LỢI ÍCH LỚN LAO CỦA RƯỚC LỄ THIÊNG LIÊNG

Rước Lễ thiêng liêng là bảo tồn đời sống Thánh Thể và tình yêu liên tục cho người mến yêu Chúa Giêsu Thánh Thể.  Nhờ việc Rước Lễ thiêng liêng, các ước muốn yêu đương kết hợp với Chúa của linh hồn được thỏa mãn.  Ngài là Đức Lang Quân của linh hồn.

Rước Lễ thiêng liêng là hợp nhất thiêng liêng giữa linh hồn với Chúa Giêsu trong Bánh Thánh.  Sự hợp nhất này tuy thiêng liêng nhưng cũng thực sự, còn thực sự hơn sự hợp nhất của hồn và xác, vì như lời thánh Gioan Thánh giá nói: “Linh hồn sống nhiều nơi nó yêu hơn là nơi nó sống.”

Tin, Yêu Và Ước Ao

Điều hiển nhiên là, Rước Lễ thiêng liêng đòi phải có đức tin vào sự hiện diện thực tại Chúa Giêsu trong Nhà Tạm, việc này ngụ ý rằng ta yêu thích Hiệp Lễ cách Bí tích, và đòi biết ơn về những ơn Chúa ban trong Bí tích này.  Những điều vừa kể được tóm tắt trong lời sau đây của thánh Anphongsô:

“Lạy Chúa Giêsu, con tin thật Chúa đang hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. 
Con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, và con luôn khao khát được rước Chúa ngự vào lòng con.

Song bây giờ con chẳng thể rước Mình Thánh Chúa, 
thì ít nữa xin Chúa hãy ngự vào lòng con cách thiêng liêng.

Ngay khi Chúa đến,
Con giữ chặt Chúa và toàn thể con người con kết hiệp với Chúa,
xin đừng bao giờ để con phải xa lìa Chúa. Amen

Thánh Thoma Aquinô và Anphongsô đều dạy, Rước Lễ thiêng liêng sinh hiệu quả như Rước Lễ thật, nhưng còn tùy ta dọn mình kỹ hay không, và ao ước nồng nhiệt ơn Chúa ban hay không, yêu mến Chúa nhiều hay không khi đón rước Chúa.

Một lợi ích đặc biệt về việc Rước Lễ thiêng liêng là ta có thể rước mỗi ngày bao nhiêu lần tùy ý, có thể hàng trăm lần, rước khi nào ta muốn, bất kể đêm ngày, rước nơi nào ta muốn, bất kể nơi đồng ruộng, trên máy bay hay trên mặt đất.

Điều thích hợp hơn là khi ta dự lễ mà không thể Rước Lễ cách thật được, khi chủ tế đang rước Mình Thánh Chúa, ta mời Chúa vào lòng ta.  Bằng lối này, lễ nào ta dự cũng nên trọn với của lễ dâng, với Hy tế Thánh và việc Hiệp Lễ.

Hai Chén Thánh

Trong một cuộc thị kiến, chính Chúa Giêsu đã giải nghĩa cho thánh nữ Catarina Siena việc Rước Lễ Thiêng liêng quí trọng làm sao, thánh nữ sợ rằng Rước Lễ Thiêng liêng không sánh được với Rước Lễ thật.  Chúa cầm đến hai bình đựng Mình Thánh và phán: “Trong bình vàng này Cha đựng các lần con Rước Lễ thật, còn trong bình bạc Cha đựng các lần con Rước Lễ thiêng liêng, cả hai bình đều rất đẹp lòng Cha.

Lần khác, Chúa nói với thánh nữ Magarita Maria Alacoc, khi bà nóng nảy ước ao rước Chúa trong Nhà Tạm: Cha yêu đương linh hồn khát khao đón rước Cha lắm, đến nỗi Cha vội đến với nó mỗi khi nó nóng lòng đến với Cha.

Thật không khó gì để tìm hiểu các thánh quí mến Rước Lễ thiêng liêng chừng nào.  Ít ra Rước Lễ thiêng liêng cũng thỏa phần nào lòng mong ước được kết hợp với Đấng Mến yêu.  Chính Chúa đã phán: “Hãy ở trong Ta, Ta sẽ ở trong con. (Jn 15,4).

Rước Lễ Thiêng liêng làm ta được kết hợp với Chúa ngay khi ta ở xa nhà thờ.  Chẳng còn cách nào khác để thoa dịu nguồn khao khát đốt cháy tâm hồn các thánh. “Lạy Chúa, như nai rừng khát nước, hồn con khát mong Chúa. (Tv 41,2).

Đây là những thở than của các thánh, thánh Catarina Genoa kêu lên:Ôi Bạn Tình Chí Thánh của hồn con, con hết lòng ao ước được ở cùng Chúa đến nỗi con hầu chết, nhưng con gắng sống để được Rước Chúa”.

Á thánh Agatha thánh giá cảm nghiệm sâu xa Chúa trong Thánh Thể, đến nỗi bà nói: Nếu cha linh hồn không dậy tôi cách Rước Lễ thiêng liêng thì tôi không sống được.

Thánh nữ Maria Phanxicô Năm dấu lấy việc Rước Lễ thiêng liêng là cách thoa dịu các vết thương của người khi phải ở nhà, xa Đấng người yêu mến, nhất là khi người không được Rước Lễ.  Những lúc như vậy, người quì gối trên nền nhà, hướng về nhà thờ, nước mắt lăn trên gò má than thở: “Lạy Chúa Giêsu, phúc cho những ai hôm nay được rước Chúa, phúc cho tường nhà thờ canh giữ Chúa tôi, phúc cho các linh mục luôn ở gần Giêsu rất đáng kính mến.  Chỉ có Rước Lễ thiêng liêng mới làm người nguây ngoai đôi chút.

Trong Ngày Sống

Đây là lời khuyên của cha Piô gửi cho con thiêng liêng người: “Trong ngày, khi con không được phép làm cách khác, hãy gọi Chúa Giêsu, ngay cả khi con đang bận rộn nhất, với niềm ước vọng không ngơi của linh hồn, Chúa sẽ đến ở lại với hồn con bằng ơn thánh và tình yêu thánh của Chúa. 

Hãy bay cách thiêng liêng tới Nhà Tạm, khi xác con không ở đấy được, nơi đó, con hãy bộc lộ những ao ước nồng nhiệt của thần trí con, hãy ôm ẵm lấy Đấng hồn con yêu mến, tốt hơn nữa là khi con được phép rước Chúa cách thật sự.

Chúng ta cũng hãy lợi dụng ơn cao trọng này. Chẳng hạn khi ta bị thử thách đau thương hay cảm thấy bị bỏ rơi, nào còn có gì giá trị cho ta bằng làm bạn với Chúa Thánh Thể qua việc Rước Lễ thiêng liêng?

Có thể thực hành việc thánh thiện này cách dễ dàng để lấp đầy cả ngày sống của ta với những tác động và những cảm tình mến yêu, và cũng có thể làm ta sống với tâm hồn ấp ủ tình mến được đổi mới luôn, hầu như không bị gián đoạn.

Thánh Angela Merici thích Rước Lễ Thiêng liêng lắm.  Không phải người chỉ năng Rước Lễ Thiêng liêng và khuyến khích người ta như vậy, mà người còn lưu lại cho con cái trong Dòng để chị em sau này hằng thực hiện điều đó.

Ta phải nói về thánh Phanxicô Salesiô thế nào?  Đời người chẳng khác gì như một chuỗi lần Rước Lễ thiêng liêng sao?  Người quyết tâm Rước Lễ thiêng liêng ít nhất mỗi mười lăm phút.

Thánh Maximiliên Kolbe cũng quyết tâm tương tự ngay từ thời còn trẻ.

Anrê Baltrami, Tôi tớ Chúa để lại cho đời một trang nhật ký vắn tắt làm như chương trình sống với Chúa Giêsu qua việc Rước Lễ thiêng liêng không ngừng.  Người viết: “Bất cứ ở nơi nào tôi cũng nghĩ tới Chúa Thánh Thể, tôi để tâm trí tôi ở Nhà Tạm, ngay cả ban đêm khi tôi thức giấc, ở nơi nào tôi cũng thờ lạy Chúa, kêu tới Chúa, dâng lên Chúa các việc tôi làm. 

Tôi lập một đường điện tín từ phòng học tới nhà thờ, đường khác từ phòng ngủ, đường khác nữa từ phòng ăn, và thường mỗi khi có thể, tôi gửi tới Chúa Giêsu Thánh Thể những lời nhắn nhủ mến yêu.  Ta có thể hiểu dòng tình yêu thần thánh đã chuyển qua những đường điện tín quí báu này là thế nào.

Ngay Cả Ban Đêm

Các thánh nôn nóng dùng những phương thế này hoặc những phương thế thánh thiện tương tự để tìm lối thoát cho lòng tràn ngập kính mến của các ngài.  Các ngài chẳng bao giờ thấy cố gắng yêu mến đủ.  Thánh nữ Phanxica Cabrini phát biểu: “Càng mến Chúa, con càng thấy mến Chúa ít.  Con muốn mến Chúa hơn nhưng con không có sức, xin Chúa mở rộng lòng con.”

Thánh Roch bị tù 5 năm với án lệnh nghiêm khắc.  Trong tù người luôn chăm chú nhìn lên phía cửa sổ và cầu nguyện.  Lính gác hỏi người:

– Ông làm gì thế?

Người trả lời:

– Tôi nhìn về phía tháp chuông nhà thờ, tháp chuông nhắc tôi nhớ đến nhà thờ, Nhà Tạm và Chúa trong Thánh Thể, đã nối kết không thể cách biệtvới lòng tôi.

Cha Sở thánh xứ Ars nói với giáo dân:

– Nhìn cây tháp nhà thờ các con có thể nói: “Chúa Giêsu ở đó, vì ở đó có linh mục dâng lễ.”

Á thánh Lui Guanella, khi đi du lịch bằng xe lửa với khách hành hương qua nhiều đền thờ khác nhau, người thường nhắc nhớ hành khách hướng lòng trí về Chúa Giêsu mỗi khi người trông thấy cây tháp thánh đường, người nói: “Cây tháp chỉ nơi có nhà thờ, nơi có Nhà Tạm, có thánh lễ, và có Chúa Giêsu ngự ở đó.

Ta hãy noi gương các thánh, các ngài chỉ cần một chút khơi động là có thể bùng lên ngọn lửa trong trái tim mình.  Ta hãy dốc quyết Rước Lễ Thiêng liêng nhiều lần trong ngày, cả những khi bận rộn.  Chẳng mấy chốc lửa tình yêu sẽ thấm nhập vào ta.

Thánh Leonard Maurice nói những điều rất an ủi này: “Nếu bạn tập Rước Lễ thiêng liêng nhiều lần mỗi ngày, thì chỉ trong một tháng, bạn sẽ thấy mình đổi mới hoàn toàn.”  Một tháng thôi mà, có khó chi mô!

Sưu tầm

TÌNH YÊU, LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ ÂN SỦNG

Chúng ta mong đợi điều gì khi chúng ta quay trở về với Chúa trong Mùa Chay này?

Hãy nghĩ xem thiên đàng khác với trái đất (trần gian) như thế nào.  Trên trần gian, tội lỗi tiếp tục làm tổn thương con người mỗi ngày.  Trên thiên đàng, không chỉ không có tội lỗi, mà còn không có cám dỗ.  Trên trái đất, các gia đình, các khu phố và thậm chí toàn bộ các quốc gia chia rẽ nhau, thường là vì những vấn đề rất nhỏ.

Trên thiên đàng, có sự hài hòa và nền hòa bình hoàn hảo.  Trên trái đất, có bệnh tật và đau khổ.  Trên thiên đàng, mọi giọt nước mắt đã được lau khô và tất cả các rối loạn về thể chất và tinh thần đều được chữa lành.  Trên trần gian, hàng triệu người phải chịu đựng những hậu quả của nghèo đói.  Trên thiên đàng, mọi người đều được chăm sóc như nhau và rất tế nhị, ân cần.

Thiên đàng nghe quá hấp dẫn, phải không?  Không có gì lạ khi Kinh Thánh kết thúc với lời cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” (Kh 22,20)!  Không có gì ngạc nhiên khi tất cả chúng ta khao khát một ngày khi tội lỗi không còn nữa, và khi chúng ta được đưa vào trong sự hoàn hảo của vương quốc thiên đàng của Chúa Giêsu!  Chúng ta biết ngày đó đang đến, nhưng cho đến khi nó xảy ra, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đặt hy vọng vào Người.  Chúa không muốn chúng ta nản lòng trước tình trạng của thế giới hay tình trạng của chính cuộc sống của chúng ta.  Người muốn giúp chúng ta, chữa lành chúng ta và cứu chuộc chúng ta để chúng ta có thể đến gần hơn với sự hài hòa hoàn hảo của thiên đàng ở đây trên trần gian.  Và vì thế Chúa mời gọi mỗi chúng ta: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta” (Ge 2,12).  Lời kêu gọi trở về với Chúa này nghe có vẻ đáng sợ, đặc biệt là trong một mùa như Mùa Chay, với sự nhấn mạnh vào sự ăn năn và sự từ bỏ mình (sự hy sinh).  Do vậy, chúng ta hãy nhìn vào ba sự thật trung tâm về đức tin của chúng ta sẽ giúp chúng ta dễ dàng đến gần với Chúa hơn trong Mùa Chay này.

Hãy Hướng Về Thiên Chúa Đấng Là Tình Yêu.  Thiên Chúa đã từng nói với dân của Người rằng: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?  Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15).  Chúa đã từng nói với ông Giôsua: “Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi” (Gs 1,5).  Và Chúa Giêsu tiếp tục nói với chúng ta: “Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế” (Mt 28,20).

Đời này đến đời kia, Thiên Chúa bảo đảm với dân của Người rằng Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi họ.  Và Chúa làm điều này không chỉ bằng lời nói.  Tất cả mọi hành động của Chúa đều cho chúng ta thấy một chiều kích khác về việc Chúa yêu chúng ta sâu sắc như thế nào.  Chúa đã cho thấy điều đó khi giải cứu dân Israel khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập.  Chúa đã cho thấy điều đó khi Chúa gọi Đavít để lôi kéo dân Chúa vào một vương quốc.  Chúa đã cho thấy điều đó khi Chúa hứa sẽ đưa dân Israel trở về sau thời lưu đày ở Babylon.  Và hơn bất cứ nơi nào khác, Thiên Chúa đã cho thấy điều đó khi sai Con Một của mình đến để mặc lấy thân phận người phàm và hiến mạng sống mình trên thập giá vì chúng ta.

Chúng ta có thể kiểm tra những lời nói và hành động của Thiên Chúa để thấy tình yêu của Người, nhưng trong phân tích cuối cùng, cho thấy rằng chỉ bằng niềm tin chúng ta có thể bắt đầu trải nghiệm tình yêu đó.  Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).  Khi chúng ta thực hành đức tin của mình, tất cả những gì chúng ta hy vọng vào Chúa Kitô có thể trở thành hiện thực đối với chúng ta, mặc dù chúng ta không thể thực sự nhìn thấy nó.  Mỗi khi chúng ta cầu nguyện, mỗi khi chúng ta cử hành (lãnh) các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, chúng ta có thể nói: “Lạy Chúa Giêsu, con biết Chúa đang ở cùng con.  Con tin vào Chúa; xin hãy cho con thấy tình yêu của Chúa.”  Đây là một lời cầu nguyện mà Chúa thích trả lời và đôi khi theo những cách đáng ngạc nhiên!

Hãy Hướng về Thiên Chúa Đấng Thương Xót.  Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Gioan Tẩy Giả nói rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29).  Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi của chúng ta.  Chúng ta công bố sự thật này vào mỗi Chúa nhật qua Kinh Tin Kính trong Thánh lễ.  Nhưng đâu là trải nghiệm sự tự do đến từ hành động của lòng thương xót của Chúa Giêsu?

Một ngày nọ, một giáo viên môn tôn giáo đã yêu cầu một trong những sinh viên của mình lên bảng và bắt đầu viết ra những tội lỗi phổ biến nhất.  Học sinh bắt đầu viết những từ như nói dối, giận dữ, ăn cắp, ghen tuông và ham muốn.  Khi anh ta viết từng tội lỗi, giáo viên ở ngay sau anh ta với một khăn lau bảng, xóa sạch các từ.  Thầy giáo nói với các sinh viên rằng: “Đây là cách Thiên Chúa nhanh chóng tha thứ cho chúng ta khi chúng ta cầu xin.  Khi Thiên Chúa tha thứ cho bạn, tội lỗi của bạn sẽ biến mất, được xóa sạch.  Tất cả những gì còn lại là tình yêu của Chúa dành cho bạn.”

Khi chúng ta đi xưng tội, chúng ta có thể trải nghiệm điều gì đó giống như sinh viên đó đã trải nghiệm trong lớp học môn tôn giáo của mình.  Không phải lúc nào cũng dễ dàng thú nhận tội lỗi của chúng ta, đặc biệt là vì nó có nghĩa là công khai thú nhận những thất bại của chúng ta với một linh mục.  Nhưng khi chúng ta lên tiếng xưng thú tội lỗi của mình và sau đó nghe những lời tha tội, Chúa Thánh Thần đến và trút bỏ gánh nặng tội lỗi khỏi chúng ta, ngay khi giáo viên đó xóa bỏ những từ trên bảng.  Những tội lỗi đã biến mất và thay vào vị trí của chúng là sự thương xót của Đấng đã nói: “Ta cũng không lên án con đâu” (Ga 8,11).

Hãy quay về với Thiên Chúa Đấng Chan Chứa Ân Sủng.  Con người chúng ta đầy những mâu thuẫn.  Chúng ta muốn trở nên tốt, tử tế và yêu thương, nhưng tất cả rất thường xuyên cuối cùng chúng ta đưa ra những lựa chọn làm tổn thương mọi người, đặc biệt là những người gần gũi nhất với chúng ta.  Chúng ta muốn ở gần với Thiên Chúa, nhưng nó có thể rất dễ rơi vào sự bất tuân.  Chúng ta không muốn phạm phải bất kỳ tội lỗi nào, nhưng chúng ta thường thấy mình làm điều mà chúng ta không muốn làm.

Thánh Phaolô đã nhìn thấy trận chiến này trong tâm trí của chính mình.  Thánh nhân thực sự yêu mến Chúa Giêsu và chân thành muốn phục vụ Giáo Hội bằng cả cuộc đời.  Nhưng đối với tất cả những lời rao giảng về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, Thánh Phaolô đôi khi có thể là một lực lượng của sự chia rẽ và thù địch.  Phaolô đã tranh luận với tông đồ của mình là Banaba về một quyết định truyền giáo, tranh luận rất nhiều đến nỗi hai người chia tay nhau trong giận dữ (x. Cv 15,36-40). Phaolô đã chọn cách nói chuyện với Thánh Phêrô trước mặt các tín hữu ở Antiôkia, thay vì kéo Phêrô sang một bên và nói chuyện riêng với ngài (x. Gl 2,11-14).  Phaolô thậm chí còn đi xa đến mức mong muốn một hình thức báo thù đặc biệt về kẻ thù của mình (x. Gl 5,11-12).

Nhưng Phaolô đã nhận thức đầy đủ về những điểm yếu và những thất bại của mình.  Phaolô đã từng kêu lên rằng: “Tôi thật là một người khốn nạn!  Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,24).  Và ngay lập tức, ngài vui mừng trong câu trả lời: “Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,25).

Bí mật của Phaolô là gì?  Thông qua kinh nghiệm của chính mình về lòng thương xót của Thiên Chúa, ngài đã học được rằng: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).  Thánh nhân biết rằng cho dù ngài có phạm bao nhiêu tội lỗi, thì ân sủng dồi dào của Thiên Chúa sẽ luôn vượt trội hơn những tội lỗi ấy.  Ngài biết rằng ân sủng chan chứa của Thiên Chúa đủ sức mạnh để biến đổi cả tâm hồn ương bướng của mình, vì vậy ngài luôn có niềm hy vọng.  Phaolô tiếp tục xác tín lời hứa: “Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người (Chúa Kitô)” (2 Tm 2,12).  Ân sủng của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ làm ngài thất vọng.

Hãy tin rằng sức mạnh cứu độ của Chúa Giêsu lớn hơn sức mạnh của những thói quen tội lỗi của bạn.  Hãy tin rằng ân sủng của Thiên Chúa luôn sẵn sàng giúp bạn thay đổi.  Hãy nhớ rằng, bạn có thể thấy mình là một tội nhân khủng khiếp.  Nhưng đó không phải là cách mà Chúa nhìn thấy bạn.  Chúa xem bạn như đứa con yêu dấu của Chúa và Chúa muốn giúp bạn trở nên giống Chúa hơn mỗi ngày.

Một Lời Mời Độ Lượng.  Tình Yêu.  Lòng Thương Xót.  Ân Sủng.  Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta quay về với Chúa trong bốn mươi ngày tới để Chúa có thể ban những món quà này cho chúng ta.  Chúa hứa rằng nếu chúng ta nhận lấy lời mời của Chúa mỗi ngày khi cầu nguyện, đức tin của chúng ta sẽ lớn lên và cuộc sống của chúng ta sẽ thay đổi.  Chúng ta sẽ tìm thấy một sức mạnh nội tâm từ Chúa Thánh Thần để giúp chúng ta vượt qua cám dỗ và tội lỗi.

Lời mời này có hai mặt.  Về phần Thiên Chúa, Chúa sẽ làm sâu sắc kinh nghiệm và niềm tin của chúng ta vào tình yêu, lòng thương xót và ân sủng của Chúa.  Bởi vì Chúa quan tâm đến chúng ta, Chúa sẽ đánh động lương tâm của chúng ta khi chúng ta đối diện với cám dỗ.  Và Chúa sẽ giúp chúng ta trở nên tử tế, kiên nhẫn và yêu thương hơn.  Do đó, chúng ta hãy cố gắng sẵn sàng với Thánh Thần của Chúa trong ngày sống.  Hãy tìm những cách mà Thánh Thần đang thúc đẩy bạn và thúc giục bạn ở gần Chúa.

Về phần mình, chúng ta cần dành thời gian cho việc cầu nguyện, sao cho nó thành chương trình trong giờ cầu nguyện hàng ngày, ngay cả khi đó chỉ là mười hoặc mười lăm phút mỗi ngày – nhờ đó chúng ta có thể chạm vào ân sủng của Chúa.  Sau đó, trong suốt ngày sống, chúng ta cần cố gắng hết sức để nói không với cám dỗ và thưa vâng với các mệnh lệnh của Thiên Chúa và lời hứa của Chúa để trợ giúp chúng ta.  Như thánh Phaolô đã viết, chúng ta phải cố gắng “cởi bỏ con người cũ” với lối sống xưa kia của chúng ta và “mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22.24).

Có thể khó thay đổi cuộc sống của chúng ta.  Nhưng chúng ta không đơn độc.  Với sự trợ giúp đỡ tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có thể tiến bộ trong Mùa Chay.

Điều đó có thể mất thời gian.  Bạn có thể không luôn luôn thành công.  Nhưng khi thời điểm Phục Sinh đến, bạn có thể chắc chắn bạn sẽ thấy một số thay đổi tích cực, đáng khích lệ trong cuộc sống của bạn.  Có lẽ bạn sẽ có nhiều khát vọng cầu nguyện hoặc đi Lễ.  Bạn có thể tiếp cận một tình huống căng thẳng hoặc khó khăn với sự bình an hơn.  Hoặc có thể Chúa sẽ làm mềm lòng bạn để bạn sẵn sàng và có thể tha thứ.

Vì thế, chúng ta hãy quyết định phải hết lòng trở về với Chúa trong Mùa Chay này.  Chúng ta hãy cầu xin Chúa đến và lấp đầy chúng ta bằng tình yêu, lòng thương xót và ân sủng của Chúa.  Chúng ta hãy làm những gì chúng ta có thể để mở cánh cửa trái tim của chúng ta và thưa lên rằng: “Lạy Chúa Giêsu, con sẽ tiếp đón Chúa”.

Chuyển ngữ:  Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Theo The Word Among Us, Lent 2019 Issue

TRĂM LỐI ĐI CHỈ MONG MỘT ĐƯỜNG VỀ!

Đời là một cuộc ra đi không ngừng.  Sinh ra là giã từ cái ấm êm của lòng mẹ để đi vào thế giới xa lạ.  Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ đầy mơ mộng để đi vào cuộc đời với biết bao bấp bênh và thử thách.  Cuộc đời có bao giờ là một dòng sông êm ả, vì không ngừng phải trải qua biết bao đổi thay.

Ra đi bước vào cuộc đời với trăm ngàn lối đi mới, những lối đi mời mọc con người không ngừng vươn xa, đi mãi tới chân trời mới, để rồi lúc nào đó làm cho chính con người không biết mình đi đâu về đâu.  Bởi trên muôn vàn lối đi ấy có biết bao thử thách mời gọi: danh, lợi, thú, ba ham muốn chi phối toàn bộ đời sống con người.  Đó cũng chính là ba nguyên nhân gây nên biết bao khổ đau cho nhân thế.  Kẻ được người thua cũng đều có thể phải đau khổ vì nó, đều cảm nghiệm rằng những bất hạnh mà mình đang phải gánh chịu đều vì tiền, lạc thú, và quyền lực.  Ở nơi này nơi kia trong xã hội đang xảy ra những bất hoà, tranh chấp, có khi giết hại lẫn nhau và làm khổ cuộc đời nhau cũng chỉ vì tiền, vì tình và vì quyền.  Ngay trong gia đình, con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái, vợ chồng ruồng bỏ kết án nhau, anh em bạn hữu bất hoà với nhau cũng không thoát khỏi cái nghiệp chướng này.  Vì nó mà người ta chà đạp lên nhau, người ta làm khổ và làm hại lẫn nhau.

Trước muôn vàn lối đi mà con người đang lựa chọn cho chính mình, trong một khía cạnh nào đó cần có một cái mốc, cần có một sự hướng dẫn: một lối về cho những ai lầm đường lạc bước mất định hướng để nhận ra đường về.  Thiết lập Mùa Chay, Giáo Hội muốn chỉ cho nhân loại một lối về, một bảng chỉ đường chính xác nhất là kinh nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu.  Giáo Hội mời gọi ta vượt qua sa mạc của những thử thách ấy một cách can đảm và dứt khoát.  Dứt khoát với nếp sống cũ khiến ta lê lết trong ích kỷ nhỏ nhoi.  Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta phó thác tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa.  Hãy trở về như người con Thứ trong dụ ngôn người con hoang đàng (Lc15).  Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và người cha tôn trọng quyết định đó.  Tuy nhiên, ông vẫn ngóng chờ con.  Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã.  Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.  Sám hối là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, sự sống.  Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.  Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường.  Trở về với Chúa!  Đôi khi qùy trước mặt Chúa, ta chẳng biết nói gì, thưa gì với Chúa.  Cầu nguyện không phải là mình nói thật nhiều với Chúa, hay là tìm những lời thật hay để nói với Chúa, nhưng điều quan yếu là biết dành một thời gian cho Chúa.  Điều quan trọng không phải là cầu nguyện như thế nào, hay bao nhiêu lần mà là tấm lòng chúng ta dành cho Chúa như thế nào?  Cầu nguyện vì lòng yêu mến Chúa hay chỉ là thói quen, qua lần chiếu lượt cho xong.

Có trăm ngàn lối đi xin kéo con một lối về là trở về với Cha mỗi ngày, và giúp con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.  Xin nâng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội con gấp bội.  Ước gì những vấp ngã sẽ khiến con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.  Ước gì ta sống Mùa Chay với tấm lòng chân thành ước muốn sửa đổi bản thân.  Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.  Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất, mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim Cha nhân lành.  Hãy hi vọng đi, chỉ cần biết trên đoạn đường dương thế vẫn còn có Cha bên cạnh nhất định ta sẽ vượt qua.

M. Anthony Vũ Ga, fmsr

VỊ CỨU TINH NHÂN HẬU

Đến với miền đất bị xa lánh

Sau những công việc tại Giêrusalem – xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, đàm đạo với Nicôđêmô về cuộc sống mới – Đức Giêsu lên đường trở lại miền Galilê.

Trong cuộc hành trình này, Đức Giêsu đã không theo con đường người Do-thái vẫn đi là tránh băng qua miền Samari.  Từ thời đế quốc Át-xy-ri, người Do-thái và người Samari vẫn kình địch nhau, không giao du với nhau, mỗi miền có đền thờ riêng.  Đức Giêsu biết điều đó và việc Người có mặt tại miền Samari không phải là chuyện tình cờ.  Người có sứ mạng đến với mọi dân, mọi nước để đưa họ về với Thiên Chúa.  Người là Đền Thờ mới, và Đền Thờ này được dành cho tất cả mọi người.  Người là Đấng quy tụ nhân loại, nên chính Người sẽ phá vỡ những rào cản đang phân rẽ nhân loại.  Tình yêu cao cả đã buộc Đức Giêsu phải có mặt tại Samari, miền đất thù nghịch với người Do-thái.

Đức Giêsu đã đến Samari như một người thừa sai, một người luôn có những ý nghĩ tốt đẹp về người khác.  Như vậy, không một miền đất nào bị bỏ quên; không một người nào lại không được Người nhớ đến, dù kẻ đó có thế nào chăng nữa.

Để hiểu rõ điều này, có thể so sánh thái độ của Đức Giêsu với thái độ của các môn đệ.  Một làng thuộc Samari từ khước tiếp nhận Đức Giêsu vì Người đang hành hương lên Giêrusalem.  Thấy thế, Gia-cô-bê và Gio-an đã bày tỏ phản ứng của “con sấm sét”: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9,54).  Đức Giêsu lập tức quay lại và khiển trách các ông.  Người đã tránh sang một làng lân cận.  Người muốn đánh dấu lần Người đi qua cõi thế này bằng những hành vi nhân hậu, chứ không phải bằng những lần nổ bùng lòng báo thù, và Người tìm cách ghi khắc cách xử sự này vào lòng các môn đệ.

Quả thế, Đức Giêsu đã đến trần gian để tạo nên một sự gắn bó, để kéo nhân loại và vũ trụ đến với Người.  Đức Giêsu đi bước trước, nhưng Người không xuất hiện với những nét của một kẻ chinh phục đến thiết lập sự thống trị của mình, hoặc của một kẻ tuyên truyền rêu rao để áp đặt những ý tưởng của mình.  Điều Đức Giêsu trao ban trước tiên, đó là trái tim, và Người muốn nhận lại trái tim của người khác.  Người đến với tư cách là một người bạn, một Đấng Cứu Thế, chứ không phải với tư cách quan tòa đến xử án (xem Ga 3,17; 12,47).

Những tiến trình gặp gỡ

Cuộc nói chuyện dài giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari là những cấp độ tiến triển về mặc khải, về thiêng liêng mà điểm kết thúc là người phụ nữ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh.

Phản ứng đầu tiên của người phụ nữ khi nhìn thấy Đức Giêsu bên bờ giếng, nghe Người xin nước uống, là câu nói về dòng giống.  Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho chị hiểu rằng, ngay vào lúc này, Người là Đấng ban ơn chứ không phải là người nhận ơn.  Chính chị mới là kẻ cần đến sự giúp đỡ của Người (x. Ga 4,10-11).

Khởi đầu, người phụ nữ chỉ coi Đức Giêsu như một người bộ hành mệt nhọc, đang cần nước uống, chứ không thấy được con người sâu xa của Người: chị thấy Đức Giêsu là người Do-thái, không biết Người là Con Thiên Chúa; chị thấy một con người mỏi mệt chứ không phải là người nâng đỡ những tâm hồn yếu nhược; chị nhìn thấy con người đang cần nước chứ không biết rằng chỉ mình Người có khả năng làm dịu cơn khát của trần gian.

Sau khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu, tuy chưa hiểu rõ hơn về Người, nhưng chị cũng tỏ lòng kính trọng.  Chị đổi cách xưng hô: “Thưa Ngài.”  Tâm trí chị chưa vượt qua khỏi những quan niệm bình thường, chị vẫn nghĩ đến thứ nước uống tự nhiên, và mong muốn người đang đối thoại với chị cho chị thứ nước ấy, để chị khỏi phải đi múc.

Đến đây, Đức Giêsu đề cập đến điều bí ẩn nhất của tâm hồn chị.  Người gợi lại đời sống của chị, không phải với cái nhìn từ trên cao hay với ánh mắt coi rẻ như một số người đàng hoàng trong đám dân Samari vẫn dành cho chị, nhưng là với tấm lòng muốn hòa giải chị với người chồng, và giúp chị tiếp tục lại cuộc sống chung với chồng.  Chỉ khi ấy chị mới có thể lãnh nhận nước trường sinh, và thay vì phải nô lệ một tình yêu bị cấm đoán, chị dấn thân vào tình yêu cao cả, và nhận được vẻ kiều diễm Đức Giêsu muốn ban cho chị.  Cần phải thay đổi nếp sống, phải dẹp bỏ mọi trở ngại, phải chân thành mới có thể đón nhận ơn cứu độ.

Một lần nữa, người phụ nữ lại đổi cách xưng hô với Đức Giêsu; chị coi Người là ngôn sứ.  Đồng thời, chị đổi sang đề tài tôn giáo.  Và với vấn đề này, Đức Giêsu cũng đưa chị đến nguồn mạch sâu xa, đến vương quốc sự thật rất rộng lớn.  Để đáp lại câu nói của người phụ nữ về Đấng Mê-si-a, Đức Giêsu đã xác nhận: “Đấng ấy chính là Ta, người đang nói với chị đây.” (Ga 4,26).

Từ nay, trung tâm của việc tế tự không phải là Giêrusalem, cũng không phải là núi Ga-ri-zim, nhưng chính là Đức Kitô.

Và giai đoạn cuối cùng đã đến.  Người phụ nữ nói với người khác về Đức Giêsu, chị nhận Người là Đức Kitô.  Chị không hề kể cho những người đồng hương về vấn đề thờ phượng Thiên Chúa, nhưng chị nói rõ những điều Người đã nói về đời sống của chị, cả những tội lỗi còn giấu kín.  Chị nói lên điều mà người ta nghĩ rằng chị nên giấu đi.  Người phụ nữ Samari thực là một trong những người truyền giáo đầu tiên của Kitô giáo.  Nhiều người đã tin lời chị.

Người phụ nữ đến giếng để múc nước, nhưng khi tìm được Nguồn mạch đích thực, chị đã bỏ lại vò nước, như các môn đệ đã từng bỏ lại lưới và thuyền.

Từ một người xa lạ, chị đã trở thành môn đệ của Đức Kitô.  Từ nhận xét ban đầu: người ngồi bên bờ giếng là người Do-thái, chị đã nhận ra người ấy là Đức Kitô, là Đấng Cứu Tinh.

Một kinh nghiệm cho mọi người

Người phụ nữ Samari đã nhận ra Đức Giêsu.  Ở đây không phải là một phép lạ có tính cách hữu hình; không là việc chữa lành bệnh, không là việc làm cho sáng mắt.  Điều kì diệu đã xảy ra nơi tâm hồn tội lỗi của người phụ nữ.  Qua việc giải thoát tâm hồn khỏi tội lỗi, Đức Giêsu đã nhận được tước hiệu vinh quang, mặc dù Người chưa chịu treo trên thập giá.

Tước hiệu vinh quang: “Vị Cứu Tinh của trần gian” không phải chỉ là cảm nghiệm riêng của người phụ nữ, nhưng còn là của cả một đám đông dân chúng.  Họ đã nghe câu chuyện người phụ nữ thuật lại và họ đã đến gặp Đức Giêsu, đã nghe lời Người giảng dạy và đã tin.

Như vậy, cây thập giá vẫn hiện diện trong suốt cuộc đời Đức Giêsu, và đã đem lại hậu quả trước khi Người bị treo lên.

Và Đức Giêsu đã quên hẳn cơn khát, quên cả sự mệt nhọc.  Người đã bắt đầu chu toàn sứ mệnh của Người khi hướng dẫn người phụ nữ tội lỗi đến đức tin, thay đổi lối sống: đưa về cho Chúa Cha những người biết thờ phượng theo thần khí và sự thật.  Hình ảnh đám đông người Samari đến gặp Đức Giêsu lại không phải là hình ảnh báo trước rằng Tin Mừng sẽ được loan báo đến tận cùng cõi đất?

Đức Giêsu đã có mặt tại Samari với tư cách của một Vị Cứu Tinh đầy nhân hậu.  Người đã đến để cứu vớt, để xoá bỏ những hận thù, để mặc khải những điều sâu xa.  Tại đó, Người đã kiên nhẫn thuyết phục người phụ nữ phóng túng về hạnh kiểm.  Trong câu chuyện này, lòng nhân hậu của Người thật là một an ủi, một nguồn mạch dịu mát cho tất cả những ai đang mang trong lòng những phiền muộn, những thất bại và cay đắng.

Hãy đến gặp Đức Giêsu
hãy thưa chuyện với Người
để thấy rằng mình được yêu thương.
Người đang chờ…
Hãy nghe lời Người nói:
Nếu anh, nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban

Lm. Nguyễn Cao Luật

KHI BẠN CẦU NGUYỆN: NÂNG NHAU LÊN TRONG MÙA CHAY

Một người vợ chẩn đoán bị ung thư.  Một người con rời khỏi Giáo Hội.  Một đồng nghiệp bị nhập viện sau một cú va chạm trên xa lộ.  Một người thân cận mất việc làm.  Hàng triệu người ngủ mà không có của ăn, không được chăm sóc y tế, và không nhà cửa.  Hàng ngàn phụ nữ trẻ bị buộc lao vào tình trạng nô lệ tình dục.  Một đất nước từ chối quyền sống của một thai nhi.  Toàn thể người dân chịu sự thống trị của một bạo chúa.

Có quá nhiều nỗi thống khổ trên thế giới tưởng chừng như không thể vượt thắng được.  Nhưng rồi Kinh Thánh lại dạy chúng ta hãy có niềm hy vọng vì điều dường như không thể đối với chúng ta lại có thể đối với Thiên Chúa (Lc 18:27).  Đây rõ ràng là lý do vì sao việc cầu nguyện chuyển cầu lại trở nên quá giá trị.  Và đây là lý do vì sao chúng ta muốn nhìn đến lời chuyển cầu trong Mùa Chay này.

Giá Trị Của Sự Chuyển Cầu

Chuyển cầu không giống với việc thờ phượng, việc soi sáng thiêng liêng, hay tạ ơn.  Đó không chỉ là việc cầu nguyện cho những người đang cần giúp đỡ.  Chuyển cầu là một sự kết hợp của việc xin Thiên Chúa đi vào một hoàn cảnh khó và việc tin rằng Chúa sẽ giải quyết gian khó ấy.

Bạn có muốn biết việc cầu nguyện chuyển cầu quan trọng thế nào đối với Thiên Chúa không?  Chỉ cần nhìn vào Kinh Lạy Cha có lẽ là tất cả mọi điều bạn cần.  Trong lời kinh ấy, Chúa Giêsu dạy chúng ta xin nhiều điều quan trọng: cho người ta thấy vinh quang của Thiên Chúa và thờ phượng Người; cho người ta được đón nhận kế hoạch của Thiên Chúa; để Thiên Chúa ban cho chúng ta lương thực hằng ngày, tha thứ tội lỗi, và bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ.  Còn gì nữa, theo Thánh Luca, Chúa Giêsu đính kèm với lời cầu nguyện này bằng lời hứa là nếu chúng ta xin, thì chúng ta sẽ nhận lãnh (Lc 11:9).

Việc chuyển cầu là quá giá trị đến nỗi chính Chúa Giêsu cũng cầu nguyện cách này.  Trong Bữa Tiệc Ly, chỉ vài giờ trước khi Ngài chịu chết, thì Ngài đã cầu nguyện cho các tông đồ của Ngài và cho chúng ta: bảo vệ chúng ta, ân sủng để chiến thắng cơn cám dỗ, thánh hoá chúng ta, và sự hiệp nhất của chúng ta (Ga 17:9-21).

Rõ ràng, lời cầu nguyện chuyển cầu không phải là một việc thiêng liêng hạng hai.  Đặc biệt là trong mùa đầy ân sủng như Mùa Chay, chuyển cầu có thể là một vũ khí mạnh mẽ chống lại tội lỗi, và sự sợ hãi ở nơi những người thân yêu của chúng ta và trong thế giới.

Sự Kiên Định

Sự kiên định là trung tâm của việc cầu nguyện chuyển cầu.  Người liên lỉ sẽ dành được sự chú ý của Thiên Chúa.  Chẳng phải đây là điều mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua dụ ngôn người bạn kiên định sao (Lc 1:5-13)?  Vào giữa đêm, một người thân cận đến xin giúp đỡ, nhưng người kia thì không muốn đi ra khỏi giường.  Bất chấp sự kháng cự của ông, cuối cùng thì người kia cũng ra khỏi giường và giúp người hàng xóm của ông – vì sự kiên định của người hàng xóm của ông.  Cùng một cách, Chúa hứa rằng nếu chúng ta kiên định trong việc cầu nguyện chuyển cầu của chúng ta, thì Thiên Chúa sẽ đáp trả.

Hai câu chuyện khác từ Kinh Thánh cũng dạy cùng một thông điệp tương tự.  Một là câu chuyện dụ ngôn về một bà góa đã đến khẩn xin ông thẩm phán cho đến khi ông ta chấp nhận yêu cầu của bà thì thôi.  Chúa Giêsu nói với những người nghe Ngài rằng ông quan tòa không nhất thiết phải quyết định theo hướng có lợi cho bà vì bà đúng; mà chỉ vì bà ấy làm cho ông ta mỏi mệt (Lc 18:1-8).

Câu chuyện còn lại là một cuộc gặp gỡ thật sự mà Chúa Giêsu có với người phụ nữ Ca-na-an (Mt 15:21-28).  Con gái của bà đang cần chữa lành, nhưng vì bà là một người dân ngoại, nên Chúa Giêsu gần như là không sẵn lòng giúp.  Bất chấp việc nghe thấy Chúa Giêsu coi dân của bà như những con chó, bà vẫn kiên định.  Bà đã không bị từ chối.  Sau cùng, Chúa Giêsu đồng ý “Này bà, niềm tin của bà mạnh thật!” (15:8).  Những câu chuyện này thật đơn giản nhưng rõ ràng: hãy nhẫn nại!

Chúa Giêsu Chuyển Cầu Cho Chúng Ta

Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Ngài rằng các ông sẽ bỏ Ngài trong giờ Ngài cần giúp đỡ.  Rồi Ngài quay sang Phê-rô và nói, “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin.  Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:32).  Ngài biết Phê-rô sẽ cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa sau khi ông từ chối là biết Chúa Giêsu, và Ngài đã cầu nguyện cụ thể cho sự trợ giúp ấy.

Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện cho Phê-rô hay các tông đồ.  Trong Thư Gửi Tín Hữu Do Thái, chúng ta đọc thấy rằng Ngài “sống mãi mãi để chuyển cầu” cho mỗi người chúng ta (7:25).  Hãy ghi lại hình ảnh này: Chúa Giêsu, giờ đây đã sống lại trong vinh quang và vẻ đẹp của Thiên Đàng, đang dành toàn bộ thời gian của Ngài – mãi mãi – để cầu nguyện cho chúng ta.  Ngay bây giờ, Ngài đang cầu nguyện cho bạn và cho những người thân yêu của bạn.

Theo cùng một cách thế, chúng ta là những người Công Giáo được dạy ngay từ rất sớm là hãy xin Mẹ Maria “chuyển cầu cho chúng con trong giờ lâm tử.”  Chúng ta tin rằng Đức Đồng Trinh Maria có một vai trò chuyển cầu đặc biệt trên thiên đàng.  Giống như bất cứ một người mẹ tốt lành nào, Mẹ có thể bước vào căn phòng của con trai mình bất cứ lúc nào và xin sự trợ giúp của Ngài.  Mẹ biết những thách đố và những vết thương và những nhu cầu của con cái Mẹ, và Mẹ hằng tiếp tục cầu nguyện cho họ.  Và giống như bất cứ một người mẹ tốt lành nào, Mẹ an ủi chúng ta khi chúng ta cầu nguyện cho những người thân yêu của chúng ta.  Mẹ tái đảm bảo với chúng ta rằng Mẹ ở cùng chúng ta, cầu nguyện ngay cạnh chúng ta.

Đây không phải là những sự thật ủi an sao?  Chúa Giêsu đã hứa rằng nếu chúng ta xin, thì chúng ta sẽ lãnh nhận.  Ngài đã hứa rằng nếu chúng ta kiên định trong việc cầu nguyện của chúng ta, thì chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa hành động.  Và Ngài hứa rằng Ngài sẽ cùng chúng ta, cùng với Mẹ của Ngài, trong việc cầu nguyện cho hết mọi nhu cầu và bận tâm mà chúng ta dâng lên Ngài.  Chúng ta không bao giờ đơn độc trong cầu nguyện!

Ý Muốn Nhiệm Mầu Của Thiên Chúa

Nhưng chúng ta sẽ nói, “Tôi kiên định.  Nhưng tại sao một số lời cầu nguyện của tôi lại không được đáp trả?”  Đây là một trong những mầu nhiệm lớn lao của niềm tin nơi chúng ta.  Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu luôn yêu thương chúng ta.  Chúng ta biết rằng Ngài không muốn thấy bất cứ ai đau khổ.  Nhưng chúng ta không luôn thấy những đáp trả cho những lời nguyện cầu của chúng ta, bất luận là ý hướng tốt lành thế nào và chúng ta đang kiên định cỡ mấy.  Câu trả lời tốt nhất chúng ta có thể mang lại là Thiên Chúa luôn đáp trả lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng chúng ta không luôn biết cách nào và khi nào.

Joe Difato, nhà xuất bản của tạp chí này, là một gương của sự nhẫn nại.  Ông có một cô con gái lớn bị mù kể từ khi cô bé lên bốn.  Joe cầu nguyện thường xuyên cho con gái mình được chữa lành.  Giống như bất cứ người cha mẹ nào, ông muốn con gái ông sáng mắt.  Đồng thời, ông thấy chính bản thân mình bị thoái lui vào khả năng là con gái ông sẽ luôn mù.  “Tôi tin rằng Chúa Giêsu muốn chữa lành con gái tôi, và tôi cầu xin điều này”, ông nói.  “Nhưng con gái tôi vẫn cứ mù.  Đôi khi tôi mất niềm hy vọng là con gái tôi sẽ sáng mắt.  Đôi khi tất cả mọi điều tôi có thể làm là nỗ lực kiên định bất chấp sự hoài nghi của tôi.”

Bốn Mươi Ngày Cầu Nguyện

Trước sự bất lực của chúng ta để hiểu trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa, thì cách duy nhất là chúng ta tiếp tục tiến bước trong niềm tin của mình bằng việc kiên định.  Cách duy nhất để tiến bước là tin rằng Thiên Chúa sẽ đáp trả lại lời cầu nguyện của chúng ta theo sự khôn ngoan của Ngài và theo thời gian của Ngài.

Vì thế, khi Mùa Chay bắt đầu, tại sao lại không đặt ra một danh mục cầu nguyện của riêng chúng ta?  Hãy nghĩ về những người mà bạn biết là đang đau đớn, bất luận về thể lý hay tinh thần.  Hãy nghĩ về một hoặc hai hoàn cảnh trên thế giới đang lôi cuốn sự chú ý của bạn nhất – nạn dịch virus corona – và thêm chúng vào danh mục của bạn.  Rồi hãy nhìn vào danh mục mỗi ngày và cầu nguyện cho những nhu cầu này.

Chớ gì tất cả chúng ta “cầu nguyện không ngừng” trong Mùa Chay này (1 Tx 5:17).  Ai mà biết?  Có khi vào Chúa Nhật Phục Sinh, Thiên Chúa sẽ cho chúng ta một câu trả lời đặc biệt cho một trong những lời cầu nguyện sâu thẳm nhất của chúng ta cho ai đó trên danh mục của chúng ta!

Joseph C. Pham (Chuyển ngữ từ The Word Among Us)

NÚI TABOR HÔM NAY

Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem.  Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện.  Có lẽ đó là núi Tabor ở Galilê.  Có ba môn đệ thân tín theo Chúa.  Chúa đã hiển dung trước mặt các ông.

Trước núi Tabor, Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác.  Trước hết là Chúa giảng Hiến Chương Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc.  Sau khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một mình.  Sau núi Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu chết trên thập giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời.  Có thể nói núi Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai ngọn núi sau.  Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của cuộc Vượt Qua.

Người xưa tin rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên núi sẽ dễ gặp Chúa hơn.  Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac.  Ông Môsê lên núi nhận bia giao ước.  Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa.  Thực tế là lên núi dễ gặp Chúa hơn thật:

– Thanh vắng, yên tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;

– Trên cao, thấy rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời, trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn…

– Trên cao, thấy công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.

Lên núi là điều không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai lên núi mới cảm nghiệm được.  Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để chiêm ngắm Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương người đau khổ, tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu.  Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung.  Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.  Trong cuộc Vượt Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng con người, nhưng khuôn mặt của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi người trong mọi thời đại.

Một thường dân Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy máu mình vẽ chân dung Nhật Hoàng.  Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên Chúa và được hưởng vinh quang Phục Sinh.  Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống của mình để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.

ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt

KÍN ĐÁO ĂN CHAY VÀ CẦU NGUYỆN

Triết gia David Hume từng phân biệt giữa cái ông gọi là đức hạnh chân thật, và cái ông đặt tên là đức hạnh giống tu sĩ.  Ông nói, đức hạnh chân thật là những phẩm chất bên trong chúng ta mà có ích cho người khác và bản thân chúng ta.  Còn các đức hạnh giống tu sĩ là những phẩm chất không nâng cao đời sống con người, đối với xã hội cũng như bản thân người thực hành những phẩm chất đó.  Ông liệt kê các đức hạnh giống tu sĩ như việc sống độc thân, ăn chay, sám hối, hành xác, tiết dục, nhún nhường, thinh lặng và cô tịch.  Ông chứng minh những điều đó chẳng đóng góp gì cho xã hội và thậm chí còn làm giảm đi sự tốt lành thịnh vượng của con người.  Do vậy, ông quả quyết rằng những điều đó bị chối bỏ bởi “những người hiểu biết.”  Điều này xem ra khó nghe đối với người có đạo.

Nhưng những gì tiếp theo đó còn khó nghe hơn.  Những người thực hành những đức hạnh giống tu sĩ phải trả một giá đắt, ông nói, sức khỏe của họ không tốt và họ bị loại ra khỏi cộng đồng con người: con người nhiệt tình nông nổi và ảm đạm đó, sau khi chết, có thể có tên ghi trong cuốn lịch, nhưng khi còn sống thì khó có thể được ai chấp nhận vào vòng thân thuộc và vào xã hội, trừ những người cũng mê sảng và chán ngắt như vậy.

Mặc dù điều này nghe tàn nhẫn, nhưng nó mang một lời cảnh cáo lành mạnh, nhắc lại rõ ràng điều Chúa Giê-su đã nói khi người cảnh cáo chúng ta phải kín đáo ăn chay, cầu nguyện, đừng có mang bộ mặt ảm đạm tu hành khổ hạnh, bảo đảm rằng lòng mộ đạo của chúng ta không quá lộ liễu trước đám đông.  Nếu Chúa Giê-su có nói rõ ràng về điều gì, thì đây chính là điều người đã nói rõ.

Tại sao?  Tại sao chúng ta phải tránh mọi việc phô diễn trước đám đông về việc ăn chay, tu hành khổ hạnh, và cầu nguyện riêng tư của chúng ta?

Một phần cảnh cáo của Chúa Giê-su là chống thói đạo đức giả và giả dối, nhưng còn hơn vậy nữa.  Vấn đề là việc bên ngoài chúng ta trông như thế nào và chúng ta được cảm nhận ra sao.  Khi chúng ta bộc lộ sự khổ hạnh và mộ đạo trước đám đông, dù có chân thành đi nữa, thì điều chúng ta muốn toát ra và điều người khác cảm nhận về chúng ta (mà không chỉ là những David Humes của thế giới này) là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.  Chúng ta có thể bày tỏ đức tin vào Chúa và sự trung tín đối với những gì vượt xa hơn kiếp sống này, nhưng những người khác dễ dàng diễn giải quan điểm và hành động của chúng ta như một tình trạng yếu đuối, u sầu, phiền muộn, khinh khi những chuyện thông thường, và là một sự bù đắp chẳng-đáng-kể-gì cho việc phải mất đi sức sống.

Và đó chính xác là điều ngược lại với những gì chúng ta cần tỏ ra.  Tất cả các đức hạnh giống tu sĩ (mà chúng là những đức hạnh thật sự) nhằm làm cho tâm hồn chúng ta mở ra để tiếp cận thân mật sâu sắc hơn với Chúa và vì vậy, nếu lời cầu nguyện và tu hành khổ hạnh là lành mạnh, thì những gì chúng ta sẽ tỏ ra chính là an mạnh, vui vẻ, thương yêu thế giới này, và cảm nhận những niềm vui bình thường của cuộc sống là phước lành Chúa ban.

Nhưng không dễ gì làm được điều đó.  Chúng ta không toát ra được đức tin của mình nơi Chúa và toát ra là đang an mạnh bằng cách chấp nhận một cách không suy xét hay hô hào cổ vũ mọi nỗ lực để vui vẻ của thế giới này, cũng không phải bằng cách gượng cười giả tạo trong khi sâu thẳm bên trong chúng ta đang khó lòng kiểm soát được trầm uất.  Chúng ta toát ra đức tin nơi Chúa và an mạnh qua việc toát ra tình thương, bình an và thanh thản.  Và chúng ta không thể làm điều đó nếu toát ra sự khinh khi đối với cuộc sống hay đối với cái cách những con người bình thường kiếm tìm hạnh phúc trong cuộc sống này.

Và đó là một thách thức khó khăn, đặc biệt ở thời buổi này.  Trong một nền văn hóa như nền văn hóa này, chúng ta dễ dàng nuông chiều bản thân mình, thiếu hiểu biết sâu sắc về sự hy sinh, đắm chìm trong đời sống và bản thân đến mức đánh mất tất cả ý thức về cầu nguyện, và sống không hề tiết dục chút nào, đặc biệt về mặt tình cảm.  Bên cạnh những chuyện khác, chúng ta còn thấy điều đó trong căn bệnh bận rộn của mình, trong tình trạng mất khả năng duy trì đời sống cầu nguyện riêng tư, ngày càng mất đi năng lực trung tín với những gì mình cam kết, và với những nỗ lực gắng gỗ chống lại mọi thể loại nghiện ngập: thức ăn, rượu chè, tình dục, thú vui giải trí, công nghệ thông tin.  Khiêu dâm trên internet đã là bệnh nghiện lớn nhất của toàn thế giới.  Cầu nguyện và ăn chay (ít nhất trong tình cảm) đang thiếu hụt.  Những đức hạnh giống tu sĩ giờ đây đang cần có hơn bao giờ hết.

Nhưng chúng ta phải thực hành các đức hạnh đó mà không phô diễn trước đông người, không khinh khi tính chất tốt lành vốn được Chúa ban cho trong mọi thứ của thế giới này, không ám chỉ rằng sự thánh thiện riêng tư là quan trọng đối với chúng ta và với Chúa hơn những điều tốt lành thông thường của thế gian này, và không ngụ ý rằng Chúa không muốn chúng ta vui vẻ với tạo vật của Người.  Thực hành khổ hạnh và cầu nguyện của chúng ta phải thực chất, nhưng chúng phải toát ra sự an mạnh, chứ không phải là sự bù đắp cho việc không an mạnh.

Và như vậy, một sự an mạnh chứng tỏ sự tốt lành của Chúa, chính xác là điều tôi thấy ở những ai thực hành các đức hạnh giống tu sĩ theo cách lành mạnh.  Cầu nguyện và ăn chay, nếu làm đúng đắn, sẽ toát lên sự an mạnh, không phải là khinh khi.  Nếu David Hume đã chứng kiến sự an mạnh và tình thương yêu của Chúa Giê-su trong việc cầu nguyện và thực hành khổ hạnh của ông thì hẳn là, tôi nghĩ, ông đã viết khác đi về đức hạnh giống tu sĩ.

Vì vậy chúng ta cần xem xét nghiêm túc hơn lời dạy của Chúa Giê-su rằng việc thực hành khổ hạnh và cầu nguyện riêng tư phải được làm “trong kín đáo”, đằng sau cánh cửa đóng kín, để vẻ mặt chúng ta bộc lộ ra trước đông người toát lên an mạnh, vui vẻ, thanh thản và thương yêu những điều tốt lành Chúa đã tạo ra, người mà cầu nguyện và thực hành khổ hạnh đã đưa chúng ta đến gần hơn.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI – HAI LỐI NHÌN

Mỗi năm khi bước vào mùa Chay với thứ Tư lễ tro thì Giáo Hội lại một lần nữa nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn luôn nhìn vào những gì bên trong được phát xuất từ trái tim, chứ không phải những gì từ bên ngoài của mỗi người chúng ta.

Chúa Giêsu đang nhắc nhở cho chúng ta về một bài học rất khó khăn và thách đố qua bài Phúc Âm của thánh Mát-thêu (Mt 6, 1-6. 16-18) ngày thứ Tư lễ tro.  Ngài nói rằng chúng ta hãy dừng lại, và đừng là những kẻ đạo đức giả nữa.  “..khi làm việc từ thiện, các con đừng thổi loa báo hiệu, như những người giả hình làm nơi hội đường và trên hè phố để cho người ta khen… Và khi cầu nguyện, các con đừng làm như những người giả hình vẫn thường làm nơi hội đường và trên hè phố, cốt cho người ta thấy…” (MT 6:2,5).

Mùa Chay cũng là dịp tốt để cho chúng ta có thể tháo bỏ đi những cái “mặt nạ” là những cái nhìn “thánh thiện” gần giống như người Kitô hữu bên ngoài, khi mà chúng ta tự cho mình là “nhân vật chính” là “trung tâm điểm, vì cái kiêu ngạo, tự cao và tự đại” ở bên trong.  Cái từ “đạo đức giả” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “diễn viên.”  Các diễn viên giả vờ là một người mà họ phải làm, phải đóng vai trong các vở phim, vở kịch, cải lương, v.v…  Điều này có thể ổn thoả trên sâu khấu, nhưng chúng không thể chấp nhận được trong cuộc sống thực tại ngoài đời, nhất là đối với đời sống Đạo, đời sống tâm linh của một người tín hữu Công Giáo.  Qua bài Phúc Âm của Thánh Mát-thêu, Chúa Giêsu đang khuyến khích chúng ta hãy vất bỏ những cái mặt nạ mà mỗi người chúng ta đang mang.  Ngài kêu mời chúng ta hãy sống đúng với bản chất thật của mỗi người, “…các con đừng làm như những người giả hình vẫn thường làm…” (MT 6:5) ngõ hầu ân sủng của Thiên Chúa có thể chữa lành cho những yếu đuối của chúng ta.

Việc mời gọi “sống thật”, vất đi cái “mặt nạ” này của Chúa Giêsu có thể nói là một thách đố rất lớn lao cho mỗi người chúng ta vì hai lý do như dưới đây:

Thứ nhất, chúng ta không muốn thừa nhận rằng đôi khi mỗi người chúng ta có những hành động yếu đuối tự lừa dối những người chung quanh và chính mình.  Lý do chính là do “CÁI TÔI” to lớn, tự ái, tự cao và gia trưởng, v.v… của mỗi người chúng ta.  Có lẽ đây là cái lý do tại sao chúng ta cố bám chặt lấy những cái “mặt nạ” và hành động như kẻ đạo đức giả.  Nói cho cùng thì mỗi người chúng ta đều là những kẻ đạo đức giả “pha-ri-siêu” bằng một cách thức nào đó trong đời sống cả Đạo lẫn đời.

Lý do thứ hai làm chúng ta không dám tháo cởi cái “mặt nạ” là vì chúng ta sợ bị từ chối.  Đương nhiên không một ai thích mình bị từ chối, đây là một điều tâm lý chung của con người.  Nhưng qua Kinh Thánh Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa biết tất cả mọi “bí mật” của mỗi người chúng ta từ trong tư tưởng đến hành động. “Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn” (MT 6:4).  Thiên Chúa thấu hiểu và cảm thông với những yếu đuối của mỗi người.  Do đó Thiên Chúa luôn yêu thương và ao ước chúng ta đến với Ngài để Ngài có thể giúp chúng ta vượt qua những yếu đuối này; ngõ hầu chúng ta được sống gần gũi và mật thiết với Ngài mỗi ngày trong cuộc sống.  Đây là một niềm hy vọng rất lớn lao của mỗi người chúng ta.

Ao ước rằng trong mùa Chay Thánh năm nay mỗi người chúng ta hãy dành thời giờ mỗi ngày để tâm tình với người Thầy Giêsu thân yêu bằng những lời trong bài cầu nguyện của Michel Quoist, để xin Thiên Chúa giúp chúng ta có can đảm dám vất đi, cởi bỏ cái mặt nạ mà mỗi người chúng ta đang cưu mang trong người.

Lạy Chúa, xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài.
Xin tha thứ cho con
vì đã quá bận tâm
đến những điều mình nói,
đến ảnh hưởng của mình,
đến những điều người ta nói và nghĩ về con.

Xin tha thứ cho con
vì muốn nên giống kẻ khác
mà quên mất chính mình,
vì khao khát có được những đức tính của họ,
mà quên phát triển bản thân.

Xin tha thứ cho con
vì đã mất nhiều thời gian
cho việc phô trương
hơn là cho việc xây dựng bản thân.

Xin cho con biết cởi mở với anh em;
nhờ đó, Chúa có thể đến với con
như đến với một người bạn.

Và Chúa sẽ làm cho con trở nên “người”
mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài
vì con là con của Chúa
và là anh em của mọi người.

                    (Michel Quoist)

Phó-tế Giuse Nguyễn Xuân Văn

SA MẠC – NƠI GIÚP KHÁM PHÁ SỰ THẬT

Trong cuộc đời làm người ai ai cũng phải trải qua những giây phút khủng hoảng.  Trong những lúc đó tất cả mọi chuyện to nhỏ đều trở thành một vấn nạn.  Kẻ đó tìm một câu trả lời trước khi lựa chọn, quyết định cho tương lai đời mình.  Giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ sang tuổi thành niên là một giai đoạn quan trọng trong đời người.  Tuổi dậy thì chứa đầy hỗn loạn.  Thân xác bỗng dưng biến đổi và phát triển khác thường.  Con người bị ép buộc tham dự vào một cuộc phiêu lưu để khám phá ra mình là ai.  Nhiều chuyện thần thoại đã mô tả về giai đoạn này.  Dĩ nhiên, nhân vật chính luôn là một chàng trai.  Anh phải từ giã mái ấm gia đình, chấp nhận mạo hiểm một mình tiến vào rừng sâu nước độc, nơi chứa đầy cạm bẫy của yêu tinh quỷ nữ!  Anh ta phải vượt qua mọi thử thách từ bên trong lẫn bên ngoài.  Anh ta được tôi luyện.  Khi trở về, anh giống như được đầu thai làm một con người hoàn toàn mới, đủ tài trí và khả năng gánh vác những trọng trách được giao phó.

Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về thời gian thử thách tương tự của Đức Giêsu.  Ngài được Thánh Thần dẫn đưa vào hoang địa, giang sơn của quỷ dữ.  Ngài ăn chay hãm mình, sống trong cô tịch, hoàn toàn không có gì để đề phòng âm mưu của kẻ xấu luôn bám sát, chờ cơ hội thuận lợi để thu thập.  Thử thách làm nảy sinh một hoài nghi cơ bản: Những gì từ trước tới nay tôi cho là tốt đẹp bây giờ có vẻ vô nghĩa.  Những gì tôi cho là tội lỗi xấu xa giờ đây hình như chứa đầy hứa hẹn.  Khi đối diện đương đầu với dụ dỗ Đức Giêsu dần dần khám phá ra mình là ai, đâu là sứ mạng của mình.  Thời gian sống trong sa mạc là giai đoạn quan trọng trong đời của Đức Giêsu.  Trong thời gian này Ngài cảm nhận một cách sâu xa sự mỏng dòn trong thân phận con người.  Mặc khác, Ngài đã sống mật thiết thân tình với Chúa Cha, giúp Ngài ý thức về trọng trách được Chúa Cha giao phó.  Ngài trở nên chín chắn trưởng thành, có thể bước vào cuộc đời công khai, công bố Tin mừng cứu độ.  Bởi vậy, sa mạc không phải chỉ là nơi chết chóc, tăm tối mà còn là nơi gặp gỡ chính Thiên Chúa.

Trong sa mạc Đức Giêsu hiểu thấu những yếu đuối cơ bản của con người.  Cám dỗ đầu tiên nhắm vào sự đói khát.  Có đầy đủ của ăn là một nhu cầu căn bản của cuộc sống con người.  Thân xác đòi hỏi quyền lợi của nó, và sẽ trở nên kiệt quệ nếu như nhu cầu này bị cự tuyệt, không được đáp ứng.  Dĩ nhiên chúng ta ăn để sống, nhưng chúng ta sống không phải chỉ để ăn, để uống.  Do đó, con người giống như bị tà nhập khi nghĩ rằng, ý nghĩa của cuộc sống con người chỉ đặt trên cơ bản của vật chất và sự hưởng thụ.  Con người chia sẻ những nhu cầu thuộc thân xác với tất cả mọi sinh vật khác, nhưng khát vọng của con người còn trổi vượt hơn, đi ra ngoài giới hạn này.  Chính vì thế chúng ta có thể nói rằng, nhu cầu lớn nhất của con người thuộc về đời sống tâm linh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.”  Đời sống con người không phải là một cuộc sống no say nhưng là một cuộc đời sung mãn về mọi mặt.

Thử thách thứ hai nhắm vào khát vọng quyền lực.  Bởi vì muốn chứng tỏ quyền lực của mình, bảo đảm chỗ đứng của mình, kẻ ấy ra sức tìm cách hạ bệ kẻ khác, ra sức chèn ép, trèo lên đầu lên cổ người khác và nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết!  Tranh đấu quyền lực là chuyện xảy ra như cơm bữa từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đặc biệt trong môi trường chính trị và kinh doanh…  Đức Giêsu không đầu hàng dụ dỗ.  Ngài sẵn sàng từ bỏ quyền thế và bạo lực.  Ngài chọn con đường yêu thương vô vị lợi.

Dụ dỗ thứ ba nhằm chối bỏ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo càn khôn.  Đặc biệt con người ngày nay nghĩ rằng, mình có thể đạt được tất cả mà không cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa.  Tất cả đều dựa vào khả năng của bản thân.  Ngày Chúa nhật không đi lễ nhà thờ chẳng thấy mình mất mát gì!  Nhìn nhận giới hạn của mình, nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình là một điều không dễ dàng.  Thiên Chúa đòi hỏi con người tin vào Ngài, mặc dầu không ai có thể chứng minh và nhìn thấy Thiên Chúa.

Mùa chay chính là một lời mời gọi sáng tạo một mảnh sa mạc trong cuộc đời mình, mời gọi xa rời cảnh huyên náo, bon chen, xô bồ để có thể gặp gỡ Thiên Chúa, lắng nghe tiếng Ngài trong cô tịch.  Bởi vì sa mạc, đối với Đức Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, là nơi giúp khám phá sự thật, nơi chúng ta có thể đối diện với chính mình để nhận biết mình là ai và Thiên Chúa muốn gì nơi tôi.

Lm. Phêrô Trần Minh Đức

MÙA THUẬN TIỆN

Mùa Chay được gọi là “thánh” vì mang một ý nghĩa thiêng liêng đối với mỗi người tín hữu, đồng thời là điểm nhấn quan trọng trong đời sống đức tin.  Tại các giáo xứ truyền thống, Mùa Chay luôn mang một bầu khí đặc biệt, thấm đượm tinh thần cầu nguyện, được thể hiện qua cách trang trí nhà thờ, những nghi thức ngắm nguyện, những buổi tĩnh tâm dành cho các hội đoàn và các giới.  Bầu khí đạo đức của Mùa Chay phù hợp với lời khẳng định của thánh Phaolô: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (Bài đọc II).

Dĩ nhiên, Thiên Chúa không chỉ tha thứ và ban ơn cứu độ trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng ơn cứu độ của Ngài tràn trề, mênh mông như biển cả.  Tuy vậy, như lời kinh nguyện ngắm của Mùa Chay còn được đọc nơi một số giáo phận đã diễn tả: “Như con chim biết mùa làm tổ…”  Mùa Chay đối với tín hữu là thời điểm nhận ra lòng thương của Chúa thật mênh mông cao vời, mà chúng ta vô tình tệ bạc trước tình thương ấy.  Tội lỗi chính là sự tệ bạc, bội nghĩa vong ân đối với Thiên Chúa.  Câu chuyện người cha nhân hậu trong Tin Mừng thánh Luca đã phản ánh rõ giáo huấn về tội lỗi và ân sủng, về tình thương của Thiên Chúa và sự lầm lạc của con người, về sự cần thiết phải trở về để nối lại tình xưa giữa Thiên Chúa với tâm hồn mỗi người chúng ta.

Chúa Giêsu, trong Tin Mừng hôm nay đã đề cập đến ba thực hành quan trọng: Làm phúc, cầu nguyện và ăn chay.  Dựa trên giáo huấn của Lời Chúa, ba thực hành này đã trở nên cốt lõi của đời sống đức tin nói chung và của Mùa Chay nói riêng.  Tuy vậy, điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh, đó là tâm tình và ý thức của người tín hữu thể hiện qua những thực hành này.  Ai trong chúng ta đã không có lần làm phúc và cầu nguyện?  Ai trong chúng ta mà không ăn chay mỗi khi Mùa Chay về?  Mùa Chay là thời điểm để chúng ta xét lại những thực hành này, để rồi, chúng không chỉ được thực hành một cách chiếu lệ, nhưng được thúc đẩy bởi đức tin, đức cậy, đức mến.  Ý thức mình đang sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa, Đấng ngự nơi bí ẩn, đó là điều Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta.  Vì chỉ như thế, những gì chúng ta làm mới mang tinh thần siêu nhiên.  Xung quanh chúng ta, có rất nhiều người làm từ thiện.  Trong xã hội hôm nay, có nhiều người ăn chay vì lý do sức khỏe hoặc để tạo một đời sống thanh tịnh.  Điều khác biệt nơi người Kitô hữu, đó là làm phúc, ăn chay, cầu nguyện với ý thức về một Đấng Vô Hình, đang hiện diện trong tâm hồn họ, để rồi những gì họ làm cho những người bất hạnh khó nghèo là làm cho Chúa, Đấng đã hóa thân nơi người cùng khổ đang hiện diện hàng ngày xung quanh chúng ta.

Vì vậy, khi thực hành những đạo đức kể trên, người tín hữu không chờ mong lời khen của người đời.  Chúa Giêsu đã diễn tả qua việc xức dầu thơm khi ăn chay và mang bộ mặt vui vẻ hòa nhã.  Chúa cũng dặn, đừng khoe khoang việc từ thiện mình đã làm, hoặc đừng phô diễn khi cầu nguyện.  Giáo huấn này hoàn toàn khác với thói quen nơi một số người biệt phái trong xã hội đương thời.  Qua những chỉ dẫn trên, Chúa muốn chúng ta đi vào tinh thần nội tâm của đời sống Kitô hữu, ở những lãnh vực khác nhau, nhằm diễn tả một đức tin trưởng thành và một đời sống chân chính.

Giữa dòng đời trôi nổi ồn ào, chúng ta có nguy cơ bị lạc hướng, để mình trôi theo những tham vọng trần tục.  “Mùa thuận tiện” đưa chúng ta trở về với Chúa, với tha nhân và với chính mình.  Về với Chúa để nhận ra thân phận hèn yếu lỗi lầm, tái lập mối tương giao cha-con với Ngài; về với tha nhân để nhận ra họ là hồng ân Chúa ban tặng (Sứ điệp Mùa Chay 2017); về với chính mình để nhận ra mình đang ở đâu trong cơn lốc cuộc đời, để không bị đánh mất mình trong biển đời hỗn độn mênh mông.

Lời kêu gọi trở về, được ngôn sứ Giôen diễn tả, vừa đanh thép quyết liệt, vừa tha thiết dịu dàng.  Đây là một lời “hiệu triệu” thôi thúc con tim mỗi người hãy gác lại những bận rộn âu lo của cuộc sống để thành tâm trở về với Chúa, như một ưu tiên quan trọng của cuộc đời.  Lời kêu gọi sám hối được gửi đến mọi người, già trẻ, gái trai, tân lang tân nương, tư tế phục dịch trong Đền thờ.  Mùa Chay là mùa thuận tiện đối với hết mọi người chúng ta.

“Hãy xé lòng, đừng xé áo.”  Lời ngôn sứ mời gọi chúng ta hãy sống Mùa Chay cách chân thành và hiệu quả, chứ không dừng lại ở những nghi lễ bên ngoài.  Hãy can đảm và trung thực đặt mình trước mặt Chúa, nhận ra những thiếu sót của mình để sám hối canh tân.  Đây là mùa thuận tiện giúp chúng ta đến gần Chúa và đến gần anh chị em mình hơn.  Mùa Chay cũng giống như mùa cây thay lá, cởi bỏ những tán lá đã già cỗi để nhường chỗ cho những mầm non sẽ mọc lên.  Sau mùa lá rụng là mùa đâm chồi nảy lộc.  Màu tím của Mùa Chay không chỉ diễn tả lòng sám hối đau buồn, mà còn mang sứ điệp hy vọng vào tình thương của Chúa, Đấng không vui gì khi con người phải trầm luân, nhưng muốn cho mọi người được ơn cứu độ và được sống muôn đời.

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên