LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ

Chúa Nhật thứ hai sau lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.  Đây là lễ rất quan trọng, vì nó diễn tả sự hiểu biết và niềm tin của Kitô hữu vào Đức Giêsu Kitô.

I. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến tuyệt vời

Khi Thiên Chúa đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập, dân đã phải đi trong hoang địa bốn mươi năm trường.  Giữa chốn hoang vu như vậy và không canh tác, làm sao dân có lương thực để ăn?  Thiên Chúa đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân.  Đây là một điều rất lạ lùng trong lịch sử loài người.  Dân Do Thái đã tưởng rằng Môsê là người đã cho dân Manna, nhưng Đức Giêsu đã đính chính: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi đã cho các ông ăn bánh bởi trời…” (Ga 6, 32).

64Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, cũng là bữa tiệc Đức Giêsu và các môn đệ làm theo truyền thống Do Thái tưởng niệm lễ Vượt Qua, Đức Giêsu cầm lấy bánh và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị trao nộp vì anh em;” cũng tương tự vậy, Ngài cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà uống, này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra vì anh em” (Mc 14, 23-24).

Bí tích Thánh Thể là sáng kiến tuyệt vời của Đức Giêsu. Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, cho thấy Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết, điều mà hôm sau như thể Đức Giêsu không thể nào trốn thoát được. Đức Giêsu như tấm bánh được bẻ ra nuôi sống nhiều người.  Đức Giêsu là lương thực, là sự sống cho con người.  “Ai không ăn bánh này, sẽ không có sự sống nơi mình” (Ga 6, 53).

II. Bí tích Thánh Thể hàm chứa một mặc khải sâu xa

“Làm sao một người lại có thể lấy máu thịt mình nuôi sống chúng ta?” (Ga 6, 52).  Người ta dùng cơm bánh để sống chứ không ai ăn thịt uống máu người khác để sống. Quả thực lời nói của Đức Giêsu thật “khó nghe” đối với không chỉ con người đương thời nhưng cả với con người của mọi thời đại.  Đứng trước người phát biểu lời này, người ta sẽ nghĩ, hoặc đây là một người điên, hoặc đây là một người rất đặc biệt.

Đứng trước lời nói “sống sượng” của Đức Giêsu, một số đông dân chúng đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa.  Cả một số môn đệ xưa nay đi theo Ngài, cũng bỏ Ngài: “Lời chi mà sống sượng thế, ai nghe cho nổi” (Ga 6, 60).  Đức Giêsu cũng nhận ra điều đó; Ngài hỏi nhóm mười hai: “Còn các anh, các anh có muốn bỏ đi không?” (Ga 6, 67); và Phêrô đã có một câu trả lời rất đặc biệt: “Bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, Thầy có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).  Thật sự, không thể ngờ rằng Phêrô có câu trả lời rất đặc biệt như vậy.  Không có ơn từ trên, Phêrô không thể có câu trả lời như vậy. Không có ơn từ trên, người ta không thể tin bí tích Thánh Thể được.

Làm sao một người lại có thể là lương thực nuôi sống người khác?  Nếu không phải là người bị khùng điên, thì hẳn phải là một người rất đặc biệt.  Người này phải có một nguồn gốc thần linh.  Những người chấp nhận lời nói này của Đức Giêsu, phải là người được ơn như Phêrô và các môn đệ, nhận ra nguồn gốc siêu vượt của Đức Giêsu.  Nếu chỉ là phàm nhân, thì không thể lấy thịt máu mình nuôi sống người khác.  Đức Giêsu là người thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn.  Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật.  Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể.

III. Bí tích Thánh Thể quy tụ và phát triển Giáo Hội Chúa Kitô

Ngày xưa người Do Thái đã có thói quen tụ họp nhau vào ngày sabát để nghe đọc Lời Chúa.  Chính thánh Phaolô cũng dùng những dịp người Do Thái gặp nhau này để rao giảng Đức Giêsu phục sinh cho người Do Thái.  Với niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh, Kitô hữu tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa và cử hành nghi thức bẻ bánh: “Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán…” (Mc14, 22).  Kitô hữu không chỉ tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa, mà còn để ăn thịt và uống máu Chúa, để có sự sống đời đời.

Ngày xưa khi nghệ thuật in ấn chưa phổ biến, việc tụ họp nhau để nghe Lời Chúa và được nghe giải thích Lời Chúa là chuyện cần thiết.  Ngày nay, với phương tiện hiện đại người ta có thể có sách Lời Chúa để đọc hằng ngày, được nghe diễn giải Lời Chúa bất cứ lúc nào người đó muốn, nên nếu chỉ để nghe Lời Chúa, thì người ta không cần đến với nhau nữa.  Tuy nhiên, Kitô hữu vẫn tiếp tục tụ họp nhau, không chỉ để nghe Lời Chúa nhưng còn để tham dự nghi thức bẻ bánh, để tham dự bí tích Thánh Thể.

Hiểu như trên, người ta nhận ra nét đặc biệt của giáo huấn về bí tích tư tế thừa tác nơi Hội Thánh Công Giáo.  Bí tích Thánh Thể qua thừa tác viên tư tế mang tính xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô.  Không phải tất cả mọi người đều có thể cử hành bí tích Thánh Thể.   Bí tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, nhưng là biểu tượng, là dấu chỉ thực, vừa là dấu chỉ vừa là thực tại, là chính mình máu Đức Kitô.  Chức vụ tư tế phổ quát, tư tế vương giả của mọi Kitô hữu, giúp Kitô hữu tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô.  Niềm tin vào bí tích Thánh Thể diễn tả sự hiểu biết sâu xa của Kitô hữu về chính Đức Giêsu, đồng thời củng cố nuôi dưỡng Hội Thánh.  Đức Giêsu không chỉ là con người, nhưng còn là Thiên Chúa nhập thể.  Chính Thiên Chúa xây dựng và củng cố Hội Thánh của Ngài qua bí tích Thánh Thể.  Đức Giêsu Kitô củng cố và nuôi dưỡng Hội Thánh Chúa mỗi ngày.

LM Giuse Phạm Thanh Liêm

THÁNH THỂ

62Trong một số nhà thờ, nơi gian cung thánh hay trước bàn thờ có chạm trổ hình con chim bồ nông mẹ đang truyền của ăn cho các chim con. Biểu tượng của chim bồ nông mẹ nuôi con có gốc tích trong truyền thuyết cổ xuất hiện trước thời Kitô giáo. Theo truyền thuyết, trong mùa đói khát, chim bồ nông mẹ đã lấy mỏ tự mổ vào ngực để dùng máu mình mà dưỡng nuôi các con.  Có một truyền thuyết khác nói rằng chim bồ nông mẹ đã dùng máu mình để tái sinh các con đã chết, nhưng chính mẹ lại bị chết.  Chúng ta dễ hiểu tại sao các Kitô hữu thời sơ khai đã dùng hình ảnh này để ám chỉ Chúa Giêsu.  Chim bồ nông mẹ là biểu tượng Chúa Giêsu cứu độ đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Con người đã chết trong tội và được vui hưởng sự sống mới qua giá Máu Châu Báu của Chúa Kitô.

Bí tích Thánh Thể còn được gọi là Bí tích Tạ Ơn (Thanksgiving).  Chúa Giêsu đã lập Bí tích này trong Bữa Tiệc Ly như là Giao Ước mới.  Ngày xưa, ông Môisen đã dâng lễ toàn thiêu và hiến dâng Thiên Chúa của lễ đền tội.  Dân Do thái đã giết những con bò tơ làm hy lễ giao hoà.  Ông Môisen hướng dẫn Dân theo nghi thức hoà giải.  Ông dâng của lễ và mời gọi dân chúng đồng lòng tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa: Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe.  Họ thưa: “Tất cả những gì Thiên Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24, 7).  Ông lấy máu rảy trên dân để ký kết giao ước: “Đây là máu giao ước Thiên Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24, 8).

Tác giả thư gửi tín hữu Do thái diễn tả về Chúa Giêsu: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9, 12).  Ngày xưa người ta dùng máu dê và tro bò rảy trên kẻ ô uế còn thánh hoá được thân xác nên trong sạch, thì nay Chúa Kitô đã hiến tế chính máu mình để tẩy sạch tội lỗi chúng sinh.  Trước khi dâng mình hiến tế trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly.  Thánh Marcô đã ghi lại: Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy” (Mc 14, 22).  Bánh và rượu là của ăn, của uống nuôi sống chúng ta hằng ngày.  Hình ảnh tấm bánh được kết thành bởi muôn hạt miến và chén rượu được ép bởi muôn ngàn trái nho chín.  Chúa dùng cả bánh và rượu để biến đổi nên Mình và Máu Thánh Chúa: Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này.  Người bảo các ông: “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14, 23-24).

Qua quyền năng của Chúa Thánh Thần và các linh mục lập lại lời truyền phép của Chúa Giêsu Kitô, Linh Mục thượng phẩm, bánh và rượu đã trở nên Mình Máu Chúa.  Sau khi đọc lời truyền phép, linh mục chủ tế đã tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin.  Chúng ta tin thật Chúa Giêsu ngự trong Bí tích Thánh Thể.  Sự biến đổi bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô.  Lúc chúng ta lên rước lễ, trước khi trao Mình Thánh, linh mục nói: Mình Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen.  Khi trao Máu Thánh, linh mục hay thừa tác viên nâng cao chén thánh và nói: Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen.  Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm của đời sống người Kitô hữu. Chúa Giêsu hiện diện thật trong Bí tích Thánh Thể.  Tín hữu trong Giáo hội Công giáo tin nhận Chúa Giêsu hiện diện thật nơi Nhà Tạm và Mình Thánh là của ăn đàng cho những kẻ đau yếu bệnh hoạn hay trong cơn hấp hối.

Chúa Giêsu đã dưỡng nuôi chúng ta bằng Mình và Máu Thánh.  Hình ảnh thứ hai rất thân thương và gần gũi là người mẹ nuôi con cũng bằng chính dòng sữa của mình.  Các trẻ thơ đã được bú trực tiếp từ nguồn sống của người mẹ.  Ở các nước chậm phát triển, các bà mẹ thường cho con bú từ 6 tháng tuổi cho tới 2 năm.  Chúng ta biết nguồn sữa từ vú mẹ là loại sữa tốt nhất trong các loại sữa.  Sữa được tiết ra từ dòng máu của mẹ.  Sữa mẹ là nguồn sống và là nguồn tình yêu.  Sữa có đủ các chất béo, ngọt, nước và chất dinh dưỡng cần thiết cho bé phát triển.  Có một điều lợi ích của việc cho con bú là trung bình 500 lượng calo, một ngày sẽ giúp người mẹ giảm cân sau khi sanh.

Chúa Giêsu đã nhiều lần hoá bánh ra nhiều để nuôi dân.  Chúa cũng đã làm biến đổi sáu chum nước ra thành rượu tại tiệc cước Cana.  Chúa biết những nhu cầu cần yếu của cuộc sống con người. Con người sống thì cần phải ăn phải uống và phải hít phải thở.  Ăn uống làm tăng thêm chất bổ dưỡng để nuôi sống.  Thật lạ lùng, khi chúng ta ăn bánh, uống rượu và bất cứ loại đồ ăn thức uống nào, khi đã nuốt vào bao tử trong vòng 30 phút, các cơ quan trong thân thể nhanh chóng biến đổi các thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi sống các cơ quan.  Thức ăn trở thành máu, thành thịt và giúp làm sống động các cơ năng tuần hoàn trong thân thể.  Đây là một chu kỳ nhiệm mầu mà Thượng Đế đã an bài.

Thức ăn bổ dưỡng sẽ giúp cho thân xác khoẻ mạnh và tinh thần minh mẫn.  Bí tích Thánh Thể cũng đáp ứng những nhu cầu về linh hồn và thân xác.  Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể.  Có nhiều nơi, các tín hữu có thói quen thay phiên nhau Chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày đêm.  Có những người quỳ lặng cầu nguyện trước Nhà Tạm hàng giờ để kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn suối ủi an và nơi nương tựa.  Chính Chúa Giêsu đã phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28).  Kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh Thể sẽ mang lại nguồn tươi mát và dịu êm.  Giáo Hội mời gọi chúng ta năng kính viếng và lặng quỳ bên Thánh Thể Chúa.  Chúng ta sẽ gặp gỡ một Chúa thật có trái tim biết cảm thông và yêu thương.

Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu mà Chúa Giêsu đã lập để tiếp tục lễ hy sinh trên Thánh giá và để ban Mình Máu Người hiện diện trong hình bánh rượu, làm của nuôi linh hồn.  Bí tích Thánh Thể được cử hành trong thánh lễ.  Thánh lễ dâng mỗi ngày cũng là một lễ như xưa trên cây Thánh Giá, vì cũng là một Chúa Kitô làm chủ tế và của lễ nhưng không còn đổ máu như xưa.  Thánh lễ quý trọng vô giá.  Thánh lễ giao hoà con người với Thiên Chúa.  Thánh lễ liên kết mọi người hợp nhất với nhau. Thánh lễ là lời tạ ơn tuyệt vời.  Thánh lễ mang lại ơn tha thứ và cứu độ.  Mỗi khi cử hành thánh lễ, chúng ta tuyên xưng việc Chúa Giêsu chịu đau khổ, chịu chết và sống lại cùng mong đợi Chúa lại đến trong vinh quang.

Chúng ta hãy năng tham dự thánh lễ.  Tham dự một cách sốt sáng và hiệp thông.  Chúng ta không đi xem lễ hay dự lễ như khách bàng quan, nhưng hãy tham dự một cách tích cực.  Hiệp lễ bằng cách cùng thưa kinh, dâng lời ca tiếng hát, hoà điệu trong mọi nghi thức cử hành và nhất là lắng nghe và áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống.  Có đôi trường hợp, chúng ta đi tham dự thánh lễ như để chu toàn bổn phận giữ ngày Chúa Nhật.  Đi trễ về sớm.  Không hiểu ngôn ngữ, nghe tai này ra tai kia.  Để nuôi dưỡng đời sống nội tâm, chúng ta cần dành chút thời giờ riêng tâm sự với Chúa và sưởi ấm tâm hồn.

Lạy Chúa, con nhìn thấy Nhà Tạm nơi Chúa ẩn ngự, nhưng con chẳng muốn đến gần.  Con tất bật lo lắng công việc và đi qua đi lại lo sửa soạn mọi thứ.  Đèn chầu vẫn cháy sáng, nhưng lòng con đã ngụm tắt từ bao giờ.  Xin Chúa giúp chúng con khơi lại ngọn lửa mến để sưởi ấm tâm hồn.  Xin Chúa tha thứ những lần chúng con thờ ơ lãnh đạm và làm ngơ trước sự hiện diện của Chúa.  Xin thương xót chúng con.

LM Giuse Trần Việt Hùng

CÁI NHÌN

Truyện các thánh ẩn tu thời giáo hội sơ khai có một giai thoại như sau:

Một người La Mã nọ đến cắm lều giữa sa mạc và tập sống như một ẩn tu.  Ngày nọ, có một vị ẩn tu tìm đến căn lều của người La Mã để trao đổi về cuộc sống tu trì.

Vừa bước vào căn lều của người La Mã, vị ẩn tu ngạc nhiên vô cùng.  Giữa căn lều là một chiếc giường, trên đó có chăn nệm, lại có cả móc áo ở góc lều.  Nhưng điều làm cho vị ẩn tu phải sửng sốt, chính là sự hiện diện của một người giúp việc trong đó.  Người này nấu ăn, giặt giũ cho người La Mã. Người La Mã nhận ra ngay nét mặt sửng sốt của vị ẩn tu.

Sau một lúc đàm đạo về đời sống tu trì, người La Mã mới hỏi vị ẩn tu:

– Xin được phép hỏi ngài, trước khi vào tu trong sa mạc, ngài làm nghề gì?

Vị ẩn tu trả lời:

– Trước khi vào đây tôi chỉ là người chăn giữ gia súc ngoài đồng.

– Ngài có bao giờ ngủ trên chăn êm nệm ấm chưa?

– Mục tử chúng tôi thì làm gì biết đến những thứ xa xỉ ấy?

– Có ai phục dịch nấu nướng cho ngài không?

– Đã làm nghề chăn súc vật thì ăn uống là chuyện thất thường, làm gì có bếp núc và người hầu hạ.

Sau một loạt những câu hỏi như thế, người La Mã mới giải thích cho vị ẩn tu như sau:

– Tại La Mã, tôi là người có tất cả mọi sự, tôi ngủ trên một chiếc giường sang trọng chứ không phải trên cái phản tồi tàn này.  Tôi có không biết bao nhiêu kẻ hầu người hạ chứ không phải chỉ có một người đầy tớ như ngài vừa thấy.  Ngày ngày cuộc sống của tôi là yến tiệc linh đình chứ không phải chỉ có những bữa ăn bằng rau cỏ như ở đây.  Trong bữa ăn của tôi lúc nào cũng có đàn ca xướng hát, ở đây chỉ có bốn bề thinh lặng.  Đêm khuya tôi lại phải thức dậy đọc kinh cầu nguyện.  Nhưng nhờ thế mà giờ đây tôi cảm thấy khoẻ mạnh trong thân xác và bình an trong tâm hồn.

Nghe thế vị ẩn tu mới phát biểu:

– Xin lỗi ngài, vì tôi đoán xét quá nông cạn và vội vàng.  Quả thật, cuộc sống ẩn tu của ngài có giá trị hơn bội phần cuộc sống của tôi.  Đối với tôi, giữa cuộc sống của một mục tử và một ẩn tu không có khác biệt nhau bao nhiêu, không chừng cuộc sống của tôi bây giờ xem ra còn có nhiều tiện nghi hơn cuộc sống của một mục tử là khác.  Quả thật, ngài có nhiều công trạng hơn tôi.

*****************************

Mục đích thiết yếu của cuộc sống tu trì chính là đức ái.  Sống xa cách thế gian không phải là để tìm hạnh phúc riêng 61tư cho mình mà chính là để yêu mến Chúa, mà tình mến Chúa được cụ thể hoá trong tình yêu tha nhân.  Thiếu lòng mến đối với tha nhân thì cuộc sống tu trì không khác nào “Một toà nhà xây trên cát.”  Và bước đầu trong tình yêu đối với tha nhân chính là hoán cải cái nhìn.

Cái nhìn đối với tha nhân như Chúa Giêsu đã không ngừng nêu bật trong Tin mừng, không phải là cái nhìn của quan án, của đoán xét, của nghi kỵ, của tẩy chay mà là cái nhìn của cảm thông, của tha thứ và của tin yêu.

Qua thái độ của những người biệt phái, những người có cuộc sống đạo đức và khổ chế hơn người. Chúa Giêsu đã đưa ra một thiếu sót trầm trọng, đó là thiếu tình mến đối với tha nhân.  Thái độ đó đã được Chúa Giêsu cụ thể hoá trong cách cầu nguyện của một người biệt phái nọ.  Người này nhìn một cách khinh bỉ người thu thuế ở cuối đền thờ và ngẩng cao đầu lên để kê khai những công trạng của mình.  Chúa Giêsu kết luận rằng người này ra về không được Chúa tha thứ, bởi vì ông ta thiếu lòng mến đối với tha nhân.

 *****************************

Lạy Chúa, xin ban cho con được mặc lấy tâm tình và cái nhìn của Chúa đối với tha nhân.  Trong mọi quan hệ với anh chị em, xin cho con luôn biết sống nhẫn nhục và tha thứ, cảm thông và yêu thương hết mọi người.  Amen.

Thiên Phúc