ĐIẾC VÀ NGỌNG

“Con người là một sinh vật xã hội.”  Đây là tiền đề của triết gia Bergson khởi xướng một hệ phái triết học.  Ông ta cũng phần nào có lý khi cho rằng con người không thể sống cô lẻ một mình, nhưng phải sống với những tương quan xã hội.  Sống trong một cộng đồng và tiếp cận với những người khác, chúng ta cần phải có hai kỹ năng: nghe và nói.  Không nói được và không nghe được, không đơn thuần chỉ là khuyết tật về thể lý, nhưng là nỗi bất hạnh lớn nhất vì chúng ta bị cắt đứt khỏi những tương giao với cận nhân.  Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay kể lại sự kiện Chúa chữa lành một người bị điếc và ngọng, mang chở nhiều chiều kích: chiều kích nhân học cũng như chiều kích thần học.  Nhưng trên hết, thánh sử Marcô muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo cứu thế nơi Đức Giêsu.  Ngài đến trần gian để mở tai, giúp chúng ta nghe được những gì Chúa nói.  Ngài cũng dùng quyền uy để mở miệng, giúp chúng ta biết nói về Chúa, và rao giảng Tin mừng của Chúa cho mọi người.

Giêsu, “vị lang băm” kỳ diệu

Văn phòng của Marcô khá dung dị và mộc mạc.  Người bình dân thời bấy giờ rất dễ hiểu.  Marcô mô tả Đức Giêsu chẳng khác gì một lang băm miền quê.  Vị lang băm này “đặt ngón tay vào lỗ tai, và nhổ nước miếng xuống đất, bôi vào lưỡi anh” (Mc 7,23).  Có lẽ khi vừa nghe thoáng qua, không ít người khó chịu trước kiểu chữa bệnh xem ra mất vệ sinh và phản khoa học như thế.  Ngài lại còn lẩm bẩm đọc một “câu thần chú”: Ep-pha-ta tựa như trong câu truyện thần thoại Aladin và cây đèn thần.  Chúng ta đừng quá ngây thơ một cách thô thiển nhìn vào câu chuyện với nhãn quan quá hẹp hòi như thế.  Đây chỉ là những biểu tượng nơi phép lạ của Đức Giêsu nhưng mang chở ý nghĩa rất sâu xa.

Chắc chắn Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, càng không phải là một thầy bùa chuyên chữa bệnh bằng cách niệm thần chú.  Ngài là một Thiên Chúa đầy quyền lực.  Khi đến trần gian, Ngài sống kiếp con người rất con người, nhưng Đức Giêsu vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa.  Ngài chữa lành các bệnh nhân để bày tỏ tình yêu vô bờ bến dành cho con người, đặc biệt những người cùng khổ và bất hạnh.  Điều con người không thể làm được, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể làm được (Mt 19,26).  Đức Giêsu là Đấng quyền năng có thể làm được mọi sự, và chúng ta đừng bao giờ đơn sơ nghĩ tưởng Ngài chỉ là một lang băm quê kệch và dốt nát.

Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện, xuất phát từ một trái tim yêu thương.  Ngài đồng cảm trước nỗi đau của con người.  Câm không nói được và điếc không nghe được, vẫn là nỗi bất hạnh lớn nhất.  Những dạng thức bất hạnh đó có liên đới với tội lỗi.  Đức Giêsu đến “giải phóng” con người khỏi những cột trói của Satan và hỏa ngục.  Theo não trạng của dân Do Thái thời xưa, bệnh tật là sự khống chế của ma quỷ nhưng là hậu quả của tội lỗi do con người gây ra, đặc biệt tội của chính bệnh nhân.  Đức Giêsu phá bỏ quan niệm hẹp hòi này, rõ nhất khi Ngài chữa một người mù bên hồ Silôác mà Tin mừng Gioan thuật lại.  Ngài đến trần gian để giải cứu con người một cách toàn diện.  Trong thơ Rôma, thánh Phaolô đã viết: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người sẽ được công chính hóa (Rm 5, 12-21).  Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, nhưng Ngài là Đấng Cứu thế, Đấng Công chính hóa.  Ngài chính là vị “Anh hùng Giải phóng” toàn diện và đúng nghĩa nhất.

Điếc và ngọng trong tâm hồn

Bệnh nhân được Chúa Giêsu chữa lành mà Tin mừng hôm nay nói tới, có lẽ bị điếc ngay từ nhỏ.  Vì điếc, anh ta không thể nghe người khác nói để bắt chước, nên dần dần anh ta bị ngọng.  Lưỡi anh ta vẫn có thể nhúc nhích, anh vẫn nói được, nhưng chỉ lờ lợ và chẳng ai hiểu anh ta muốn nói gì.  Đây là hai khiếm khuyết song đôi: điếc và ngọng.  Về mặt tâm linh, chúng ta cũng dễ mắc phải hai khuyết tật này, không phải do bẩm sinh nhưng do sự xói mòn đức tin trong tâm hồn.  Cậu bé Samuel ngủ trong đền thờ với thầy Hêli giữa đêm khuya đã nghe tiếng Chúa gọi, nhưng cậu không nhận ra tiếng gọi của Chúa, bởi vì cậu chưa từng gặp Chúa.  Cũng vậy, có thể chúng ta không phải là người điếc, nhưng chúng ta sẽ không nghe được tiếng Chúa nói nếu không tiếp cận Ngài, không đi sâu vào tương quan thân tình với Ngài.  Chúa nói với chúng ta qua nhiều dạng thức.  Ngài ngỏ lời với chúng ta qua những biến cố trong cuộc sống đời thường.  Ngài nói qua sự nhắc nhở của lương tâm, qua các cử hành phụng vụ, khi chúng ta đọc hay nghe Kinh thánh.  Ngài nói với chúng ta qua từng người chúng ta gặp gỡ, qua một cụ già ốm yếu đang quặn đau nằm trên giường bệnh, qua một đứa bé mặt mũi lem luốc đang bới rác tìm cái gì để ăn, qua một bạn trẻ ngồi trên xe lăn với tay chân không còn lành lặn.  Mẹ Têrêsa Calcutta đã nghe được rất rõ tiếng Chúa Giêsu đang rên la thảm thiết trên Thánh giá trước khi Ngài tắt thở: Ta khát.”  Đức Thánh Cha Phanxicô luôn mời gọi chúng ta ra tận “vùng ven” để gặp Đức Giêsu ở đó.  Ngài hiện diện nơi những con người sống dở chết dở trong một nền “văn hóa loại trừ”, một thứ văn hóa vô thần mà những con người ích kỷ hôm nay đang tạo ra.  Ngài vẫn đang nói, đang thét gào trong đau đớn, nhưng nhiều khi chúng ta “bưng tai bịt mắt, không thèm nhìn cũng chẳng nghe” giống dân Israel ngày xưa (Is 42,20).  Đó là bệnh điếc kinh niên, một thứ bệnh nan y mãn tính và rất khó chữa.  Muốn được chữa lành, chúng ta phải ý thức mình đang điếc để khiêm tốn đến với Chúa Giêsu giống như bệnh nhân trong Tin mừng hôm nay.

Bệnh câm hay ngọng cũng thế.  Thánh Tôma Aquinô đã nói: “Một con chó câm không biết sủa, thì chỉ đáng đưa lên mâm.”  Cũng vậy, một Kitô hữu không biết mở miệng để nói có khác gì một kẻ câm.  Nhưng điều quan trọng là chúng ta nói cái gì. “Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng cãi ngang phè phè.”  Đây là hai câu thơ trào phúng mang tính dân gian, nhưng nó cũng gợi nhắc cho ta điều mà thánh Giacôbê nhấn mạnh: “Mỗi người hãy mau nghe đừng vội nói” (Gac 1,19).  “Ai cho mình đạo đức mà không biết kiềm chế miệng lưỡi, đó chỉ là đạo đức hão.  Ai không vấp ngã về miệng lưỡi, ấy là người hoàn hảo” (1,26).

Một câu ngạn ngữ phương tây đã viết: “Có một thanh gươm không bao giờ rỉ sét đó là cái lưỡi con người.”  Có lẽ, rất ít người trong chúng ta bị câm về thể lý, nhưng xét về mặt thiêng liêng, chúng ta lại giống như một người không biết nói, hoặc nói ngọng nói ngịu.  Có nghĩa là, chúng ta cứ thích nói những gì chúng ta không nên nói, nhưng lại không biết nói những gì chúng ta cần phải nói.  Nhiều khi chúng ta lại còn dùng miệng lưỡi như một thanh gươm không han gỉ để sát hại lẫn nhau một cách ác tâm và phũ phàng.  Vậy, chúng ta phải nói những gì?  Chúng ta nhìn lại thái độ của chàng thanh niên trong Tin mừng hôm nay, dù Đức Giêsu cấm không được kể chuyện đó với ai, nhưng Người càng cấm họ càng đồn ra (c. 36b).  Tin tức tốt lành được loan đi, chắc chắn do người thanh niên này trước tiên.  Anh ta kể lại câu chuyện anh được chữa lành cho người khác, và cứ thế Tin mừng được nhân rộng, lây lan đến mọi người.

Điều chúng ta cần nói, chính là Tin Mừng. “Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc16,15).  Rao giảng Tin mừng tức là kể lại những câu chuyện về Chúa cho người khác, nhất là những câu chuyện liên quan tới chúng ta.  Chúng ta không thể thực hiện công việc này, nếu chúng ta không tiếp cận với Chúa Giêsu, không gặp gỡ Ngài, không cảm thấu được tình yêu của Ngài, không để Ngài cuốn hút, và không để Ngài viết nên câu chuyện lịch sử trong đời sống của chúng ta.  Nếu không thực hiện được điều ấy, chúng ta chỉ là những người vừa câm vừa điếc, và giả như không bị câm, thì có nói, cũng chỉ biết nói ngọng nói ngịu chẳng ra thể thống gì.

Các anh em tu sĩ dòng Đaminh được gọi là các anh em giảng thuyết (Ordo predicatorum).  Châm ngôn của thánh phụ Đaminh là: “Hãy chiêm niệm và chuyển giao những điều chiêm niệm cho người khác” (contemplari et comtemplata aliis tradere).  Nguyên tắc này rất đơn giản: Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có.  Không ai có thể dạy người khác điều mình không biết.  Phải chiêm niệm Lời Chúa, phải để cho Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, chúng ta mới có thể rao giảng Lời Chúa cho người khác.  Nếu không cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha, chúng ta không thể nói về Ngài, và loan báo Tin mừng của Ngài cho mọi người.

Nói và nghe bằng cõi lòng

Năm 1974, Giám mục giáo phận Beauvais bên Pháp truyền chức phó tế vĩnh viễn cho Thầy Jacques Lebreton.  Thầy bị mù hai mắt và cụt hai tay.  Người ta thắc mắc, một con người khuyết tật như thế làm sao có thể thi hành sứ vụ phó tế, nhất là giảng Lời Chúa.  Đức Cha trả lời: Thầy ấy không còn đôi mắt, không còn đôi tay, nhưng còn trái tim.  Chúng ta nghe lại tâm sự của Thầy được kể lại trong buổi hành hương Lộ Đức năm 1982:

“Cách đây khá lâu, tôi là một quân nhân.  Trong một trận đánh ở El Alamen, tôi và một vài người bạn khác làm nhiệm vụ gỡ mìn.  Một anh bạn cầm trái mìn, vô tình mở chốt và trao cho tôi, không hiểu sao tôi lại cầm lấy.  Trái đạn nổ tung.  Tôi thấy tối tăm mặt mũi, và dường như tôi đang chết.  Tôi đã vĩnh viễn mất đi đôi tay và cặp mắt, mình mẩy đầy các mảnh đạn.  Tỉnh dậy trong bệnh viện, tôi toan tính tự tử.  Một tu sỹ đến săn sóc cho tôi và giúp tôi cầu nguyện vì tôi đã bỏ đạo từ lâu.  Tôi làm theo và cuộc đời tôi đã biến đổi.  Tôi đã gặp lại Đức Giêsu và cùng với Ngài, tôi cầu xin tha thiết: “Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, mà chỉ xin theo ý Cha mà thôi.”  Tại Evreux, tôi gặp một người đàn bà toàn thân bất toại đến nỗi bà ta không thể nói được, cũng không cử động được.  Duy nhất chỉ có ngón chân cái là còn có thể nhúc nhích.  Bà đã dùng ngón chân ấy viết trên một tấm bảng nhỏ để nói chuyện với mọi người.  Bà cũng dùng ngón chân ấy viết tặng tôi một bài thơ với tựa đề “Nụ cười.”  Tôi cũng gặp một người đàn ông khác bị điếc từ năm 14 tuổi, và bị mù chỉ 2 năm sau đó. Trên giường bệnh, người đàn ông 87 tuổi này vẫn nở một nụ cười mãn nguyện và nói với mọi người: “Tôi đã trải qua một cuộc đời rất tốt đẹp.  Tôi cám ơn Chúa và xin cám ơn mọi người”.

Thầy phó tế Jacques Lebreton kết luận: “Cuộc đời của tôi, dù không còn mắt cũng chẳng còn tay, vẫn là một cuộc đời tốt đẹp trong sự yêu thương của Chúa.  Cuộc đời chỉ thực sự bất hạnh khi chúng ta cắt đứt tương giao với Chúa, khi chúng ta không còn thiết tha cầu nguyện để gặp gỡ Ngài và đi sâu vào sự thân tình với Ngài.”

Có gặp gỡ Chúa, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài.  Có nghe tiếng của Ngài, tâm hồn chúng ta mới có thể mở ra.  Khi tâm hồn được mở ra, đến lượt chúng ta, chúng ta mới có thể nói về Chúa cho người khác.  Nếu không, chúng ta chỉ là những kẻ vừa điếc vừa ngọng.  Điều này cần thiết cho mọi tín hữu, nhất là cho các anh em linh mục.  Nếu không biết mở miệng nói về Chúa, chúng ta chỉ là những người câm.  Nếu không để Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, dù có đứng trên bục giảng để khua tay múa chân và thao thao bất tuyệt, cuối cùng chúng ta cũng chỉ là những tên ngọng mà thôi.  Vừa điếc lại vừa ngọng, là nỗi bất hạnh lớn nhất nơi mỗi người.

Lm GB Văn Hào SDB

HÌNH TƯỢNG MẸ TÊRÊSA CALCUTTA

Một con người

Mẹ Têrêsa sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công giáo Albani, vùng Skopje, Macedonie.  Phần lớn cộng đồng Albani tại đây theo Hồi giáo.

Gia đình cầu nguyện mỗi tối, đi nhà thờ hằng ngày, lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày trong suốt tháng Năm, chuyên cần tham dự các lễ kính Đức Mẹ và quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ và túng thiếu.  Trong các kỳ nghỉ, cả nhà có thói quen đến tĩnh tâm tại Letnice – một nơi hành hương kính Đức Mẹ.

Khi còn niên thiếu, Mẹ rất thích đi nhà thờ, đọc sách, cầu nguyện và ca hát.  Thân mẫu Mẹ tình nguyện chăm sóc một phụ nữ nghiện rượu ở gần đấy.  Mỗi ngày hai lần, bà đến giặt rửa và cho người phụ nữ ấy ăn, đồng thời bà cũng chăm sóc một bà góa có 6 con.  Những ngày bà không đi được, Mẹ Têrêsa thay bà đi làm các việc bác ái đó.  Khi bà góa qua đời, những người con của bà ta đến sống với gia đình Mẹ như con ruột trong nhà.

Những năm trung học, Mẹ Têrêsa dùng phần lớn thời gian để hoạt động trong hội Legio Mariae.  Vì giỏi ngoại ngữ, Mẹ phụ giúp một linh mục gặp khó khăn trong ngôn ngữ, dạy giáo lý và đọc rất nhiều sách về các nhà thừa sai Slovenia và Croatia ở Ấn Độ.  Khi lên 12, Mẹ mong muốn hiến trọn đời mình cho Chúa.

Sống trong một gia đình đạo hạnh, Mẹ Têrêsa đã thể hiện hình tượng một người con ngoan, liên đới với thân mẫu, siêng năng trong các việc đạo đức và có chí hướng đi tu như mọi người được ơn gọi sống đời thánh hiến.  Cuộc đời niên thiếu thật bình thường, giản dị, không hề có dấu hiệu của một thiên tài!

Hình tượng một người giống như mọi người là bản tính của Mẹ kể cả sau này khi trở thành người nổi tiếng thế giới.  Khi được giải Nobel Hòa Bình, có người đặt câu hỏi: “Mẹ đang điều khiển một nhà dòng có ảnh hưởng khắp thế giới, vậy có bao giờ Mẹ nghĩ Mẹ sẽ về hưu không?  Khi về hưu Mẹ sẽ làm gì?”  Mẹ đã thẳng thắn trả lời: “Tôi sẵn sàng về hưu lắm chứ.  Việc của Chúa đã có Chúa lo.  Còn tôi sẽ làm gì ấy à?  Tôi có thể ở với các chị em của tôi tại Washington này để dọn dẹp nhà vệ sinh cho các chị, để các chị có thời giờ đi giúp đỡ những người nghèo ở thủ đô của một nước giàu nhất thế giới.”  Khó thể ngờ đây là câu trả lời đơn sơ, hồn hậu của một vị đương nhiệm bề trên một hội dòng quốc tế!

Một nữ tu

Trong 87 năm trần thế, Mẹ Têrêsa trải qua 69 năm (1928-1997) đời tu hành đạo một cách thiết thực và sống động.  Cuộc sống thánh hiến của Mẹ chỉ nhằm phục vụ người nghèo, không chỉ là những người đói khát, thiếu áo quần, không nhà ở, mà còn là những người bị bỏ rơi, không ai chăm sóc, không được hưởng sự yêu thương.  Mẹ từng nói: “Tôi chỉ là cây bút chì của Chúa, để Ngài gởi bức thư tình yêu của Ngài cho thế giới.”

Mẹ Têrêsa đã hội nhập vào nền văn hóa Ấn Độ trong tu phục với tấm khăn choàng sari (trang phục của phụ nữ Ấn) xõa xuống vai và lưng.  Hằng ngày, người nữ tu nhỏ bé như hóa thân thành người bản địa, len lỏi trong những khu ổ chuột nơi thành Calcutta chăm sóc bệnh nhân và người cùng khổ, bất hạnh.  Do vậy, tên Têrêsa của Mẹ đã gắn liền với thành Calcutta.

Các tu sĩ của hội dòng cũng theo gương mẫu Mẹ.  Hội dòng quy định người đầu tiên khi mới đến, muốn gia nhập cộng đoàn đều được mời sang nhà hấp hối, tức là nhà đón tiếp những người sắp chết.  Có một thiếu nữ tìm đến xin gia nhập hội dòng và Mẹ nói với cô: “Con đã nhìn thấy vị linh mục dâng thánh lễ, con đã thấy ngài cầm Thánh Thể trong tay cách cung kính và mến yêu chừng nào, con cũng hãy đi và làm như thế nơi nhà hấp hối, bởi vì con tìm gặp được Chúa Giêsu trong thân thể của người anh em khốn khổ đó.”  Lúc sau, cô trở lại và nói với Mẹ: “Thưa Mẹ, con đã sờ đến thân thể Chúa Kitô suốt ba tiếng đồng hồ.”  Cảm nhận của cô chính là điều Mẹ Têrêsa đã từng thâm tín: “Mỗi người trong số họ, chính là Chúa Giêsu cải trang.”

Hai nét đặc trưng trong đời tu của Mẹ là cầu nguyện – sứ mạng bắt đầu mỗi ngày, trước lúc rạng đông, trước Bí Tích Thánh Thể – và trong ngày là chăm sóc người nghèo nơi các vùng ngoại biên, đã hình thành một chứng từ lôi cuốn biết bao người đồng cảm.  Chỉ riêng các nữ tu với tấm khăn choàng sari ngày nay đã lên tới con số hàng ngàn và hiện diện ở hơn 130 quốc gia.  Việt Nam đã từng là nơi Mẹ 5 lần ghé thăm và hiện cũng đã có đông đảo tu sĩ thuộc hội dòng Thừa Sai Bác Ái Chúa Kitô theo linh đạo của Mẹ.

Thật đáng ngưỡng mộ một nữ tu nhỏ bé đã sáng lập một trong những hội dòng lớn nhất trong Giáo hội hiện thời, nhất là với đường hướng tu trì làm rung động biết bao trái tim con người bất kể màu da, tôn giáo!

Một vị thánh

Mẹ Têrêsa đã sống một cuộc đời thánh thiện và sau khi từ trần đã sớm được Giáo hội tôn vinh là THÁNH.  Ngày 19.10.2003, trong một nghi thức của Giáo hội, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố Mẹ Têrêsa là Chân phước trước 300.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô.  Trong bài giảng, ngài đã gọi Mẹ Têrêsa là “một trong những nhân cách xứng đáng của thời đại chúng ta” và là “hình ảnh của người Samari nhân hậu.”  Ngài nói rằng cuộc đời của Mẹ Têrêsa là “bản tuyên ngôn can đảm của Phúc Âm”.

Ngày 4.9.2016, Mẹ chính thức được tuyên THÁNH.  Mẹ còn tỏ lộ hình ảnh của một vị thánh qua hai phép lạ đã được Giáo hội công nhận.  Phép lạ thứ nhất xảy ra với bà Monica Besra, một phụ nữ bộ tộc Bengali, được chữa khỏi khối u ở bụng nhờ đặt một bức ảnh của Mẹ lên bụng.  Phép lạ thứ hai đến với một kỹ sư người Braxin được chữa khỏi ung thư não bộ khi vợ ông khẩn cầu sự chuyển cầu của Mẹ lên Thiên Chúa.

Một cuộc sống nên thánh đối với Mẹ là một điều bình dị và ai cũng có thể nên thánh.  Mẹ nói: “Thánh không phải là chuyện xa hoa, nghĩa là chỉ dành cho một ít người.  Thánh là bổn phận đơn giản của mỗi chúng ta.  Thánh là nhận bất cứ cái gì Chúa Giêsu ban cho ta và cho Chúa Giêsu bất cứ cái gì Người đòi nơi ta với một nụ cười thật tươi.”

Mẹ cũng phân biệt rạch ròi ơn gọi và công việc: “Nhiều người lầm lẫn công việc và ơn gọi.  Ơn gọi của chúng ta là yêu mến Chúa Giêsu.”  Đắm chìm trong tình yêu Chúa, Mẹ lắng nghe tiếng Chúa dạy và thể hiện những công việc Chúa muốn, như trong thư của Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.  Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).

Hình tượng Mẹ Têrêsa Calcutta nơi trần thế đã được khắc họa đúng như Mẹ đã từng thổ lộ: “Theo huyết thống, tôi là người Anbani.  Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ.  Theo đức tin, tôi là một nữ tu Công giáo.  Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian.  Theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về Trái Tim Chúa Giêsu.”

Phạm Ngọc