TRO BỤI CUỘC ĐỜI

Cách đây 3 năm, Phân Khoa Xã Hội Học Trường Đại Học Sàigòn trao bằng cử nhân thủ khoa cho sinh viên Nguyễn Thị Mai, với luận văn đề tài: “Tìm Hiểu Một Số Thuận Lợi và Hạn Chế Trong Tiến Trình Hội Nhập và Phát Triển của Người Khuyết Tật tại Việt Nam.”  Khi được xướng danh, người sinh viên ưu tú lên để nhận văn bằng; mọi người đều kinh ngạc thấy một cô bé bại liệt cả tứ chi được đưa lên lễ đài trên một chiếc xe lăn!  Không kể những nỗ lực của em trong bốn năm đại học, thì muốn viết cuốn luận văn 70 trang kia, em đã chỉ sử dụng hai cổ tay kẹp một chiếc đũa để gõ từng ký tự trên bàn phím vi tính.  Không cần phải đi sâu vào cuộc đời cũng thấy quyết tâm sắt đá của cô gái trẻ này…

Cách đây một tháng, trong khi mọi người rộn ràng chuẩn bị mừng Xuân, thì một cô gái khuyết tật âm thầm qua đời trong bệnh viện lao Phạm Ngọc Thạch trước cái nhìn bất lực của các bác sĩ.  Cô đã được đưa vào bệnh viện quá trễ, khi bệnh lao vào thời kỳ cuối đã đặt cô vào tình trạng hấp hối.  Cô gái ấy chính là sinh viên Nguyễn Thị Mai, người bạn trẻ đã tốt nghiệp danh dự thủ khoa ngành Xã hội học năm 2003.  27 năm cuộc đời của một cô gái luôn phải nằm sát mặt đất vì không thể nào ngồi được!  27 năm phấn đấu với tật nguyền, với nghèo khó, với thua thiệt, với số phận hẩm hiu, để rồi chưa kịp nở một nụ cười mãn nguyện thì đã về với thiên thu.  Cái chết của Nguyễn Thị Mai nhói lên như một lời phản kháng trước những phi lý, bất công của cuộc đời:  Tại sao?  Tại sao?  Và tại sao?….

                                        *******************************

Trong niềm tin của người kitô hữu chúng ta, câu Lời Chúa được chọn để đọc khi xức tro trong thánh lễ hôm nay chính là câu trả lời cho vấn nạn “tại sao” trên:  Đó là:

“Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro…”

Đó chính là lời nhắc nhở của Giáo Hội trong ngày thứ tư Lễ Tro hôm nay cho chúng ta, cho toàn thể nhân loại.  Vâng, thân phận bọt bèo của con người, múa may quay cuồng, bon chen, tích trữ bao nhiêu rồi cũng sẽ trở về với cát bụi.  27 năm hay 72 năm nào có khác gì đâu, nếu chúng ta sống như kiếp tù nhân đợi ngày hành quyết, và mọi nỗ lực trong đời sẽ trở thành hư không.  Chính vì thế, phụng vụ Lễ Tro hàng năm với 40 ngày của Mùa Chay thánh chính là dịp để mọi Kitô hữu suy nghĩ về cuộc đời và ý nghĩa đích thực của sự hiện diện độc đáo và đặc thù có một không hai của từng bản thân chúng ta, hầu giúp chúng ta sống đúng hơn, sống ý nghĩa hơn, sống đẹp hơn trong cuộc sống với Thiên Chúa, với chính mình và với tha nhân.  (Trích đăng từ MARANATHA SỐ 73, ngày 25.02.2006)

Chính trong ý nghĩa đó, chúng ta thử tìm lại vài ý nghĩa biểu tượng của chay tịnh :

– Mùa Chay và tro bụi cuộc đời:

Trong Cựu Ước, khi dân Do Thái muốn xin Chúa thứ tha thì họ ngồi trên đống tro và xức tro lên đầu.  Khi Giô-na báo cho dân thành Ni-ni-vê rằng Thiên Chúa sẽ hủy diệt thành phố của họ nếu họ không hoán cải, vị vua đã hành động như sau:

“Ông rời khỏi ngai vàng, cởi áo choàng, khoác áo vải thô và ngồi trên tro.” (Giô-na 3,6).  Và cả thành phố đều làm như thế.  Về phần Gióp, ông gặp mọi điều bất hạnh: mất hết của cải, con cái chết đi, thân ông bệnh hoạn.  Ông nghĩ rằng Chúa trừng phạt ông vì ông không đủ tốt lành, vì thế ‘ông ngồi trên đống tro’ (G 2,8).  Từ cử chỉ ăn năn ấy, xuất phát nghi thức xức tro trong truyền thống Giáo Hội (và luôn luôn được cử hành vào ngày thứ tư gọi là Thứ Tư Lễ Tro), khởi sự cho mùa thống hối dài 40 ngày Mùa Chay.

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II cắt nghĩa một cách sâu sắc ý nghĩa nầy trong bài giảng Lễ Tro năm 2003 :

Khi ghi dấu tro trên trán tín hữu, người chủ tế lặp lại câu: “Hỡi người, hãy nhớ rằng mình là tro bụi, và sẽ trở về với bụi tro”.  Trở về với bụi tro, ấy là vận mệnh của mọi người và mọi vật.  Tuy nhiên, con người không chỉ là thân xác, mà còn là thần khí.  Nếu xác thịt buộc phải trở về với cát bụi, thì thần khí mãi mãi là bất diệt.  Ngoài ra, tín hữu biết rằng Chúa Kitô đã sống lại, và qua đó, xác thân Ngài đã chiến thắng tử thần.  Chính Ngài cũng bước đi trong hy vọng theo viễn ảnh đó.

Như thế, nhận tro trên trán có nghĩa là tự nhận mình là loài thọ tạo, được dựng nên từ bùn đất và sẽ trở về bùn đất (x. St 3,19); điều này cũng có nghĩa là tự cáo mình là tội nhân, cần được Chúa thứ tha để có thể sống theo Tin Mừng (x. Mc 1,15); cuối cùng, điều ấy có nghĩa là khơi dậy niềm hy vọng vào một cuộc gặp gỡ viên mãn với Chúa Kitô trong vinh quang và trong bình an của Nước Trời.

Và như thế, cho dù được mời gọi dấn thân vào một “mùa hy sinh khắc khổ”, chúng ta vẫn hân hoan tuyên xưng rằng: Tro bụi cuội đời vẫn ươm mầm hy vọng vinh quang

– Mùa Chay và cộng đoàn sám hối:

Ý nghĩa nầy chúng ta đã tìm gặp ngay chính nơi trích đoạn Lời Chúa trong sách sứ ngôn Gio-en mới vừa được công bố: “Hãy thổi kèn lên khắp Sion, hãy ra lệnh ăn chay, triệu tập một đại lễ, quy tụ dân chúng, ra lệnh mở đại hội, tập họp các bô lão, quy tụ các thiếu nhi và các trẻ còn măng sữa.” (Ge 2, 15-16) và được Đức Cố Giáo Hoàng G.P. II khai triển một cách sâu sắc bằng những lời sau :

“Những lời này của tiên tri Giôel nói đến chiều kích cộng đoàn của việc thống hối.  Quả thật, thống hối chỉ có thể xuất phát từ con tim, mà theo nhân chủng học Kinh Thánh, đó là nơi cư ngụ những ý định sâu thẳm nhất của con người.  Tuy nhiên, những hành vi thống hối đòi hỏi phải được thực thi cùng với mọi thành phần của cộng đoàn.

Đặc biệt vào những thời điểm khó khăn, sau những khó khăn hay trước một hiểm nguy, Lời Chúa, qua môi miệng các tiên tri, kêu gọi tín hữu đi vào thống hối: Mọi người đều được triệu tập, không trừ ai, từ người già đến trẻ em; mọi người đều hiệp nhất để van nài Thiên Chúa dũ thương mà tha thứ.

Nếu Mùa Chay được tiếng Latinh diển tả với từ: QUADRAGESIMA (Bốn Mươi).  Con số “40” đưa chúng ta trở về với hai biến cố: 40 năm dân Do Thái đi trong sa mạc để tiến về Đất Hứa, và 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay nơi hoang địa.  Đối với dân Do Thái, cũng như đối với Chúa Giêsu, cần phải vượt qua sự ngã lòng và giữ vững niềm cậy trông vào Chúa.  Đấy là điều mà Giáo Hội mong mỏi nơi con cái mình trong ngày Lễ Tro, khi kêu gọi dân Chúa thống hối.

Thống hối trong Mùa Chay không phải là một hành vi nhận tội của phạm nhân bị đưa ra trước vành móng ngựa.  Thống hối là nhìn lại những vết nhơ trong cuộc đời mình, để cảm tạ và hy vọng vào một Tình Yêu lớn hơn những tội lỗi đời ta, để nhận ra giá trị của một hữu thể độc nhất vẫn hằng được Thiên Chúa yêu thương…

– Mùa Chay và cầu nguyện – chia sẻ – yêu thương

Ý tưởng nầy chúng ta lại sẽ tìm thấy trong chính bài giảng của Đức cố Giáo hoàng G.P :

Do đó, cầu nguyện và ăn chay cần phải đi kèm với những hoạt động công bình; việc hoán cải phải được thể hiện bằng việc đón nhận nhau và liên đới với nhau.  Về điểm này, tiên tri Isaia từng kêu gào: “Cách ăn chay mà ta ưa thích nhất chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc; trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?” (Is 58,6)

Không có hòa bình trên trần gian ngày nào các dân tộc còn bị áp bực, còn bất công trong xã hội và còn bất bình đẳng kinh tế.  Nhưng muốn có được những thay đổi cơ chế, thì những sáng kiến và phát minh bên ngoài thôi vẫn chưa đủ; trước hết cần phải có một sự hoán cải tâm hồn của mọi người hướng về tình yêu.

“Hãy thật lòng trở về với Ta.” (Ge 2.12).  Ta có thể nói rằng sứ điệp mà chúng ta cử hành hôm nay được tóm lược trong lời này, lời Thiên Chúa khẩn khoản kêu nài chúng ta hoán cải tâm hồn.

Lời mời gọi này được thánh Phaolô lặp lại trong bài đọc II: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi năn nỉ anh em hãy làm hoà cùng Thiên Chúa […] Giờ đây là cơ hội thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát.” (2 Cr 5, 20; 6, 2).

Anh chị em thân mến, giờ đây là cơ hội thuận tiện để nhìn lại thái độ của chúng ta đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em mình.

Giờ đây là ngày cứu độ, nghĩa là lúc chúng ta xét lại sâu xa những tiêu chuẩn hướng dẫn chúng ta trong nếp sống đời thường.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con thật lòng trở về với Chúa; Chúa là Đường đưa chúng con đến cứu độ, là Chân lý giải thoát chúng con, là Sự Sống không bao giờ phải chết”.

LM. Giuse Trương Đình Hiền

 

 

MẤY CÁI BÁNH NHỎ

Có thể Paris, London, rồi bạn ghé vào một quán kem.  Ấm với hương cà phê, đưa hồn bạn về một vùng trời.  Tôi cũng đã đi qua những quán kem buổi chiều tây phương.  Những quán kem có bờ công viên mát cỏ xanh, những con đường trải đá trắng thơ mộng.  Cũng có những quán kem hối hả tiếng nhạc của một chiều bận rộn xua đẩy mọi suy tư.

Saigon cũng có những quán kem.  Một lần về với những kỷ niệm cũ.  Ghé quán kem xưa ngồi nhìn thành phố một thủa mình đã lớn lên.  Ngang đời, hôm nay trở lại quê hương.  Tôi đã đi qua những quán kem chiều xa xứ, quán kem không có gì để nhớ, nhưng ở quán kem trên thành phố cũ, hôm nay, tôi thấy phân vân giữa lòng mình và cuộc đời.  Thìa kem gần ở môi mà như xa lắm ở trong lòng.  Tôi ngồi bên này vỉa hè, chầm chậm những thìa kem nhỏ.  Ở vỉa hè bên kia, mấy vành xích lô mệt mỏi đang đợi chờ tìm khách. Mặt họ hằn những gian khổ của cuộc sống.  Vai áo bạc vì mồ hôi.  Chắc vợ con họ đang đợi tiếng xe cọc cạnh đạp về với hy vọng một ngày đủ sống.

Một em bé đến nhìn tôi, xin tôi cho uống ly nước cam còn dở.  Mắt em vẫn theo dõi sợ chủ quán đuổi. Liệu em có chờ những thìa kem còn sót lại trong đáy ly em đang nhìn?  Tôi sẽ để lại ít kem cho em, hành động ấy là yêu thương hay xúc phạm?

Tôi đã đi qua những quán kem tây phương.  Buổi chiều ở bờ biển Laguna Hills hay San Francisco tôi thấy cuộc đời bay trôi theo những đám mây.  Những quán kem tây phương đưa tôi vào cõi mộng.  Quán kem quê hương đưa tôi vào cuộc sống thật.  Cả bầu trời mơ ước của một con người nằm gọn dưới đáy ly kem.

********************************

Sau khi làm phép lạ bánh hóa ra nhiều cho mấy ngàn người ăn, và họ ăn no rồi, Chúa nhìn những mẩu bánh vụn rất tiếc, căn dặn các môn đệ nhặt hết lại: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa, đừng để hư phí” (Yn. 6:12).

Ðó là câu chuyện hai ngàn năm xưa.  Nếu hôm nay giảng Tin Mừng, Chúa sẽ bảo đừng đổ phí những sợi mì vì có nhiều người nghèo đói đang dang dở mong buộc cuộc đời mình bằng những miếng bánh phở dư. Nếu hôm nay Chúa vào quán kem, Chúa sẽ thấy có những thìa kem đưa một buổi chiều vào cõi mộng.  Chúa cũng thấy có những con người kéo cả bầu trời mơ ước vào thìa kem còn sót lại.

“Anh em hãy thu lấy những miếng bánh thừa, đừng để hư phí”.  Chúa muốn nói gì với chúng ta về “mấy cái bánh và vài con cá nhỏ” trong tương quan giữa con người với nhau?  Có những nơi dư thừa trong khi có những nơi thiếu thốn.

Có hai thứ thương xót.  Các môn đệ thấy trời chiều mà người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ.  Các ông đã nói với Chúa: “Ðây là nơi vắng vẻ, và trời đã gần tối, xin Thày cho dân chúng về để họ vào các làng mua ăn” (Mt. 14:15).  Ðó là thương xót nhập đề.  Lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm, nhưng có khi chỉ là xót thương không muốn nhận trách nhiệm, lúc đó khởi điểm chấm dứt ở nhập đề. Chúa trả lời các môn đệ bằng một lệnh truyền thật ngạc nhiên: “Họ không cần phải đi, anh em hãy lo cho họ ăn” (Mt. 14:16).  Chúa muốn các môn đệ bước qua ngưỡng cửa xót thương khởi điểm, đem thương xót nhập đề mà vào xót thương nhập cuộc.  Chính các con phải lo cho họ ăn!

********************************

Phản ứng của các môn đệ ghi trong bốn Phúc Âm như sau:

– Máthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi (Mt. 14:17).

– Máccô: Thế thì chúng tôi phải đi mua hai trăm đồng quan bánh mà cho họ ăn sao? (Mc. 6:37).

– Luca: Chúng tôi không có hơn năm chiếc bánh và hai con cá, họa chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này (Lc. 9:13).

– Yoan: Philiphê thưa: Có mua hết hai trăm đồng cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ.  Anrê nói: Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá.  Nhưng ngần ấy thì thấm vào đâu cho bấy nhiêu người? (Yn. 6:7-8).

Xem ra họ thất vọng trước vấn đề vì “chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi”.  Lo cho mình còn chưa đủ còn lo cho ai.  Những phản ứng của bốn Phúc Âm chung nhau ở một cửa ngõ là không có lối vào.  Họ bế tắc.  Theo Phúc Âm Yoan thì chưa chắc các môn đệ đã có bánh và cá, mà là của thằng bé bán rong. Bởi đó, làm sao các môn đệ dám đề cập tới chuyện lo cho đám đông ăn dù biết họ đói và mệt lắm.  Hôm nay, nghèo đói như một bãi rác mênh mông, không biết bắt đầu dọn dẹp từ đâu.  Thái độ của con người hôm nay cũng là tâm trạng của các môn đệ ngày trước, “ngần ấy thì có thấm vào đâu”.  Trong cái nghèo khó của tôi, làm sao tôi dám cho đi.  Và có khi để xoa dịu lương tâm, tôi cũng lập lại cùng mệnh đề đó, “ngần ấy thì có thấm vào đâu”.  Cho đi là mất, bởi thế, kẻ biết mất mà vẫn cho đi là kẻ có lòng thương xót lớn hơn niềm tin.  Trong ý nghĩa này, khi niềm tin bế tắc mà có lòng thương xót thì lòng thương xót sẽ mở ngõ cho niềm tin đi về.  Khi khóa ngõ lòng thương xót thì niềm tin sẽ đứng ở ngoài.  Chính lòng thương xót của Chúa đã làm cho mấy chiếc bánh và hai con cá nhỏ thành lương thực nuôi đám đông.

Khi Chúa giơ “năm chiếc bánh và hai con cá” lên đọc lời nguyện thì cửa ngõ bế tắc lo âu không lối vào của các môn đệ đã trở thành lối vào không còn cửa ngõ.  Ðám đông ăn no và còn dư thừa.  Cũng vậy, những giúp đỡ của ta cho tha nhân, dù nhỏ nhưng đến từ lòng thương xót thì Chúa sẽ giơ lên trời cầu nguyện và nó sẽ thành hiến lễ.

********************************

Chỉ có mấy cái bánh mà hàng ngàn người ăn no, làm sao chỉ có hai con cá nhỏ mà họ ăn không hết? Có những cho đi rất nhỏ mà nhận về thật lớn lao, vì những tia nắng nhỏ ấy đã qua lăng kính quang phổ trăm màu của Chúa.  Có khi nào bạn bị bệnh và phải dùng thuốc trụ sinh chưa?  Ðây là câu chuyện thuốc trụ sinh.

Ngày nọ, một gia đình giầu có, quý tộc nước Anh dẫn con về miền quê chơi.  Trong khi nô đùa, tai nạn đã xẩy đến, cậu trai nhỏ của họ sa chân vô vọng dưới vực nước sâu.  Kẻ nghe tiếng kêu và đã đến cứu cậu là một chú bé, con của người làm vườn nghèo.

Một đứa bé nhà giàu, có thể bàn tay ấy đã được tán thưởng vì tiếng đàn trên phím ngà, nhưng lại không biết bơi.  Một đứa bé nhà nghèo thôn quê, bàn tay xạm nắng vì cuốc rẫy nhưng hôm nay đã cứu đời.  Cha của cậu bé giàu có kia đã biết ơn cậu bé nhà nghèo.  Nhưng thay vì lời cám ơn, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu bé nằm dưới đáy ly kem.  Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé vào bầu trời ở trên cao.  Ông hỏi cậu bé:

– Khi lớn con muốn làm gì?

– Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha con.

– Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?

– Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì.

– Nhưng nếu con có mơ ước thì con ước mơ gì?

– Thưa ngài, con muốn đi học, muốn là bác sĩ.

Sau này, cậu bé được cứu sống vì không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới, đã giữ vai trò quan trọng trong cục diện thay đổi thế chiến đệ nhị, đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị.  Ðó chính là thủ tướng Winston Churchill.

Nhờ lòng thương và biết ơn chân tình của cha cậu bé Churchill, cậu bé nhà nghèo đã không còn đặt mơ ước của đời mình ở những cụm cỏ, bờ đê.  Cậu đã trở thành bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ này đã tìm ra thuốc trụ sinh Penicillin.  Tên của cậu là Fleming!

Rồi cậu bé Churchill là thủ tướng.  Rồi Fleming là bác sĩ.  Nhưng câu chuyện chưa dừng ở đây.  Những áng mây rực sáng, với ánh mặt trời sẽ còn rực sáng nữa.  Khi thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, vương quốc Anh đã đi tìm những danh y lừng lẫy để cứu sống thủ tướng của nước mình.  Kẻ danh y ấy chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.

********************************

“Chính các con hãy lo cho họ ăn”.  Chúa bảo các môn đệ vậy.  Ðấy là hình ảnh của một cậu bé can đảm lao xuống dòng nước trước tiếng kêu của một người hấp hối.  Số tiền nuôi cậu bé nhà nghèo Fleming ăn học, đối với gia đình quý tộc kia có thể đó chỉ là “năm cái bánh nhỏ và hai con cá”.  Nhờ mấy cái bánh nhỏ này mà chính người con của nhà quý tộc ấy, thủ tướng của nước Anh đã được cứu sống lần thứ hai, và cả nhân loại hàng triệu triệu người được thừa hưởng công trình y khoa từ những cái bánh nhỏ đó.

Nhờ năm chiếc bánh và mấy con cá mà Chúa nuôi cả ngàn người.  Phép lạ của những liều thuốc trụ sinh hôm nay và cho đến mãi mãi thế kỷ sau này mở đầu là do sự giúp đỡ mà cậu bé nhà nghèo Fleming đã nhận được.

Những buổi chiều tây phương và những quán kem.  Ngồi bên ly kem người ta thả hồn vào những vùng trời ước mộng mây trôi.  Những buổi chiều đông phương và những quán kem.  Những thìa kem sót lại mà chứa cả bầu trời mộng ước của một tuổi thơ.

Chúa gọi lòng thương xót ở chúng ta, đừng nói chúng tôi “chỉ có năm cái bánh và hai con cá”, Chúa có thể cho một viên than hồng âm ỉ trong đám tro than hôm nay thành biển lửa dữ dội ngày mai.  Vấn đề không phải là “chỉ có năm cái bánh và hai con cá”, nhưng là có bao nhiêu lòng can đảm dám cho đi.

Khi Chúa mời gọi ta cho nhau những cái bánh nhỏ là Chúa mời gọi ta cùng làm phép lạ với Chúa.

Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ – Trích trong “Con Biết Con Cần Chúa”.

SỐNG VÀ LÀM

Truyện vui kể rằng: Một nông dân nghèo được vào thiên đàng, ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông thắc mắc và lên tiếng hỏi:

– Cái gì thế? Có phải để nấu súp không ?

– Không phải.  Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần gian, tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành đó.  Khi chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.

Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi:

– Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?

– Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên đời, lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại không sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.

***

zzBạn thân mến! Câu chuyện vui trên đây nhắc nhở ta về việc “sống và làm”.  Đó cũng là lời khuyên dạy của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” ( Mt.7:21)

Thi hành ý muốn của Chúa… Thực thi thánh ý Chúa…Sống và làm theo Lời Chúa dạy … Phải chăng đó là cốt lõi đời sống của người Kitô. Vì :”Ai nghe những lời Thầy nói mà đem ra thực hành, thì ví như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ.”(Mt.7:25-25).  Người khôn xây nhà trên đá,  không phải là không bị mưa tuôn; sóng vỗ, nhưng ngôi nhà đó dù có bị bao nhiêu mưa tuôn sóng vỗ đi nữa thì nó vẫn đứng vững.

“Tìm ý Chúa trên hết mọi sự, luôn gắn bó kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện, cân nhắc để tìm thánh ý Chúa, một khi tìm được ý Chúa rồi thì mau mắn thực hành”. Phải chăng đó là căn tính của người Kitô ?

“Từ bỏ ý riêng của mình để luôn làm theo ý Chúa. Không tìm kiếm những thành công lẫy lừng, nhưng làm những công việc nhỏ bé âm thầm, sống hiền lành khiêm nhường”. Phải chăng đó cũng là căn tính của người Kitô trong thế giới hôm nay?

Chỉ những người Kitô chân chính mới xây dựng được cuộc đời trên nền tảng vững chắc. Chỉ những môn đệ chân chính, sống khiêm nhường âm thầm, mới xây dựng được đời sống thiêng liêng trên nền đá tảng vững chắc. Những thành công tô vẽ  bề ngoài như những ngôi nhà xây trên cát, khi gặp khó khăn thử thách sẽ đổ vỡ tan tành. Những hy sinh âm thầm như những ngôi nhà xây trên đá. Càng qua gian khổ thử thách, càng bền vững và phát triển mạnh mẽ.

***

Lạy Chúa! Trong cuộc sống hôm nay, có một khoảng cách rất lớn giữa “biết” và ”làm”,  giữa “nói” và “sống”.  Đôi khi con không sống thực với lòng mình khi lên tiếng nói với bạn bè xung quanh con: “ – Các bạn hãy nói cho tôi nghe về Thiên Chúa! – Hãy chỉ cho tôi biết quyển sách nào tốt nhất để dạy về cầu nguyện”.  Nhưng thực ra, con đã biết tất cả những điều tốt nhất, biết tất cả những gì cần phải biết, nhưng rất nhiều lần con đã dừng lại ở chỗ biết, mà không mang cái biết ra thực hành, không sống những điều con đã biết…

Chúa ơi! Xin cho con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa, biết “Sống và Làm” theo lời Ngài mời gọi. Amen.

Tổng hợp từ R. Veritas
(BĐ: Đnl.11:18,26-28 – BĐ2: Rm.3:21-25a,28 – PÂ:Mt.7:21-27)