ANH EM HÃY RA ĐI

ZZAi được mời gọi gặt lúa?  Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ. Không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước.  Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.  Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt.  Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.

Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.  Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.  Một thứ hành trang nhẹ tênh: Không túi tiền, bao bị, giày dép.  Một việc phải làm: Chữa lành những người ốm đau.  Một thái độ phải có: Khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.

Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì?  Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác.  Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.

Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại.  Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.  Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.

Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói.  Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè, thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: Khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.  Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy.  Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối.

Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.

*******************************

Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: Rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.

Trích dẫn từ “Manna”

THẦY BIẾT CON YÊU MẾN THẦY

627Hôm nay, Hội Thánh hân hoan và long trọng mừng kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô – Phaolô, hai cột trụ đã được chính Đức Kitô cắt đặt để xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính máu của mình như lời Ca Nhập Lễ mà Giáo hội hát lên trong phụng vụ thánh lễ hôm nay:

“Đây là hai vị Tông Đồ đều anh dũng
Dâng máu đào xây Giáo Hội ngàn thu
Chén đắng Thầy trao, uống cạn chẳng từ
Chúa ưu đãi, nâng lên hàng tâm phúc”

Trong ý nghĩa đó, tất cả mọi Kitô hữu chúng ta hôm nay đều được thừa hưởng và dự phần vào công trình và công nghiệp của hai vị Đại Tông Đồ này.  Xin dâng lên các Ngài tâm tình yêu mến và tri ân cảm tạ.  Tâm tình này chắc chắn sẽ đặc biệt hơn, nồng thắm hơn nơi tất cả những ai, những cộng đoàn, những tổ chức… đã chọn hai Thánh Phêrô – Phaolô làm Vị Bổn Mạng của mình.

Chắc chắn không phải tình cờ, khi phụng vụ chọn đọc các trích đoạn Lời Chúa trong ngày Đại lễ kính hai Thánh Tông Đồ hôm nay: Bài Đọc 1 : Sách Công Vụ kể lại: từ ngục tù, Thánh Phêrô đã được giải cứu để lên đường làm chứng đức tin giữa những lời cầu nguyện thiết tha của cộng đoàn Hội Thánh.  Trong khi đó Bài đọc 2, cũng từ tù ngục, Thánh Phaolô sắp sửa hoàn tất cuộc hành trình chứng tá, cuộc chiến đấu của niềm tin mà lời nhắn gởi cho người môn đệ yêu dấu Timôthê mang âm hưởng của một lời trăn trối.  Và rồi, Lời Chúa đã liên kết hai cuộc đời, hai cá tính, hai sứ vụ xem ra khác biệt của Phêrô và Phaolô thành một đáp án duy nhất qua 2 câu trả lời: một của Phêrô dành cho Chúa Giêsu: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và một của Chúa Giêsu dành cho Phêrô: “…Trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”  Quả thật, sứ vụ Tông Đồ, cuộc hành trình chứng tá và tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Giêsu và Hội Thánh, phải chăng là những điểm chung cốt yếu đã đem hai Vị Tông Đồ tương đối dị biệt này tiến lại gần nhau, gần nhau cho đến độ cả hai đã cùng hội tụ tại kinh thành Rôma để cùng làm chứng đức tin cách trọn vẹn và anh hùng trong cùng một thời điểm: Phêrô bị đóng đinh ngược đầu và Phaolô bị xử trảm.

Mừng lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô – Phaolô có lẽ là dịp tốt nhất để chúng ta cùng khám phá những chứng từ sống động nơi hai cuộc đời vĩ đại đã cùng nhau thiết kế Ngôi Nhà Giáo Hội và chuyển tải cho muôn thế hệ những sứ điệp tuyệt vời của Lời Mặc khải của Thiên Chúa.

I. Hai cuộc đời khác biệt:

  • Trên bình diện cội nguồn và cá tính:

– Thánh Phêrô là người thành Bétsaiđa, miền Galilê, xuất thân từ môi trường bình dân, ít học, làm nghề đánh cá (Mt 4, 18).  Trong khi đó, mặc dù là gốc dân do Thái, Phaolô lại sinh tại Tarsô (Cv 9, 11), mang quốc tịch Rôma (CV 16, 37), được học hành đến nơi đến chốn với danh sư biệt phái Gamaliel (CV5, 34; 22, 3).

– Nếu Phêrô luôn trung thành với lề luật và gắn bó với môi trường xã hội Do Thái như những người mộ đạo đương thời: giữ luật cắt bì, coi trọng việc qui định sạch dơ về đồ ăn thức uống… (Cv 10, 14), thì Phaolô, cho dù có nhiệt thành với luật Môsê, nhưng vì được hấp thụ nền văn hóa Hy Lạp, lại sinh trưởng nơi môi trường hải ngoại, nên có cái nhìn thông thoáng và cởi mở hơn đối với thế giới lương dân.

  • Trên bình diện ơn gọi và sứ vụ:

– Phêrô là một trong những môn đệ đầu tiên đi theo Chúa và đã dấn thân trong ơn gọi này với tất cả lòng nhiệt thành và bộc trực của mình.  Trích đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe đã minh họa rõ nét: chính lòng nhiệt thành và tính bộc trực đã thúc đẩy Phêrô vượt trên anh em để tuyên xưng niềm tin: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.”  Một lời tuyên tín sâu sắc tuyệt vời, là kết quả của ơn mặc khải của Thiên Chúa cùng với cảm nhận của riêng mình đã khiến Chúa Giêsu khen ngợi và đặt Ngài làm đá tảng xây nền Giáo Hội.  Nhưng “Đá Tảng” ấy vì đã vội “bốc đồng”, muốn chơi trội định ngăn cản Đức Giêsu thực thi chương trình cứu độ, nên đã bị Chúa quở trách là Satan.  Mà nào chỉ có lần này!  Chuyện trên Biển Hồ đêm nào vẫn còn đó: Đầu tiên, khi con hướng về Chúa, Phêrô đã bước những bước an toàn trên sóng nước.  Nhưng sau đó, suýt nữa đã chìm nghỉm yếu đuối của mình.  Nhưng thê thảm nhất phải là chuyện xảy ra trong biến cố khổ nạn: Chính tại bàn tiệc ly, Phêrô đã thách thức: “Dù cho mọi người vấp ngã, nhưng con thì không…!  Dù phải chết với Thầy, con sẽ không chối Thầy.”  Thế nhưng, trong chính đêm định mệnh ấy, Phêrô đã run sợ chối Thầy ba lần chỉ vì lời nói của một người đầy tớ.  Nhưng thật may mắn cho Phêrô khi ông vẫn còn lẽo đẽo theo Thầy để cuối cùng nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ để rồi, cũng tại nơi Biển Hồ Tibêriat, sau ngày Chúa sống lại, Phêrô hết còn tự tin nơi chính mình mà chỉ biết phó thác nơi sự khôn ngoan của chính Chúa: “Thầy biết hết mọi sự.  Thầy biết con yêu mến Thầy.”  “Tảng Đá” Phêrô đã vỡ vụn hôm nào tưởng đâu sẽ bị loại bỏ; ai ngờ Đức Kitô đã hàn gắn lại để ân cần trao cho Ông sứ mệnh chăn dắt đoàn chiên.

– Ơn gọi của Thánh Phaolô lại không đơn giản như thế.  Trước khi trở thành một Tông Đồ nhiệt thành sâu sắc của Đức Kitô, thì Phaolô đã là một Pharisiêu cương quyết loại trừ Kitô giáo với tất cả nhiệt tình và suy nghĩ chín chắn.  Với niềm tin được cắm rễ vững chắc trong truyền thống lề luật Môsê, làm sao Phaolô lại chấp nhận một tên Giêsu Nadarét nào đó vi phạm luật ngày Sabát?  Và còn hơn thế nữa, làm sao chịu được những luận điệu tuyên truyền của đám dân chài Galilê, đồ đệ của Giêsu cho rằng Ngài đã sống lại và đang sống!  Đồng tình trong vụ ném đá chết Stêphanô chưa đủ đâu!  Phaolô còn hung hăng đi truy bắt các Kitô hữu để tiêu diệt mọi mầm mống có nguy cơ phát sinh một tôn giáo mới, ngược lại tôn giáo cựu truyền của cha ông.  Nhưng rồi, một ánh sáng diệu kỳ đã đánh mù đôi mắt xác thịt trần tục của ông để mở ra cho ông một nguồn sáng mới.  Tên Pharisiêu cực đoan bài xích Kitô giáo hết cỡ, thì với biến cố Damas, giờ đây đã trở thành “người loan báo Chúa Kitô hăng nồng như một “vận động viên lao về phía trước” (Pl 3,13), như một chiến sĩ “chiến đấu ngoan cường trong trận chiến chính nghĩa” (Thư gởi Timôthê trong BĐ 2) mà không một trở lực nào, dù bắt bớ tù đày, dù đòn vọt khổ đau, dù sống hay chết… có thể “tách Phaolô khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô.”  Và cuộc sống của Phaolô từ đó đã xoay quanh chân lý nền tảng này: “Tôi sống đây, nhưng không phải là tôi, mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20)

II. Hai cuộc đời hiệp nhất trong Đức Kitô:

Qua vài phân tích sơ lược trên, quả thật “Hai Cột trụ” của Giáo Hội có nhiều điểm khác biệt mà chính Kinh Tiền Tụng trong phụng vụ hôm nay đã nhắc tới: “Cha đã sắp đặt để thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân.  Như vậy các Ngài đã dùng đường lối khác biệt, để qui tụ một gia đình duy nhất cho Đức Kitô…”  Quả thật, chính niềm tin, lòng yêu mến Chúa Kitô và Hội Thánh Ngài, đã đem Phêrô và Phaolô lại gần nhau.  Chính Phêrô đã không bao giờ nhân danh quyền thủ lãnh để áp đặt Phaolô, nhưng đã biết khiêm hạ nhìn nhận khuyết điểm (Gl 2, 2tt).  Cũng thế, Phaolô không bao giờ nại vào trình độ văn hóa, khả năng suy tư để xem thường Phêrô.  Phaolô luôn ý thức vai trò củng cố đức tin và sứ mệnh chăn dắt Giáo Hội của Phêrô được chính Chúa Kitô trao phó.  Và nhất là, cho dù ở hai lãnh vực hoạt động khác nhau, nhưng niềm tin và lòng yêu mến đã thúc đẩy Phêrô – Phaolô cùng hội tụ tại thủ đô Rôma để làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính máu của mình.  Phêrô bị đóng đinh ngược đầu còn Phaolô bị xử trảm.

III. Bài học hôm nay:

Gần 2000 năm qua rồi nhưng cuộc đời của Phêrô – Phaolô vẫn còn là một gợi hứng đầy sinh động và cuốn hút cho Dân Chúa nói chung và cho mỗi một người chúng ta nói riêng.  Bài học lớn đầu tiên mà Hội Thánh rút ra từ hai cuộc đời vĩ đại này phải chăng là “Sự hiệp nhất trong đa dạng.”  Đa dạng trong tính tình, khuynh hướng, trình độ tri thức lẫn phương cách hoạt động nhưng Hai Vị Tông Đồ lại hiệp nhất trong cùng một đức tin và một lòng yêu mến.  Sự hiệp nhất như thế thật sự là quá cần thiết cho Giáo Hội muôn nơi và muôn thuở.  Cho dù hôm nay, Giáo hội có tỏa lan cỡ nào, có vươn dài đến mọi biên giới của muôn dân tộc, quốc gia, thì sự khác biệt mãi mãi sẽ không làm cho Giáo Hội chia rẽ, phân tán, nhưng càng thêm phong phú tốt tươi vì mọi phần tử được liên kết với nhau trong một mối dây thâm sâu nhất đó là tình yêu và lòng trung tín đối với Chúa Kitô, đối với Hội Thánh của Ngài.

Cách riêng đối với mỗi người chúng ta, chỉ cần nhớ lại một đôi câu nói của Hai Ngài, chúng ta cũng có thể tìm thấy cả một linh đạo cần thiết cho hành trình đức tin của mình:

– Để sống khiêm hạ: “Lạy Thầy xin hãy xa con, vì con là người tội lỗi…” (Phêrô); “Cho đến bây giờ chúng tôi đã nên như rác rưởi thế gian…” (Phaolô)

– Để vững lòng trông cậy: “Lạy Thầy cứu con” (Phêrô), “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (Phaolô)

– Để thuộc trọn về Đức Kitô như chọn lựa cuối cùng: “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai…” (Phêrô), “Đối với tôi, sống là Đức Kitô…”, “Tôi sống đây không phải tôi nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi” (Phaolô)

– Để yên mến Đức Kitô hết mình: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Phêrô), “Không có gì tách tôi khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Phaolô).

– Để trung thành với Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh: “Dù có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Phêrô), “Tôi đã chạy đến cùng đường và giữ vững niềm tin” (Phaolô)

– Để vâng lệnh Chúa Kitô ra đi loan báo Tin Mừng: “Vâng lời Thầy con xin thả lưới” (Phêrô), “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (Phaolô)

– Để củng cố và xây dựng Hội Thánh: “Anh em là Dân tộc thánh… là những viên đá sống xây dựng đền thờ Thiên Chúa” (Phêrô), “Anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận” (Phaolô)

LM Giuse Trương Đình Hiền

CÁI BÓNG

Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình…  Nhưng càng trốn thì cái bóng càng đeo đuổi anh.  Anh lăn lộn trên đất, anh đâm xuống nước, dù anh đi đâu, dù anh làm gì, cái bóng của anh vẫn còn đó.

Có một người khôn ngoan nghe chuyện mới đến cố vấn cho anh khờ.  Người khôn ngoan ấy nói như sau: “Để thoát khỏi cái bóng của anh, anh chỉ cần đến đứng dưới bóng của một cây lớn.”

Có nép mình dưới bóng cây Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của không biết bao nhiêu phù phiếm, hư ảo trong cuộc sống của chúng ta.

622Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng nép bóng dưới cây Thập giá của Chúa Giêsu.  Con người ấy chính là Goan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, nhưng đồng thời cũng là người luôn nép bóng trong Chúa Giêsu.

Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của Ngài trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.”  Dưới cái nhìn của con người, như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ.  Ngày sinh của Ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường.  Sự chào đời của Ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh.  Vị tiên tri được xem là cao cả nhất trong lịch sử Isreal ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị tiên tri nào đã quy tụ được…  Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.

Gioan nhỏ lại trong cái chết ấy, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong Mầu Nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về chính cái chết của Chúa Giêsu.  Nhưng cũng chỉ trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa.  Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.

Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là bước đi trong từng bước nhỏ lại của Ngài.  Trong từng bước ấy, chúng ta hãy đặt mình dưới bóng vĩ đại của Thập giá Chúa Giêsu.  Chỉ trong chiếc bóng vĩ đại ấy của Thập giá Chúa Giêsu, những nghịch cảnh, những đau thương, những nghi ngờ và ngay cả những cái chết từng ngày sẽ mang lấy ý nghĩa.  Và ý nghĩa ấy là gì nếu không phải là sự lớn lên của Đức Kitô trong chúng ta?

Chúng ta có nhỏ lại trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong những ham muốn ganh tỵ bất chính của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong hận thù nhỏ nhen của chúng ta, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.

Radio Veritas

CHIẾC BỊ

Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc bị” (La besace).  Thi sĩ coi Chúa như một người bạn và tâm sự rằng.

“Hôm ấy, tôi đang mê mải bóp trán nặn vần thơ thì tôi nghe tiếng Bạn mời.  Tôi vội vã đi theo.
Tôi bỏ vào trong chiếc bị một sống tiêu bằng trúc, nhiều áo quần và cả một tập thơ, một album kỷ niệm thân thương, với nhiều kỷ vật quý giá.
Tôi cùng Bạn lên đường khi mặt trời vừa hé.
Bạn đi trước, tay không nhẹ nhõm,
Tôi theo sau với chiếc bị nặng trĩu trên vai.
Chân kéo lê trên một quãng đường dài.
Một ngày đã trôi qua trên cánh đồng gió thoảng.
Mỏi vai, tôi xin dừng lại giữa đường.
Mở bị ra tôi quăng bớt áo quần, rồi cùng Bạn tôi rảo bước.
Vẫn tay không, Bạn nhẹ nhàng đi trước,
Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo ngoài.
Sắp lên cầu để vượt khỏi dòng sông,
Tôi quăng đi tập thơ và sáo trúc, rồi cùng Bạn đi tiếp tục.
Đường lên cao dốc giác và uốn khúc quanh co.
Ôi cánh tay mỏi rã rời, tôi nài xin Bạn cho tôi dừng nghỉ một chút để tìm lại tấm hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất đời, chụp vào ngày hôn lễ với cha tôi.
Nhưng tấm hình không còn nữa, nó đã bay mất.
Tôi bỗng buông xuôi, mắt tôi tối tăm lại giữa mặt trời đúng ngọ.
Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló trên những giọt sương rơi,
Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường.
Nắm tay Bạn nhanh chân tôi đi tiếp.
Nhưng bỗng nhiên Bạn bảo tôi ngừng bước.
Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng,
Bạn cười tươi nhè nhẹ vỗ vai tôi và nói: Hãy dừng chân vì chúng ta đã đến nơi rồi.”

Anh chị em thân mến,

Muốn theo Chúa Giêsu đến cùng, phải ra đi tay không, phải bỏ lại đằng sau cả hành trang, kỷ vật và người thân.  Khi đã mất hết, chỉ còn lại một mình Ngài, cuộc hành trình sẽ kết thúc êm đẹp.  Đó cũng là những đòi hỏi mà Chúa Giêsu ngỏ cùng những người muốn đi theo Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay:

622Thánh Luca kể lại, khi Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu thế bằng tử nạn thập giá, thì một người chạy lại bày tỏ thiện chí tối đa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin theo Thầy.”  Chúa Giêsu không vồn vã cũng không xua đuổi, nhưng nói lên thân phận của Ngài để giúp cho người kia ý thức rõ ràng những gì chờ đợi anh ta, nếu anh ta muốn theo Chúa một cách dứt khoát và tuyệt đối như vậy, Ngài nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chỗ dựa đầu.”  Điều nầy Chúa Giêsu đã thực hiện ngay từ lúc Ngài sinh ra: “không có chỗ cho ông bà trong quán trọ,” và Ngài đã được thân mẫu vấn tã đặt nằm trong máng cỏ.  Cuối cùng, trên thập giá, chúng ta cũng đã thấy tất cả sự khốc liệt của lời tuyên bố nầy.  Trong Tin Mừng thứ ba, không bao giờ thấy nói đến một ngôi nhà riêng của Chúa Giêsu hoặc của nhóm môn đệ.  Thực tế là vậy đó, muốn theo hay không tùy ý.

Một người khác lại được Chúa Giêsu ngỏ lời trước: “Hãy theo Tôi.”  Nhưng anh ta lại xin phép trở về nhà mai táng cha mình trước đã.  Chúa Giêsu không nhượng bộ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa.”  Sứ mạng loan báo Nước Trời là ở cõi chết. Hãy để những người ở ngoài Nước Trời chôn cất những người ở ngoài Nước Trời.  Còn người đã được gọi phục vụ Nước Trời thì hãy lo bổn phận chính của mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì.  Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời, cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.

Người thứ ba đến xin theo Chúa Giêsu thì vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện: “Thưa Thầy, con xin đi theo Thầy, nhưng xin cho phép con về từ giã gia đình trước đã.”  Chúa Giêsu nói thẳng cho anh ta biết rằng thái độ ấy không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.  Câu chuyện nầy cho ta liên tưởng đến câu chuyện ông Êlia gọi ông Êlizê mà chúng ta vừa nghe trong Bài đọc I: Ông Êlizê được gọi, xin về từ giã cha mẹ trước đã.  Ông Êlia đồng ý ngay.  Còn ở đây, Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mãnh liệt hơn đòi hỏi của Cựu Ước.  Toan đi theo Chúa Giêsu mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa Giêsu thì khác nào kẻ đã cầm cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau.  Cầm cày thì phải nhìn về phía trước mới cày được.  Muốn theo Chúa Giêsu thì không được quyến luyến cái gì khác, kể cả cha mẹ.

Ba mẫu đối thoại nầy đặt chúng ta trước ánh sáng chói lòa của những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa.  Muốn theo Chúa Giêsu thì phải chấp nhận đồng số phận với Ngài: nghèo khó, trần trụi, không nhà riêng, không trụ sở, không có gì bảo đảm cho mình ở trần gian nầy; phải coi nhiệm vụ rao giảng Nước Trời là nhiệm vụ trên hết.

Chúa Giêsu không nhượng bộ nửa bước trước những bổn phận chính đáng nhất như mai táng, từ giã cha mẹ.  Chính Ngài đã cư xử như vậy lúc Ngài ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi.  Thánh Giuse và Đức Mẹ đã đau điếng về chuyện nầy.  Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu thật khó hiểu: “Ông Bà không biết rằng tôi phải lo việc của Cha tôi sao?”  Đức Mẹ đã ghi nhớ và nghiền ngẫm câu ấy suốt đời.  Những lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây cũng làm cho chúng ta choáng váng chẳng khác Đức Mẹ và Thánh Giuse lúc ấy.  Muốn hiểu được, chúng ta phải im lặng suy đi nghĩ lại trong lòng.

Đối với những người được mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa, những lời nầy mời gọi kiểm điểm lại thái độ sống của mình.  Chúa Giêsu và Nước Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của mình chưa?  Đối với mọi Kitô hữu, những lời nầy cũng có ý nghĩa, vì tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu trên con đường tới vinh quang đều phải coi Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn tất cả, nếu còn ngoái cổ lại đằng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa Giêsu thì không xứng đáng vào Nước Thiên Chúa.  Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát biểu: “Tất cả những cái tôi coi là mối lợi cho tôi, thì vì Đức Kitô, tôi đã coi như bất lợi.  Chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy như thua lỗ, bất lợi hết, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi.  Vì Ngài, tôi đành bị tổn hại về mọi sự và xem như rác rưởi tất cả, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3, 7-13).

Theo Chúa thì có nhiều người muốn theo.  Nhưng lại chỉ muốn theo Chúa như quan niệm và ý muốn của mình, chứ không theo Chúa như Chúa muốn.  Vì thế, có khi mắc phải ảo tưởng là mình đang theo Chúa, nhưng thật ra họ đang theo mình và bắt Chúa theo mình.  Theo Chúa đúng nghĩa là phải chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, mất gốc; phải từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với ý Chúa, với sự thánh thiện của Ngài, phải từ bỏ những gì là nguy cơ làm cho ta xa Chúa hay cản trở ta kết hợp mật thiết với Chúa.  Theo Chúa là phải hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa và thuộc trọn về Chúa.

Việc tham dự tích cực và trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Kitô được tái diễn trên Bàn Thánh nầy sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời thuộc trọn về Chúa mãi mãi.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

 

THÁNH LUY (ALOYSIUS) GONZAGA – TUỔI TRẺ DÂNG HIẾN

Luy Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ Castiglione, miền bắc nước Ý.  Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước đều được đặt cả vào Luy.  Lên bốn tuổi, Luy đã bắt đầu cùng bố sống trong quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao.  Ông hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa.  Lên 9 tuổi, Luy và cậu em Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả.  Cũng ở nơi ấy, Luy nhìn ra mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc.  Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn Luy theo con đường yêu thương của Ngài.

Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Luy mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của cậu vẫn hướng về điều thiện bằng việc 523cầu nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh.  Nhờ vậy, Luy khám phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và bàn tiệc để tránh phạm tội.  Sau thời gian ở Firenze, Luy được gởi tới Mantua sống với những người họ hàng.  Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn Tóm lược Giáo lý của Cha Phêrô Canisiô, trong đó có cả phần suy niệm.  Luy liền dùng tập sách này làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao.  Cậu ăn chay 3 ngày mỗi tuần, suy niệm cả ban sáng lẫn ban tối, tham dự thánh lễ hàng ngày.

Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Luy gặp một cha giải tội dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu.  Ngày 15 tháng 8 năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm, Luy cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập dòng Tên.  Ý đã quyết, Luy nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.

Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển trách Luy nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý.  Nhưng tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Luy một mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên.  Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để Luy ra đi.  Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con, ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Luy là “kho tàng quý báu nhất trên cõi đời này”.

Tháng 11 năm 1585, Luy nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường hướng về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma.  Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những người hầu cận.  Trên đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói với anh: “Chắc công tử Rudolpho vui lắm,” Luy trả lời:“Tôi còn vui hơn.”

Khi vào nhà Tập, Luy tâm niệm rằng: “Tôi là thanh sắt cong, phải vào nhà Dòng để được uốn lại cho thẳng.”  Trong thực tế, Luy nhận thấy rằng nếp sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà.  Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha giám tập, Luy không được tiếp tục việc đánh tội như đã quen làm, cậu cũng không được ăn chay thường xuyên như đã thực hành trước đây.  Trên hết, Luy từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào luyện trở thành Giêsu hữu.  Luy bắt đầu tập làm những việc nhỏ nhặt trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước đây anh chưa từng đụng đến.  Hết thời gian nhà Tập, Luy tuyên khấn lần đầu ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương trình thần học.

Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành.  Cùng với các anh em khác, Luy đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân.  Luy đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng.  Một lần sau khi trở về từ bệnh viện, Luy nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa.  Con cảm thấy nơi mình một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân.  Con nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về với Ngài.”

Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây.  Một hôm, Luy đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận.  Về nhà anh ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.

Những ngày sau đó, Luy đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn phó thác kiên vững.  Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa.  Thời gian ấy đến, ngày 21 tháng 6 năm 1591, Luy xin được lãnh các bí tích sau cùng.  Vào khoảng 11 giờ, Luy, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần cuối cùng.  Anh ra đi trong bình an khi chỉ mới 23 tuổi.

Ngài được Đức Phaolô V tuyên phong chân phước vào ngày 19.10.1605 và được Đức Bênêđictô XIII nâng lên hàng hiển thánh vào ngày 31.12.1726.  Anh em Dòng Tên kính nhớ ngài vào ngày 21 tháng 6 hàng năm.  Ngài được nhiều người chọn làm đấng cầu bầu cho giới trẻ, sinh viên, những người chăm sóc các bệnh nhân.  Anh em Dòng Tên chọn ngài làm đấng cầu bầu cho các học viên thần học.

Thánh Luy Gonzaga là một tấm gương cho chúng ta, nhất là các bạn trẻ, về sự quảng đại từ bỏ vinh hoa phú quý để bước theo Đức Giêsu Kitô nghèo khó, chịu sỉ nhục, khiêm hạ và hiến thân phục vụ cho anh chị em mình.

Lạy Cha, xin giúp chúng con biết noi gương thánh Luy Gonzaga, người anh em của chúng con đã từ bỏ vinh hoa phú quý để nên người môn đệ Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường.  Xin đừng để chúng con lây nhiễm tinh thần thế tục, nhưng xin dạy chúng con biết tôn vinh Cha trong mọi sự.  Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.

http://dongten.net

VIẾT VỀ CHA TÔI

Nếu phải viết về một người vĩ đại thì tôi sẽ viết về cha tôi.  Trên đời này, có lẽ tình mẹ dễ cảm nhận hơn tình cha bởi lẽ đứa con nào cũng được mẹ mang nặng đẻ đau, được mẹ chăm nom từng bữa ăn, tấm áo.  Nghĩa mẹ dạt dào như nguồn nước, như trong lời ca dao, song tình cha thì cao vời vợi, chỉ trong hoàn cảnh người con phải ngước mắt lên thì mới nhìn thấy được.

Tôi vẫn nhớ buổi chiều hôm ấy, tìm được một lời giải hay cho đề toán thầy ra và được thầy khen giữa đội tuyển học sinh giỏi toán.  Tôi hớn hở ngồi chờ cha tôi trước cổng trường, thầm nghĩ sẽ chạy ù ra khoe với cha khi cha đến đón.  Nhưng các bạn tôi đã được mẹ cha đến đón, chỉ còn tôi đứng nép trước cổng trường trong bóng chiều đang xuống. “Chắc cha quên đón mình rồi!”  Mắt tôi cay xè, chực khóc.  Tôi giận cha tôi lắm.  Tính ương ngạnh trẻ con trong lòng trỗi dậy, tôi đứng lên và quyết đi bộ về nhà, qua một quãng đường dài 5 cây số từ trường tôi gần chợ Tân Ðịnh về đến Hàng Xanh, Sài-gòn.

523Tôi đã không ăn cơm tối hôm đó dù mẹ tôi cố dỗ dành.  Tôi nghe mẹ trách cha tôi sao quên đi đón, còn cha nói: “Tuy là một học sinh giỏi nhưng con trai mình yếu đuối lắm.  Anh không hề quên đón con.  Anh đã đến trường nhưng không đón mà lặng lẽ theo sau con, xem con ứng xử thế nào.  Con mình cần được thử thách, phải tập giải những bài toán khó trong đời.”  Cha tôi đã dạy tôi những bài học làm người như thế đó.  Ngồi sau lưng cha, cha thường nhắc tôi: “Ðừng ngồi cứng đờ, mà phải biết nghiêng người ngược hướng nghiêng của xe thì cha chạy xe mới dễ.”  Ðể rồi bao năm tháng, ngồi trên chiếc đò tròng trành trên mương rạch cùng các bạn sinh viên, tôi lại nhớ yên xe của cha, biết giữ thăng bằng đò, cũng như thích nghi giữa những tròng trành của cuộc sống.

Cũng trên yên xe ấy, cha đã dạy tôi bài học tình người.  Mẹ tôi bị tai biến não và mất trí từ năm tôi lên 11 tuổi.  Cha tôi sau giờ làm việc thường đưa tôi đi chợ trưa.  Một hôm khi đến chợ nghe tiếng kêu “Giật đồ!”  Cha bảo tôi ôm chặt rồi phóng xe theo chặn đầu kẻ cắp: thì ra là một thằng bé.  Bắt nó trả lại túi xách và xin lỗi người phụ nữ, cha tôi dạt đám đông đang la ó đòi đưa nó lên công an: “Nó hối lỗi rồi.”

Ðến dãy hàng ăn, cha tôi hỏi nó muốn ăn gì trước cặp mắt mở to ngạc nhiên của nó.  Vừa ăn tôi thắc mắc hỏi cha sao không cho nó tiền mà lại dắt nó đi ăn.  Cha tôi trả lời như cho chính cuộc đời này: “Tiền đã biến người bạn ấy thành thằng ăn cắp, con không thấy sao?”   

Tôi dậy rất sớm, chuẩn bị dắt chiếc xe đạp ra cùng “lều chõng” đi thi đại học.  Cha đã chờ tôi trước cổng, nhẹ nhàng nói: “Con cất xe đi, cha đưa con đi thi.  Sao không cho cha biết hôm nay con đi thi đại học?”  Tôi chỉ biết lặng im vì muốn tự đi thi như chúng bạn.  Cuối buổi thi, cùng cô bạn thi cùng phòng ra đến cổng trường, đã thấy cha tôi từ xa vẫy gọi.  Cô bạn mãi từ quê miền Trung vào dự thi nháy mắt nói với tôi: “Bạn sướng thật, có bố đếm từng phút mình làm bài bên cổng trường thi!”  Sau này khi nhận giấy báo trúng tuyển, cô bạn ấy hỏi tôi: “Ai sẽ là người thân đầu tiên bạn khoe niềm vui này? – rồi nói luôn – mình đâu còn bố để khoe.”    

Ðêm đó rất khuya, tôi rón rén đến bên cha.  Người đang ngồi trên ghế bố đọc truyện Thủy Hử.  Tôi đưa cha giấy báo trúng tuyển đại học.  Cha xem rất lâu, khẽ khàng xếp lại rồi nắm chặt bàn tay tôi: “Hãy là một người thầy có trái tim như thầy Mạnh Tử, con nhé… “

 Lưu Trọng Tuấn

NHẬN DIỆN ĐỨC KITÔ

523Đức Kitô là ai?  Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc.  Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.

“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu.  Là Đấng được Thiên Chúa sai đến.  Là Đấng dân Do Thái mong đợi.  Nhưng Đấng Kitô thực sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ.  Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới.  Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.

Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng.  Thoạt tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận.  Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều.  Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại.  Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng Kitô.  Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín.  Phêrô đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”  Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy.  Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì.  Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực.  Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.

Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.”  Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô.  Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì.  Họ có thể tôn vinh Người lên làm vua.  Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.  Như thế là sai đường lối của Chúa.  Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.

Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”  Đó là con đường tủi nhục.  Con đường khổ nạn.  Con đường chết chóc.  Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang.  Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc.  Sau chết chóc là phục sinh.  Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng.  Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.  Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”  Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa.  Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời.  Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang.  Vượt qua cái chết để đến sự sống.

Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì.  Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào.  Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào.  Nhận diện Đấng Kitô đã khó.  Đi vào con đường của Người còn khó hơn.  Ta hãy xin Chúa ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi.  Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh phúc đích thực.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

ÔNG THÁNH HAY LÀM PHÉP LẠ 

523Người ta thường gọi thánh Antôn Pađua là “ông thánh hay làm phép lạ.”  Ngài là linh mục tiến sĩ Hội Thánh.  Tuy ngay lúc sinh thời Ngài đã làm rất nhiều phép lạ, nhưng Ngài một mực hạ mình khiêm nhu.  Chính sự khiêm nhượng cộng với lòng mến Chúa yêu Ðức Mẹ say mê và thương người tha thiết của Ngài đã làm nên phép lạ.

Mở mắt chào đời vào năm 1195 tại Lisbon, thủ đô Bồ Ðào Nha, Ngài được đặt tên là Phênanđô.  Thuộc dòng dõi sang trọng và đạo hạnh, Phênanđô được mẹ ân cần dậy dỗ ngay từ tấm bé.  Giêsu Maria là những tiếng Phênanđô bập bẹ đầu tiên trong đời.  Ngay từ nhỏ, Phênanđô đã khấn giữ mình đồng trinh theo gương Ðức Mẹ.  Cậu đặc biệt yêu thương những kẻ khó nghèo.  Lên 10 tuổi, Phênanđô được mẹ trao phó cho cha bác huấn luyện chữ nghĩa và đường đạo đức.

Một lần Phênanđô đang sốt sắng quì cầu nguyện trước Ðức Mẹ thì bị ma quỉ nổi cơn ghen lôi đình, hắn nhẩy lên vai và bóp cổ cậu cho chết.  Cổ họng bị tắc nghẽn không sao kêu tên Giêsu Maria được.  Phênanđô liền dùng ngón tay vẽ hình thánh giá trên bậc đá.  Ma quỉ vô cùng khiếp sợ, hắn buông cậu ra, vội biến mất.  Chúa đã làm phép lạ khiến đá ra mềm, in sâu hình Thánh Giá cậu vẽ vào bậc đá.

Năm 17 tuổi, Phênanđô từ giã thế gian, vào tu dòng thánh Augustinô tại Lisbon.  Sau 2 năm, thầy xin đến một tu viện khác, xa nhà quê để dễ bề tu trì.  Bề trên sai thầy tới Cônimbriga.  Tại đây thầy học hành rất thông giỏi và nổi tiếng nhân đức.  Nhưng thầy luôn xưng mình là vô dụng, và chỉ muốn làm những công việc hèn hạ.

Sau khi khấn dòng, nhiệm vụ của thầy Phênnanđô là coi sóc bệnh nhân.  Thầy rất yêu thích nhiệm vụ này vì có dịp hãm mình và tỏ lòng yêu thương anh em.  Một lần, nhân dịp Lễ Chúa Giáng Sinh, vì ngăn trở giúp bệnh nhân nên thầy không thể dự lễ chung với nhà dòng.  Khi nghe chuông báo hiệu dâng Mình Thánh Chúa, thầy liền quì gối quay về phía nhà thờ.  Bỗng nhiên bức tường ngăn cách giữa nhà thờ và phòng y tế nứt ra, dành chỗ cho thầy chiêm ngắm Mình Thánh Chúa trên bàn thờ.

Năm 25 tuổi, thầy Phênanđô trở thành một linh mục dòng Augustinô.  Nhưng cha lại cảm mến gương lành và cuộc sống thánh thiện của thầy dòng Phanxicô lúc đó mới được thành lập, nhất là vô cùng cảm phục gương 6 thầy Phanxicô mới chết vì đạo.  Ðược ơn trên soi dẫn, cha đến xin bề trên chuyển sang dòng Phanxicô.  Bề trên chấp thuận sau khi biết rõ Thánh Ý Chúa.  Trong dòng Phanxicô, cha Phênanđô được đổi tên là Antôn.

Thời gian đầu tại dòng Phanxicô, người ta chưa biết tiếng nhân đức và sự thông thái cha Antôn, nên cha được trao cho nhiệm vụ rửa bát đĩa và quyét nhà.  Nhưng không bao lâu, danh tiếng cha được biết đến.  Chính cha thánh Phanxicô sai cha đi giảng đạo khắp miền Bắc Ý rồi qua cả nước Pháp.

Thiên Chúa đã dùng cha Antôn làm nhiều phép lạ để xác nhận những chân lý và mầu nhiệm trong đạo Công Giáo.

Một người giầu có, nhưng sống đời hà tiện, tham lam của cải.  Sau khi ông chết, cha Antôn trưng lời Chúa Kitô đã phán: “của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó.  Đồng thời sai người đi mở két vàng của người quá cố thì thấy một trái tim bằng thịt đang nằm chình ình trong két!  Vàng bạc bạn ở đâu, con tim bạn cũng ở nơi đó!

Một lần cha Antôn giảng về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể.  Có người lạc đạo không tin, đến thưa với Ngài:

  • Nếu xem thấy phép lạ, tôi mới tin!

Cha Antôn nói với anh:

  • Hãy để con lừa của anh nhịn đói 3 ngày, rồi đem nó tới cửa nhà thờ, anh sẽ thấy phép lạ.

Ðúng ngày hẹn, người kia đem còn lừa đã nhịn đói ba ngày và thúng đồ ăn đến trước cửa nhà tờ, thấy thúng đồ ăn trước mắt, nó vội vàng chạy tới ăn lấy ăn để.  Nhưng vừa lúc đó, cha Antôn kiệu Mình Thánh Chúa tới cửa nhà thờ.  Lạ lùng thay, con lừa đột nhiên bỏ ăn, đến trước Thánh Thể Chúa: Nó quì gối, cúi đầu lậy ba lần.  Người lạc đạo đã tin, và sau đó trở lại Công Giáo.

Lần khác, ngài giảng ngoài bãi biển.  Nhiều người rối đạo cũng hiện diện, nhưng họ lấy tay bịt tai không nghe lời giảng.  Cha Antôn liền quay ra biển: “Loài người không thèm nghe lời giảng.  Vậy các ngươi hãy đến đây mà nghe!”

Lập tức, muôn vàn cá lớn cá bé nhô đầu lên khỏi mặt nước để nghe lời Ngài.  Cha Antôn nói với chúng:

  • Các ngươi hãy cảm tạ Thiên Chúa đã gìn giữ và nuôi dưỡng các ngươi.

Bầy cá gật đầu tỏ dấu nghe lời Ngài.  Sau đó cha ra hiệu cho bầy cá giải tán, chúng lần lượt chìm dần trong làn nước biển.

Một hôm, có người đến xưng tội với Ngài, nhưng vì quá xúc động, ông ta không thể nói lên lời.  Cha Antôn bảo ông viết các tội vào giấy rồi đưa cho Ngài xem.  Sau khi ban ơn Xá Giải, cha Antôn trao lại tờ giấy cho ông.  Về tới nhà, ông đem tờ giấy đã viết tội đi đốt, nhưng lạ lùng thay, khi mở ra, chỉ còn là một tờ giấy trắng bóc!  Trở lại gặp cha Antôn, ông thưa Ngài đầu đuôi câu truyện, Ngài nói với ông:

  • Chúa đã làm phép lạ để chứng nhận quyền tha tội của các vị linh mục.

Ngày khác, ba của cha Antôn tại Lisbon bị cáo Gian về tội giết người.  Dù dang ở xa quê hương, Thiên Chúa đã soi lòng cho cha biết giúp đỡ.  Bỗng nhiên cha thấy mình có mặt tại Lisbon.  Cha xin quan đem xác người chết tới công đường, rồi Ngài truyền cho xác chết sống lại và hỏi:

–     Có phải ba tôi đã giết anh không?

Anh ta trả lời “không phải” rồi lại lăn đùng ra chết!  Cùng lúc đó, cha Antôn thấy mình đang ở nhà dòng.  Ba của Antôn đã được giải oan.

Có lần, cha Antôn vào trọ tại một gia đình.  Giữa đêm, chủ nhà thấy phòng cha tự nhiên rực sáng.  Ngó vào trong phòng, ông bỡ ngỡ thấy cha đang ẵm bế Chúa Hài Nhi, âu yếm hôn kính và thưa truyện với Ngài.

Năm 1231, cha Antôn thấy mình yếu sức, nên xin về thành Pađua dọn mình chết.  Ngài lìa bỏ đời này cách êm ái ngay năm đó, sau khi đã sốt sắng chịu các Phép và hớn hở hát bài ca ngợi khen Ðức Mẹ.  Ngài chết khi mới được 36 tuổi.  Người ta lũ lượt tới viếng xác ngài ba ngày ba đêm liên tục.  Sau đó ngài được an táng trong nhà thờ thành Pađua.

Chúa đã làm vô vàn phép lạ do công nghiệp và lời bầu cử của cha Antôn, nên chỉ một năm sau khi qua đời, Giáo hội đã phong thánh cho ngài.  Chính ngày phong thánh cho cha Antôn, chuông các nhà thờ thành Lisbon tự nhiên đồng loạt kêu vang, mặc dù không có ai kéo.  Hai mươi ba năm sau, người ta cải mộ Ngài đưa vào nhà thờ mới.  Lúc đó, lưỡi Ngài vẫn còn tươi tốt như khi còn sống, chiếc lưỡi Ngài đã dùng để rao giảng lời Chúa và cứu giúp anh em đồng loại.  Hằng năm Giáo Hội mừng kính Ngài vào ngày 13 tháng 6.

Chính lòng khiêm nhượng, yêu Chúa, mến Ðức Mẹ và thương người của cha Antôn đa biến Ngài thành vị đại thánh, một vị thánh hay làm phép lạ.

LM Raymond Thư, CMC

http://www.dongcong.net

VẾT NHƠ NHUỐC CỦA TỰ VẪN

523Mới đây, tôi đọc liên tiếp ba quyển sách viết về tự vẫn, đều là lời của những người mẹ mất con vì tự vẫn.  Cả ba quyển đều mạnh mẽ, chín chắn, không chiều theo cảm xúc sai lầm, và rất đáng đọc.  Lois Severson có con gái là Patty tự tử, bà viết quyển sách: Chữa lành vết thương từ sự tự vẫn của con gái tôi, Chuyển Thương Đau Thành Lời Nói.  Gloria Hutchinson có con trai là David tự tử, bà viết quyển sách: Tổn Thương Đã Xong, Sự Tự Vẫn Của Đứa Con Một.  Marjorie Antus có con gái là Mary tự tử, bà viết quyển sách Con Gái Tôi, Tự Vẫn, và Thiên Chúa, Một ký ức Hy vọng.  Patty và David trạc 25 tuổi, còn Mary chỉ mới thiếu niên.

Bạn không thể đọc những tự thuật này mà không nhói trong tim cho ba người trẻ chết một cách thật bất hạnh.  Những gì các quyển sách này mô tả trong từng trường hợp, là về một con người đáng yêu, quá nhạy cảm, đã phải đấu tranh cảm xúc lâu dài, và từ thời thơ ấu đã phải chịu sự mất cân bằng sinh hóa.

Nghe những câu chuyện đời này, sẽ cho bạn tin chắc hơn bao giờ hết rằng không một Thiên Chúa nào đáng thờ phượng lại lên án những con người phải xa lìa gia đình sự sống chỉ bởi vì cách họ chết.  Gabriel Marcel có một câu nói: Yêu ai đó là nói rằng, ít nhất với bạn, người đó sẽ không chết.  Đây là giáo lý Kitô giáo vững chắc.

Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng, chúng ta là một cộng đoàn tín hữu, làm nên Thân thể Chúa Kitô cùng với tất cả những ai đã chết trong đức tin trước chúng ta.  Một phần niềm tin này là việc Chúa Kitô đã cho chúng ta sức mạnh để giữ chặt hay lơi lỏng, nghĩa là tình yêu của chúng ta cho ai đó có thể giữ người đó trong gia đình, trong cộng đoàn ân sủng, và trong cả thiên đàng nữa.  Trong cả ba quyển sách này, các bà mẹ làm rõ rằng, đây chính là những gì mà họ đang làm.  Gia đình của họ, vòng tròn ân sủng của họ, tình yêu của họ, và thiên đàng của họ phải có cả đứa con đã mất của họ.  Thiên đàng của tôi cũng có ba người trẻ này, và bất kỳ nhận thức thực sự nào về Thiên Chúa, ân sủng, tình yêu, và đời sống gia đình cũng phải như thế.

Đây là một sự an ủi sâu sắc, nhưng nó không xóa hết được nỗi đau.  Với bậc cha mẹ, mất đi một người con, dù là vì lý do gì, đều để lại một vết thương không gì chữa lành nổi ở đời này.  Cái chết của đứa con đi ngược lại tự nhiên, đầu bạc phải tiễn đầu xanh.  Cái chết của con cái luôn thật khó khăn, nhưng nếu đó là chết vì tự vẫn thì nỗi đau còn nặng nề hơn muôn phần.  Không giống cái chết bệnh lý, cái chết vì tự vẫn gây nản lòng và giận dữ, một điều không xác đáng, không cần thiết, và có thể xem là một hành động bội bạc.  Và còn có một câu hỏi không hồi kết rằng: Làm sao tôi phản ứng trước việc này?  Đáng ra tôi phải tính táo hơn, cảnh giác hơn?  Tôi đã lơ là chuyện gì?  Tại sao tôi không ở bên con trong thời điểm định mệnh đó?  Tội lỗi và giận dữ hòa chung với tang thương.

Nhưng đó không phải là tất cả.  Ngoài tất cả những điều này, vốn đã quá đủ để đánh gục một con người, chính là vết nhơ gắn với tự vẫn.  Đến tận cùng, bất chấp nhận thức rõ hơn và thái độ sáng suốt hơn về tự vẫn, vẫn có đó một vết nhơ mang tính xã hội, tinh thần, và tôn giáo với sự tự vẫn, và điều này đúng cả trong đạo lẫn thế tục.  Không lâu trong quá khứ, nhà thờ thường từ chối làm tang lễ cho những ai tự tử.  Bây giờ, các nhà thờ đã thay đổi thái độ và làm lễ an táng, nhưng sự thật là, nhiều người vẫn đấu tranh trong lòng để chấp nhận tiễn đưa một cách an bình và chúc phúc cho những ai đã chết vì tự vẫn.  Vết nhơ vẫn còn đó.  Những ai chết vì tự vẫn, thường bị xem là đáng nguyền rủa, họ bị cho là chết ngoài vòng sự sống và ân sủng.  Vì vậy, với hầu hết mọi người, chẳng có gì là an ủi trong cái chết của họ.

Trong các bài viết khác của mình, tôi đã nói rằng đa số các vụ tự vẫn phải được hiểu là một cái chết vì bệnh tật tinh thần, một sự mất cân bằng sinh hóa, một cơn đột quỵ cảm tính, một khối ung thư cảm xúc, hay một sự nhạy cảm quá đỗi tước đi hết sức bật cần thiết để sống.  Tuy nhiên, ở đây, tôi muốn nói cụ thể hơn về vấn đề vết nhơ gắn với tự vẫn.

Vẫn có một vết nhơ gắn với tự vẫn, chuyện này thật rõ ràng.  Nghĩ như thế, thì một điều sẽ giúp chúng ta, đó là suy nghĩ về cách Chúa Giêsu đã chết.  Cái chết của Ngài rõ ràng không phải là tự vẫn, nhưng cũng mang vết nhơ nhuốc tương tự.  Thập giá là một nhơ nhuốc, dù là nhìn từ góc độ tôn giáo, tinh thần và xã hội.  Một người chết trên thập giá, bị xem là chết ngoài lòng thương xót của Thiên Chúa và ngoài sự chúc lành và chấp nhận của cộng đồng.  Các gia đình của những người bị đóng đinh mang một tủi hổ nhất định, và những người bị đóng đinh sẽ được chôn cất xa, ở ngay nơi mà họ mang lấy vết nhơ nhuốc của mình.  Và người ta cho rằng họ nằm ngoài lòng thương xót của Thiên Chúa và cộng đồng.

Cái chết của Ngài rõ ràng không phải là tự vẫn, nhưng gợi lên cho chúng ta một nhận thức tương tự. Vết nhơ nhuốc mà chúng ta gắn với tự vẫn, cũng là cái mà chúng ta gắn với cách Chúa Giêsu đã chết.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

HÃY SÁM HỐI ĂN NĂN

Trong tiểu thuyết “Giường đàn bà” đã kể lại những cuộc tình bị đồng tiền làm hoen ố.  Tình yêu chỉ là một món hàng mà người có tiền hay không có tiền đều dùng nó để mua bán trao đổi.  Câu chuyện xoay quanh các nhân vật: Mạch – một phóng viên trẻ, đang học đại học, là nhân tình của một tổng biên tập giàu có và đa tình – người trả tiền nhà và đóng học phí cho cô.

Sau khi tan vỡ mong ước được làm mẹ do người tình một mực đòi cô phá thai, cuộc sống tinh thần của Mạch bị đảo lộn.  Cô quyết định trả thù người tình bằng cách cặp với Bob – một nhà văn nghèo đang tìm kiếm vốn tài trợ cho bộ phim mà anh chuyển thể kịch bản từ tiểu thuyết của mình.

Tình yêu khó khăn giữa Mạch và Bob vừa nhen nhóm đã bị những giá trị vật chất trong cuộc sống lấn lướt và dập tắt.  Bob phải ngủ với bà Thẩm Xán – một chủ doanh nghiệp giàu sang để hòng moi tiền đầu tư làm phim.  Mạch bị sự giàu sang và phong trần của giám đốc đẹp trai Trần Tả – chồng của Thẩm Xán – quyến rũ.  Bob chấp nhận cầm tiền của Trần Tả để bỏ rơi Mạch. Mạch bị Thẩm Xán đánh ghen tới trụy thai…

Tiểu thuyết hé lộ một phần sự thật về cuộc sống tàn nhẫn ở các thành phố lớn, hiện đại – nơi giá trị vật chất chiến thắng giá trị đạo đức và con người không vượt qua nổi chính mình.  Đồng tiền trôi nổi cũng kéo theo phận người nổi trôi đầy sóng gió nghi nan.  Con người lao vào vòng xoáy của vật chất đến vong thân chính mình.  Con người đã quên mất mục đích sống của mình nên cũng đánh mất phẩm giá làm người của mình.

Nhân loại hôm nay dường như người ta chỉ cần tiền và bằng mọi cách kiếm ra tiền.  Vì tiền mà người ta bỏ ra ngoài tất cả những giá trị đạo đức, tình yêu, lòng chung thuỷ….  Cuộc sống nếu đề cao đồng tiền lên trên mọi thứ luân lý, đạo đức thì đó là một xã hội suy đồi, nơi đó con người khó mà có những giây phút hạnh phúc đích thực, mà chỉ là những hạnh phúc giả tạo, mong manh dễ tan vỡ mà thôi.

Điều đáng tiếc cho xã hội hội hôm nay là người ta mất ý thức về tội.   Người ta đề cao tự do đến nỗi luôn làm theo ý mình mà gạt bỏ lề lật của Chúa hay những luân thường đạo lý.  Người ta luôn dùng mục đích để biện minh cho phương tiện, cho dù đó là phương tiện xấu xa, đê tiện.  Có biết bao cô gái trẻ bán thân vì lý do để lấy tiền trang trải cho gia đình, hay cho việc học bản thân.  Có biết bao người ngoại tình vì để đền ơn cho kẻ giúp đỡ thi ân.  Có biết bao người phá thai vì đông con, vì nghèo đói…  Có phải vì nghèo đói để rồi mình có thể làm tất cả mọi chuyện cho dù đó là những chuyện phi nhân thất đức hay không?  Có phải vì tiền mà mình có thể loại bỏ luân thường đạo lý hay không?  Cuộc sống nếu không còn những giá trị đạo đức sẽ là một bể khổ đối với con người.  Vì con người luôn phải đối đầu với biết bao con người xấu, với biết bao tệ nạn xấu.  Xã hội loài người sẽ hỗn loạn nếu con người đặt vật chất lên trên mọi giá trị tinh thần.  Nếu con người đề cao vật chất thì người ta sẽ dễ dàng chà đạp lên nhau chỉ vì một chút vật chất tầm thường mau qua.

523Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một tấm lòng sám hối chân thành như Đa-vít, hay như người phụ nữ tội lỗi đã khóc dưới chân Chúa và lấy tóc mà lau chân Chúa.  Họ đều là những con người có quá khứ tội lỗi.  Họ đều mang thân phận yếu đuối của con người.  Họ đã phạm tội nhưng họ đã biết trỗi dậy.  Cuộc đời họ đã ngụp lặn trong biết bao đam mê lầm lạc nhưng lương tâm luôn làm họ cắn rứt.  Họ đã từng chọn những phù phiếm trần gian hơn là những giá trị đạo đức.  Thế nhưng, họ không có bình an tâm hồn khi sống xa luật Chúa để lao vào những chuyện phi nhân thất đức.  Họ đã trở về với lòng sám hối chân thành.  Đa-vít đã mặc áo nhặm để sám hối ăn năn.  Người phụ nữ đã quyết tâm đập bể bình ngọc như phá bỏ những hào nhoáng, phù phiếm mau qua.  Họ đã nhận ra giá trị đích thực của con người là biết làm chủ chính mình, biết giữ được phẩm giá làm người của mình.  Một con người có lý trí để biết đâu là thiện là ác, có ý chí để hướng dẫn hành vi mình đi theo lẽ phải.  Giá trị của con người là biết làm chủ bản thân để sống đúng với phẩm giá làm người, với luân thường đạo lý.  Nếu con người không còn khả năng làm chủ bản thân để đi theo lề luật thì con người đâu hơn loài vật.  Nếu con người sống chỉ biết tranh giành nhau danh lợi thú trần gian thì con người đang tự đầy đọa mình trong khổ ải trần gian.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết chọn Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian.  Ước gì mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng nói sự thật như Đa-vít để thật lòng ăn năn trở về với Chúa.  Nguyện xin Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót xin giúp sức để chúng ta can đảm sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn.  Amen.

LM Jos Tạ Duy Tuyền