BẢN NGỢI CA GIÁO HỘI

Carlo Carretto là tu sĩ người Ý, ngài qua đời năm 1988.  Ngài đã sống khổ tu trong Sa mạc Sahara nhiều năm, dịch Kinh thánh qua tiếng Tuareg, và từ sự cô tịch trong sa mạc, ngài đã viết nên những quyển linh đạo tuyệt vời.  Những tác phẩm và đức tin của ngài thật đặc biệt khi có thể kết hợp lòng sốt sắng trẻ thơ với tinh thần bài trừ ảnh tượng thánh sắc bén (khi cần thiết).  Ngài yêu mến giáo hội sâu sắc, nhưng không mù quáng trước những lỗi lầm và thất bại của Giáo hội, và ngài không ngại chỉ ra những khiếm khuyết đó.

Về sau, khi vấn đề sức khỏe buộc ngài phải rời sa mạc để về nghỉ hưu tại một nhà dòng ở quê hương Ý quốc.  Khi ở đó, ngài đã đọc một quyển sách của một nhà vô thần đã công kích lời của Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi, “Cứ tìm rồi sẽ thấy”, một câu dĩ nhiên có nghĩa là nếu tìm kiếm Thiên Chúa với tâm hồn chân thành thì sẽ tìm thấy Ngài.  Nhà vô thần này đã đặt tên quyển sách là “Tôi tìm và chẳng thấy,” lập luận rằng theo kinh nghiệm của ông, một tâm hồn chân thành có thể tìm kiếm Thiên Chúa mà chẳng được gì.

Carretto đã viết một quyển sách để đáp lại luận điệu này, “Tôi tìm và đã thấy.”  Với ngài, lời của Chúa Giêsu là thật.  Trong cuộc tìm kiếm của mình, bất chấp có nhiều chuyện mình gặp có thể gợi lên sự vắng mặt của Thiên Chúa, ngài vẫn tìm thấy Thiên Chúa.  Nhưng ngài thừa nhận có những khó khăn, và một trong những khó khăn đó chính là Giáo hội.  Giáo hội có thể, và đôi khi đã, qua tội lỗi của mình, khiến nhiều người khó tin vào Thiên Chúa.  Carretto thành thật thừa nhận theo cách hạn chế điều này, nhưng lập luận rằng đấy không phải là toàn cục.

Do đó trong quyển sách của ngài vừa có tình yêu sâu đậm đối với đức tin và Giáo hội của mình, vừa không ngoảnh mặt làm ngơ trước những lỗi phạm của các Kitô hữu và Giáo hội.  Có lúc quyển sách của ngài như một Bản ngợi ca Giáo hội.  Tôi đọc thấy thế trong những dòng này:

Tôi phải phê phán người, Giáo hội của tôi quá chừng nhưng tôi yêu người quá chừng!

Người đã làm tôi khổ nhiều nhưng tôi nợ người nhiều.

Tôi muốn thấy người bị phá hủy nhưng tôi cần người hiện diện.

Người đã gây ra nhiều tai tiếng nhưng chỉ mình người giúp tôi hiểu ra sự thánh thiện.

Trong đời này tôi chưa bao giờ thấy điều gì ngu dân, thỏa hiệp, sai phạm đến thế, và cũng trong đời này tôi chưa bao giờ chạm đến điều gì tinh tuyền, quảng đại, và đẹp đẽ đến thế.

Nhiều lần tôi thấy như mình đã đóng sầm cánh cửa lòng trước mặt người, nhưng biết bao lần tôi cầu nguyện xin cho mình chết trong cánh tay người!

Không, tôi không thể thoát khỏi người, vì tôi kết hợp với người, dù không hoàn toàn như người.

Mà tôi biết đi đâu?  Đi xây một giáo hội khác?

Nhưng tôi không thể xây một Giáo hội khác không có những khuyết điểm như thế, vì chúng là những khiếm khuyết tôi mang trong mình.

Và nếu tôi xây Giáo hội khác, thì đó là Giáo hội của tôi, chứ chẳng phải của Chúa Kitô.

Không, tôi đủ tuổi để biết mình chẳng hơn gì người khác.

Tôi sẽ không rời bỏ Giáo hội được đặt nền móng trên đá này, bởi nếu thế tôi sẽ dựng một Giáo hội đặt nền móng trên thứ đá dễ vỡ hơn, là bản thân tôi.

Mà đá có là gì đâu?

Cái hệ trọng là lời hứa của Chúa Kitô, cái hệ trọng là chất kết dính các tảng đá nên một, là Chúa Thánh Thần.  Chỉ mình Thánh Thần có thể xây dựng Giáo hội với những hòn đá xấu xí bất toàn như chúng ta đây.

Đây là sự biểu lộ của một đức tin trưởng thành, một đức tin không quá lãng mạn và lý tưởng hóa cần được che chắn khỏi những thứ tăm tối trong đời, đây là một đức tin đủ thật để không yếm thế, bịt mắt chẳng nhận ra sự thiện rõ ràng cũng đang chảy trong Giáo hội.  Thật vậy, Giáo hội vừa cực kỳ thỏa hiệp vừa đầy ân sủng đến tuyệt vời.  Những đôi mắt ngay thẳng có thể thấy ra cả hai.  Một tâm hồn chín chắn có thể chấp nhận cả hai.  Trẻ con và tân tòng cần được che chắn đừng bị dấn sâu vào mặt tăm tối của mọi chuyện, những người trưởng thành hay chướng tai gai mắt cần phải mở to mắt ra trước sự thiện rõ ràng đang hiện diện.

Nhiều người đã bỏ Giáo hội vì nó làm cho họ bị chướng tai gai mắt với những tội lỗi đã thành thối, những điểm mù quáng, sự thủ thế, bản chất tự quy, và cả sự kiêu ngạo.  Những vụ xâm hại tình dục của các linh mục mới được phơi bày, và việc che đậy do tay giới chức trong Giáo hội, đã khiến rất nhiều người băn khoăn không biết liệu có bao giờ họ còn có thể tin tưởng vào cơ cấu, hàng giáo phẩm của Giáo hội nữa không.  Với nhiều người, vụ tai tiếng này có vẻ quá chấn động không thể chịu nổi.

Tôi tin bản ngợi ca của Carlo Carretto, có thể giúp chúng ta, dù chúng ta là người ngoan đạo hay đang khó chịu.  Với người ngoan đạo, nó sẽ cho họ thấy người ta có thể chấp nhận Giáo hội bất chấp tội lỗi của nó và thấy ra rằng việc chối tội lỗi đó không phải là hành động của tình yêu và trung thành.  Với những người chướng tai gai mắt, nó có thể là một thách thức muốn chúng ta đừng vì chuyện nhỏ bỏ chuyện lớn, đừng vì thế mà không thấy ra trong Giáo hội yếu đuối và tội lỗi, khốn khổ và tai tiếng, vẫn không bao giờ tắt ơn ban sự sống dư tràn của Thiên Chúa.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

CÙNG Ở LẠI TRONG THÀNH

Khi ngôn sứ Êlia sắp được về trời, thì môn đệ Êlisa không muốn xa thầy.  Ông Êlia nói với ông Êlisa: “Xin anh ở lại đây, vì Đức Chúa sai thầy đến Bết Ên.”  Nhưng ông Êlisa thưa: “Có Đức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy.”  Rồi các ông đi xuống Bết Ên.  Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Êlisa và nói: “Ông có biết không, hôm nay Đức Chúa sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?”  Ông nói: “Tôi cũng biết chứ, im đi!”

Hành trình của hai ông Êlia và Êlisa tiếp tục đến Giêricô, rồi Giôđan, sự kiện lập lại y như ở Bêt Ên.  Ông Êlia bảo ông Êlisa ở lại, nhưng môn đệ Êlisa vẫn không chấp nhận, kể cả các anh em ngôn sứ sở tại cũng khuyên nhủ ông Êlisa hãy thuận theo.

Sau khi dẫn ông Êlisa qua sông Giođan, ông Êlia nói với ông Êlisa: “Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh, trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?”  Ông Êlisa nói: “Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” Ông Êlia đáp: “Anh xin một điều khó đấy!  Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được.”  Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai ông ra.  Và ông Êlia lên trời trong cơn gió lốc.  Thấy thế, ông Êlisa kêu lên: “Cha ơi!  Cha ơi!  Hỡi chiến xa và chiến mã của Israel!”  Rồi ông không thấy thầy mình nữa.  Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh.  Ông lượm lấy áo choàng của ông Êlia rơi xuống.  Ông trở về và đứng bên bờ sông Giôđan. (2V 2, 1-13)

Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại Chúa Giêsu thăng thiên.  “Chúa Giêsu được cất lên trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1, 9).

Còn trong trình thuật Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ một cách đơn sơ.  Không cầu kỳ và bi thảm chia ly như ngôn sứ Êlia với đệ tử Êlisa.  Tuy nhiên, cả hai cuộc về trời đều có nhiều điểm tương đồng và dị biệt đầy ý nghĩa.

Sau đó, Người dẫn các ông đến gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông.  Và đang khi chúc lành, thì Người rời các ông và được đem lên trời.  Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa (Lc 24, 50-53).

Chứng nhân & Đi gieo

Không âu sầu, đau đớn như ngôn sứ Êlisa tiễn biệt tiên tri Êlia, các tông đồ đã canh tân, lột xác thật sự, không còn u buồn, sầu não trước cảnh biệt ly, mà thật sự bình an, khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu thăng thiên.

Không hoành tráng cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa đón ngôn sứ Êlia, mà chỉ có một đám mây mỏng manh, tựa như làn hương thơm quyện lấy Chúa Giêsu, cất Người lên trước mặt các tông đồ.

Ngày xưa, khi ra đi, Ngôn sứ Êlia thả lại tấm áo choàng, mà trước kia Êlia đã ném lên người Êlisa, để trao ơn gọi và sứ vụ, (1V 19, 19), thì nay Êlia muốn trao lại Êlisa sức mạnh và quyền năng của ngôn sứ.

Bây giờ, Chúa Giêsu chính thức ngỏ lời trao sứ vụ cụ thể cho các tông đồ, cũng như tín hữu Kitô hai nhiệm vụ chính yếu: Chứng nhân và Đi gieo Tin Mừng.  Để trở thành chứng nhân đích thực phải dứt khoát canh tân, lột xác, thay đổi, chuyển hóa, để có thể sống đúng theo Lời Chúa, phản ảnh chính xác chân dung Người, hầu không làm méo mó, sai lệch hình ảnh của Người.

Trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, Thánh Phaolô nhắc nhủ canh tân bản thân: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4, 22-24).

Khi Kitô hữu đổi mới, trở về nguyên bản được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, sống công chính và thánh thiện, thì mới xứng đáng trở nên chứng nhân Đức Kitô, mới có thể nhân danh Người, đi rao giảng cho muôn dân.  Nếu bản thân không canh tân, đổi mới, thì chẳng có thể thuyết phục được ai để kêu gọi sám hối, hầu được ơn tha tội.  Như thế canh tân là điều kiện tiên quyết và thiết yếu của sứ vụ Đi gieo Tin Mừng.

Do vậy, tín hữu Kitô không chỉ canh tân bản thân để được hưởng ơn Cứu Độ, mà còn có bổn phận và nghĩa vụ với tha nhân, quen biết, xa lạ, hay thù địch, cùng đưa họ về với Lòng Thương Xót của Chúa.  Đó chính là mệnh lệnh của Thiên Chúa Tình Yêu.

Bình an & Vui mừng

Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các tông đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái.  Các đấng không còn mãi đứng nhìn trời, mà nhìn vào, tìm đến với đàn chiên đang bơ vơ lạc lõng, thiếu người chăn dắt.

Nhờ vào Thần Khí Chúa Thánh Thần, các tông đồ bình tâm, lòng đầy hoan hỷ, chuyên cần giảng dạy dân chúng ngay trong thành Giêrusalem, không hề sợ sệt đối đầu với hiểm nguy, với những kẻ mới cuồng nộ kết án và đóng đinh Chúa Giêsu.

Khi các tông đồ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa, đã kết hợp nhuần nhuyễn việc cầu nguyện với hoạt động rao giảng, như trước đây Chúa Giêsu luôn nhắc nhở và làm gương sáng.  Các ngài đã tuân thủ theo Thánh Ý nhiệm mầu, nên niềm vui và sự bình an tràn đầy trong lòng các ngài.

Ngày hôm nay, tôi và những người Công Giáo Ngày Chúa Nhật, như nhận xét xót xa của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, làm sao vinh danh Thiên Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, khi không dám can đảm đứng lên làm chứng nhân cho Chúa Giêsu, ngay trong môi trường xã hội nhiễu nhương, phức tạp, phản Kitô, không dám canh tân từ tâm tư, lời nói và hành động như các thánh tông đồ nhiệt thành theo Chúa.

Làm sao tôi có được ơn bình an và niềm vui trọn vẹn, khi không đồng hành với Chúa Giêsu, không tuân giữ Lời Chúa, không nghe theo những di ngôn cuối cùng của Người?

Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa khỏi những bụi bặm bao phủ, che đậy nhơ bẩn.  Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá, để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần. (Đường Hy Vọng, số 607)

Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến.  Đó là cách con phục vụ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô.  (Đường Hy Vọng, số 611)

Lạy Chúa Giêsu, xin nhắc nhủ con luôn đâu là quê thật, để con canh tân, thánh hóa cuộc sống, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa, và đem Tin Mừng đến cho mọi người.

Lạy Mẹ Maria đầy nhơn đức, xin giúp con sống theo Thánh Ý mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh khó khăn, để con được bình an và hạnh phúc. Amen.

Alphonse Marie Trần Bình An

NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHÚA CHO SỐNG LẠI

Chúa Giêsu là người duy nhất sống lại từ cõi chết bằng chính quyền năng của Ngài.  Kinh Thánh cho chúng ta biết cũng có một số người được Thiên Chúa cho sống lại một cách mầu nhiệm.

Giáo lý Công giáo có cách giải thích ngắn gọn về việc sống lại từ cõi chết và mối quan hệ với sự sống lại của Chúa Giêsu.

Sự sống lại của Đức Kitô không là trở lại cuộc sống trần gian như những người được Chúa cho sống lại.  Các sự kiện này kỳ diệu, nhưng những người được sống lại do quyền năng Thiên Chúa thì họ trở lại với cuộc sống đời thường, rồi họ sẽ chết lại.  Sự sống lại của Đức Kitô hoàn toàn khác.  Trong thân xác sống lại, Ngài chuyển từ tình trạng chết tới một cuộc sống khác vượt ngoài thời gian và không gian.  Khi Chúa Giêsu sống lại, thân xác Ngài tràn đầy quyền năng Chúa Thánh Thần: Ngài chia sẻ sự sống Thiên Chúa trong tình trạng vinh quang, thế nên Thánh Phaolô có thể nói rằng Đức Kitô là “người trời” (GLCG 646).

Tuy nhiên, những người được sống lại báo trước rằng sự sống lại cuối cùng của mọi người vào lúc tận thế làm cho chúng ta hy vọng rằng sự chết sẽ không còn và nước mắt của chúng ta sẽ được lau sạch (x. Kh 7:17 và 21:4).  Đây là vài trường hợp về việc sống lại kỳ diệu được Kinh Thánh cho biết.

1. CON TRAI CỦA BÀ GÓA Ở XA-RÉP-TA

Ba lần ông Êlia nằm lên trên đứa trẻ và kêu cầu: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!”  Đức Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống (1 V 17:21-22).

2. CON TRAI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ SU-NÊM

Khi ông Êlisa tới nhà thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông.  Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa.  Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó.  Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng lên.  Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra (2 V 4:32-35).

3. NGƯỜI ĐÀN ÔNG TẠI MỘ ÔNG ÊLISA

Ông Êlisa qua đời và người ta đã chôn cất ông.  Hàng năm, các toán quân Mô-áp xâm nhập xứ sở.  Vậy, có lần người ta đang đem một người chết đi chôn, thì thấy một toán quân của bọn đó, họ liền vất người chết vào mộ ông Êlisa, rồi bỏ đi.  Người chết vừa đụng phải hài cốt của ông Êlisa thì sống lại và đứng thẳng dậy (2 V 13:20–21).

4. CON TRAI CỦA BÀ GÓA Ở NA-IN

Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài.  Các người khiêng dừng lại.  Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!”  Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.  Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ (Lc 7:13-15).

5. CON GÁI CỦA ÔNG GIAI-RÔ

Mọi người đều đấm ngực khóc thương nó.  Đức Giêsu nói: “Đừng khóc!  Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”  Họ chế nhạo Người, vì biết nó đã chết.  Nhưng Người cầm lấy tay nó, lên tiếng gọi: “Này bé, trỗi dậy đi!”  Hồn đứa bé trở lại, và nó đứng dậy ngay.  Đức Giêsu bảo người ta cho nó ăn (Lc 8:52-55).

6. LA-DA-RÔ

Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”  Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn.  Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (Ga 11:43-44).

Philip Kosloski
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ aleteia.org)

NHỮNG MỐI QUAN HỆ CHƯA TRỌN

Một người bạn của tôi, nhà tâm lý trị liệu đã chia sẻ câu chuyện sau: Một phụ nữ trong tâm trạng khá sầu thảm đến gặp ông.  Chồng của bà vừa chết vì đau tim.  Ông chết đột ngột và vào thời điểm không đúng lúc nhất.  Họ đã lập gia đình ba mươi năm và suốt thời gian này, mối quan hệ của họ chưa từng bị khủng hoảng nặng nề.  Thế mà ngày chồng bà chết, họ đã cãi nhau về một vấn đề rất quan trọng và đã leo thang đến mức nói lời ác ý cay độc với nhau.  Kích động và giận dữ, chồng của bà lao ra khỏi phòng, nói là ông sẽ đi mua sắm, rồi đột quỵ trên đường ra xe.  Chúng ta dễ hiểu vì sao bà bị suy sụp do cái chết đột ngột của người bạn đời, thêm nữa là các lời cuối cùng họ nói với nhau.  Bà than thở: “Suốt bao năm qua, chúng tôi yêu thương nhau, thế mà cãi vã chẳng vì lý do gì, rồi đó lại là những lời cuối cùng chúng tôi nói với nhau!”

Nhà tâm lý học mở đầu với lời nói phần nào khôi hài có chủ đích.  Ông nói: “Ông ấy thật tệ khi làm thế với bà!  Khi chết kiểu đó!”  Ông không lên kế hoạch cho cái chết của mình, nhưng rõ ràng, thời điểm chết của ông quá bất công cho vợ, làm cho bà phải mang mặc cảm tội lỗi suốt đời, chẳng có cách nào để xóa bỏ.

Tuy nhiên, sau lời mở đầu đó, nhà tâm lý học hỏi bà: “Nếu bà được gặp chồng bà trong năm phút, bà sẽ nói gì với ông ấy?”  Không chần chừ, bà trả lời ngay: “Tôi sẽ bảo tôi yêu anh biết bao, anh đã tốt với tôi bao nhiêu năm trời, và chút thời gian giận dữ xét cho cùng chỉ là khoảnh khắc quá vô lý chẳng là gì so với tình yêu của chúng tôi.”

Khi đó nhà tâm lý học nói: “Bà là người có đức tin, bà tin vào sự thông công của các thánh, chồng bà đang sống và hiện diện với bà lúc này, thế tại sao bà không nói tất cả những lời này với ông ấy ngay đi.  Chưa quá muộn để giải bày hết những tâm tình đó với ông ấy đâu!”

Ông ấy đúng.  Chẳng bao giờ là quá muộn!  Chẳng bao giờ là quá muộn để nói với những người thân đã qua đời về cảm giác thực sự của mình dành cho họ.  Chẳng bao giờ là quá muộn để xin lỗi những gì chúng ta đã làm tổn thương họ.  Chẳng bao giờ là quá muộn để xin họ tha thứ cho những lơ là của chúng ta trong mối quan hệ, và chẳng bao giờ là quá muộn để nói lên những lời cảm kích, trân trọng, và tri ân mà đáng ra chúng ta phải nói khi họ còn sống.  Là tín hữu Kitô, chúng ta được an ủi khi biết rằng chết chưa phải là hết, biết rằng chẳng bao giờ là quá muộn.

Và chúng ta cần sự an ủi đó vô cùng… cần cơ hội thứ nhì.  Dù là ai, chúng ta luôn luôn bất đạt trong các mối quan hệ của mình.  Chúng ta không thể lúc nào cũng thể hiện được những gì đáng phải thể hiện với người mình yêu thương, đôi khi chúng ta nói lên những câu giận dữ và chua cay, chúng ta phản bội sự tin tưởng bằng đủ kiểu khác nhau, và hầu như chúng ta thiếu sự trưởng thành và tự tin để thể hiện sự xác nhận mà chúng ta phải dành cho người mình yêu thương.  Không ai trong chúng ta tốt cho đủ.  Khi Karl Rahner nói rằng trong chúng ta, không ai từng trải nghiệm “hòa âm trọn vẹn” trong đời này, là cha không chỉ nói đến việc không ai trong chúng ta đạt được trọn ước mơ của mình, mà còn nói đến việc trong mọi mối quan hệ quan trọng nhất của mình, chẳng ai trong chúng ta tốt cho đủ.

Xét cho cùng, tất cả chúng ta yêu thương người mình thương theo các cách chẳng khác gì người phụ nữ mất chồng trong câu chuyện trên, với những chuyện còn dang dở, với những thời điểm không hợp.  Luôn có những điều đáng phải nói rồi mà chưa nói, và luôn có những điều đáng lý không được nói nhưng đã nói.

Nhưng chính vì thế mới cần đức tin Kitô giáo của chúng ta.  Chúng ta không phải là những người thiếu thốn.  Và thời điểm Chúa Giêsu chết, rõ ràng các môn đệ đã mất hết tất cả.  Thời điểm xảy ra chuyện đó thật quá tệ.  Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là một chuyện không hay trong tâm thức nhiều người trong một thời gian dài.  Nhưng, lúc này, là Kitô hữu, chúng ta không tin rằng trong đời luôn có cái kết có hậu, cũng không tin rằng chúng ta luôn mãi bất đạt trong đời.  Đúng hơn, chúng ta tin rằng sự viên mãn trong đời và hạnh phúc sẽ đến với chúng ta nhờ chuộc lại những gì đã sai lầm, ít nhất là với những gì đã sai lầm vì sự bất đạt và yếu đuối của chúng ta.

G.K. Chesterton đã nói rằng Kitô giáo đặc biệt vì trong niềm tin vào phép thông công, “đến kẻ chết cũng có phiếu.”  Họ không chỉ có lá phiếu mà thôi.  Họ vẫn nghe được những gì chúng ta nói với họ.  Thế nên… Nếu bạn mất đi một người thân yêu trong hoàn cảnh vẫn còn khúc mắc, vẫn còn căng thẳng cần xoa dịu, khi đáng ra bạn phải quan tâm hơn, khi bạn thấy trách mình vì chưa từng thể hiện đủ sự trân trọng và tình cảm đáng phải có, những lúc như thế, hãy biết rằng, chưa quá muộn đâu. Tất cả vẫn có thể làm được!

Rev. Ron Rolheiser, OMI

XA MẶT, KHÔNG CÁCH LÒNG

Câu nói: Xa mặt cách lòng tiết lộ một sự thật chua chát của lòng con người.  Khi xa nhau thì người ta dễ quên nhau.  Bao nhiêu đôi vợ chồng đỗ vỡ vì sống xa nhau. Bao nhiêu con cái xa cha mẹ, thì dễ thành bất hiếu, bất nhân, bụi đời, hư hỏng. Bao nhiêu đầy tớ khi chủ vắng nhà thì như gà vọc niêu tôm. Đúng như dụ ngôn đầy tớ bất trung (Mt. 24, 48-51)

Đức Giêsu muốn đề phòng cho các môn đệ khỏi lâm vào cảnh đau lòng xa mặt cách lòng, nên trước khi về trời, về cùng Chúa Cha, Người đã đảm bảo với môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện xa mặt cách lòng, và về phía con người cần phải giữ lời Thầy để xa mặt, nhưng không cách lòng.

1- Về phía Thiên Chúa:
Xa mặt, không cách lòng.  Để đảm bảo chắc chắn dù Đức Giêsu về trời, về cùng Chúa Cha, thì “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với anh em”, “Cha Thầy còn phải đến nhân danh Thầy, Đấng bào chữa là Thánh Thần sẽ dậy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.”  Đức Giêsu còn đoan hứa rõ ràng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.  Chứ không để anh em mồ côi đâu.”  “Vì Thiên Chúa đã thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và sống dồi dào.”  Như vậy, cả Ba ngôi Thiên Chúa đều đến ở trong anh em, anh em được yêu mến, dậy dỗ, được bào chữa, nâng đỡ và được ban phúc bình an, không còn phải xao xuyến, sợ hãi, mà còn được vui mừng vì Thầy về cùng Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.  Vậy, về phía Đức Giêsu, càng xa mặt về phần xác bao nhiêu, thì về phần thiêng liêng càng gắn bó kết hợp với anh em ở khắp mọi nơi, và khắp mọi lúc.

2- Về phía con người:
Xa mặt, phải làm sao để không cách lòng?

Để đề phòng khi xa mặt Chúa, mà lòng mình không xa Chúa; khi chủ vắng nhà, đầy tớ không bất trung vọc niêu tôm, thì Đức Giêsu đã bảo: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy” giữ lời Thầy, thực thi lời Thầy, sống lời Thầy, truyền bá lời Thầy, mới chứng tỏ lòng yêu mến Thầy. Như thế, xa mặt, nhưng không cách lòng.  Giữ lời Thầy là một trắc nghiệm rõ nhất, chính xác nhất về lòng mến Chúa.  “Lửa thử vàng, gian nan thử đức” thì giữ lời Thầy là lửa thử lòng mến Thầy.  Trong khoa học, để biết chắc một giả thuyết đúng, người ta phải thử bằng thí nghiệm, bao lâu chưa chứng nghiệm chắc chắn, thì chỉ là giả thuyết, chưa có giá trị khoa học.  Nhà bác học Pasteur đã bác bỏ giả thuyết tự vật chất sinh ra sinh vật.  Ông đã làm thí nghiệm nhiều lần đem dấm lên núi cao, nơi không khí trong sạch không có vi khuẩn, dấm không bao giờ lên men.  Dấm chỉ lên men khi có vi khuẩn.  Nhờ thí nghiệm đó, Pasteur đã phát minh ra khoa vi trùng học để chữa bao nhiêu chứng bệnh của con người.

Đức Giêsu đã dậy chúng ta khám phá ra lòng mến Chúa bằng phương pháp “giữ lời Chúa.” Hãy làm thí nghiệm xem chúng ta có lòng mến Chúa thật hay giả: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy.”

Các môn đệ sống với Thầy bằng xương bằng thịt, ai cũng tỏ ra yêu mến Thầy.  Nhưng khi xa mặt Thầy, khi Thầy về cùng Chúa Cha, các ông muốn biết mình còn yêu mến Thầy nữa không, thì phải xem mình có thực thi lời Thầy không?  Nếu các ông giữ lời Thầy, sống theo lời Thầy, chứng tỏ chắc chắn các ông còn yêu mến Thầy.  Quả thực, trừ Giuda, hết thảy các môn đệ chẳng những giữ lời Thầy, sống lời Thầy, mà còn rao giảng lời Thầy, viết sách truyền bá lời Thầy cho muôn dân, muôn thế hệ.  Các ông còn hy sinh chịu chết để chứng tỏ lời Thầy thật là lời hằng sống, lời của Chúa Cha ban ơn cứu độ, ban sự sống hạnh phúc muôn đời cho những ai tin và giữ lời Thầy: “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và sự sống” (Ga. 6, 63) “Ai nghe lời Thầy và tin vào Đấng đã sai Thầy thì có sự sống đời đời” (Ga. 5, 24).  “Ai tuân giữ lời Tôi, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8, 51).  Các môn đệ đã giữ lời Thầy để chứng tỏ lòng mến Chúa và nhờ đó các ông được phần thưởng vinh quang muôn đời.

Phần chúng ta thì sao?  Có bao giờ chúng ta dùng phương pháp “giữ lời Thầy” để thử mình có lòng mến Chúa không?

Thường thì chúng ta tưởng mình có lòng mến Chúa bằng đi lễ, đọc kinh, dâng hoa, rước kiệu, tổ chức Giáng sinh, Phục sinh long trọng vui vẻ…  Như thế là yên tâm mình đã giữ đạo, là có lòng mến Chúa.  Sợ rằng chúng ta chỉ kính bằng môi miệng mà lòng xa Thiên Chúa!

Có người tưởng mình giữ trọn mười điều răn như chàng thanh niên giầu có trong Tin Mừng “đã giữ tất cả các điều đó từ thuở nhỏ” (Mt. 19, 16-22; Lc. 18, 18-23).  Anh tưởng như thế là được sống đời đời!  Thật lầm to!  Lời Chúa không phải chỉ có mười điều răn theo lối sống tiêu cực của anh, anh chưa có lòng mến Chúa và yêu người tích cực.

Chúng ta phải tích cực giữ lời Chúa, sống lời Chúa, thực thi lời Chúa và loan truyền lời Chúa như các môn đệ đã thi hành và ghi chép lại trong Tin Mừng.

Ca dao có câu: “Cá không ăn muối, cá ươn.  Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.”  Nếu chúng ta không sống lời Chúa, mặc nhiên là cãi lời Chúa, chắc chúng ta sẽ chẳng được sống đời đời.  Người xưa còn khuyên: “Con ơi muốn nên thân người.  Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.”  Lời mẹ cha là phàm nhân còn có sức huấn luyện con cái nên người tốt: Huống chi lời Chúa, làm sao chúng ta không lắng nghe?

Lạy Chúa Giêsu, thân phận con là loài hình hài thể xác, luôn bị hấp dẫn bởi hình danh sắc tướng mầu mè cụ thể trước mắt.  Khi xa mặt, dễ cách lòng, xin nâng đỡ phận hèn mệnh bạc của con, để con tận tình giữ lời Chúa.  Xin Lời Chúa sẽ soi sáng con yêu mến Chúa và gắn bó với Chúa luôn mãi.

Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
(Trích trong “Xây Nhà Trên Đá”)

NHỮNG BÀI HỌC QUA THẤT BẠI

Chúng ta học được gì qua các thất bại, qua những lúc bị hạ thấp vì lỗi lầm của mình?  Thường thì đó là cách duy nhất để chúng ta phát triển.  Khi bị hạ thấp vì những bất đạt của chính mình, chúng ta học được những bài học cuộc đời mà chúng ta không hề cảm nhận được khi đầy tự tin và kiêu hãnh.  John Updike đã nói, có những bí mật mà người khỏe mạnh không biết được.  Bài học này có đầy trong Kinh thánh và thấm sâu trong mọi linh đạo của mọi tôn giáo đáng trọng.

Linh mục Raymond E. Brown, đã cho chúng ta một mô tả về sự khôn ngoan Kinh thánh này.  Suy ngẫm về việc dân Chúa chọn, dân Israel, đã có lúc họ phản bội lại đức tin của mình và hậu quả là bị hạ bệ, bị Chúa ngoảnh mặt làm ngơ, cha Brown cho thấy, về lâu dài, cái tưởng như là thảm họa này cuối cùng lại là một trải nghiệm tích cực.  “Dân Israel hiểu thêm về Chúa trong đống tro tàn của Đền thờ bị dân Babylon hủy diệt, hơn là trong thời kỳ huy hoàng của Đền thờ dưới thời Vua Salomon.”

Cha Brown nói thế nghĩa là sao?  Ngay trước khi bị Nebuchadnezzar, vua của Babylon chinh phạt, dân Israel đã trải qua một thời kỳ mà nhìn bên ngoài tưởng như là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử của họ (về mặt chính trị, xã hội, và tôn giáo).  Israel có được đất hứa, đã chinh phục mọi kẻ thù của mình, đã có một đức vua vĩ đại trị vì, và có một đền thờ nguy nga ở Giêrusalem làm nơi thờ phượng và trung tâm quy tụ toàn dân.  Tuy nhiên, trong cái có vẻ là hùng mạnh đó, và có lẽ chính vì nó, mà Israel đã trở nên tự mãn về đức tin và lòng trung tín ngày càng lung lay.  Sự tự mãn và lung lay đó dẫn đến sự sụp đổ của nó.  Năm 587 trước Công Nguyên, nó đã bị một nước ngoại bang chinh phạt, bị cướp hết đất đai, hầu hết dân chúng bị đày đến Babylon, vua bị giết và đền thờ bị phá hủy đến tận viên đá cuối cùng.  Israel đã phải trải qua gần nửa thế kỷ lưu đày, không có đền thờ, đấu tranh để tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu thương mình.

Tuy nhiên, xét toàn cảnh, chuyện này hóa ra lại tích cực.  Nỗi đau khi bị lưu đày và những nghi hoặc trong đức tin do đền thờ bị phá hủy, cuối cùng lại được bù đắp bằng những gì dân Israel học được qua việc bị hạ nhục và khủng hoảng, cụ thể là họ biết được Thiên Chúa vẫn trung tín dù chúng ta thì không, biết được những thất bại mở mắt chúng ta nhìn ra sự tự mãn và mù quáng của mình, biết rằng những thứ bề ngoài là thành công thường là ngược lại, cũng như những thứ bề ngoài là thất bại thường cũng là ngược lại.  Như cha Richard Rohr nói, trong thất bại, chúng ta có cơ hội để “ngã lên”.

Tôi tin rằng không có hình ảnh nào dễ hiểu hơn để hiểu được những gì Giáo hội đang phải chịu đựng nhục nhã vì cuộc khủng hoảng xâm hại tình dục của các giáo sĩ trong giáo quyền, và trong các giáo hội khác nữa.  Hãy nói lại thấu suốt của cha Raymond Brown như thế này: “Giáo hội có thể học biết thêm về Thiên Chúa trong đống tro tàn của khủng hoảng xâm hại tình dục của các giáo sĩ hơn là trong các thời kỳ huy hoàng với các đại thánh đường, với sự mở mang cực đại của Giáo hội, với thẩm quyền tuyệt đối của Giáo hội.”  Giáo hội cũng có thể biết thêm về chính mình, về kiểu bịt mắt làm ngơ những lầm lỗi của mình, và về nhu cầu phải thay đổi cơ cấu, và biến đổi con người trong Giáo hội.  Mong là như cuộc lưu đày Babylon với dân Israel, chuyện này đến tận cùng cũng là một điều tích cực đối với Giáo hội.

Hơn nữa, một chuyện đúng với Giáo hội (và chắc chắn với các tổ chức khác nữa) thì cũng đúng cho mỗi người chúng ta trong đời sống riêng.  Sự nhục nhã chặn đường chúng ta vì những bất đạt, tự mãn, thất bại, phản bội, không chịu nhìn ra lỗi lầm, những thứ đó đôi khi có thể là cơ hội để chúng ta “ngã lên”, để khi ở trong đống tro tàn chúng ta học biết được những điều chúng ta đã không học được khi đang trên đà thành công.

Hầu như không có ngoại lệ, những thành công lớn trong đời, những thành tựu lớn, và những vinh quang danh giá thường không đào sâu con người chúng ta.  Xin trích lại lời của James Hillman, thành công thường không đem lại chiều sâu gì cho cuộc đời chúng ta.  Ngược lại, nếu can đảm và thành thật suy ngẫm mọi điều từng đem lại chiều sâu và tạo nên tâm tính chúng ta, chúng ta phải thừa nhận, trong mọi trường hợp, nó đều là một thứ gì đó đáng hổ thẹn, một cảm giác bất đạt về thân thể, một nét không mấy tự hào thưở nhỏ, những lỗi lầm đáng xấu hổ trong đời, hay một tính cách mà chúng ta thấy phần nào hổ thẹn.  Đây là những điều cho chúng ta chiều sâu.

Sự nhục nhã tạo nên chiều sâu, nó đẩy chúng ta đi vào những phần sâu sắc hơn trong tâm hồn mình.  Tuy nhiên, không may là, không phải lúc nào nó cũng đem lại kết quả tích cực.  Nỗi đau của nhục nhã khiến chúng ta sâu sắc, nhưng có thể là sâu sắc theo hai hướng, hướng thấu hiểu và thông cảm nhưng còn là hướng chua cay thù hận cả thế giới.

Nhưng điều tích cực là: Như dân Israel trên bờ biển Babylon, khi đền thờ của chúng ta bị phá hoại hay bị hủy diệt, trong đống tro tàn của thời kỳ lưu đày, chúng ta có cơ hội để nhìn ra những điều thâm sâu hơn mà thường chúng ta nhắm mắt làm ngơ.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

CHÚT TÂM TÌNH THÁNG HOA DÂNG MẸ

Cứ mỗi độ tháng Năm về, người Công giáo Việt Nam cùng Giáo hội hoàn vũ tưng bừng, rộn rã bước vào mùa dâng hoa kính Đức Mẹ Maria, Mẹ Chúa thiên đình với tên gọi rất dân dã là “tháng Hoa Đức Bà.”  Các giáo xứ lại nô nức bước vào mùa dâng hoa kính Đức Mẹ với nhiều thể loại phong phú như rước kiệu, dâng hoa… tùy vào tập quán, điều kiện của mỗi địa phương.

“Hoa thắm nở đẹp đồng nội xa
Mùa hoa về hương ngát trời bao la
Con yêu Mẹ nhiều hái về ngàn đóa mà tiến dâng.”
Khúc hát dâng hoa (Hải Triều)

Bài hát diễn tả lòng mến tha thiết của những người con mộc mạc chân chất với những đóa hoa đồng cỏ nội mộc mạc đã dần dần đi vào lòng tín hữu với những điệu múa dâng hoa tràn đầy hương sắc và dạt dào tình cảm.  Hoa được Thiên Chúa tạo tác với muôn sắc xinh tươi, hương thơm ngào ngạt đã điểm tô thêm cho vẻ đẹp vũ trụ.  Hoa cũng trở thành bạn thân thiết với con người: người ta dùng hoa trong các nghi lễ thờ cúng, các lễ hội…, tặng hoa cho nhau nhân những dịp lễ kỉ niệm, kết thân với nhau bằng những nụ hoa và cũng có thể xa nhau bằng những vòng hoa tiễn biệt.

Tại Châu Âu, tháng Năm là thời điểm chuyển giao của mùa xuân và mùa hè, là thời điểm muôn hoa đua nở, vạn vật tràn đầy sức sống và màu sắc.  Theo Lm. Đoàn Quang, CMC (Nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ tháng 5-08 trg 4), vào những thế kỷ đầu, người Rôma tổ chức những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân, đánh dấu sự kết thúc một mùa đông dài.  Các Kitô hữu ban đầu đã thánh hóa tập tục trên và tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.  Có nơi người ta tổ chức các cuộc “Rước xanh” bằng việc đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ.

Tập tục này đã được Đức Thánh Cha Piô VII khuyến khích, Đức Piô IX đã ban ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo đức này.  Đức Thánh Cha Piô XII, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, nhấn mạnh “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ.”  Và năm 1965, Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng đã nêu lên những giá trị cao quý của việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm:

“Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ.  Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng.  Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ những tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt.  Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai tòa rất dồi dào của Đức Mẹ” (Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ, số I).

Đất nước Việt Nam với muôn ngàn “kỳ hoa, dị thảo” và những tín hữu có lòng mến mộ đặc biệt đối với Đức Mẹ đã tổ chức các hình thức rước kiệu, dâng hoa vào tháng kính Đức Mẹ theo lịch phụng vụ của Giáo hội từ những thế kỷ trước.  Muôn hoa ngàn sắc đã được cha ông ta chắt lọc và đưa vào lời ca, điệu múa dâng hoa chúc tụng cảm tạ và mừng kính Mẹ.  Vãn hoa dâng kính Đức Bà là một trong số những thể loại mà những ai đã từng lớn lên ở những xứ đạo đồng bằng miền Bắc không thể không biết.

Đức Bà thờ Chúa một bề,
Hoa Quỳ chăm chắm hướng về thái dương.
Tội nguyên không nhiễm khác thường.
Hoa Sen trên nước chẳng vương bùn lầy.
Lòng đầy thánh sủng giáng lâm,
Hoa Lê tuyết đượm mầu thơm khác vời.
Tuổi cao phúc đức càng đầy,
Lạ lùng hoa Cúc nở ngày vãn thâu.
Toà cao thần thánh kính chầu,
Hoa Mai đỉnh núi nở đầu trăm hoa.
Muôn loài cám mến âu ca,
Hoa Đơn phú quý gần xa vui vầy.
Các ơn Chúa phó trong tay,
Hoa Lan vương giả hương bay ngạt ngào.

Nghinh hoa tụng kỳ chương (Phạm Trạch Thiện – 1852)

Những nét đẹp của cuộc đời Mẹ đã được xưng tụng qua ý nghĩa của bảy loài hoa theo quan niệm truyền thống Việt Nam: hoa Quỳ hướng về vầng thái dương, Mẹ luôn một niềm quy hướng về Chúa.  Mẹ tinh tuyền như hoa Sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.  Mẹ tràn đầy ân phúc của Thiên Chúa giáng lâm như hoa Lê tuyết thấm đượm hương sắc tuyệt vời.  Như hoa Cúc sung mãn trong nắng hanh vàng của mùa thu, tuổi càng cao phúc đức Mẹ càng tràn đầy.  Mẹ được muôn loài tôn kính như hoa Mai đỉnh núi được phong tặng ngôi vị đứng đầu trăm hoa.  Mẹ Thiên Chúa phú quý cao sang như hoa Mẫu đơn nhưng lại gần gũi và bao dung với mọi người bằng tình thương của một người mẹ.  Như hoa Lan tinh tế dịu dàng mà tỏa hương ngát thơm, Mẹ Thiên đình vương giả vì được các ơn Chúa phó trong tay.

Bảy loại hoa cùng năm sắc màu đã hòa thành một tấu khúc tuyệt vời tôn vinh Mẹ đầy ơn phúc vì Mẹ chính là đóa hoa Huyền Nhiệm trong vườn hoa Thiên quốc đầy hương sắc!

Xin dâng lên Mẹ sắc hoa đỏ là màu Máu Thánh Con Mẹ đã đổ ra trong hy tế của giao ước mới cứu độ con người.  Màu đỏ còn diễn tả sự đau khổ hy sinh của Mẹ “chịu như dao sắc thâu nơi lòng mình” dưới chân thập giá để hiệp thông với người Con yêu dấu.  Đó cũng là màu của những giọt máu tử đạo âm thầm của các chứng nhân Tin Mừng, là màu hoa thắm sắc hy sinh, là đời sống khó khăn, vất vả của tất cả mọi thành phần dân Chúa.

Nhiệm thay hoa đỏ hồng hồng,
Nhuộm thêm Máu Thánh thơm chung lòng người.
Vì thương Con gánh tội đời,
Chịu như dao sắc thâu nơi lòng mình.

Sắc hoa trắng chỉ sự trong sạch của tâm hồn, màu trắng tinh khôi của đức đồng trinh vẹn tuyền của Mẹ.  Xin dâng lên những tâm hồn non trẻ, đang thiếu vắng niềm tin, sự đơn sơ trong trắng và lòng nhiệt thành.  Xin Mẹ thương gìn giữ và dìu dắt để tất cả các bạn trẻ luôn biết nhận thức được đâu là những giá trị tốt xấu của cuộc sống.  Biết xa tránh những cạm bẫy xấu xa của tội lỗi và gìn giữ tâm hồn luôn được sạch trong như tấm áo trắng lãnh nhận khi chịu phép rửa tội.

Xinh thay hoa trắng tốt lành,
Ví cùng nhân đức đồng trinh Đức Bà.
Nguyên tuyền hơn ngọc hơn ngà,
Sáng trong hơn tuyết cùng là hơn gương.

Như hoa quỳ, hoa hướng dương luôn hướng về mặt trời.  Mẹ là biểu tượng của lòng tin kiên vững, luôn hướng về Thiên Chúa.  Màu hoa vàng còn chỉ đức mến vẹn toàn, diễn tả lòng yêu mến và trung thành của Mẹ.  Xin dâng lên những người cha, những người mẹ nặng gánh gia đình.  Xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì, để họ biết noi gương Mẹ, luôn trung kiên tin tưởng vào tình yêu Chúa để chu toàn trọng trách giáo dục con cái nên người và là chứng nhân của Tin Mừng Chúa Kitô giữa lòng đời.

Quí thay này sắc hoa vàng
Sánh nhân đức mến Bà càng trọng hơn.
Một niềm tin kính nhơn nhơn,
Vững vàng cậy mến trong cơn vui sầu,

Màu hoa tím chỉ sự tuân phục, xin vâng theo thánh ý Chúa của Mẹ ngay từ giây phút sứ thần truyền tin đến trọn cuộc đời.  Màu tím đơn sơ mà thấm nhuần nhân đức khiêm nhu tuyệt hảo của Mẹ.  Sắc tím u buồn còn như muốn che khuất cả con đường đức tin khi điểm đến là đỉnh cao Thập Giá.  Nguyện xin Mẹ giúp chúng con biết sáp nhập những đau thương, bệnh tật, tang tóc, cô đơn, thử thách trong đời với hiến tế Thập Giá của Đức Kitô.  Xin cho những tâm tình, những cố gắng, những dấn thân âm thầm, những quên mình để đem lại niềm vui cho người khác của mọi thành phần dân Chúa trên khắp hoàn vũ này được trở nên của lễ cứu độ cùng với Chúa Kitô Phục Sinh.

Dịu thay hoa tím càng màu.
Ý trên bà những cúi đầu vâng theo.
Bằng lòng chịu khó trăm chiều,
Khiêm nhường nhịn nhục hằng yêu hãm mình.

Sắc hoa xanh ca tụng nhân đức trọn lành thánh thiện của Mẹ.  Hoa xanh cũng tượng trưng cho tuổi thơ hồn nhiên, tươi đẹp và đầy trong sáng mà Chúa đã ban cho chúng con qua con cái của chúng con.  Ngày xưa Mẹ đã nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ thơ Giêsu như thế nào; thì hôm nay cúi xin Mẹ dạy cho chúng con biết noi gương Mẹ để lo lắng cho con cái chúng con luôn biết bước đi trong đường lối của Chúa.

Lạ thay là sắc hoa xanh.
Mừng Bà nhân đức trọn lành cực cao.
Dờn dờn sau trước một màu,
Quản chi sương nắng dãi đầu ngày đêm.

Cũng xin dâng lên Mẹ những đóa “hoa lòng” thánh thiện: những gương sáng, những việc lành, những nghĩa cử bác ái với tha nhân trong đời sống thường ngày, những kinh nguyện chung mỗi tối trong gia đình.  Xin cho những đóa hoa chúng con tiến dâng được kết trái nhân đức, những nhân đức trọn lành mà suốt đời Mẹ đã thi hành vâng theo ý Chúa.  Từ trời cao, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban muôn ơn lành cho đoàn con cái sốt mến tâm thành hướng về Mẹ trong tháng hoa đầy hương sắc và dạt dào tâm tình con thảo.  Amen!

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

YÊU NHƯ THẦY YÊU

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir un peu).  Sự ra đi nào cũng để lại những vấn vương và lưu luyến cho người ở lại, nhiều khi còn mang vẻ bi thương và tang tóc nữa.  Cuộc ra đi thụ nạn của Chúa Giêsu cũng thế.  Chính vì vậy, trong giờ phút ly biệt đầy xốn xang và ngậm ngùi, Chúa Giêsu đã để lại những lời tâm huyết cuối cùng cho các học trò.  Những lời dặn dò thân tình ấy được Giáo hội đọc lại cho chúng ta trong phụng vụ hôm nay, giống như một di chúc thiêng liêng.  Các nhà chú giải vẫn gọi đó là “diễn từ biệt ly.”  Trong những lời trăn trối sau cùng ấy, Chúa nói với các môn đệ: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.  Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”

Điều răn mới

Ai cũng biết, yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người.  Ngày xưa triết gia Aristotle đã nói cho các học trò của ông: “Tính ích kỷ và đầu óc hẹp hòi biến con người trở nên như thú vật, nhưng khi con người đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, họ sẽ trở nên như thần thánh.”  Nói chung, tôn giáo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, và chẳng tôn giáo nào lại dạy con người làm những chuyện thất đức.  Tinh thần “Tứ hải giai huynh đệ” của triết lý Đông phương cũng tương tự như thế.  Thế thì, giáo huấn của Chúa Giêsu có gì là mới lạ?  Và tại sao Chúa lại gọi đây là điều răn mới?  Chúng ta phải đi sâu vào tư tưởng thần học của Thánh Gioan mới có thể khám phá ra tính cách mới mẻ và độc đáo của giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu gửi trao như một di chúc thánh thiêng.

Ngay từ thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã ban truyền thập giới trên núi Sinai qua Moisê, và 10 giới răn đó cũng được tóm kết qua 2 điều luật căn bản, đó là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.  Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi trả lời cho vị luật sĩ (Lc 10,27) hay cho vị kinh sư (Mc 12,28) hoặc cho chàng thanh niên giàu có (Mt 19,18-20).

Tuy nhiên các luật sĩ và biệt phái thời xưa chỉ giữ luật một cách máy móc và vụ hình thức.  Chúa tuyên bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ lề luật, nhưng mặc cho nó một chiều kích mới, đó là chiều kích nội tâm.  Giới răn mới mà Chúa nói hôm nay cũng chính là việc thực hành tình yêu, nhưng đi vào cốt lõi căn bản, nhắm đến chiều sâu nội tâm hóa của giới luật yêu thương.  Để huấn luyện các học trò hiểu thấu giới răn ấy, Chúa Giêsu lấy chính Ngài làm chuẩn mẫu: “Anh em hãy yêu thương nhau ‘như’ Thầy đã yêu thương anh em.”  Tính cách mới mẻ mà Chúa khởi dẫn chính ở điểm căn bản này.

Kinh nghiệm của Thánh Gioan

Khi nói về mình, Gioan giới thiệu rất đơn giản bằng thuật ngữ “người môn đệ được Chúa yêu mến.” Gioan là người học trò duy nhất được tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly để lắng nghe từng nhịp đập nơi con tim thổn thức của vị Thầy khả ái.  Ngài cũng đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria để mục kích trái tim Chúa bị đâm thâu và mở toang ra, tuôn đổ những giọt nước và máu của tình yêu cho đến vô tận.  Tất cả những chi tiết này đều là những hình ảnh mà Thánh Gioan ghi lại để biểu thị bài học về tình yêu nơi Chúa Giêsu mà Gioan đã cảm thấu một cách tường tận.  Trong Tin mừng thứ tư, thánh ký quảng diễn rất nhiều về tình yêu mà Chúa Giêsu đã diễn bày, nhất là qua hình ảnh người Mục tử nhân lành, biết các con chiên trong đàn, đi tìm kiếm con chiên lạc, và hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.  Thánh Gioan cũng dành ra suốt từ chương 13 đến hết chương 17 để viết lại diễn từ biệt ly, và điểm nhấn quan trọng nhất trong diễn từ chính là nói về tình yêu.  Trong diễn từ này, Chúa Giêsu lập đi lập lại điệp khúc tình yêu qua chính mẫu gương của Ngài.  “Không có tình yêu nào cao quý bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu.”  “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương.”  “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau…”  Vì thế trong 3 lá thư Thánh Gioan để lại, đặc biệt trong thư thứ nhất, Ngài đã định nghĩa Thiên Chúa bằng một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,16).  Những chân lý về tình yêu, về giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ được nói đến trong bài Tin mừng hôm nay, cũng được lặp lại rất nhiều lần trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan.

Yêu như Thầy đã yêu

Nhiều người ngoại giáo thường hỏi chúng ta, đạo nào cũng hay, cũng đẹp, thế đạo Công giáo có cái gì đặc sắc mà các anh muốn quảng bá?  Thánh Gioan hôm nay đã trả lời thay cho chúng ta.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương giống như Ngài đã yêu thương.  Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm lý thuyết, nói một đàng làm một nẻo.  Cái chết của Chúa Giêsu lột tả trọn vẹn tình yêu mà Ngài muốn diễn bày.  Ngài đã đi đến tận cùng của giai điệu yêu thương khi bị treo thân trên Thập giá như một tên tội phạm và quảng diễn rất cụ thể điều Ngài đã nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu.”  Trong bữa tiệc ly, Chúa còn cúi xuống rửa chân cho các học trò như một người tôi tớ.  Bằng nhiều cách, Chúa đã cố gắng cắt nghĩa giới răn mới mà người muốn truyền thụ lại bằng chính cuộc sống gương mẫu của Ngài.

Kết luận

Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ đức ái, đã viết trong khảo luận về Đức Ái của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ, tình yêu là sự hoàn thiện của con người.  Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu.”  Sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chính là con đường dẫn đến hoàn thiện và đó cũng là lộ trình nên thánh mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước.  Nhưng chúng ta thực hành giới răn mới đó như thế nào?  Một nhà xã hội học đã chua chát nhận xét: “Ngày nay, con người đã rất tiến bộ và thành công vượt bậc.  Người ta đã lên được tới mặt trăng, đã nghiên cứu đến tận sao hỏa, đã chế tạo các phi cơ với vận tốc khủng khiếp…  Nhưng có một điều rất đơn giản là học cách sống tử tế với vợ mình, mà nhiều người học mãi cũng chẳng xong.”

Nói về tình yêu trên lý thuyết rất dễ, nhưng sống và thực hành theo gương Chúa Giêsu không phải là một chuyện giản đơn.  “Hãy yêu như Thầy đã yêu” là bài học mà chúng ta phải nghiền gẫm và phải phấn đấu để thực hành cho đến suốt đời.

Lm. GB. Trần Văn Hào

THÁNH MATTHIAS TÔNG ĐỒ

Sau khi Chúa lên trời, các Tông Đồ đón chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống.  Các ngài đã chọn thánh Matthias vào nhóm Mười Hai, thay thế cho Giuđa, để làm trọn con số tượng trưng của mười hai chi tộc Israel.  Thánh Matthias vốn là một môn đệ của Chúa và nhân chứng của sự kiện Chúa sống lại.  Theo truyền tụng, ngài đã giảng đạo và tử đạo tại Ethiopia.  Nhờ sự vận động của thánh nữ Helena, di hài của thánh nhân đã được chuyển về Trier nước Đức, và được tôn nhận làm bổn mạng của thành phố này.

1 . Thiên Chúa tuyển chọn.

Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn và cắt đặt các con đi hầu đem lại hoa trái, ngõ hầu hoa trái các con tồn tại.

Sau khi Giuđa phản bội, chỗ của ông trong nhóm Mười Hai bị bỏ trống.  Cuộc tuyển chọn người thay thế Giuđa đã làm trọn lời Chúa Thánh Thần tiên báo, và Chúa Giêsu đã thiết định rõ ràng: Chúa muốn có mười hai Tông Đồ, bởi vì Dân Mới của Chúa cũng phải có mười hai trụ cột, giống như dân Israel có mười hai chi tộc.  Thánh Phêrô đã dùng quyền tối cao trong cộng đoàn gồm 120 môn đệ, nêu lên những điều kiện Thầy Chí Thánh đã đặt ra.  Ai hội đủ những điều kiện ấy sẽ được đứng vào Tông Đồ đoàn: người ấy phải quen biết Chúa Giêsu, và phải làm chứng cho Người.  Thánh Phêrô đã giải thích cho cộng đoàn: Trong số những anh em cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi để làm chứng Người đã phục sinh.  Thánh Phêrô nhấn mạnh người được tuyển chọn phải là một chứng nhân về những lời giảng dạy và những sự kiện trong toàn bộ cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, nhất là sự kiện phục sinh.  Ba mươi năm sau, chúng ta thấy thánh nhân cũng lặp lại điều ấy trong chứng từ sau cùng cho các tín hữu: Khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người.

Thánh Phêrô không tự mình tuyển chọn, nhưng trao phó việc ấy cho Thiên Chúa, như tập tục thỉnh thoảng vẫn gặp trong Cựu Ước.  Chúng ta đọc trong sách Châm Ngôn, Người ta gieo quẻ trong nếp áo, nhưng mọi quyết định đều do nơi Giavê.  Vậy họ đề cử hai người: ông Giuse, biệt danh là Barsabbas, cũng gọi là Công Chính, và ông Matthias – tên đầy đủ là Mattathias, nghĩa là “quà tặng của Thiên Chúa.”  Họ rút thăm, và ông Matthias đã trúng thăm: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ.  Tài liệu lịch sử cổ xưa ghi lại một truyền tụng, cho biết vị Tông Đồ này thuộc nhóm bảy mươi hai môn đệ Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng tại các thành nước Israel.

Trước khi bầu chọn, thánh Phêrô và toàn thể cộng đoàn đã cầu nguyện, bởi vì sự lựa chọn không phải là của các ngài: ơn gọi luôn luôn là một sự lựa chọn của Thiên Chúa.  Vậy các ngài cầu nguyện: Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai trong hai người này.  Mười một Tông Đồ và các môn đệ không dám đảm nhận hoặc từ chối trách nhiệm tuyển chọn người thay thế Giuđa, nhưng trao phó cho Thiên Chúa.  Về sau, thánh Phaolô cũng nói ngài được cắt đặt không bởi người đời hay nhờ người đời, nhưng là nhờ Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.  Chính Thiên Chúa đã tuyển chọn và sai đi, ngày nay cũng như ngày xưa.

Mỗi người chúng ta có một ơn gọi nên thánh và tông đồ.  Chúng ta lãnh nhận ơn gọi ấy trong bí tích Thánh Tẩy.  Và ơn gọi ấy đã được Thiên Chúa xác nhận qua những lần can thiệp vào đời sống chúng ta.  Có những giờ phút trong cuộc đời, lời mời gọi theo Chúa Giêsu trở nên đặc biệt căng thẳng và rõ rệt.  Tôi không nghĩ Thiên Chúa cưỡng ép tôi.  Nhưng… Thiên Chúa không cần sự đồng ý của chúng ta để làm “rắc rối” cuộc đời chúng ta.  Người cứ vào: và việc là thế đấy!  Lúc đó, chúng ta có đáp ứng hay không là tùy chúng ta.  Hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi trong giờ cầu nguyện: Tôi có trung tín với những gì Thiên Chúa muốn về tôi hay không?  Tôi có cố gắng thực thi thánh ý Chúa trong mọi công việc của tôi hay không?  Tôi có sẵn sàng đáp lại những điều Thiên Chúa đòi hỏi tôi trong cuộc đời hay không?

2. Ơn thánh luôn đầy đủ để đáp ứng ơn gọi.

…Và lá thăm chỉ đúng Matthias.  Ơn gọi của thánh Matthias nhắc cho chúng ta rằng, ơn gọi luôn luôn là một tặng ân nhưng không.  Thiên Chúa tiền định cho chúng ta được nên giống Con của Người và được thông phần đời sống thần linh của Người.  Thiên Chúa ban cho chúng ta một sứ mạng trên trần gian, để rồi muôn đời được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Người.  Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống thân mật với Người và mở rộng vương quốc của Người, ai nấy trong hoàn cảnh và địa vị riêng.  Ngoài ơn gọi nên thánh phổ quát, Chúa Giêsu còn đặc biệt mời gọi riêng nhiều cá nhân: một số làm nhân chứng bằng nếp sống xa lìa trần thế; một số khác phụng sự Người qua thiên chức linh mục.  Nhưng với đại đa số, Chúa để họ sống giữa trần thế và thánh hóa trần thế từ bên trong, hoặc trong bậc hôn nhân, như một con đường nên thánh, hoặc trong bậc độc thân, để hiến dâng trọn vẹn trái tim tình yêu cho Thiên Chúa và các linh hồn.

Ơn gọi không phát xuất từ những khát vọng hay ước muốn tốt lành.  Các thánh Tông Đồ, và hôm nay là thánh Matthia, đã không chọn Chúa Giêsu làm Tôn Sư như kiểu những người Do Thái thường chọn một rabbi nào đó làm tôn sư.  Chính Chúa Giêsu đã tuyển lựa – một số trực tiếp – số khác, như thánh Matthias, qua việc bầu chọn mà Giáo Hội phó thác trong tay Chúa.  Không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu nhắc nhở các Tông Đồ trong bữa Tiệc Ly, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại.  Những người này diễm phúc biết bao khi được lãnh nhận đặc ân lớn lao?  Thực sự không có gì để thắc mắc tại sao những người này lại được tuyển chọn.  Đơn giản vì Chúa đã gọi họ, chứ không gọi những người khác: Chúa gọi đến với Người những kẻ Người muốn.  Đó là toàn bộ phận phúc và mục đích của cuộc sống.

Từ giây phút Chúa Giêsu tuyển chọn và mời gọi một linh hồn theo Người, sau đó còn nhiều lời mời gọi khác nữa, có thể lặng lẽ, nhưng đánh dấu con đường cho linh hồn bước đi trong cuộc sống.  Thiên Chúa ban cho linh hồn những tri thức và ân sủng đặc biệt để nâng linh hồn lên cao, làm cho linh hồn khao khát sự hoàn thiện, muốn phục vụ toàn thể nhân loại, nhất là những người chung quanh.  Ơn Chúa không bao giờ thiếu cho chúng ta.

Truyền tụng kể lại, như các Tông Đồ khác, thánh Matthias cũng đã chịu tử đạo.  Thánh nhân đã làm trọn nhiệm vụ vinh quang, nhưng đôi khi rất gian nan mà Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho ngài từ ngày ấy.  Trong trường hợp chúng ta, việc trung thành với ơn gọi sẽ giúp chúng ta tìm được hạnh phúc và ý nghĩa của cuộc đời.

3. Hạnh phúc và ý nghĩa của đời tín hữu.

Chúa Giêsu đã tuyển chọn những kẻ thuộc về Người: Người kêu gọi họ.  Ơn gọi là một vinh dự lớn lao, cho họ được hợp nhất thân thiết với Thầy Chí Thánh, với những quyền lợi đặc biệt để đáng được nhậm lời khi cầu nguyện.  Trên một số điểm nào đó, ơn gọi mỗi người dựa trên con người của họ: có thể nói ơn gọi và đương sự nên một với nhau, hợp nhất với nhau.  Điều này nghĩa là – trong sáng kiến của Thiên Chúa – có một ưu ái đặc biệt dành cho những người được gọi, không những được ơn cứu độ, mà còn phân phát ơn cứu độ nữa.  Và vì thế, từ đời đời, từ khi chúng ta bắt đầu xuất hiện trong chương trình của Đấng Tạo Hóa và Người muốn chúng ta được hiện hữu, Người cũng muốn chúng ta được mời gọi, qua việc an bài cho chúng ta tất cả những ân huệ và điều kiện, để chúng ta tự tình và ý thức đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô hoặc của Giáo Hội.  Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, chính Người là Tình Yêu, là Đấng đã kêu gọi chúng ta (cf Rm 9:11).

Thánh Phaolô hầu như bao giờ cũng khởi đầu các bức thư bằng những câu như sau: Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô, được mời gọi là Tông Đồ, được dành riêng cho Phúc Âm của Chúa…  Thánh nhân được kêu gọi và tuyển chọn không phải bởi con người hoặc nhờ con người, nhưng nhờ Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.  Thiên Chúa kêu gọi chúng ta như Người đã kêu gọi Moses, Samuel, Isaia.  Đó là một ơn gọi không dựa trên công trạng cá nhân: Thiên Chúa đã gọi tôi từ lòng mẹ.  Thánh Phaolô còn trình bày rõ ràng hơn: Người đã cứu độ chúng ta và đã kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người.

Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy chia sẻ chén đắng, tức là cuộc sống và sứ mạng của Người.  Giờ đây Chúa cũng mời gọi chúng ta như thế: chúng ta phải cẩn thận đừng để tiếng Chúa bị mất hút giữa những náo động.  Nếu không ở trong Chúa hoặc không phải vì Chúa, thực sự chẳng có gì là niềm vui.  Một khi chúng ta đã nhận ra tiếng Chúa Kitô mời gọi chúng ta theo Người, thì không còn gì là quan trọng nữa so với việc theo Chúa.  Về phần Chúa Kitô, Người sẽ dần dần tỏ cho chúng ta – trong suốt cuộc đời chúng ta – những kho tàng phong phú của ơn gọi mà chúng ta lần đầu tiên đã nghe thấy, khi Người đi qua bên cạnh chúng ta.

Sau khi được tuyển chọn, thánh Matthias không còn được Thánh Kinh nhắc đến nữa.  Cùng với các Tông Đồ khác, ngài đã nghiệm được niềm vui bừng cháy trong ngày Hiện Xuống.  Thánh nhân đã đi rao giảng và chữa lành bệnh tật.  Ngài để lại một di sản đức tin không thể phai nhoà, một đức tin bền vững mãi đến thời kỳ của chúng ta.  Ngài cũng là một ngọn đèn cháy sáng trên thiên đàng cho Thiên Chúa vui hưởng.

Sưu tầm

GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG NGƯỜI MẸ

Tục ngữ Do Thái có câu: “Thiên Chúa không thể ở mọi nơi, nên Ngài đã tạo dựng những người mẹ” (God could not be everywhere, so He made mothers).  Đây là tình cảm lâu dài và tốt đẹp.  Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng nhờ đảo ngược câu nói mà chúng ta đến gần chân lý hơn: “Thiên Chúa có thể ở mọi nơi và chứng tỏ điều đó bằng cách tạo dựng những người mẹ” (God could be everywhere and proved it by creating mothers).  Hình ảnh này phù hợp với nhận xét của tiểu thuyết gia Hoa Kỳ William Makepeace Thackeray, trong cuốn Vanity Fair (Hội chợ Phù phiếm): “Mẹ là danh xưng đối với Thiên Chúa trên những đôi môi và trong những trái tim của những người con bé bỏng.”

Người mẹ không thể thay thế Thiên Chúa, nhưng hành động như người trung gian chuyển lòng nhân từ của Thiên Chúa sang những người khác.  Dĩ nhiên, người ta có thể phản bác rằng người cha cũng làm điều này.  Điều này đủ mức thật.  Nhưng có điều gì đó trong đặc quyền về cách thức mà người mẹ bộc lộ sự hiện hữu của Thiên Chúa.  Theo cách mầu nhiệm nào đó, điều đó như thể người mẹ có được vậy, một kinh nghiệm đối diện của Thiên Chúa.  Điều này có thể đáng hoan nghênh hơn nếu chúng ta hiểu vai trò của Đức Mẹ là nguyên mẫu tâm linh của mọi người mẹ.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nhận xét về Đức Mẹ: “Mẹ giữ trong lòng bí mật làm Mẹ Thiên Chúa, là người đầu tiên được thấy Thiên-Chúa-làm-người, hoa trái của lòng mẹ.”  Khái niệm về việc Đức Mẹ là người trần tục đầu tiên Mary thấy Thiên Chúa vừa gây ngạc nhiên vừa soi sáng.  Là mẫu gương của những người mẹ, kinh nghiệm này gồm cả bản chất làm mẹ và mẫu gương của các phụ nữ đã từng sinh con.

Nếu ông bà nguyên tổ coi Thiên Chúa là Cha nghiêm khắc theo cách nào đó, thì các thế hệ đều tôn kính Đức Mẹ là người hiền từ và dễ gần gũi.  Nathaniel Hawthorne bày tỏ tình cảm này đẹp hơn trong cuốn Blithedale Romance khi ông viết: “Tôi luôn ganh tỵ với người Công Giáo về Đức Tin của họ nơi Đức Trinh Nữ thánh thiện và ngọt ngào, Đức Mẹ đứng ở giữa họ và Thiên Chúa, che chắn sự chói lọi uy nghiêm của Ngài, nhưng cho phép Tình Yêu Chúa tuôn đổ trên người thờ kính theo cách hiểu của con người qua vị trung gian của sự dịu dàng nữ tính.”

Thánh Augustinô nói rằng sự dịu dàng từ mẫu đặc biệt này có thể thấy ngay ở những con thú hung dữ – như người Việt nói: “Cọp dữ không ăn thịt con.”  Ông nhận xét trong The City of God (Thành phố của Thiên Chúa): “Có con cọp cái nào không thương và không vuốt ve con nó?”  Ngược với câu tục ngữ Do Thái nói ở trên, chúng ta có thể ám chỉ câu tục ngữ Tây Ban Nha: “An ounce of mother is worth a ton of priests” (Tạm dịch: “Một lạng người mẹ đáng một tấn linh mục”).

Khái niệm về “sự nhiệt thành” đã thôi miên người Hy Lạp cổ đại.  Thế giới không thể là một nơi, như Democritus ước đoán, không có gì hơn một số nguyên tử không thể đếm xuất hiện trong rất nhiều hình thể.  Nghĩa là có thể tính toán đối với sự nhiệt thành tìm được sự hưng phấn và niềm vui trong kinh nghiệm sống bằng cách nào?  Sự hưng phấn là hoạt động tâm linh không thể giải thích bằng vật chất.  Người ta đã nghi ngờ nhiều thứ: nhân đức, chân lý, kiến thức, và ngay cả tình yêu.  Nhưng không ai có thể nghi ngờ thực tế khả nghiệm của sự hăng hái.  Thế giới hiện đại của chúng ta vẫn liên kết với sự thấu hiểu này của người Hy Lạp cổ đại.  Từ ngữ “sự nhiệt thành” theo tiếng Hy Lạp là enthusiasmos, được rút từ chữ entheos có nghĩa là “được Thiên Chúa sở hữu” hoặc “được Thiên Chúa linh ứng.”  Người Hy Lạp tin rằng một người có thể hít thở bằng cuộc sống của Thiên Chúa, người đó có thể là người đem đến tinh thần của Ngài.  Họ tin rằng con người có thể là “bình chứa” đối với Thiên Chúa.  Một trong những từ đối với sự sống là zoe, không ám chỉ sự sống rộn ràng trong mỗi người, mà nói đến sự sống có thể được chia sẻ với người khác.  Khái niệm này về sự sống là nền tảng không thể thiếu đối với khái niệm của Kitô giáo về sự sống của Thiên Chúa, hoặc ân sủng, điều có thể chia sẻ trong chúng ta, và với Mẹ Maria và những người mẹ theo cách đặc biệt.  Đời sống của Đức Mẹ với Chúa Con là sự sống cao tới mức ưu việt.

Hồng Y Joszef Mindszenty, người can đảm bảo vệ Giáo Hội trong thời gian cộng sản chiếm lĩnh Hungary, đã dành tình cảm mạnh mẽ với cương vị người mẹ.  Trong cuốn The Mother (Người Mẹ), ngài viết hùng hồn bày tỏ lòng tôn kính những người mẹ, nhấn mạnh sự gần gũi của họ đối với Thiên Chúa:

“Người quan trọng nhất trên thế gian này là người mẹ.  Bà không thể đòi hỏi lòng tôn kính của việc xây dựng Nhà Thờ Đức Bà.  Bà không cần.  Bà đã xây dựng cái gì đó quan trọng hơn bất cứ Nhà Thờ nào – sự cư ngụ đối với một linh hồn bất tử, sự hoàn hảo gọn gàng của cơ thể đứa trẻ.  Các thiên thần không được chúc lành bằng ân sủng như vậy.  Các thiên thần không thể chia sẻ phép mầu sáng tạo của Thiên Chúa là đưa những vị Thánh mới vào Thiên Quốc.  Chỉ có người mẹ khả thi.  Những người mẹ gần gũi với Thiên Chúa Tạo Hóa hơn bất cứ sinh vật nào, Thiên Chúa liên kết các sức mạnh với những người mẹ trong việc sáng tạo.  Còn gì vinh quang hơn là được làm mẹ?”

Donald Demarco,
bản dịch của Trầm Thiên Thu từ IntegratedCatholicLife.org