban phát.

Thiên Chúa cũng rộng rãi và quảng đại khi tha thứ, như chúng ta thấy trong các phúc âm.  Trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu, người cha tha cho người con hoang đàng, ông cho vượt lên sự giàu có của ông, nhiều khi sự giàu có này làm cho nhân phẩm bị mất vì quá tính toán cho mình.  Chúng ta cũng thấy sự rộng rãi này nơi Đức Giê-su khi Người tha thứ cho kẻ hành hình cũng như tất cả những ai bỏ Người trong cuộc thương khó.  Qua những gì chúng ta thấy, Thiên Chúa quá giàu tình yêu, quá giàu lòng thương xót nên Ngài mới phung phí, quá quảng đại, không tính toán, không kỳ thị, dám nhận bất trắc, và có quả tim rộng lượng vượt quá trí tưởng tượng chúng ta.

Và đó là lời mời gọi: Để có được một khái niệm về sự giàu có của Thiên Chúa, một giàu có dám nhận bất trắc, chúng ta cần có một quả tim luôn rộng mở và một lòng quảng đại vượt lên trên bản năng sợ hãi, bản năng làm chúng ta nghĩ rằng, chỉ vì chúng ta không có đủ nên cần tính toán chi ly nhiều hơn.

Trong tất cả các phúc âm, phúc âm thánh Lu-ca chứa đựng một trong những sứ điệp mạnh mẽ nhất về đức công bình (cứ sáu hàng là có một thách thức trực tiếp với đức công bình đối với người nghèo) nhưng tuy thế, trong phúc âm thánh Lu-ca, Đức Giê-su vẫn nhắc nhở về mối hiểm nguy của giàu có, Ngài không bao giờ lên án sự giàu có hay người giàu có.  Hơn thế Người phân biệt sự giàu có quảng đại và giàu có bủn xỉn.  Người giàu có quảng đại tốt lành vì họ tỏa ra và hiện thân cho sự giàu có và lòng quảng đại của Thiên Chúa, trong khi người giàu có bủn xỉn không tốt bởi vì họ đưa ra một hình ảnh sai lầm về sự giàu có, quảng đại, và quả tim rộng lớn của Thiên Chúa.

Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta đong đấu nào sẽ nhận lại đấu đó.  Điểm chính là nói lên rằng không khí chúng ta thở ra là không khí chúng ta hít vào.  Điều đó không chỉ đúng về mặt sinh thái học mà nó còn đúng cho mọi khía cạnh chung của cuộc sống.  Nếu chúng ta thở ra sự bủn xỉn, chúng ta sẽ hít vào sự bủn xỉn; nếu chúng ta thở ra tính nhỏ nhen, chúng ta sẽ hít vào tính nhỏ nhen; nếu chúng ta thở ra sự gắt gỏng cay chua, chúng ta cũng sẽ hít vào sự gắt gỏng cay chua đó; và nếu chúng ta thở ra sự thiếu thốn khiến chúng ta tính toán và dè dặt, thì sự toán tính và dè dặt đó sẽ là không khí chúng ta hít vào.  Nhưng, nếu nhận thức được sự giàu có của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thở ra lòng quảng đại và bao dung, và khi đó chúng ta sẽ hít không khí quảng đại và bao dung vào.  Chúng ta hít vào những gì chúng ta thở ra.

Tôi chưa bao giờ gặp ai thật sự có lòng quảng đại mà họ lại không nói rằng, lúc nào họ cũng nhận được nhiều hơn cho.  Và tôi cũng chưa bao giờ gặp một ai thật sự có quả tim rộng rãi mà lại sống trong cảm nhận mình thiếu thốn.  Để có lòng quảng đại và quả tim rộng mở thì trước hết chúng ta phải tin vào sự giàu có và lòng quảng đại của Thiên Chúa.

Nhờ sự giàu có của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được ánh sáng mặt trời, một vũ trụ lớn lao hào phóng vượt sức tưởng tượng của loài người.  Đó không phải chỉ là thử thách cho tinh thần và trí tưởng tượng, nhưng đặc biệt là thử thách cho quả tim, để nó trở nên giàu có và quảng đại hơn.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

BẤT CÔNG VỚI CHÍNH MÌNH!

Ở đời, thấy người ta hay ta thán với nhau xã hội bất công, con người bất công…
Bản thân tôi, cảm thấy không ai bất công bằng chính mình.

Vì sao?  Thật đơn giản.  Con người khi sinh ra trong trần gian này, dưới con mắt đức tin thì con người có 2 phần: xác và hồn.
Điều này không cần nói nhiều thì ai ai cũng biết cả.

Nhìn vào cuộc đời, con người luôn bị cuốn hút bởi: CƠM – ÁO – GẠO – TIỀN!

Tất cả những thứ ấy chi phối đời sống của con người để rồi ai ai cũng phải nỗ lực để tìm cho thật nhiều tiền để nuôi sống bản thân, nuôi sống gia đình.  Điều này hoàn toàn đúng chứ không sai.  Thế nhưng, bất chợt, có khi nào đó trong cuộc đời, ta nhìn lại đời ta và ta giật mình qua lời nhắc nhớ của Thầy Chí Thánh Giêsu: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê.  Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi.  Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu.”

Lời nhắc nhở này xem ra là xác đáng và hữu ích cho cuộc đời mỗi người và nhất là trong thời đại hôm nay.

Con người, dường như ai ai cũng cuống cuồng trong một thế giới lao động để tìm của nuôi thân.  Nhưng, bi đát ở chỗ ngày hôm nay không ai chết vì đói mà chết vì no và chết vì trong người có quá nhiều hóa chất.  Trên bàn ăn của con người ngày hôm nay, nhìn tới nhìn lui chỉ hóa chất và hóa chất.

Con người bất công với chính mình.  Vì sao?

Thân xác con người thì hữu hạn mà linh hồn là vô cùng.  Xác con người sẽ chấm hết sau cái chết nhưng linh hồn vẫn còn và linh hồn đó đi về đâu mới là chuyện quan trọng.

Chính thánh Inhaxio cũng đã hơn một lần nhắc nhớ con người:  Được lời lãi cả và thế gian, mất linh hồn nào được ích gì?

“Hãy tin vào Thiên Chúa”

Lời Chúa mời gọi chúng ta hết sức thực tế.  Niềm tin vào Thiên Chúa đó, chúng ta diễn tả như thế nào?  Câu trả lời cũng tự mỗi người chúng ta trả lời với Chúa mà thôi.

Mới hôm qua, có một người nhắn tin cho con như thế này: “Con nghe Tin Mừng Lời Chúa và bài giảng của Cha ấy, con cảm thấy con sống đúng là quá “Thực dụng” cầu lợi nhiều hơn là cho đi.  Thú thật cùng Cha gia đình chúng con còn khô khan về việc Thờ Phượng Kính Mến Chúa Lắm.  Xin Cha cầu nguyện cho gia đình chúng con.  Con cảm ơn Cha nhiều, kính chúc Cha thật nhiều sức khỏe và ơn Thánh Chúa đầy tràn trên Cha.”

Con có chia sẻ với vài người tâm tình này và những người này đều giật mình rằng chính bản thân họ cũng khô khan về việc thờ phượng kính mến Chúa lắm!

Có nghĩa rằng, người ta đến với Chúa cũng thực dụng như những người Do Thái ngày xưa nghĩa là đi tìm mối lợi cho được ăn bánh no nê thôi chứ không tin Chúa.

Thật vậy, con người, trong thân phận làm người rất dễ bị rơi vào tình cảnh thực dụng của một chia sẻ rất thực này.  Thực dụng với Chúa và với nhau nữa.  Nghĩa là họ đến với nhau tất cả cũng chỉ vì thực dụng chứ không hề biết sẻ chia.

Và rồi, nhìn lại cuộc đời, cứ nhìn thật, nhìn thẳng và nói với nhau đừng giấu diếm rằng mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng và mỗi năm ta dành thời gian chăm chút cho phần hồn chúng ta được bao nhiêu?  Có người bỏ hàng giờ vào shopping và đi lựa hết đồ này đến đồ khác và đi mua mang về nhà.  Điều oái ăm là ở nhà, trong cái tủ quần áo của mình, có những món chưa mặc 1 lần hay chỉ mặc 1, 2 lần sau khi mua về để đó.  Tối nay về nhà, ta cứ thử lục lại trong tủ đồ của ta, ta sẽ thấy có quá nhiều món dư thừa mà ta không hề đụng đến và cứ để trong xó tủ cho vui.  Nhưng, tâm lý lúc nào cũng thấy thiếu và đi mua.

Mất thời gian cho shopping thì thoải mái và chả bao giờ thấy đủ cả.

Ngày nay, nhiều dịch vụ làm đẹp, nhiều dịch vụ chăm sóc sức khỏe.  Nghe đâu có nhiều cái dịch vụ là đi tập thể dục, đi đến phòng gym để làm đẹp, làm tốt cho sức khỏe.

Nói thì có thể là đụng chạm, xin các bà các cô tha thứ cho.  Mỗi khi đi làm tóc mất mấy tiếng thì các bà các cô là người hiểu hơn ai hết.

Phim một bộ dài bao nhiêu thì người xem trả lời.

Một chầu nhậu mất bao nhiêu thời gian thì người nhậu mới biết.

Hẳn nhiên, làm đẹp, nhậu, xem phim tự nó không phải là xấu vì là nhu cầu của con người hết sức bình thường.  Thế nhưng, bất thường ở chỗ là ta bỏ thời gian quá nhiều để chăm chút cho nó, còn phần hồn của ta, ta bỏ cho nó coi như là chết đói.

Cứ thực lòng thực tâm, một ngày, ta cho linh hồn ta ăn được bao nhiêu thời gian hay ta chỉ bỏ đói phần hồn của ta?

Đến Nhà Thờ, cha nào giảng dài một tí là ai oán.  Không thích cha đó thì không đi lễ… và hóa ra là người ta theo đạo cha chứ không phải theo đạo Chúa.

Mùa này là mùa mà nhiều giáo phận thuyên chuyển.  Cứ không thuyên chuyển thì thôi mà cứ thuyên chuyển là có chuyện.  Cha ở xứ nào đó chừng 5 năm là đổi, đó là chuyện hiển nhiên và bình thường.  Thế nhưng khi đổi là ai oán và có người bỏ không đi nhà thờ vì giám mục dám chuyển cha của họ.  Hóa ra họ theo đạo cha chứ không theo đạo Chúa.

Chả có cha nào giảng dở cả.  Cha nào cũng phân tích, chia sẻ và mời gọi mọi người sống Lời Chúa thôi.  Có điều anh bất công, anh chê cha này, anh khen cha kia.  Thế nhưng chuyện quan trọng cần đó là anh có sống Lời Chúa hay không mà thôi.

Không chăm chút phần linh hồn, không nuôi dưỡng phần hồn mà cứ mãi chạy theo thứ lương thực hay hư nát.

Thử hỏi mỗi người, dù chăm chút cho sắc đẹp, dù giành nhiều thời gian để tập gym, dù ăn thật kỹ và thật bổ để lo cho thân xác nhưng thử hỏi cái mạng sống này giữ được bao lâu?  Có người ăn uống cho thật kỹ nhưng rồi chết vẫn chết và không thoát khỏi cái chết.

Mạnh giỏi chăng là được tám mươi thôi như Thánh Vịnh nhắc nhở.

Chính vì thế, cũng cần chăm sóc cho cơ thể, cho sắc đẹp nhưng chuyện cần hơn là chăm chút cho phần hồn của chúng ta.  Thế nhưng, ta cứ tự lòng nhủ lòng và tự lương tâm ta trả lời với Chúa là ta dành cho phần hồn của chúng ta được bao nhiêu hay ta cứ mãi lo thân xác mà không chăm chút phần hồn.

Lời Chúa ngày hôm nay nhắc nhớ chúng ta nhìn lại bản thân của mỗi người.  Có khi ta quá bất công với chính bản thân chúng ta mà chúng ta không biết.

Hãy tội nghiệp cho bản thân chúng ta hơn là tội nghiệp cho con người và xã hội.

Người Giồng Trôm

YÊU THEO CÁCH CỦA NGƯỜI MÌNH YÊU

Trên đường đi Giêrusalem, cách thành thánh 3 cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của Mácta, Maria và Lagiarô, một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành sứ vụ tại thủ đô.  Không có nơi nào tính cách nhân loại mà Luca chủ trương phác họa được diễn tả trọn vẹn hơn ở đây, trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được một bức họa tâm lý sống động hơn ở đây.  Có người tưởng tượng rằng Mácta là người khô khan nhưng cương nghị và đắc lực, còn Maria thì đôn hậu, đa cảm và lười.  Thật ra cả hai chị em đều có những đức tính đáng khen.  Cả hai đều yêu kính Chúa Giêsu và ước ao làm vui lòng Chúa.  Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mácta đã làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon.  Còn Maria vì trực giác hơn được điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Nguời dạy.  Nàng biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại.  Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của vị khách trước.  Trong việc tiếp đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị nàng.

“Mácta tất bật lo việc phục vụ.”  Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm.  Một kẻ theo Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và kiêu hãnh.  Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: “Em con để con một mình phục vụ mà Thầy không quan tâm sao?”

Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: “Mácta!  Mácta!  Con băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá!  Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.  Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.”  Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn thịnh soạn, một vài món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Maria đã chọn.

Chúng ta thử tìm những bài học nơi đây:

Nó bày tỏ sự va chạm giữa những tính tình khác biệt.

Có người thì tự nhiên hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm tĩnh.  Thật khó cho một người năng nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng.  Ngược lại, người trầm tư mặc tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân.  Không có vấn đề phải trái ở đây.  Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau.  Thiên Chúa cần có những người như Maria, nhưng Ngài cũng cần những người như Mácta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa.  Không ai được độc quyền phục vụ Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục vụ mới là chính đáng.

Trong một cuộc lễ trọng, trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống.  Hoa than thở với nến: Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi chúng em!

Nhưng ở đây còn có một bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai lầm.

Hãy nghĩ đến chỗ Chúa Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra.  Ngài đang trên đường đến Giêrusalem.  Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Chúa Cha.  Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó là một ngày trọng đại cho họ.  Để mừng ngày trọng đại này, Mácta rất muốn thực hiện một điều tốt nhất mà gia đình có thể thực hiện được.  Vì thế nàng chạy ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn.  Ngài chỉ muốn một điều là được yên tĩnh.  Với hình ảnh thập giá ở trước mặt cùng một sự căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám đông dân chúng quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi nỗi căng thẳng.  Đó là điều Maria đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà Mácta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi.  “Chỉ một việc cần” câu ấy có thể có ý “Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật đơn giản.”  Maria hiểu, còn Mácta thì không hiểu được.  Đây là một trong những khó khăn của cuộc đời.  Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người, nhưng tử tế theo cách của chúng ta.  Nếu cách thế của chúng ta không được thừa nhận, chúng ta cảm thấy dễ phật lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.

Nếu chúng ta đang cố gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ đến điều mà người đó đang cần.

Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề.  Ông bạn tới Bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ.  Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch.  Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo viết về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ.  Sau khi hăng hái nói một hồi lâu.  Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết.  Lincoln đã nói, đã trút bỏ những suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt.  Ông bạn già kể lại: “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn.”  Lincoln chỉ cần một người bạn thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.

Chúa Giêsu yêu thương Mácta và Mácta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao khát sự yên tịnh, sự thân mật.  Chúa Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria cũng hiểu biết Chúa nữa. 

 Sưu tầm

CĂN BỆNH NGUY HIỂM

Tháng 10 năm 1990, ông Nhêbôisa Bôtrêvích, nhà tiên tri nổi tiếng gốc Nam Tư, người đã tiên báo bức tường Bá Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất, trong cuộc gặp mặt tại nhà văn hóa Liên Xô, đã buồn rầu thông báo: chẳng bao lâu nữa, trên thế giới sẽ xuất hiện một căn bệnh nguy hiểm được truyền qua những tờ giấy bạc (x. Sáng Tạo số 44, tháng 10 năm 1990).

Nghe lời thông báo ấy, thú thật ban đầu tôi không tin.  Ba láp!  Nhưng khi tổng hợp những sự kiện nước ngoài: Tỷ phú Max Well chết đột ngột trên du thuyền để lại món nợ bất minh hàng triệu đô la; hàng loạt chính khách Nhật Bản rớt đài vì dính líu làm ăn với những công ty đa quốc gia; quan tòa Ý Falcon bị sát hại, tôi nghĩ có thể có một căn bệnh nguy hiểm truyền qua tiền bạc.  Rồi nối kết với một vài sự kiện gần đây trong nước: đường giây sextour Bambi bị đem ra ánh sáng, và băng cướp “quý tử” bị hầu tòa, tôi nghiệm ra thật có một căn bệnh như thế.  Để rồi hôm nay tiếp cận với Phúc Âm, khi Thiên Chúa không chấp nhận cho kẻ tin đặt Ngài đứng chung liên danh với tiền bạc, xin được chia sẻ về dấu vết của căn bệnh ấy.  Phần gọi tên xin nhường cho cộng đoàn.  Chỉ biết rằng một khi mắc phải căn bệnh ấy người ta khinh thường tất cả: phá đổ đạo đức, khai trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và đó là căn bệnh nguy hiểm cho lòng tin tín hữu.  Có ba dấu vết:

1. Dấu vết thứ nhất được nhận ra trong thái độ cần tiền.

Tiền bạc vốn lạnh lùng.  “Lạnh như tiền.”  Tiền chẳng quen ai, nhưng ai cũng quen tiền: trẻ khóc đòi dòng sữa mẹ, nhưng được người lớn dỗ dành dúi vào tay một tờ giấy bạc, lâu ngày thành quen, để sau này mỗi lần khóc lại thích nhận lấy tờ giấy bạc thay cho nỗi sầu nhớ mẹ.  Một người nhà quê chẳng biết chữ nhưng trong sinh hoạt hằng ngày đố ai thấy bác tính toán sai một đồng.

Tiền chẳng có tình cảm, nhưng không thiếu những tình cảm với tiền: được tiền thì vui cười hỉ hả, mất tiền thì rầu rĩ xót xa.  Ngày tết lì xì tiền thay cho phước thọ và ngày cưới, mừng tiền thế cho tình thân.  Dù Tết hay Cưới, người ta đều chúc: “Tiền vô như nước sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin.”

Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền: chưa sinh ra đã cần tiền để mẹ tròn con vuông, và chết rồi vẫn cần tiền để ma chay tốt đời đẹp đạo.  Trẻ cần tiền ăn học, lớn cần tiền để gầy dựng sự nghiệp, và già cần tiền để dưỡng thân.  Đời cần tiền để phát triển, nhưng đạo cũng cần tiền để xây dựng mở mang.

Tiền cần nên tiền quý.  Người làm ra tiền là người giỏi, nghề hái ra tiền là nghề trọng, người có nhiều tiền được nể vì.  Cứ như thế đồng tiền ung dung đi vào tư tưởng lời nói và việc làm của con người.  Tình trạng cần tiền lâu ngày ủ mầm có thể dẫn đến nguy cơ lệch lạc trong cách nhìn con người và sự việc, nhất là lẫn lộn giữa sở hữu và hiện hữu, giữa tài sản và con người.  Người ta tay không có thể bình đẳng, nhưng đồng tiền đặt lên ai thì cán cân nghiêng về người ấy.  Đáng giá trị rốt cuộc là đấu giá cả.  Và nguy hiểm là ở chỗ đó.

Sáng nay quan sát thiếu nhi sinh hoạt, thấy có một đội không chơi, hỏi ra mới biết đội đó không chơi chỉ vì thiếu vắng một em đóng tiền nhiều nhất.

2. Dấu vết thứ hai được nhận ra trong thái độ kiếm tiền.

Đối với nhiều người, kiếm tiền là một trách nhiệm thuộc bậc sống, bởi lẽ có tiền mới trang trải được những nhu cầu cơm ăn áo mặc hằng ngày.  Nhưng vấn đề không phải là kiếm tiền mà là cách kiếm tiền.

Kiếm tiền bằng lao động chân tay trí óc, đó là điều chính đáng, nhưng quá lo lắng đến kiếm tiền để rồi quên đi những trách vụ khác trong đạo làm người và làm con Chúa, thì ở đó căn bệnh đã xuất hiện ở dạng cấp tính, có nguy cơ gây thiệt hại cho chính bản thân và cho những người lân cận.

Kiếm tiền bằng thù lao phù hợp với công sức bỏ ra thì đó là lương thiện.  Nhưng kiếm tiền bằng cách chỉ đuổi theo tiền mà không biết đến giá trị đạo đức nào khác, hoặc tự động chấp nhận “thủ tục đầu tiên”, hay “quà biếu trên mức tình cảm” của một thứ lương đồng nghĩa với sự đút lót hoặc chủ động vi phạm lẽ công bình như làm hàng giả thuốc giả “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi” của một thứ kinh tế mánh mung, thì ở đó căn bệnh đã phát triển ở dạng mãn tính chẳng những gây thiệt hại mà còn chà đạp lên tiếng nói lương tâm khi ăn trên mồ hôi nước mắt kẻ khác.  Lúc đó lương tâm nhẹ hơn lương lậu, lương thiện nhỏ hơn lương tiền, và lương tri phải nhường cho lương bổng lên ngôi.  Thiên Chúa ư?  Ngài đi chỗ khác chơi, để yên cho tôi làm giàu!

Kiếm tiền để sống là đẹp, nhưng thật thảm hại khi sống chỉ để kiếm tiền.  Đồng tiền ở đấy đã xuất hiện là một căn bệnh nguy hiểm.  Thảo nào người ta vẫn bảo “tiền bạc” là đồng tiền đi liền với bạc bẽo.

Ở đây xin nhường lời cho cụ ông trước kia giàu nứt đố đổ vách, giờ gặp cảnh khố rách áo ôm quyền chia sẻ kinh nghiệm: “Khi còn trẻ người ta sẵn sàng phí sức khỏe để kiếm tiền, nhưng khi về già người ta lại sẵn sàng phí tiền để tìm lại sức khỏe.”  Mà nào có được đâu!  Mời suy nghĩ.

3. Dấu vết thứ ba được nhận ra trong thái độ xài tiền.

Cần tiền – kiếm tiền – xài tiền.  Không có gì đáng nói nếu chỉ có thế.  Nhưng một khi xem tiền như một phương tiện vạn năng “có tiền mua tiên cũng được” lâu ngày sẽ trở thành di căn.  Hoặc trong lối sống ghẻ lạnh với những giá trị đạo đức để rồi hóa giá tất cả: phẩm giá, lẽ phải, tình thương, nhân tính…  Lối sống ấy chỉ có câu hỏi “bao nhiêu?”  Ngoài ra chấm hết.  Không lạ gì đồng tiền gây nên tệ hại theo kiểu nói “tiền tệ.”  Hoặc trong niềm tin dẫn tới hậu quả xem thường đạo giáo buôn thần bán thánh và hạ bệ Thiên Chúa, để tôn sùng tiền bạc làm thượng đế của mình như một câu vè truyền miệng đó đây: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật con người, là nụ cười tuổi trẻ, là sức khỏe người già, là cái đà danh vọng, là chiếc lọng che thân, là cán cân công lý.  Hết ý!”

Vẫn biết “đồng tiền đi liền khúc ruột” theo kinh nghiệm của các bậc tiền bối là một lời dạy khôn ngoan rất gần với sự tiết kiệm vốn phải có cho mọi kẻ giữ tiền.  Nhưng khi cẩn trọng quá hoá keo kiệt trong những tiêu pha, đến nỗi không dám bỏ ra một đồng cho nhu cầu vật chất hay tinh thần thì xem ra đồng tiền lúc ấy đã “làm phiền” khúc ruột không ít.  Hoặc khi cẩn trọng quá hóa bịn rịn trong thái độ đối với tiền như “ra đường chắt bóp tiêu pha, về nhà ngây ngất lăn ra đếm tiền” thì chừng như đã để đồng tiền “xích xiềng” khúc ruột mà không ai biết.

Ngược với thái độ cẩn trọng là một sự hoang phí tiêu xài vung vít.  Khi vung vít nhẹ là khi “vung tay quá trán” con nhà lính tính nhà quan làm một xài hai.  Khi vung vít nặng là khi “vung tiền qua cửa sổ,” dấu hiệu của sự vô độ tiêu xài.  Rồi khi để cho đồng tiền len lỏi vào trong tính toán hằng ngày và giấc ngủ hằng đêm theo kiểu lên sàn thị trường chứng khoán ngợp choáng thời giờ, thì lúc ấy khúc ruột đã nuốt trửng đồng tiền, và hậu quả duy nhất chính là đồng tiền “xay nghiền” khúc ruột.

Làm sao tín hữu có thể dung hòa lòng tin với những sinh hoạt vốn liên hệ đến tiền?  Thưa dựa trên Phúc Âm chỉ cần một chữ Tín.  Nếu giàu, hãy tín trung với Thiên Chúa để biết xài tiền phù hợp với bác ái, vì tiền là một đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu.  Nếu nghèo, hãy tín thác nơi Thiên Chúa để từng ngày kiếm tiền mà không vi phạm công bình, vì chỉ để một đồng xu trên mắt thôi cũng đủ bị che chắn hết tầm nhìn hướng thượng.  Và dẫu giàu hoặc nghèo, hãy tín nghĩa để gần tiền mà chẳng hôi hám mùi tiền.  Tiền bạc như dòng nước, nếu không cẩn thận người ta có thể bị cuốn trôi.

Chữ TÍN ấy là thuốc chủng ngừa căn bệnh nguy hiểm mà Bôtrêvích đã tiên báo.

ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống – Trích dẫn từ “Nút vòng xoay”

HUYỀN NHIỆM TÌNH BẠN

Nếu giữa sa mạc hoang vắng và cằn cỗi, một cụm cỏ hay đóa hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho người lữ khách; và nếu giữa sa mạc nóng cháy, một tiếng suối róc rách là cả nguồn hy vọng tràn trề cho người lữ thứ, thì tình bạn đích thực là một hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta trong hành trình cuộc đời.  Một hành trình rất dài và rất xa mà ta không thể đi một mình!  Thế nên, “bạn hữu” vừa là một ý niệm có một vị thế trong trái tim vừa là một huyền nhiệm trong đời sống.  Chắc hẳn nó vượt lên trên những nét điểm xuyết cho bức tranh cuộc đời ta, làm cho cuộc đời ta đầy màu sắc, phong phú và có giá trị.  Do đó, có được người bạn tốt được ví như có cả một kho tàng (Cn 6,14).

Tình bạn có thể bắt đầu ở những hoàn cảnh khác nhau, và người ta kết bạn cũng có nhiều lý do khác nhau.  Triết gia vĩ đại Aristotle nói, đời người thường có ba loại tình bạn [1].  Trước hết, đó là tình bạn vì lợi ích bản thân, ví như tình bạn của những người làm ăn buôn bán hay những tương quan xã giao.  Có thể nói đây là mức độ thấp nhất của tình bạn, theo tôi, cấp độ này chưa được gọi là tình bạn bởi đó chỉ là những tương quan xã hội nhằm mưu cầu ích lợi.  Thứ hai là tình bạn của những người cùng chia sẻ những mối quan tâm hay cùng sở thích.  Loại tình bạn này có vẻ “khá hơn” vì nó không nhằm đến việc thu tích lợi ích cho bản thân, song là cùng chia sẻ niềm vui qua việc cùng tham gia vào những hoạt động nào đó mà họ thích, như: thể thao, âm nhạc, hội họa, và nhiều mối bận tâm chung khác.  Sau cùng là loại tình bạn giữa những người chân thành, họ kết bạn vượt lên trên lợi ích bản thân và sở thích mà vì thiện ích cho người bạn của mình.  Nói cách khác, họ kết bạn vì nhắm đến sự thiện hảo của bạn mình và mong muốn những điều thiện hảo cho người bạn của mình.

Trên thực tế, nhiều lúc tình bạn bắt đầu từ những tương giao xã hội hay cùng sở thích, nhưng nó dần được “nâng cấp” và lớn lên do nó tìm được sự đồng điệu và ước ao cho nhau điều thiện hảo; tuy nhiên, cũng có những “tình bạn” chỉ dừng lại ở mức độ như lúc ban đầu mà thôi.  Thật ra, người ta có thể có nhiều bạn, như bạn làm ăn, bạn đồng môn, đồng nghiệp, nhưng bạn thân thì chỉ có hạn bởi vì tình bạn chân thành luôn đặt trên nền tảng của tình yêu vô vị lợi và thiêng liêng.  Tình yêu ấy ước mong sự thiện hảo cho người bạn của mình.  Tình yêu ấy dẫn đến thái độ can đảm sửa lỗi cho nhau (x. Cn 27,5) để giúp nhau cùng thăng tiến, ngõ hầu làm cho cuộc đời của ta trở nên sung mãn và tự do hơn, hạnh phúc hơn.  Bên cạnh yêu thương, yếu tố tôn trọng hẳn là quan yếu trong mối tương quan bạn hữu.  Tôn trọng là tôi không bắt buộc bạn tôi phải giống tôi.  Tôi không bắt buộc bạn tôi phải “tốt như tôi.”  Tôi hiểu và chấp nhận bạn như bạn là.  Và bạn cũng đón nhận tôi với con người thực của chính tôi, với tất cả những yếu đuối và năng lực của tôi.  Chúng ta là bạn của nhau khi chúng ta hiểu và đón nhận sự độc đáo của nhau.  Tôn trọng lẫn nhau là chấp nhận và vượt qua những khác biệt để bổ túc cho nhau, nhờ đó tạo ra sự phong phú.

Viết tới đây, tôi cảm thấy mình được đánh động sâu xa khi nghĩ về tới tình bạn trong Chúa của Những Bạn Đường Đầu Tiên của Dòng Tên, cách đặc biệt là tình bạn của Thánh I-nhã, Thánh Phêrô Farve và Thánh Phanxicô Xaviê.  Trong thời gian các ngài ở đại học Paris, các ngài đã giúp đỡ nhau tiến lên trên con đường học tập và đi sâu vào mối tương quan thiết thân với Thiên Chúa.  Các ngài đã luôn mưu cầu ích lợi thiêng liêng cho nhau và chia sẻ những kinh nghiệm thiêng liêng cho nhau.  Sau này, tình bạn sâu xa ấy được Thánh Phanxicô diễn tả ra bên ngoài bằng cách cắt tên và chữ ký của các bạn, bỏ vào một túi nhỏ và luôn đeo trước ngực – để luôn nhớ tới những người bạn của mình – khi ngài được sai đi sứ vụ ở miền Viễn Đông xa xôi.

Nhưng nếu có những tình bạn chân thành, đáng ngưỡng mộ thì cũng không thiếu những kẻ lợi dụng bạn bè để mưu cầu ích lợi cá nhân.  Gặp phải những người bạn như thế quả là bất hạnh và đau khổ.  Thánh vịnh gia cũng phải thốt lên trong hoàn cảnh bi đát ấy: “Cả người bạn thân con hằng tin tưởng, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con” (Tv 40,10).  Những kinh nghiệm đau thương này cho chúng ta biết phải sáng suốt lựa chọn bạn bè, đôi khi cũng phải thật dè dặt.  Đây cũng là một khía cạnh của huyền nhiệm tình bạn.  Hóa ra, tình bạn cần phải được “thử nghiệm” trong những gian truân và thời gian hẳn là “phép thử” khả dụng nhất.  Chính thời gian và thử thách làm cho tình bạn càng ngày càng trở nên “chất” hơn, nghĩa là kho tàng ấy ngày càng lớn mạnh và vững chắc hơn.  Quả thế, với thời gian, tình bạn chân thành được lớn lên trong khi thấy những lỗi lầm, yếu đuối và qua việc chia sẻ những ước mơ.  Tình bạn được củng cố khi những điều tận thâm tâm được thốt lên và những đau đớn mất mát đau thương được đồng cảm.  Tình bạn sẽ sống mãi dù có những hiểu lầm và nó được lớn mạnh nhờ vượt qua những nỗi sợ hãi.  Tình bạn đích thực vượt lên trên những quà tặng vật chất; và đôi lúc nó thực sự lớn lên nhờ những nỗ lực, hy sinh và cả sự thương tổn.  Điển hình như tình bạn của Chúa Giêsu và Thánh Phêrô.  Vì thế, một tình bạn thực sự vững bền nhờ những thử thách và gian khổ, bởi trong gian nan thử thách ta mới biết đâu là người bạn đích thực, như sách Huấn Ca nói: “Có người là bạn khi đồng hành với con, nhưng ngày con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn nữa.  Khi con gặp may, thì nó chẳng khác nào chính con, nhưng lúc con sa cơ, nó liền chống lại và lánh mặt con” (Hc 6,10-12).

Tình bạn đích thực không thể mua bán hay có được nhờ những mưu mô thấp hèn.  Tình bạn chỉ có thể là quà tặng của Thiên Chúa ban, để nâng đỡ con người trong hành trình cuộc đời, để cuộc đời họ sung mãn và hạnh phúc hơn.  Nhiều khi chính ta cũng không hiểu vì sao ta là bạn với người đó, cũng không nhớ lúc nào tình bạn nảy sinh.  Tình bạn chân thành vẫn là một huyền nhiệm nhưng ta có thể hiểu rằng, đó là ân sủng – quà tặng của Thiên Chúa.

Xin mượn lời của Anselm Grün trong “Một chút suy gẫm về huyền nhiệm của tình bạn” để kết thúc. Đó cũng là điều tôi mong ước gởi đến bạn:

Tôi mong bạn có một bạn trai,
với anh, bạn có thể chia sẻ những suy nghĩ,
các tình cảm và các kinh nghiệm của mình.
Tôi mong bạn có một người bạn gái,
gần bên cô, bạn có cảm tưởng như bạn đang ở nhà mình,
gần bên cô, bạn cảm thấy được con người đích thực của bạn,
gần bên cô, lòng bạn dâng lên lòng biết ơn đã có được cho đời mình,
và… cho tình bằng hữu của mình.

Trình Phan Sinh, SJ
[1] X. Aristotle, Nicomachean Ethics, (Indianapolis/Cambridge: Hackett Publishing Company, Inc., 2014), 136-174.

CHỈ VÀI BƯỚC THÔI

Đức Cha Bùi Tuần viết: “Tôi thấy từ nhà ông phú hộ đến chỗ ông ăn mày Ladarô chỉ khoảng vài bước, nghĩa là cách nhau chỉ có cái cổng.  Khi sống, ông phú hộ đã không chịu bước vài bước đó, để cảm thương và cứu khổ cho người hành khất Ladarô luôn nằm đó (x. Lc 16,19-26).  Hậu quả là khi chết rồi, người phú hộ đó đã phải ném vào vực sâu hoả ngục, xa cách thiên đàng cao sang vời vời.  Vài bước vô tâm đã đưa tới cực hình vô tận…  Dụ ngôn người Samari tốt lành (x. Lc10,30-32) cho thấy: cũng chỉ vài bước thôi, thầy Tư tế và thầy Lêvi đã tránh sang bên kia đường, để khỏi cứu nạn nhân.  Lý do họ vịn vào để tránh cứu nạn nhân, có thể là vì quá bận với những công tác tôn giáo ở nhà, hoặc vì không rõ lý lịch nạn nhân.  Và họ an tâm.  Nhưng Chúa Giêsu coi đó là một an tâm xấu, có thể là một tội đáng phải phạt.”

Lối hành xử của ông Phú hộ “mackeno” hay thầy Tư tế và Lêvi “tránh sang một bên”, biểu tượng cho thái độ sống thờ ơ, dửng dưng, mặc kệ, đó là căn bệnh thời đại: vô cảm.

Có ba cấp độ vô cảm khác nhau trong đời sống hàng ngày.

Thứ nhất là vô cảm trước người khác, hiểu theo nghĩa là một hay nhiều người cụ thể, ở ngay trước mặt, như người thân trong gia đình, hàng xóm hay bất cứ ai đó gặp tai nạn ngoài đường.

Thứ hai là vô cảm trước đất nước hiểu theo nghĩa một cộng đồng mà mỗi người là một thành viên.

Thứ ba là vô cảm trước đồng loại, bao gồm cả những người ở xa, xa xôi và xa lạ, thuộc một đất nước khác hay một lục địa khác.

Tạm thời, xin gác loại vô cảm thứ ba lại. Chỉ tập trung vào hai loại vô cảm thứ nhất và thứ hai.  Lý do: một, đó là những vấn đề bức xúc nhất hiện nay; hai, sự vô cảm thứ ba chỉ khắc phục được nếu người ta đã vượt qua được hai loại vô cảm đầu tiên: Không hy vọng có người biết xúc động trước nỗi đau khổ của ai đó, ở châu Phi chẳng hạn, nếu người ta cứ dửng dưng trước những đau khổ ngay trước mặt và trước mắt mình.  Nếu có, đó chỉ là chút cảm xúc mang mùi lãng mạn chủ nghĩa; nó thoáng qua, rồi tắt, chứ chắc chắn sẽ không dẫn đến bất cứ một hành động cụ thể nào cả.

Vô cảm trước đất nước có nhiều biểu hiện, nhưng trung tâm vẫn là sự dửng dưng, hay nói theo chữ quen thuộc ở Việt Nam lâu nay, là mặc kệ.  Đất nước nghèo đói ư?  Mặc kệ!  Đất nước càng ngày càng lạc hậu ư?  Mặc kệ!  Sự bất bình đẳng trong nước càng ngày càng trầm trọng; khoảng cách giữa giàu nghèo càng ngày càng lớn; người giàu càng ngày càng giàu và người nghèo càng ngày càng nghèo ư?  Mặc kệ!  Nạn tham nhũng càng ngày càng hoành hành, càng phá nát nền kinh tế quốc gia ư?  Mặc kệ! Xã hội càng ngày càng băng hoại; văn hóa càng ngày càng suy đồi; giáo dục càng ngày càng xuống cấp ư?  Mặc kệ!  Trung Quốc xâm lấn Việt Nam, làm lũng đoạn kinh tế Việt Nam, bắt bớ và giết hại ngư dân Việt Nam ư?  Mặc kệ!  Dửng dưng hay mặc kệ trước những vấn đề liên quan đến danh dự quốc gia cũng là một sự vô cảm.

Nhưng tại sao người ta lại trở thành vô cảm?  Câu trả lời tương đối dễ: Một, người ta bị tước trách nhiệm đối với đất nước; và hai, bất cứ người nào còn có trách nhiệm và muốn biểu lộ trách nhiệm ấy thì bị chụp mũ, sỉ nhục, bắt bớ, giam cầm.  Trách nhiệm đối với đất nước trở thành một cái tội.  Dân chúng bị xem là những kẻ ngoại cuộc đối các vấn đề quốc sự.  Người nào không chấp nhận điều đó thì bị trừng phạt nặng nề.  Kẻ thì bị đạp vào mặt.  Kẻ thì bị bắt bớ.  Kẻ thì bị đe dọa.  Kẻ thì bị bêu xấu trên các phương tiện truyền thông đại chúng.  Trong hoàn cảnh như thế, người ta không vô cảm đối với đất nước mới là chuyện lạ. (x. Blog của tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc).

Một trong những phát minh vĩ đại của khoa học là sáng chế ra rôbốt.  Nhưng khoa học không thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến rôbốt biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận.  Căn bệnh vô cảm biến con người thành rôbốt, vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh.  Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức.  Thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục.  Gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện.  Đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối.  Thời nay, ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém… nhưng lại ít thấy ai ra can ngăn, cứu giúp.  Không dại gì dây dưa vào, mackeno, là biểu hiện của bệnh vô cảm.

Lối sống dửng dưng, thờ ơ, mặc kệ đang hình thành một nền “văn hóa vô cảm” trong xã hội chúng ta.  Thái độ này đang được thể hiện tràn lan trong cuộc sống.  Hình ảnh những người trẻ nhường chỗ trên xe buýt cho người lớn tuổi hoặc phụ nữ có thai như là chuyện cổ tích; chuyện dửng dưng chứng kiến người thanh niên lừa một người mù đi bán vé số để cướp số tiền mưu sinh nhỏ nhoi được coi như chuyện nhỏ không đáng phải can thiệp, hay như chuyện một người phụ nữ bị đánh đập, bị lột hết quần áo và bị trói nằm trước mặt người qua đường mà chẳng ai quan tâm tới…  Môi trường sống hôm nay tràn lan những câu chuyện vô cảm như thế xảy ra hằng ngày.

Chỉ vài bước thôi ông nhà giàu có thể đến với Ladarô nghèo khổ.  Chỉ vài bước thôi thầy Tư tế và Lêvi sẽ chạm đến người bị nạn trên đường.  Chỉ vài bước thôi, sao mà khó đến vậy?  Âu cũng chỉ vì họ mắc bệnh vô cảm.

Sự vô cảm vì con người ích kỷ, tham lam.  Vì thế, suy cho cùng, bệnh vô cảm là do thiếu vắng tình yêu, xa cách với tình yêu, không quen nói về tình yêu, không quen thể hiện yêu thương, không bao giờ nuôi dưỡng tình yêu trong cuộc sống.

Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay với hai hình ảnh trái ngược.  Tư tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu ước.  Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu.  Tư tế và Lêvi là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng nhất trong xã hội.  Họ chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa nhưng lại dửng dưng trước đau khổ của anh em đồng loại.  Một người Samari (thường bị người Do thái khinh bỉ, khai trừ, coi là ngoại đạo, tránh giao tiếp) tình cờ đi ngang qua, thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn nên động lòng thương.  Chuyện tình cờ xảy ra trên đường: đức ái không luôn luôn đến từ nơi người ta chờ đợi.  Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân là người Do thái hay không, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp người bất hạnh này.  Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.”  Chính hành động làm cho anh em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ, dù đó là thầy Tư tế hay thầy Lêvi đi nữa.  Đối với nghĩa vụ đức ái, không có bất kỳ hạn định nào.  Bác ái là miệng nói tay làm, là giúp đỡ người khác thật sự theo khả năng của mình.

Tin Mừng hôm nay là câu chuyện đẹp về tình yêu thương.  Người Samari nhân hậu đã sống đức yêu thương cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm.”  Anh đã cho đi mà không tính toán, không chờ đợi một lời cảm ơn nào, và có lẽ anh vừa đi vừa hát bài ca hạnh phúc.  Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống và thực thi yêu thương: “Hãy đi và làm như vậy”.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu chỉ với vài bước thôi, chúng con đã có thể cứu được một người cả xác cả hồn, thì xin cho chúng con có nhiều bước chân đi để đến với mọi người.  Chúng con biết, cuộc sống đạo sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc, Kitô hữu mà không thực hành bác ái bằng việc làm trong đời sống thì cũng chỉ là hữu danh vô thực.  Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ, chai đá, dửng dưng trước những bất hạnh khổ đau của anh em.  Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con.  Amen!

Lm Giuse Nguyễn Hữu An