CHUI QUA LỖ KIM

“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa!”

“Lỗ kim” ám chỉ một trong những cánh cổng ở các bức tường bao quanh thành thánh Giêrusalem.  Sau khi trời tối, cánh cổng sẽ đóng lại và cách duy nhất để vào thành là đi qua một cánh cửa nhỏ ở giữa cánh cổng đó.  Một người có thể đi qua nó bằng cách cúi xuống, nhưng một con lạc đà thì không thể trừ khi nó quỳ gối và bò qua.  Điều này đòi hỏi nhiều nỗ lực và chỉ dẫn từ người chủ của nó, nhưng đó là điều có thể!

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật một câu chuyện không vui về một thanh niên giàu có; trước lời đề nghị của Chúa Giêsu, anh buồn rầu bỏ đi.  Và Ngài kết luận, “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa!”  Điều này khiến các môn đệ kinh ngạc.  Nhưng kinh ngạc hơn – và cũng thú vị hơn – Lời Chúa mời gọi các môn đệ, mời gọi bạn và tôi ‘chui qua lỗ kim!’

Câu chuyện muốn nhấn mạnh rằng, vào Nước Thiên Chúa, chẳng dễ chút nào!  Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đang nói về một người giàu dễ trở nên gắn bó với của cải đến mức người ấy không đạt được sự giàu có thiên đàng như thế nào.  Ngài mời anh từ bỏ sự giàu có dưới đất để đạt được sự trù phú trên trời.  Đầy yêu thương, Ngài nói với anh, “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.  Rồi hãy đến theo tôi!”  Nghe vậy, anh ủ rũ bỏ đi.

Lòng tham của và sự gắn bó với vật chất rõ ràng có khả năng huỷ hoại một tâm hồn.  Đó là một sự thật!  Nhưng lời dạy này cũng áp dụng cho mọi hình thức gắn bó khác.  Khi chúng ta dính mắc vào bất kỳ tội lỗi nào ở mức độ nghiêm trọng và từ chối tách mình khỏi tội lỗi đó, chúng ta sẽ không vào được Vương Quốc.

Chứng kiến sự gắn bó tiền bạc của người bạn trẻ; và sau đó, nghe Chúa Giêsu nói đến sự khó khăn để vào Nước Trời, các môn đệ kinh ngạc, và điều này sẽ thách thức họ.  Điều đó là tốt!  Tốt vì nó cho thấy họ cũng phải xét mình về những ràng buộc không mấy thánh thiện của mình.  Thấy chàng bỏ đi, họ nghĩ đến những gì họ đang vướng mắc.  Sự kinh ngạc trong trường hợp này là sự nhận thức thánh thiện rằng, họ phải thay đổi!  Tuy nhiên, khi một người thực sự muốn thay đổi và được giải thoát khỏi những ràng buộc thì sẽ không còn bất kỳ trói buộc nào khiến họ tần ngần trước những đòi hỏi của Chúa nữa.  Mục tiêu cuối cùng là ‘chui qua lỗ kim’ để trở nên một môn đệ đích thực và việc trở nên này mời gọi họ ‘quỳ gối, bò qua’ để bắt đầu một lối sống mới.

Anh Chị em,

“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn.”  Vậy ‘lỗ kim’ của bạn mang dáng dấp và thuộc loại hình nào?  Nếu bạn muốn ‘chui qua lỗ kim,’ bạn phải toàn tâm toàn ý cam kết.  Chúa Giêsu không ngần ngại đòi hỏi bạn phải hoàn toàn đầu phục cuộc sống mình cho Ngài.  Hãy suy gẫm về những ràng buộc bạn đang vướng mắc và biết rằng, Ngài đang nói với bạn về những ràng buộc này.  Hãy vượt qua mọi kinh ngạc và biến sự phục tùng không lay chuyển theo ý muốn của Chúa thành lối sống của bạn.  Đây là cách duy nhất để bạn bước vào cánh cổng Vương Quốc.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con tháo cởi những gì cồng kềnh vướng bận, hầu con có thể quỳ gối và bò qua ‘lỗ kim’ Chúa muốn!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CHỈ XIN ƠN KHÔN NGOAN

“Khôn ngoan”, theo nghĩa khái quát, được hiểu là phẩm chất kiến thức, kinh nghiệm hay khả năng phán đoán, phân định, quyết định liên quan đến mọi công việc của con người trong đời sống hằng ngày.

Theo Ki-tô Giáo, khôn ngoan được diễn tả nơi khả năng của lý trí cũng như sự kết hợp giữa lý trí và đức tin.  Lý trí lành mạnh giúp con người nhận biết Thiên Chúa là nguyên lý và cùng đích của vạn vật.  Theo thánh Tô-ma A-qui-nô: Khôn ngoan chính là món quà của Chúa Thánh Thần ban cho con người.  Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, con người có được sự khôn ngoan để phân định các thực tại, biết chiêm ngưỡng Thiên Chúa và thực thi thánh ý Ngài.  Các tư tế, các hiền nhân và các ngôn sứ là ba nhóm người được dân Do-thái coi là khôn ngoan đặc biệt.

Đức Khôn Ngoan

Từ cổ chí kim, trong các nền văn hóa Đông cũng như Tây phương người ta đều lo tìm kiếm sự khôn ngoan.  Có được sự khôn ngoan, con người trở nên khôn khéo, cư xử thận trọng và dễ thành công ở đời.  Mạc khải Thánh Kinh cho biết, sự khôn ngoan của con người bắt nguồn từ Thiên Chúa.  Thiên Chúa ban cho ai tùy ý, vì chính Ngài là Đấng Khôn Ngoan.

Theo thánh I-rê-nê thì Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa nhập thể làm người như sách Khôn Ngoan mô tả: Người tìm thấy niềm vui giữa loài người … “Người đã làm người giữa muôn người…  Người đã trao ban sự sống và thiết lập sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người ” (Kinh Tin Kính của Thánh I-rê-nê).

Muốn có Đức Khôn Ngoan, con người phải tuân giữ Luật Chúa.  Vì: “Ai tuân giữ Lề Luật sẽ điều khiển được tâm tư, khôn ngoan là hết lòng kính sợ Đức Chúa” (Hc 21,11).  Ai làm bạn với Đức Khôn Ngoan sẽ được sống muôn đời (x. Kn 8,17).

Sa-lô-môn đã không xin sống lâu, vinh quang, giàu sang, phú quý hay kẻ thù phải chết mà xin cho được ơn khôn ngoan để có thể hướng dẫn, phân định và xét xử dân Do-thái (1 V 3,4-9).  Ý vua xin đẹp lòng Chúa, nên Chúa nói: “Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp” (1 V 3,12).  Chúa còn nói với vua: “Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: Giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi” (1 V 3,13).  Đó là lý do, Sa-lô-môn khôn ngoan hơn tất cả những người khôn ngoan ở Phương Đông và Ai-cập (x. 1 V 5,9-10).

Thiên Chúa chính là nguồn mạch khôn ngoan, Chúa dùng sự khôn ngoan Chúa mà tác thành vạn vật và cấu tạo con người (x.Cn 8,30; Kn 8,6).  Do đó, muôn vật muôn loài được in dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa và phản ánh sự khôn ngoan của Người (x.Rm 1,19-20).

Đức Giê-su, Khôn Ngoan của Thiên Chúa

Đức Giê-su là Sự Khôn Ngoan của Chúa và là Lời của Chúa Cha (x.1Cr 1,24.30).  Người thông ban sự Khôn ngoan cho con người (x.Ga 1,1).  Trước kia tàng ẩn nơi Thiên Chúa nay được Mạc khải nơi Đức Giê-su Ki-tô.

Theo tiên tri Ba-rúc: “Đức Khôn Ngoan xuất hiện trên mặt đất và sống giữa loài người” (Br 3, 38).  Thánh Gio-an viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).  Như vậy, Đức Giê-su vừa là Lời vừa là Khôn Ngoan của Thiên Chúa.

Thánh A-tha-na-xi-ô khẳng định, Đức Giê-su chính là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, ‘được sinh ra từ trước muôn đời’ hay ‘được sinh ra mà không phải được tạo thành’ là Lời duy nhất của Thiên Chúa. Với biến cố Nhập Thể, con người đã nghe và đã thấy, đã chiêm ngưỡng và đã chạm đến Khôn Ngoan của Thiên Chúa ‘bằng xương bằng thịt’ giữa chúng ta.

Để có Ơn Khôn Ngoan, chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm, vì Kinh Thánh khuyến khích chúng ta “Hãy thu tập khôn ngoan” (x.Cn 4,7).  Trước là kính sợ Chúa, vì “kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan” (Tv 111, 10); Thứ đến phải khiêm nhường.  Vì Thiên Chúa “chống cự kẻ kiêu ngạo” và Ngài vui lòng ban sự khôn ngoan cho kẻ khiêm nhường (x. Gc 4,6), và tha thiết cầu xin (x. Gc 1,5).

Đừng lỡ mất Sự Khôn Ngoan

Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay thật tuyệt vời.  Nếu xưa nay người ta cứ tưởng có một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức, tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất, thì anh vẫn mang trong mình khát vọng sống đời đời cho dù anh đã thủ đắc trong tay toàn bộ những thứ đó.

Để biến khát vọng thành hiện thực, anh đã tìm đến với Đức Giê-su là Đấng mà anh gọi là nhân lành, Người là chính Đức Khôn Ngoan.  Đức Khôn Ngoan đã chỉ cho anh: “Hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó, rồi đến theo Ta” (Mc 10,17).  Gặp được Chúa Giê-su, nhưng để có được Chúa Giê-su, Đấng là nguồn mạch mọi khôn ngoan ấy, anh phải bán sạch tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt; đã thế, còn đem bố thì hết cho người nghèo, còn mình trở nên trắng tay mà có sự sống đời đời sao?  Một lời mời gọi mới khó làm sao!

Đức Giê-su là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24).  “Trong Người có cất giấu một kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2, 3).  Gia tài của chàng thanh niên có là gì so với Đức Khôn Ngoan?  Nếu biết Đức Giê-su là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói như tác giả sách Khôn Ngoan: “Đem so sánh sự giầu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giầu sang như không” (Kn 7, 8).

Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan để chúng con được sống đời đời.  Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

BẢN GIAO HƯỞNG DANG DỞ

Trong nỗi giày vò của sự thiếu hụt tất cả mọi thứ có thể đạt được, đến tận cùng, chúng ta học để biết trong đời này, tất cả mọi bản giao hưởng đều phải dang dở.

Đây là lời của linh mục thần học gia Đức Karl Rahner, và nếu không hiểu ý nghĩa của câu này thì chúng ta có nguy cơ để tình trạng khắc khoải thành khối u trong đời mình.  Bị dằn vặt bởi sự thiếu hụt mọi thứ mang ý nghĩa gì?  Chúng ta bị hành hạ bởi thứ mình không có được theo kiểu gì?

Đây là chuyện chúng ta trải nghiệm hằng ngày.  Thực ra, trong cả cuộc đời, trừ một số ít thời điểm đặc ân và yên bình, sự dằn vặt là cơn sóng ngầm trong tất cả mọi chuyện chúng ta trải nghiệm.  Lý ra vẻ đẹp làm chúng ta bình yên thì nó lại làm chúng ta khắc khoải.  Tình yêu với người bạn đời không đáp ứng đủ khao khát của chúng ta . Những mối quan hệ của chúng ta trong gia đình dường như quá nhỏ hẹp để chúng ta có thể thấy đủ.  Công việc của chúng ta chẳng cân xứng với ước mơ chúng ta có về mình.  Nơi chúng ta sống dường như buồn tẻ so với những nơi khác.  Chúng ta quá bồn chồn nên chẳng thể ngồi yên trên bàn, chẳng thể ngủ yên trên giường, người cứ bồn chồn lo lắng.

Khi chúng ta có cảm nhận này, chúng ta sẽ luôn thấy đời mình dường như quá bé nhỏ và chúng ta không sống đời mình theo cách chúng ta mong chờ, mong chờ ai đó hay điều gì đó xuất hiện và thay đổi để cuộc đời chúng ta tưởng tượng sẽ bắt đầu.

Tôi nhớ có người kể cho tôi nghe câu chuyện.  Anh 45 tuổi, hôn nhân tốt đẹp, có ba đứa con khỏe mạnh, có công việc ổn định nhưng tẻ nhạt, sống ở khu phố bình yên nhưng cũng tẻ nhạt.  Nhưng anh chưa bao giờ đặt trọn bản thân vào cuộc sống.  Anh thú nhận:

“Phần lớn đời tôi, nhất là trong 20 năm qua, tôi quá khắc khoải muốn thực sự sống đời mình.  Tôi chưa thực sự đón nhận con người tôi – một người 45 tuổi, làm việc ở cửa hàng tạp hóa trong một thị trấn nhỏ, lập gia đình với một phụ nữ tốt lành, biết cuộc hôn nhân này sẽ không bao giờ thỏa mãn khao khát tình dục thâm sâu của mình, và biết cho dù có mơ mộng thế nào thì cũng sẽ không đi đến đâu, sẽ không bao giờ có được những ước mơ, sẽ chỉ ở đây, như lúc này, trong một thị trấn nhỏ, trong cuộc hôn nhân này, với những con người này và trong cơ thể này đến hết cuộc đời.  Tôi sẽ chỉ già hơn, hói hơn, cơ thể sẽ bớt khỏe mạnh, bớt hấp dẫn hơn.  Nhưng trong mọi chuyện, xét từ mọi góc độ, điều đáng buồn là cuộc đời tôi vốn tốt.  Tôi thực sự rất may mắn.  Tôi khỏe mạnh, được yêu thương, có đời sống gia đình tốt, sống ở một đất nước yên bình và sung túc.  Nhưng lòng tôi lại quá khắc khoải đến nỗi tôi chẳng bao giờ cảm kích được đời mình, vợ mình, con mình, công việc của mình và nơi mình sống.  Tôi luôn mãi ở một nơi khác bên trong con người tôi, quá khắc khoải để thực sự hiện diện nơi tôi đang hiện diện, quá khắc khoải để sống trong nhà mình, quá khắc khoải để thoải mái với chính mình.”

Sự dằn vặt do thiếu mọi thứ có thể có trong đời là vậy.  Nhưng nhận thức thấu suốt của Rahner không chỉ là một chẩn đoán mà còn là đơn thuốc cho căn bệnh này.  Nó cho chúng ta biết để vượt lên những dằn vặt này, vượt lên khối u của khắc khoải này.  Làm sao làm được?

Chính xác bằng cách hiểu và chấp nhận ở đời, mọi hòa âm đều dang dở.  Khi hiểu và chấp nhận lý do làm chúng ta dằn vặt không phải do chúng ta là những người thèm khát tình dục quá độ, loạn thần và vô ơn, quá tham lam để không thỏa mãn với cuộc đời này.  Không phải vậy.  Lý do sâu xa là vì chúng ta bẩm tại được tạo dựng, được truyền năng lượng vượt quá thế giới này.  Chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng như thế.  Chúng ta là những linh hồn vô hạn sống trong một thế giới hữu hạn, những tâm hồn được tạo nên để hợp nhất với mọi vật và mọi người nhưng chỉ được gặp phàm nhân và phàm vật.

Chẳng trách chúng ta có vấn đề với sự bất đạt, mộng tưởng, cô đơn và khắc khoải!  Chúng ta là những vực sâu không đáy.  Khi chưa thể hợp nhất với tất cả, thì chẳng có gì lấp đầy hố thẳm đó được.

Bị dằn vặt vì khắc khoải mới là con người.  Hơn nữa, khi chấp nhận chúng ta là con người và do đó không thể có hòa âm trọn vẹn ở đời này, chúng ta thanh thản hơn trong khắc khoải của mình.  Tại sao?  Vì bây giờ chúng ta biết mọi thứ đến với chúng ta là cơn sóng ngầm của khắc khoải, của bất đạt, và đó là chuyện bình thường và đúng đắn cho tất cả mọi người.

Như linh mục Henri Nouwen đã viết: “Ở đây, trong đời này, không có thứ gì gọi là niềm vui thuần túy và rõ ràng.  Đúng hơn, trong mọi thỏa mãn, đều có ý thức về giới hạn.  Phía sau nụ cười là giọt nước mắt.  Trong mọi vòng tay ôm, vẫn có cô đơn.  Trong mọi tình bạn, vẫn có ngăn cách.”

Bình an và nghỉ ngơi chỉ có thể đến với chúng ta khi chúng ta chấp nhận giới hạn đó trong thân phận con người, vì chỉ khi đó chúng ta mới thôi đòi hỏi rằng cuộc đời – hay cụ thể là người bạn đời, gia đình, bạn bè, công việc, thiên hướng và kỳ nghỉ của chúng ta – cho chúng ta một điều mà nó vốn không thể cho được, cụ thể là một niềm vui thuần túy rõ ràng và sự viên mãn tròn đầy.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

KÍNH KÍNH MỪNG TRONG THÁNG MÂN CÔI (Lc 1, 26-38)

Bước vào Tháng Mười, Tháng Mân Côi, chúng ta thấy một hình ảnh truyền thống tuyệt đẹp về Ðức Bà Mân Côi, một tay bồng Chúa Giê-su Hài Ðồng, còn tay kia thì trao Tràng Chuỗi Mân Côi cho thánh Ða-minh, chứng tỏ rằng kinh Mân Côi là một phương thế được Ðức Mẹ ban cho nhân loại qua thánh Đa-minh, để con cái Chúa nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một hơn.

Ma-ri-a đầy ơn phúc

“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc” là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường đọc.  Nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gáp-ri-en chào Đức Ma-ri-a lúc truyền tin: “Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc (Lc 1,28), và lời xác nhận của bà Ê-li-sa-bét: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giê-su con lòng Bà gồm phúc lạ.”

Những lời của sứ thần Gáp-ri-en và của bà Ê-li-sa-bét trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Mẹ.  Đồng thời, Giáo hội thêm vào lời cầu khẩn xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử.”

Quả Phúc Giê-su

Hằng ngày, khi đọc lại lời chào của thiên thần và lời chào của bà Ê-li-sa-bét chúng ta khám phá ra Quả Phúc nơi cung lòng Đức Mẹ là Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể làm người.  Đây chính là hoa trái mà tiên tri I-sai-a đã báo trước: “Ngày đó, chồi non Đức Chúa cho mọc lên sẽ là vinh quang và danh dự, và hoa màu từ ruộng đất trổ sinh sẽ là niềm hãnh diện và tự hào” (Is 4,2).  Người Con ấy thuộc miêu duệ Abraham, đã xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít, được đầy tràn Thần Khí Chúa.  Thiên Chúa đã đặt nơi Người muôn phúc lành và muôn dân nhờ Người mà được chúc phúc, như có lời chép: “Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61,11).

Kinh Kính Mừng trong Tháng Mân Côi

“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc.”  Mẹ đầy ơn phúc” (Lc 1, 28), vì từ đời đời Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế và gìn giữ Mẹ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, nên nơi Mẹ không có chỗ cho tội lỗi.  Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (x. Ga 1,14).  Chúng ta cũng được kêu gọi lắng nghe Chúa nói và đón nhận ý Chúa vào trong cuộc đời Mẹ để trở nên người có phúc như Mẹ.

Đức Chúa Trời ở cùng Bà

Chúng ta ca tụng Đức Ma-ri-a là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần chào.  Phúc của Mẹ thật cao vời khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: “Em thật có phúc” (Lc 1,42).  Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng.  Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy đầy ơn phúc.

Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa.  Nhưng Thiên Chúa ở cùng Đức Mẹ một cách độc nhất vô nhị.  Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Ðền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa loài người.

Điều đã xảy ra nơi Đức Mẹ Đồng Trinh khi có Thiên Chúa ở cùng, thì cũng xảy ra nơi chúng ta trong mức độ tâm linh.  Chúng ta đón nhận Lời Chúa bằng con tim vui vẻ, chân thành và biết đem ra thực hành.  Chúa Giê-su đã cư ngụ nơi lòng Mẹ, Người cũng đến và ở trong những ai yêu mến và tuân giữ lời Người, đón rước Người khi chịu lễ.  Thế nên Giáo Hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: “Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà” để tôn vinh Mẹ.

Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ

Phúc nơi Mẹ trổi vượt hơn hết mọi người nữ vì Mẹ đã đầu tư vốn liếng cả cuộc đời cho thánh ý Thiên Chúa.  Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Ma-ri-a là người hạnh phúc hơn hết vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Phúc của Mẹ thật khôn ví, vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.  Mẹ có phúc vì Mẹ đã tin như lời bà Ê-li-sa-bét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 45).

Và Chúa Giê-su Con lòng Bà gồm phúc lạ

Ở mức độ tự nhiên, Mẹ đón nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần rồi dâng hiến máu thịt mình cho Con Thiên Chúa để Người được hình thành nơi Mẹ.  Xét về mặt thiêng liêng, Mẹ đón nhận ân sủng và đáp lại điều đó bằng đức tin của mình.”  Về điều này thánh Au-gút-ti-nô giải thích rằng: Đức Trinh Nữ “trước hết đã thụ thai trong tâm hồn và sau là trong cung lòng Mẹ.  Mẹ đã thụ thai trước là đức tin và sau là Thiên Chúa.”

Bằng việc đón nhận hài nhi Giêsu để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Thánh Tử, Đấng là Hồng Phúc ngay trong lòng mình nữa.  Mẹ trở nên người gồm phúc lạ.  Mẹ có phúc vì được làm Mẹ Đức Giêsu.  Mẹ của chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm người (x. Ga 1,14; Mt 1,23).  Mẹ hạnh phúc hơn vì đã trở thành môn đệ Chúa, như lời Chúa Giêsu Con Mẹ đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28).

Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời

Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời.  Chỉ Thiên Chúa là Ðấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.  Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Ðức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.  Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Ðức Giêsu, nhưng chính Chúa Giêsu lại mời gọi ta làm mẹ của Người: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).

Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử

Hành trình tiến về quê Trời của Đức Maria đã bắt đầu “từ tiếng thưa “vâng” ở Nazareth, khi đáp lại lời của Sứ thần Gabriel, người đã loan báo cho Mẹ biết ý muốn của Thiên Chúa.  Và thực sự là như thế, mỗi khi chúng ta thưa “xin vâng” theo ý Thiên Chúa là chúng ta tiến một bước về quê Trời, tiến về cuộc sống vĩnh cửu.”  Chúng ta hãy phó thác cho Đức Ma-ri-a cuộc sống hiện tại và tương lai.  Chẳng có gì Ðức Ma-ri-a được hưởng mà chúng ta lại không được dự phần.  Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

MỐI GIÂY BỀN VỮNG 

Tại Việt Nam chúng ta cũng như ở nhiều nước trên thế giới, gia đình đang rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.  Những trường hợp đồng tính, sống thử, phá thai cùng với trào lưu phóng khoáng tự do về tính dục đang làm gia đình mất đi ý nghĩa của Đấng Tạo dựng.  Ngay từ khởi đầu lịch sử: Thiên Chúa đã ấn định sự bền vững của mối giây hôn nhân.  Tác giả sách Sáng thế đã ghi lại lời tuyên bố của Ngài như sau: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24).  Đức Giê-su – trong Bài Tin Mừng – nhắc lại giáo huấn căn bản này, đồng thời Người khẳng định: đó là quy luật do chính Thiên Chúa thiết lập và mang tính bất di bất dịch.  Bất kỳ với danh nghĩa và lý do nào, không ai có quyền thay đổi quy luật đó.

Lời giáo huấn của Chúa Giê-su và Giáo Hội công giáo về sự bền vững của hôn nhân, xem ra như một cung đàn lạc điệu trong thế giới hôm nay.  Tỷ lệ ly hôn ngày càng tăng.  Tại Việt Nam đã xuất hiện vài cặp đồng tính tổ chức hôn lễ rất rầm rộ, và đáng buồn thay, có nhiều bạn trẻ lại tung hô cổ võ.  Trước thực tại hôn nhân đổ vỡ, một số bạn trẻ chủ trương không kết hôn để khỏi vướng vào trách nhiệm.  Có những người thực sự sống đời độc thân, nhưng cũng có những người không sống được như thế.  Chủ trương không muốn kết hôn kéo theo sự buông thả trong quan hệ tình dục.  Thỉnh thoảng chúng ta đọc thấy trên mạng những đứa trẻ sơ sinh bị chính mẹ ruột của mình đem bỏ ở cổng chùa hay ở nơi công cộng, đôi khi với vài chữ nguệch ngoạc nhờ ai nhặt được thì nuôi giúp.  Chắc hẳn người mẹ đó cũng rất xót xa và đau lòng, nên thường kèm theo câu “mẹ xin lỗi con.”  Đó là kết cục bi thảm của quan niệm tình dục không cần tình yêu và cũng không cần hôn nhân.

Dựa trên ánh sáng Lời Chúa, Giáo lý Giáo Hội công giáo dạy về sự bền vững của hôn nhân Ki-tô giáo như sau: “Do giao ước hôn nhân, một người nam và một người nữ tạo thành một sự hiệp thông trọn cả cuộc sống, tự bản chất, giao ước ấy hướng về lợi ích của đôi bạn, cũng như đến việc sinh sản và giáo dục con cái; Chúa Ki-tô đã nâng giao ước hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội lên hàng bí tích” (số 1601).

Hôn nhân Ki-tô giáo được gọi là “bí tích” được cử hành trong một nghi thức phụng vụ.  Điều này có nghĩa: mối giây hôn nhân do chính Chúa Ki-tô thiết lập.  Mối giây này bền vững.  Không một lý do nào có thể biện minh cho việc cắt đứt mối giây thiêng liêng này.  Trong nghi thức hôn phối, đôi bạn hoàn toàn tự do và tình nguyện đến trước bàn thờ, công khai bày tỏ sự ưng thuận và hứa hẹn chung thủy trọn đời.  Lời hứa ấy được tuyên bố trước mặt Chúa và trước mặt đại diện Giáo Hội.  Chính vì vậy, mối giây hôn phối rất thiêng liêng.

Là Ki-tô hữu, chúng ta không thể để mình như vật trôi trên sông bị sóng đánh dạt dào một cách thụ động, tức là buông xuôi theo phong trào, theo quan niệm của đám đông dân chúng.  Hơn nữa, chính trong bối cảnh này, người tín hữu có sứ mạng làm chứng cho sự bền vững của hôn nhân Ki-tô giáo và truyền thống một vợ một chồng đã được áp dụng từ nhiều thế kỷ.  Đức Thánh Cha Phan-xi-cô khích lệ các cặp vợ chồng tổ chức các dịp kỷ niệm ngân khánh (25 năm), kim khánh (50 năm) và ngọc khánh (từ 60 năm trở lên).  Những sự kiện này, vừa là dịp hâm nóng tình yêu, vừa là lời chứng hùng hồn cho sự bền vững của hôn nhân, khẳng định rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, sự chung thủy vợ chồng là điều có thể được.

Người Công giáo tin rằng, đời sống hôn nhân và gia đình luôn có Chúa phù trợ.  Ơn của bí tích Hôn phối luôn hiện hữu trong đời sống gia đình.  Tuy vậy, người vợ người chồng và các thành viên trong gia đình cũng cần phải cộng tác với ơn Chúa, cùng nhau hướng tới mục đích cao cả của hôn nhân, là chia sẻ tình yêu, sinh con cái và dạy dỗ gây dựng sự nghiệp cho những đứa con mình sinh ra.

“Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!”  Câu nói của A-đam diễn tả sự bình đẳng giới tính giữa người nam và người nữ.  Như thế, từ rất sớm trong lịch sử, giáo huấn về sự bình đẳng đã được ghi trong Kinh Thánh.  Đó cũng là một trong những nền tảng quan trọng để duy trì hạnh phúc gia đình.  Người nam và người nữ đều được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, đều được Ngài yêu thương và mời gọi đạt tới sự thánh thiện.

Theo thánh Phao-lô, mối giây hôn nhân còn tượng trưng cho tình yêu giữa Đức Ki-tô và Giáo Hội.  Vì vậy mà Giáo Hội được gọi là hiền thê của Chúa.  Đây là mối tình thanh khiết, thánh thiện, là gương mẫu cho mối tình phu phụ được bí tích Hôn phối liên kết.

Đây đó tại Việt Nam chúng ta, tình trạng “chồng chúa vợ tôi” và bạo lực gia đình vẫn tồn tại.  Ước chi mỗi người hãy nhận ra phẩm giá Chúa ban, cùng với sự bình đẳng được quy định do chính Đấng Sáng tạo, để vừa biết tôn trọng bản thân và tôn trọng người khác, nhất là người phối ngẫu trong cùng một gia đình.

Xin Thánh gia ở Na-gia-rét, là gia đình Chúa Giê-su, Đức Maria và thánh Giu-se bầu cử và gìn giữ các gia đình tại quê hương Việt Nam chúng ta.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

HẠT MẦM YÊU THƯƠNG

“Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời!”

Sau khi hoàn tất bộ phim “Tiểu Sử Têrêxa”, L. Younce trở lại đạo!  Cô viết, “Điều tôi khám phá ở Têrêxa là niềm vui phát sinh từ đau khổ khi bạn dâng nó lên Chúa.  Tôi cảm phục sự nhịn nhục và phục vụ ân cần của Têrêxa – một hạt mầm yêu thương – với nữ tu già Augustine khó thương; Têrêxa yêu quý bà và biến hành vi ấy nên của lễ cứu độ!”

Kính thưa Anh Chị em,

Cả hai bài đọc lễ thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nói đến những em bé.  Và một em bé – như Têrêxa – là một mảnh đất bí ẩn, mảnh đất của những ‘hạt mầm yêu thương!’

Isaia mô tả tình yêu Thiên Chúa, “Mẹ Giêrusalem”, dành cho dân Ngài – bài đọc một.  Têrêxa mất mẹ lúc 4 tuổi, mất luôn ‘người mẹ thứ hai’ – chị Pauline vào dòng – lúc 9 tuổi.  Èo uột “như một cọng hành,” may thay, hạt mầm Têrêxa cảm nhận tình mẹ của Thiên Chúa vốn cho phép Têrêxa “bú sữa, được ẵm vào lòng, được nâng niu trên đầu gối.”  Hạt mầm ấy càng bí ẩn khi Têrêxa là một nữ tu ở tuổi 15.  Và dẫu kết thúc chỉ sau 9 năm, Têrêxa đã nên mảnh đất của những ‘hạt mầm yêu thương!’

Nếu Têrêxa không vâng lời mẹ Bề trên – chị ruột Agnes – để viết “Một Tâm Hồn,” không ai biết Têrêxa.  Đọc nó, bạn thấy “Bông Hoa Nhỏ” không chỉ tỏa hương đơn sơ, phó thác, nhưng còn man mát cả những tham vọng, tự tôn, can đảm, lãng mạn và cả bướng bỉnh.  Têrêxa ước bay lên mặt trời chói lọi Ba Ngôi; “Em muốn như các thánh, làm những chuyện ngông cuồng cho Ngài!”; “Ôi Giêsu, cho con được tử đạo trong lòng hay nơi thân xác; tốt hơn, cả hai!”  Như một người tình, Têrêxa thả hồn rong ruổi Tình Quân, “Khi tâm hồn bị cuốn hút bởi làn hương say đắm của Ngài, nó không chạy một mình; tất cả những người nó yêu đều được cuốn theo!”  Như chú bọ ngựa vênh váo, Têrêxa sánh mình với cây cọ ba xu để Chúa vẽ nên những kiệt tác, “Phần cây cọ, nó đâu tự hào về một kiệt tác là do nó; nhưng nó biết, ‘Người Nghệ Sĩ’ không bối rối mà còn bỡn cợt với những khó khăn; và đôi khi, cần một dụng cụ yếu đuối và bất toàn như nó!”

Têrêxa thông minh, hài hước, lắm tưởng tượng, “Archimède cần một điểm tựa bên ngoài để bẩy trái đất lên, ông không tìm ra!  Các thánh thì khác, Chúa cho họ một điểm tựa, chính Ngài.  Đòn bẩy là kinh nguyện bốc cháy yêu thương, cầu nguyện là cách thức các thánh nâng vũ trụ lên, nâng cho tới tận thế, ‘Các thánh tương lai’ cũng sẽ nâng!”  Têrêxa có những biện minh lạ lùng, “Con không nản chí vì những lỗi lầm của mình, vì trẻ con thường ngã luôn, nhưng vì chúng bé quá, nên không thấy đau mấy!”

Anh Chị em,

“Trẻ con thường ngã luôn, nhưng không thấy đau mấy vì quá bé!”  Chấp nhận mình bé nhỏ, nhiều khuyết điểm, ít tài năng; nhiều thất bại, ít thành công; nhiều tội lỗi, ít thánh thiện… là những đòn bẩy nâng bạn và tôi lên.  Chớ gì biết rõ mình là ai, chúng ta đặt trọn tin yêu vào Chúa; trở nên mảnh đất cho những ‘hạt mầm yêu thương’ mà Chúa Thánh Thần không ngừng gieo vãi.  Như Têrêxa, chúng ta tham vọng bẩy lên thế giới bi luỵ bằng cầu nguyện, chống lại tội lỗi và sự dữ.  Được vậy, chúng ta có thể hát lên “Hồn con xin Chúa giữ gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết dâng Chúa những đau khổ người khác gây ra cho con, và những hành vi ấy cũng sẽ biến nên của lễ cứu độ!” Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL VÀ RAPHAEL

A. Lịch Sử

Thuật ngữ Thánh Kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả.”  Theo thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.

Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa.”  Nổi bật nhất giữa các thiên thần là các đấng Michael, Kêrubim và Sêraphim.

Michael, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa”

Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa

Rafael, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp

Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở Rôma.  Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael.  Theo lịch xưa, các ngài được mừng vào những ngày 24.3 và 24.10. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

B. Ý Nghĩa…

Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng tương đối nói ít về các thiên thần.  Trong đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ có một câu “Các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người.”  Đây là sự tích lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người.  Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người.  Các thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.

1. Micae là tổng lãnh tất cả các thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe.  Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một trận chiến to tát.  Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe.  Micae là thiên thần dũng mãnh đã anh dũng tống cổ Luciphe và bè lũ theo hắn ra khỏi thiên đàng dưới khẩu: “AI BẰNG THIÊN CHÚA.”  Khẩu hiệu này sau đã trở thành tên của ngài.

Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa.  Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài:  Ai bằng Thiên Chúa?  Vâng!  Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả.  Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.

2. Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ).  Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.

Tên Gabriel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa.”

Chính đức Gabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Daniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.  Chính đức Gabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.

Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: “Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa.  Sứ thần của Chúa hiện ra với ông… thấy vậy ông bối rối.  Sự sợ hãi ập xuống trên ông.  Những sứ thần bảo ông: “Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elizabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan.”  Ông thưa lại: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?  Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi?  Sứ thần đáp lại: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa.  Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông.  Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi. (Lc 1,1-20) v.v… Và sau đó mọi việc xảy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.

Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Gabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria.  Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn ngỡ ngàng hơn.  Việc của Giacaria với bà Elizabeth chỉ là việc giữa con người với con người.  Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa.”

Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ cả vũ trụ đều phải nhảy mừng.  Thi sĩ Hàn mặc Tử chỉ nghĩ đến biến cố này thôi cững đã phải run rẩy mà thốt lên như thế này:

“Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel.

Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn loài?”

Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.

3. Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.

Cựu Ước nói về Raphael như thế này:

“Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria vì dân Do thái bị bại trận.  Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa.  Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn.  Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở.  Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn.  Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia – Để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay.  Tobia-con sẵn sàng vâng lời nhưng Tobia-con không biết đường đi.  Tổng lãnh Gabriel đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để dẫn đường.  Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt.  Tới nơi Gabriel còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm cho Tobia.

Công việc xong,Tobia-con cùng với vợ trở về nhà.  Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha.  Tobia cha được khỏi mù, mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng.  Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giúp đỡ gia đình mình.  Khi ấy “người thanh niên” tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông.  Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.

Câu chuyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người.  Raphael có nghĩa là “THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA”

Xin được kết thúc bằng câu chuyện thật đẹp này:

Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện.  Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ngài là ông thánh nhỏ.

Ngày nọ, đang lúc ngài đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói:

– Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.

Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:

– Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?

Nói xong, Thiên thần biến đi.  Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.

Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra.  Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:

– Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?

Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra.  Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường.  Thiên thần biến đi không nói một lời nào.  Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:

– Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài.

Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:

– Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.

Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:

– Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu ?

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

ĐỨC TIN: ƠN BAN HAY ĐỘC QUYỀN? 

Giáo hội tại Việt Nam có một số giáo xứ được gọi là “toàn tòng,” nghĩa là tất cả mọi người trong làng đều là người Công giáo.  Nơi đây, những tổ chức sinh hoạt đời sống đức tin rất thuận lợi và được mọi người hưởng ứng tham gia.  Tuy vậy, cũng có vấn đề đặt ra là tại những giáo xứ này, người tín hữu ít giao lưu với những làng xã bên cạnh, vì những làng ấy là “bên lương,” hoặc “ngoại đạo.”  Những sinh hoạt tôn giáo rất sầm uất nhưng chỉ khép kín trong khuôn khổ một làng.  Phải chăng đây là lý do làm cho việc loan báo Tin Mừng kém hiệu quả?  Trong quá khứ, đã từng có những làng Công giáo tranh chấp xung đột với làng lương dân, và để lại những mối thù truyền kiếp.  Sự khép kín, cùng với não trạng cục bộ vô tình làm cho đức tin Ki-tô giáo trở nên một thứ độc quyền.  Có nơi, người Công giáo có cái nhìn kỳ thị đối với những người không cùng đức tin với mình.

Xem ra tư tưởng cục bộ này “xưa như trái đất.”  Bài đọc I trích sách Dân số và Bài Tin Mừng đều cho chúng ta thấy não trạng độc quyền này.  Thời ấy, mấy thanh niên khi thấy người khác nói tiên tri thì ghen tức, và đi báo cáo với ông Môi-sen, với đề nghị ông phải ngăn cản họ.  Thánh Mác-cô ghi lại cho chúng ta vụ việc tương tự, mà người bực tức lại là ông Gio-an, có thể là Gio-an tông đồ, người sau này là tác giả của Tin Mừng thứ tư, gọi là Tin Mừng của tình yêu?

Ông Môi-sen và Chúa Giê-su đều có lối phản ứng giống nhau.  Ơn tiên tri không phải là độc quyền.  Ơn trừ quỷ cũng vậy.  Thiên Chúa là Cha của cả gia đình nhân loại.  Người không độc đoán và hẹp hòi như chúng ta.  Ông Môi-sen đã đưa ra một ước mơ: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ.”  Đức Giê-su đã đưa ra một nguyên tắc: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

Giấc mơ năm xưa của ông Môi-sen nay đã được thực hiện.  Toàn dân Ki-tô giáo, tức là tất cả những ai đã lãnh nhận phép Rửa nhân danh Đức Giê-su đều trở thành ngôn sứ.  Nhờ Bí tích Thêm sức, những tín hữu được đón nhận Chúa Thánh Thần, giống y như các tông đồ xưa trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Đức tin Ki-tô giáo không bao giờ là độc quyền cho một nhóm người nào.  Trái lại, bất kỳ ai tin vào Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su rao giảng, thì đều được lãnh nhận Bí tích Rửa tội (hay còn gọi là Thanh tẩy).  Ơn đức tin do Chúa ban, không do công lao của con người, cũng không phải là ân huệ của Giáo Hội hay của bất kỳ người nào.

Vì đức tin không phải là một độc quyền, nên việc loan báo đức tin cũng được dành cho tất cả các tín hữu.  Một làng toàn tòng là nét đẹp của Giáo hội, là di sản đức tin do bao đời các bậc tiền nhân hy sinh gìn giữ.  Tuy vậy, với sứ vụ loan báo Tin Mừng, làng tòan tòng ấy phải mở ra với thế giới.  Người tín hữu phải chia vui sẻ buồn, và phải giao lưu và cộng tác với anh chị em các làng xã láng giềng, trong những hoạt động phục vụ công ích.  Nhờ mối tương quan tốt, chúng ta diễn tả hình ảnh thánh thiện của Giáo hội Chúa Ki-tô.  Làm cho mọi người biết Chúa, đây chính là lệnh truyền của Đấng Phục sinh và lời mời gọi của Giáo hội.

Để có khả năng làm chứng cho Chúa, trước hết người tín hữu phải củng cố và hoàn thiện đức tin nơi cá nhân mình.  Khi loan truyền Tin Mừng cho người khác, chúng ta phải là những người sống Tin Mừng.  Như vậy, chúng ta mới thực sự là những chứng nhân của Chúa Ki-tô.  Những điều kiện Chúa Giê-su nêu trong Tin Mừng như chặt chân, chặt tay, khoét mắt có thể làm cho chúng ta và những độc giả khác cảm thấy bị “sốc.”  Phải chăng Chúa muốn dùng những câu ngạn ngữ dân gian, với ý nghĩa đức tin vào Chúa phải chiếm vị trí ưu tiên trong cuộc đời chúng ta.

Bài đọc II tiếp tục cho chúng ta nghe lời giáo huấn của thánh Gia-cô-bê.  Lối hành văn của ông rất đơn sơ mà cụ thể, đề nghị những thực hành trong đời sống hằng ngày.  Đọc đoạn văn hôm nay, chúng ta dường như nghe văng vẳng lời giáo huấn của ngôn sứ A-mốt.  Vị ngôn sứ này sống ở thế kỷ thứ tám trước Công nguyên, trong bối cảnh nam bắc phân tranh.  Ông sống ở miền Bắc, còn gọi là Vương quốc Ít-ra-en (còn miền Nam được gọi là Vương quốc Giu-đa).  Ông mạnh mẽ phê phán những người giàu có mà khinh thường người nghèo, lên án những người làm giàu bất chính do bóc lộc người khác (xem đặc biệt trong chương 4 và chương 6 sách ngôn sứ A-mốt).  Thánh Gia-cô-bê nói với chúng ta: giống như trường hợp người phú hộ giàu có dửng dưng trước nỗi khổ đau của ông La-da-rô (x. Lc 16,19-31), những kẻ bóc lột và khinh thường người nghèo sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.

Đức tin không phải là một độc quyền, nhưng là ơn Chúa ban.  Chúng ta phải làm cho ơn ấy lớn lên từng ngày và sinh hoa kết trái.  Chúng ta cũng có bổn phận giới thiệu đức tin cho những người xung quanh.  Những ai chỉ giữ niềm vui Tin Mừng cho riêng mình, sẽ giống như người lãnh nhận nén bạc rồi chôn xuống đất, không hề sinh lợi, sau này sẽ lãnh hình phạt (x. Mt 25,14-30).

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

GẶP GỠ THIÊN CHÚA ĐANG NÓI

Ba Bí Quyết để Nghe Tiếng Thiên Chúa

Cuộc sống đầy dẫy những câu hỏi: Đâu là bí quyết để hạnh phúc?  Tại sao những điều xấu lại xảy đến cho những người tốt?  Mục đích của tôi trên trần gian này là gì?  Tại sao có sự dữ trong thế giới này?

Trong một thế giới đề cao những giải pháp nhanh chóng, người ta có thể lo lắng khi đối diện với những câu hỏi như thế này – những câu hỏi phức tạp không thể được giải quyết bằng những khẩu hiệu đơn giản hoặc những câu trả lời chỉ có một từ.

Đức Giáo hoàng Benedictô XVI nói rằng cho dẫu chúng ta thích những câu trả lời nhanh chóng, chúng ta chỉ có thể hiểu được những điều bí nhiệm của cuộc sống khi chúng ta dành thời gian để đắm mình trong lời của Thiên Chúa.  Vậy chúng ta hãy xem chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Giêsu như thế nào, Ngôi Lời hằng sống của Thiên Chúa, Lời của Thiên Chúa đã được viết trong Kinh Thánh.  Ba lời khuyên thực tế này sẽ giúp chúng ta nghe được chính tiếng của Thiên Chúa và cảm nhận được sự hiện diện của Người khi chúng ta suy gẫm lời của Người trong Kinh Thánh.

Hãy Đọc Kinh Thánh Hằng Ngày! “Mong sao mỗi ngày sống của chúng ta được hình thành bởi một cuộc gặp gỡ mới với Chúa Kitô,  Lời của Chúa Cha đã thành xác phàm” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 124).

Bước đầu tiên nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng đó là bước chúng ta thường bỏ qua: sắp xếp thời gian để đọc Kinh Thánh hằng ngày.  Hãy lên lịch việc đó trong ngày sống của bạn.  Hãy làm việc đó trước hết vào buổi sáng.  Hãy làm quen với câu chuyện của Kinh Thánh để bạn có thể thấy cách Thiên Chúa đã làm việc thế nào qua các thời đại.  Hãy tự mình khám phá xem Thiên Chúa làm việc cách kiên nhẫn, dạy chúng ta đường lối của người và chuẩn bị cho chúng ta ngày Chúa trở lại.  Và đừng sợ dùng các sách chú giải và những bài nghiên cứu Thánh Kinh đáng tin cậy để giúp bạn.  Càng hiểu biết về bối cảnh, lịch sử, và ngữ cảnh của Kinh Thánh, bạn càng có thể sắp xếp câu chuyện của Kinh Thánh hơn.

Nhưng hãy bảo đảm rằng lúc bạn đang đọc và nghiên cứu, bạn cũng đang cầu nguyện và tìm kiếm.  Như Đức Giáo hoàng Bênêđictô  nhấn mạnh, chúng ta có thể gặp Chúa Giêsu trong những lời của Thánh Kinh.  Chúng ta có thể phát triển một mối tương quan sâu sắc với Người khi chúng ta để cho lời Người thấm nhuần vào trong tâm hồn chúng ta.

Điều này không xảy ra trong một sớm một chiều.  Giống như bất kỳ mối quan hệ nào, nó cần có thời gian.  Hãy suy nghĩ về bất cứ tình bạn thân thiết nào của bạn.  Không phải bạn và bạn của bạn ngày càng trân trọng nhau khi các bạn dành thời gian cho nhau sao?  Không phải các bạn đã trở nên gắn bó với nhau khi chia sẻ những thăng trầm trong cuộc sống của các bạn sao?  Các bạn ngày càng yêu nhau bởi nhờ cách các bạn chia sẻ niềm hy vọng và nỗi sợ hãi, ước mơ và những nối thất vọng của mình.

Không có gì có thể thay thế thời gian.  Các mối quan hệ cần thời gian.  Giao tiếp cần thời gian.  Tình yêu cần thời gian.  Vì vậy, chúng ta cần đọc Kinh Thánh mỗi ngày để có thể hiểu biết về Chúa.  Ngài nghĩ như thế nào về mọi việc?  Ngài phản ứng ra sao trước khó khăn hay may mắn?  Điều gì khiến Ngài vui hay buồn?  Những ước mơ và hy vọng của Người là gì?

Hãy Trở Nên Một Phần của Kinh Thánh.  “Lời Chúa lôi cuốn mỗi người chúng ta bước vào cuộc đàm thoại với Chúa: Đấng Thiên Chúa đang nói dạy ta cách để nói với Người” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 124).

Khi bạn đọc Kinh Thánh hằng ngày, hãy cố gắng tưởng tượng mình đang ở trong bối cảnh mà bạn đang đọc.  Khi đọc các sách Tin Mừng, Thánh Ignatio Loyola thường hình dung chính ngài như một trong các môn đệ của Chúa Giêsu để ngài có thể quan sát tận mắt mọi thứ đang diễn ra.  Ngài tưởng tượng chính ngài là một nhân chứng phụ trong Bữa Tiệc Ly, đang chứng kiến mọi thứ xung quanh ngài khi Chúa Giêsu cử hành Bí tích Thánh Thể lần đầu tiên.  Ngài nhìn kỹ khuôn mặt Chúa Giêsu khi Người tha thứ cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình, hoặc khi Người thách thức những người Pharisêu và Nhóm Sađốc.  Ngài đã cùng với chị Maria Mácđala và tông đồ Gioan hiện diện ở đồi Canvariô và chứng kiến những ánh nhìn và những âm thanh trong ngày Chúa Giêsu chịu chết cho ngài.

Việc hòa nhập chính mình vào Kinh Thánh theo cách này không nên là một việc thụ động.  Chúng ta không nên chỉ ngồi phía sau và xem những gì đang xảy ra.  Chúng ta cũng có thể trở thành một phần của cảnh ấy.  Chẳng hạn, khi bạn hình dung chính bạn trên Núi Hôrép với Môsê và bụi gai bốc cháy, hãy cảm thấy tự do để hỏi Môsê như thể bạn nghe được tiếng của Thiên Chúa.  Hãy tưởng tượng ông đang hướng về bạn và chia sẻ với bạn những gì ông đang suy nghĩ khi Thiên Chúa nói với ông đối diện với Pharaô và yêu cầu vua thả cho dân Do Thái đi.  Bạn có thể ngạc nhiên về câu trả lời bạn nhận được.

Hãy bảo đảm rằng bạn không chỉ giới hạn mình vào những câu chuyện trong Kinh Thánh.  Chính Đức Giáo hoàng Benêđictô đã khuyến khích chúng ta làm điều tương tự với các thánh vịnh, được gọi là sách cầu nguyện của Kinh Thánh:

“Trong các Thánh vịnh, ta có thể gặp được mọi tâm tình nhân loại trong cuộc sống, được trình bày một cách khéo léo trước nhan Thiên Chúa…  Theo cách đó, lời con người thưa với Thiên Chúa lại trở thành chính Lời Thiên Chúa… và toàn thể cuộc sống con người trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng đang nói và đang nghe” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 24).

Hãy tưởng tượng chính bạn là một trong những thánh vịnh gia khi bạn dâng tâm hồn bạn lên trước Nhan Chúa.  Và giống như các thánh vịnh gia, hãy can đảm đủ để mong đợi câu trả lời từ Thiên Chúa.  Thay vì những mối quan tâm của thánh vịnh gia, bạn hãy dâng chính những nhu cầu và ước muốn của bạn, những khao khát và hy vọng của bạn.  Hãy để cho những lời ca ngợi và tạ ơn của thánh vịnh gia trở thành của chính bạn.  Như Đức Bênêđictô nói, lời Thiên Chúa sau đó sẽ trở thành chính tư tưởng của bạn.  Đường lối của Người sẽ trở thành đường lối của bạn, đặt qua một bên bất kỳ thứ gì trong bạn đối nghịch với cách suy nghĩ của Người.

Hãy Lắng Đọng và Lắng Nghe. “Chỉ trong im lặng, lời Chúa mới tìm được nơi cư ngụ trong ta, như đã tìm được nơi Đức Maria, người phụ nữ của lời nhưng một cách không thể tách biệt, cũng là người phụ nữ của im lặng” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 66).

Việc đặt mình vào trong Kinh Thánh theo cách này lúc đầu có thể làm bạn cảm thấy giống như chơi trò tưởng tượng.  Làm sao bạn có thể kể lại nếu bạn không biết những điều bạn đang hình dung đến từ sự tưởng tượng của chính bạn hay từ Thiên Chúa?  Bí quyết ở đây là qua sự lắng nghe trong thinh lặng.

Chúng ta đang sống trong một thế giới ồn ào, năng động và tất cả các hoạt động đều có thể ảnh hưởng đến thời gian đọc Kinh Thánh của chúng ta.  Khi đặt mình vào một cảnh trong Kinh Thánh, bạn có thể bị cám dỗ đánh mất mục tiêu và để cho trí tưởng tượng của bạn chạy trốn với bạn.  Bạn có thể kết thúc bằng việc dành toàn bộ thời gian của mình để hình dung khung cảnh cách chi tiết, tưởng tượng phản ứng của mọi người và để cho câu chuyện tiếp tục mở ra.  Nhưng tất cả các hoạt động tưởng tượng này phải được cân bằng với sự thinh lặng và tĩnh lặng.  Bằng cách nào khác bạn sẽ có thể nghe được tiếng Chúa?

Nếu một từ hay một cụm từ hoặc một hình ảnh đặc biệt đánh động bạn, hãy dừng lại và suy gẫm về nó.  Hãy lắng đọng.  Hãy dành thời gian của bạn.  Đừng lo lắng về việc đi đến phần kết thúc câu chuyện hay kết thúc thánh vịnh.  Thay vào đó, hãy nghiền ngẫm nó.  Hãy đợi Chúa nói với bạn, Đó có thể đơn giản là những lời của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly: “Hãy tin vào Thiên Chúa”  (Ga 14,1), hoặc đó có thể liên quan đến lời tuyên bố của Thánh Phaolô rằng mọi người kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ (x. Rm 10,13).  Bất kể là gì, bạn hãy dành thời gian để lời đó được mở ra.  Hãy lặp lại lời hay cụm từ đó nhiều lần, hãy hỏi Chúa xem Người muốn nói với bạn điều gì.  Hãy viết lại bất cứ ấn tượng nào bạn có thể có.  Hãy lắng đọng tâm hồn bạn, hít thở sâu và lãnh nhận bất cứ điều gì Thiên Chúa ban cho bạn.

Nếu các tư tưởng đến với bạn làm bạn tràn đầy bình an, niềm vui, hy vọng hay khao khát trở nên giống Chúa Giêsu hơn, bạn có thể bảo đảm rằng Chúa Thánh Thần đang nói với bạn.  Nếu các ý nghĩ làm bạn cảm thấy lo lắng, thất vọng hoặc chìm đắm trong mặc cảm tội lỗi, thì bạn có thể chắc chằn rằng chúng không đến từ Thiên Chúa.

Nếu các suy nghĩ đến với bạn thôi thúc bạn hành động cách khác biệt, hành động giống Chúa hơn, thì bạn có thể tự tin rằng Thiên Chúa ở đàng sau những suy nghĩ ấy.  Chẳng hạn, bạn có thể cảm thấy được thúc đẩy để thể hiện lòng nhân hậu hơn nữa với một người bạn hay một thành viên gia đình.  Bạn có thể được thôi thúc xưng thú tội lỗi quá khứ đã đè nặng trên lương tâm của bạn.  Bạn có thể thấy sự can đảm mới để dấn thân vào việc phục vụ giáo xứ.  Hoặc bạn có thể cảm thấy cần hàn gắn tình bạn bị tổn thương.  Bất kể điều gì bạn cảm nhận Thiên Chúa đang yêu cầu bạn làm, hãy bước ra và thực hiện nó.  Thông thường, bạn sẽ nhận ra rằng một bước đơn giản dẫn đến bước khác và bước khác –  mỗi bước đều kéo bạn đến gần với Chúa hơn.

Thiên Chúa Đấng Đang Nói.  Đức Giáo hoàng Benêđictô nói: “Không có điều ưu tiên nào lớn hơn ưu tiên này là: hãy mở ra lại cho con người ngày nay con đường đến với Thiên Chúa, một vì Thiên Chúa đang nói và chia sẻ với chúng ta tình yêu của Ngài, để chúng ta có được sự sống dồi dào” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 66).

Với những lời này, Đức Giáo hoàng Bênêđictô đang nói rằng bí quyết để có một cuộc sống bình an, đầy hoa trái và trọn vẹn hệ tại ở việc lắng nghe Thiên Chúa nói lời của Người với chúng ta.  Người đang nói với chúng ta rằng Cha trên trời muốn mở mắt chúng ta ra trước sự hiện diện và tình yêu của Người cách sâu sắc thế nào.  Tất cả những gì chúng ta phải làm là để lời Người bén rễ trong tâm hồn chúng ta.  Cuộc sống đầy dẫy những câu hỏi.  Thật tốt biết bao để biết rằng chúng ta có thể nhận ra những câu trả lời khi chúng ta cầu xin Chúa Giêsu, Ngôi Lời trọn vẹn và hoàn hảo của Thiên, nói với chúng ta!

Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Theo The Word Among Us

TẠI SAO THÁNH MATTHÊU CÓ HAI TÊN TRONG KINH THÁNH?

Người thu thuế nổi tiếng, Matthêu, trở thành tông đồ có thể đã được đổi tên sau khi gặp Chúa Giêsu Kitô.

Thay đổi cái tên rất có ý nghĩa trong Kinh thánh vì chúng thường báo hiệu một sứ mạng mới từ Thiên Chúa.  Ví dụ Ápram trở thành Ápraham và Simon được đổi tên thành Phêrô.

Một nhân vật khác trong Kinh thánh mà nhiều học giả tin rằng đã được đổi tên thành tông đồ Matthêu.  Trong Phúc âm Matthêu, người thu thuế được Chúa Giêsu Kitô kêu gọi trở thành môn đệ được đặt tên là “Matthêu” (Mt 9, 9).

Tuy nhiên, trong Tin Mừng Marcô, người thu thuế đó lại có tên là “Lêvi” (Mc 2,14).

Một số học giả tin rằng người thu thuế đó có hai tên, một tên bằng tiếng Hy Lạp (Matthêu) và tên kia bằng tiếng Do Thái (Lêvi).  Điều này rất có thể xảy ra, vì các học giả chỉ rõ Simon (Phêrô) và Saul (Phaolô) như một ví dụ điển hình, nên nó không biểu thị sự thay đổi cái tên mà là hai cái tên tồn tại trong hai ngôn ngữ khác nhau.

Tuy nhiên một số học giả khác tin rằng điều này có thể ám chỉ đến sự thay đổi tên.  Từ điển Công giáo có giải thích: “Có thể Matthêu, ‘món quà của Giavê’, là tên được Chúa Giêsu Kitô đặt cho người thu thuế khi Ngài kêu gọi ông làm Tông đồ, và từ đó ông được nhận biết giữa các anh em Kitô hữu của mình, Lêvi là tên ban đầu của Matthêu.”

Trong thực tế, cả hai thuyết này đều có thể xảy ra.  Điều chắc chắn là sau khi ông rời bỏ công việc thu thuế của mình, ông mãi mãi được cộng đồng Kitô giáo đầu tiên gọi là “Matthêu.”

Dù thế nào đi nữa, cả hai cái tên đều có khả năng truyền cảm hứng cho những suy ngẫm mang tính biểu tượng, như có thể thấy trong đoạn văn sau đây từ sách Kim Sử, một văn bản phổ biến thời Trung cổ, nó cho chúng ta biết về ý nghĩa cái tên của các vị thánh.

Matthêu có hai cái tên, Matthêu và Lêvi.  Matthêu (Matthêô) được hiểu là món quà vội vàng, hoặc là người khuyên dạy.  Hoặc tên xuất phát từ magnus – vĩ đại, và theos – Chúa, gọi là vĩ đại đối với Chúa; hoặc từ mamis – bàn tay, và theos, gọi là bàn tay của Chúa.  Thánh Matthêu là một món quà vội vã nhờ sự hoán cải nhanh chóng của ngài, là người đưa ra lời khuyên qua lời rao giảng cứu rỗi của ngài, vĩ đại đối với Thiên Chúa nhờ sự hoàn hảo của cuộc đời ngài và là bàn tay của Thiên Chúa qua việc viết phúc âm của ngài.  Tên Lêvi được hiểu như là được đưa lên, gắn vào, thêm vào, đặt vào.  Vị thánh được kéo ra khỏi công việc thu thuế, được gia nhập cộng đoàn các tông đồ, được thêm vào nhóm các nhà truyền giáo, và được xếp vào danh mục các vị tử đạo.

Trước đây ngài có thể được biết đến với cái tên “Lêvi,” nhưng kể từ khi gặp Chúa Giêsu Kitô, thế giới đã biết đến ngài với cái tên “Matthêu.”

Philip Kosloski
G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ – Nguồn: https://aleteia.org/