CAN ĐẢM, TRUNG THÀNH

Trong giây phút đầu tiên đăng quang ngôi Giáo Hoàng, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại lời hiệu triệu và có âm hưởng mạnh trên toàn thế giới, ngài nói: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Kitô.”  Lời mời gọi này được gợi hứng từ chính lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe: “Vậy anh em đừng sợ người ta […] Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 26. 28).

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách.  Ngược lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đón nhận mọi hiểm nguy và ngay cả cái chết khi loan báo Tin Mừng Nước Chúa.

1. Đừng sợ!

Trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy có nhắc tới 365 từ ngữ “đừng sợ.”  Như vậy, hàm ý cho thấy rằng: trong một năm với 365 ngày, tương ứng với 365 từ ngữ “đừng sợ,” tức là con người ngày nào cũng phải đối diện với sự sợ hãi.  Vì thế, lời trấn an “đừng sợ” của Đức Giêsu chính là lời làm cho người môn đệ được an ủi trước những sợ hãi, thử thách, đau khổ trong cuộc đời.

Trang Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu tiên báo trước cho các môn đệ về những đau khổ và hệ lụy xảy đến khi các ông loan báo Tin Mừng: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.  Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10, 28).

Đi thêm một bước nữa, như một lời đảm bảo, Đức Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ biết trước những công khó của các ông sẽ không bị rơi vào quên lãng, ngược lại sẽ được Thiên Chúa ghi dấu và thưởng công xứng đáng, Ngài nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em.  Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” (Mt 10, 29).

Tuy nhiên, như một điều kiện cần và đủ, đó là: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.  Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33).

Khi nói như thế, Đức Giêsu đã vạch ra con đường đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang của các Tông đồ và tất cả những ai tiếp bước trên con đường sứ vụ ấy.

2. Đặc tính của người môn đệ

Khi tiếp nhận lệnh truyền của Đức Giêsu về sứ vụ truyền giáo, Giáo Hội đã xác định rất rõ bản chất của mình, đó là truyền giáo.  Vì vậy, là Kitô hữu, chúng ta không có lý do gì để khước từ sứ mạng cao quý này.

Tuy nhiên, nếu đã cùng một sứ vụ với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng cùng chung số phận với Thầy của mình.  Nếu Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang, thì người môn đệ cũng không có con đường nào khác nếu muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong mọi hoàn cảnh.

Nếu đường của Thầy là đường của trò.  Số phận của Thầy cũng là của trò.  Và nếu Đức Giêsu trước kia đi đến đâu cũng có một số người ủng hộ; một số người dửng dưng; và một số người quyết giết chết Ngài cho bằng được, thì đến lượt chúng ta, con đường êm xuôi, bằng phẳng, nhung lụa, hoa hồng chắn chắn là quá xa lạ.  Ngược lại, thử thách, đau khổ, xỉ nhục, bắt bớ và giết chết lại là điều chắc chắn sẽ đến với những ai đi trên con đường ấy, bởi vì: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ.  Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10, 24).

Đứng trước những hệ lụy đó, để được thành công với sứ vụ, người môn đệ cần có những đặc tính sau:

–  Trước tiên là dấn thân:

Nếu vì sợ mà không dám dấn thân thì chưa phải là môn đệ.  Đã là môn đệ thì phải dấn thân, mà dấn thân đồng nghĩa với cái chết.  Người đời thường nói: “Nếu sợ mà không dám vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con”; hay “ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai” (Nguyễn Bá Học).  Người môn đệ chân chính của Đức Giêsu chính là phải vượt ra khỏi sự an toàn, bảo đảm cho bản thân, để: “Như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16).  Nên chúng ta chấp nhận ngay cả khi bị tổn thương, bắt bớ, tù đầy và cái chết, để miễn sao Tin Mừng được loan báo.

– Thứ đến là không sợ hãi

Chúng ta cũng đọc thấy đây đó những câu chuyện nói về gương kiên trì hay vượt khó của các vĩ nhân. Có những người chấp nhận ngay cả cái chết để bảo vệ quan điểm, lý tưởng và lẽ sống của mình.  Cũng vậy, người môn đệ của Thầy Giêsu khi đã chọn Ngài làm chân lý, sự thật, lẽ sống và cùng đích cho cuộc đời, thì lẽ đương nhiên, chúng ta phải đánh đổi và chấp nhận mọi sự, để bảo vệ và đạt được mục đích ấy.

Cảm nghiệm về vấn đề này, Giáo Phụ Tertullianô đã viết như sau:

“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu.  Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ phải có một tâm tình như Chúa Kitô.  Họ không sợ chết.  Họ không sợ hình khổ.  Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa.  Câu “kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình.  Hèn gì mà trên pháp trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu.  Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.

 Cuối cùng là biết cậy trông vào Chúa

Thật là mầu nhiệm!  Nếu bình thường, bản tính con người ai cũng rất sợ đau khổ và chết chóc, thế nhưng tại sao những môn đệ của Đức Giêsu lại vững tâm, can trường và liều mạng đến như vậy?  Thưa đơn giản, đó là vì các ngài đã “Tín thác đường đời cho Chúa và tin tưởng vào Ngài” bởi vì: “Ơn ta đủ cho con” (2 Cr 12,9); và “hằng ở với con” (Gr 1,10) “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 26,20).  Chính bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói đến sự an bài quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời của người môn đệ nếu biết cậy trông, phó thác nơi Chúa, Ngài nói: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến.  Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30).

3. Sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, dấn thân lên đường thi hành sứ vụ đến với muôn dân.  Hãy đón nhận mọi thử thách gian khổ trong cuộc đời như một điều kiện cần để đạt được sự sống đời đời.  Luôn biết phó thác và cậy trông nơi Chúa, vì chẳng lẽ chúng ta xin Chúa con cá mà Ngài lại cho con rắn, hay xin bánh lại cho đá?  Không đời nào!  Cũng vậy, những lúc nguy biến và khổ đau, Ngài thường vác chúng ta trên vai; hay trước những thử thách, bất trắc, thất bại trong cuộc đời, chúng ta luôn nhớ rằng: Chúa đóng của chính thì Ngài sẽ mở ra cho chúng ta cửa sổ; Chúa đóng đường chính, Ngài sẽ mở đường phụ, và biết đâu, cửa sổ hay đường phụ lại tốt đẹp hơn và an toàn hơn cho chúng ta???

Tin tưởng điều đó, chúng ta hãy can đảm làm chứng cho Chúa, nhất là trung thành với sự thật như lời Ngài đã phán: “Anh em đừng sợ người ta […].  Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27).  Như vậy, không thể vì bất cứ mối lợi gì mà đánh đổi sự thật.  Mất đi sự thật, ấy là chúng ta mất đi căn tính, bởi sự thật thuộc về Thiên Chúa, còn gian dối thuộc về ma quỷ.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con trung thành với sứ vụ và đón nhận mọi thử thách đau thương trong cuộc đời. Amen.

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

SỐT

Nhà văn Mỹ John Updike sau khi lành một căn bệnh nặng đã viết bài thơ có tựa đề Sốt.  Bài thơ kết thúc với câu:  Nhưng có một sự thật đã được biết từ lâu, rằng một số bí mật ta chẳng biết khi khỏe mạnh.

Thực chất chúng ta đã biết điều này, nhưng đó là sự thật cá nhân, không phải là cái gì chúng ta có được trong lớp học, từ cha mẹ hay từ người cố vấn, ngay cả từ giáo lý tôn giáo cũng không.  Những người này chỉ đơn thuần nói đó là thật, hiểu biết tự chính nó không mang đến khôn ngoan.  Như nhà thơ Updike nói, khôn ngoan là qua trải nghiệm cá nhân khi bệnh nặng, khi mất mát lớn hay khi sỉ nhục trầm trọng.

Nhà văn, nhà tâm lý học người Mỹ James Hillman (1926-2011) theo thuyết bất khả tri cũng đi đến kết luận tương tự.  Tôi nhớ đã nghe ông trong một cuộc hội thảo lớn, lúc nói chuyện, ông đã thách thức khán giả của mình về tác động này: Quý vị trung thực và can đảm suy nghĩ và tự hỏi: các kinh nghiệm nào trong đời sống quý vị làm cho quý vị sâu sắc hơn, mang đến cho quý vị cá tính?  Trong hầu hết trường hợp, bạn sẽ phải công nhận đó là những chuyện sỉ nhục hoặc lạm dụng bạn phải chịu đựng, một kinh nghiệm về bất lực, thất vọng, bệnh tật hoặc bị gạt ra bên lề.  Không phải nhờ những chuyện mang lại vinh quang hay ngưỡng mộ trong cuộc sống mà bạn có được chiều sâu và cá tính, lúc bạn đứng đầu lớp hay lúc bạn là vận động viên ngôi sao.  Những điều này không làm cho bạn có chiều sâu.  Nhưng đúng hơn là kinh nghiệm bất lực, mặc cảm, là những chuyện làm bạn trở nên khôn ngoan.

Tôi còn nhớ khi còn là sinh viên sắp tốt nghiệp, tôi dự một loạt các buổi diễn thuyết của nhà tâm thần học nổi tiếng người Ba Lan, Kasmir Dabrowski, ông viết một số sách chung quanh khái niệm mà ông gọi là, “sự tan rã tích cực.”  Luận điểm thiết yếu của ông đưa ra, bằng cách tan rã chúng ta mới phát triển đến mức cao nhất của trưởng thành và khôn ngoan.  Một lần, trong một bài diễn thuyết có sinh viên hỏi ông: “Tại sao chúng ta lớn lên nhờ các kinh nghiệm tan rã như lâm bệnh, gục ngã hay bị sỉ nhục?  Sẽ hợp lý hơn không nếu chúng ta lớn lên qua kinh nghiệm tích cực khi được yêu, được khẳng định, thành công, khỏe mạnh và được ngưỡng mộ sao?  Có nên rèn luyện lòng biết ơn trong chúng ta và từ lòng biết ơn, chúng ta sẽ trở nên quảng đại và khôn ngoan hơn không?”

Ông trả lời: Về lý thuyết, sự trưởng thành và khôn ngoan nên phát triển từ những kinh nghiệm mạnh và thành công; và có thể trong một số trường hợp, đúng là thế.  Tuy nhiên, là bác sĩ tâm thần, tất cả những gì tôi có thể nói là trong bốn mươi năm hành nghề, tôi chưa bao giờ thấy.  Tôi chỉ thấy mọi người trưởng thành hơn nhờ kinh nghiệm tan vỡ.

Có vẻ như Chúa Giêsu đồng ý với điều này.  Chúng ta lấy ví dụ đoạn Tin Mừng khi ông Giacôbê và Gioan đến hỏi Chúa Giêsu họ có thể ngồi bên tả, bên hữu Ngài khi Ngài vinh quang không.  Đáng chú ý là Ngài nghiêm túc trả lời câu hỏi của họ.  Ngài không quở trách họ (trong trường hợp này) vì đã tìm kiếm vinh quang cho riêng mình; thay vào đó, Ngài xác nhận lại thế nào là vinh quang và con đường đến đó.  Ngài hỏi họ: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”  Họ ngây thơ trả lời: “Thưa được!”  Chúa Giêsu sau đó nói với họ về một điều mà họ còn ngây thơ hơn.  Ngài nói với họ, “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”

Chén nào?  Làm thế nào uống chén này lại là con đường đưa đến vinh quang?  Và tại sao chúng ta không thể nhận được vinh quang ngay cả khi chúng ta uống chén này?

Chén này sẽ được tiết lộ sau đó, là chén đau khổ, chén sỉ nhục, chén mà Chúa Giêsu uống trong sự thương khó và cái chết của Ngài, chén mà ở Giétsêmani khi hấp hối, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha: “Nếu được, xin Cha cất chén này cho con!”

Về cốt lõi, những gì Chúa Giêsu nói với ông Giacôbê và Gioan là như sau: Không có con đường nào đến với Chúa Nhật Phục Sinh mà không qua ngày con đường Thứ Sáu Tuần Thánh.  Không có con đường đến chiều sâu và khôn ngoan trừ con đường đau khổ và sỉ nhục.  Sự kết nối là nội tại, giống như sự đau đớn và rên rỉ của người phụ nữ là cần thiết khi sinh con.  Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng nói, đau khổ sâu đậm sẽ không tự động mang lại khôn ngoan.  Tại sao?  Bởi vì, nếu có một mối liên hệ nội tại giữa đau khổ sâu sắc và một cái gì sâu đậm lớn hơn trong đời sống chúng ta, đó là cái bẫy, sự đau khổ trong chua cay có thể dìm chúng ta trong cay đắng, giận dữ, ghen tị và hận thù, nhưng nó cũng dễ dàng làm cho chúng ta chìm đắm trong lòng trắc ẩn, tha thứ, thông cảm, và khôn ngoan.  Chúng ta có thể có nỗi đau, và chúng ta không có được khôn ngoan.

Sốt!  Triệu chứng chính của việc bị nhiễm Covid-19 là sốt cao.  Sốt bây giờ đã bao vây thế giới chúng ta.  Hy vọng sau khi nó làm tăng một cách nguy hiểm nhiệt độ cơ thể và tâm hệ, nó cũng cho thấy một vài bí mật được giấu kín của sức khỏe.  Đó là những bí mật nào?  Chúng ta chưa biết.  Chúng chỉ được vén mở bên trong cơn sốt.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

ĐỪNG NHƯ THÓI QUEN

“Yêu chậm lại một chút để thấy ta cần nhau hơn,” câu hát trong tác phẩm Đừng Như Thói Quen của Jaykii và Ngọc Duyên như một thông điệp đã thu hút hàng triệu con tim trên kênh Youtube.  Sống như thói quen, nhịp sống mỗi ngày của chúng ta đã trở nên quá vội vã, quá đầy, đến nỗi không còn thời gian, không còn chỗ trống nào để thư giãn, để có những không gian riêng.  Trong những chuỗi ngày bận rộn, chúng ta hay chôn mình vào công việc để thời gian đi qua quá nhanh, mà thiếu để ý đến những người mình yêu quý nhất.  “Chỉ cần một khoảng trống, … chỉ cần dành một phút để hỏi em [hỏi anh] về ngày hôm nay.”  Câu hát của hai ca sĩ trẻ như một lời năn nỉ, đánh thức và hâm nóng lại những tâm hồn, những con tim đang sống như quá tải, đang dần héo khô trong những sinh hoạt máy móc, trong những ứng xử nguội lạnh thiếu tình người.  Chậm lại một chút, cho nhau một không gian trống để thấy, để hiểu và để yêu hơn.

Những khoảng không gian trống và thời gian chậm lại, phải chăng là một trong những món quà mà không ai ngờ và cũng chẳng ai muốn trong suốt mấy tháng vừa qua.  Phải công nhận rằng cơn đại dịch Covid-19 đã và đang làm xáo trộn mọi nếp sống cũng như thói quen sinh hoạt hằng ngày của mọi người khắp nơi trên thế giới.   Thay vì mỗi ngày đến trường, các em học sinh, sinh viên một mình khép mình vào những căn phòng riêng, thu mình vào Zoom hay Teams để được thụ huấn hay tiếp nhận sự dạy dỗ.  Thay vì hằng ngày lái xe tới chỗ làm, chúng ta phải cách ly với bạn bè, hàng xóm và cộng đoàn, tách biệt với những sinh hoạt bên ngoài.  Thay vì đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật, chúng ta lại tụ họp cầu nguyện và bẻ bánh với nhau, cảm nhận Mình và Máu Thánh Chúa cách thiêng liêng trong những Thánh Lễ trực tuyến.  Người người đều cảm nhận mùa xuân 2020 âm thầm qua khung cửa sổ.  Tuy nhiên, cũng chính những sự xáo trộn đó lại ép, lại lôi kéo, hay cũng có thể nói, mời gọi chúng ta thoát ra khỏi những thói quen, giúp chúng ta suy tư, kiểm chứng và nhìn lại những giá trị đời sống đức tin và cách hành xử của những người mang danh là Kitô hữu.

Hôm nay Chúa Nhật Lễ Mình và Máu Thánh Chúa, cũng trong không gian của thánh lễ này, chúng ta dành ra một khoảng trống và thêm chút thời gian để suy niệm những bài Kinh Thánh, để nhìn ra Nhiệm Thể Chúa Kitô hôm nay một cách rõ ràng hơn, và cũng để thấy ta cần và yêu mến nhau không như một thói quen.

Hơn lúc nào hết có lẽ trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta cảm nghiệm được một cách gần gũi hơn những dòng chữ của Thánh Phaolô nhắn nhủ tín hữu Côrintô, “chúng ta tuy nhiều người nhưng cũng chỉ là một thân thể.”  Như thói quen, điều đầu tiên cả thế giới đổ dồn công sức vào là đi tìm ra được nguyên nhân và nguồn gốc của Covid-19 cũng như cách thức mà con virus này lây nhiễm.  Nhưng tiếc thay, một số người lại lợi dụng những thông tin đó để đổ lỗi, trốn tránh trách nhiệm, và lên án lẫn nhau trên diễn đàn thế giới.  Dừng lại một chút, kiểm chứng lại nguyên nhân của nạn đại dịch Covid này, chúng ta mới nhận ra mình thật cần nhau.  Như một đốm lửa gây nên cháy rừng, nghĩ cho cùng nạn dịch Covid đang làm cả thế giới đảo điên cũng là hậu quả của những hành động thiếu trách nhiệm của một vài cá nhân có lẽ đã coi thường vai trò trách nhiệm của mình.  Một bữa ăn thôi, một món nhậu mà ăn nhằm gì hay có hại gì tới ai chứ?  Thật là những suy nghĩ sai lầm nghiêm trọng.  Kinh nghiệm trước mắt, một người hồ đồ, cả thế giới điêu đứng vì thật ra chúng ta tuy nhiều nhưng đều thuộc vào cùng một thân thể.  Nếu nghĩ được như vậy và nhận ra được hậu quả trước mắt như thế, thì xin đừng như thói quen, hãy kiểm chứng lại lối sống, hành động thiếu suy nghĩ của mình, từ chuyện tưởng chừng như rất nhỏ như xả rác không đúng nơi quy định, xài đồ phung phí không biết tái chế (recycle), tới những trách nhiệm xã hội lớn hơn như đăng tải bừa bãi trên mạng xã hội, tham nhũng hay trốn thuế, khai gian tiền chính phủ, v.v…  Tuy là những chi thể rất nhỏ, nhưng hết mọi người chúng ta đều thuộc về một thân thể và rất cần nhau.  Vì thế hãy ý thức rằng những việc chúng ta làm cho dù nhỏ đến đâu, cũng đều ảnh hưởng lẫn nhau.

Đối diện với những ràng buộc và giới hạn vì ảnh hưởng của Covid-19, chúng ta không được tới nhà thờ tham dự thánh lễ, thông dự phần mình vào mầu nhiệm Ngôi Hai Cứu Chuộc một cách trực tiếp.  Có lẽ điều chúng ta nhớ nhất chính là cái không gian sống động khi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Đức Kitô qua lời truyền phép của vị chủ tế.  Đặc biệt hơn nữa, chúng ta khao khát được rước Mình và Máu Thánh Chúa vào tâm hồn, để trở nên một với Người.  Tuy nhiên, khi chẳng được rước Mình và Máu Thánh Chúa thật, chúng ta lại tiếp tục xin “Chúa ngự vào lòng con cách thiêng liêng.”  Phải chăng, trong không gian không như thói quen của thánh lễ trực tuyến, chúng ta dừng lại một chút để nhìn ra rõ ràng hơn sự tinh tế siêu việt của mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa ngự và ở cùng mỗi người trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Phải chăng lúc trước, như thói quen, chúng ta rời nhà để đi đến nhà thờ tham dự thánh lễ.  Còn bây giờ, qua thánh lễ trực tuyến, nhà thờ được hiện diện ngay giữa phòng khách, phòng ăn của mỗi gia đình.  Và như thế, trong cái không gian không như thói quen hôm nay, nghi thức sám hối đầu lễ và nghi thức chúc bình an cho nhau trước khi rước lễ, không còn là những câu kinh thông thường hay cái bắt tay hời hợt với những người chúng ta mới gặp, mà là cử chỉ chân tình với chính những người thân yêu đang đứng hay ngồi ngay bên cạnh chúng ta.  Phải chăng lúc trước, như một thói quen, khi đi lên rước Mình Thánh Chúa, dù ít hay nhiều, dù muốn dù không, chúng ta cũng hay bị chia trí, tệ hơn nữa, là phân biệt, dèm pha rồi xét đoán “người được rước lễ” và “người không được rước lễ,” “người lên rước lễ” và “người không lên rước lễ.”

Còn giờ đây, rước lễ thiêng liêng trong thánh lễ, không như thói quen, cho chúng ta thấy nỗi khát khao “như nước hoà chung với rượu” của tất cả mọi người đang tham dự mong mỏi cùng được “thông phần vào bản tính của Đấng đã làm người như chúng ta.”  Phải chăng lúc trước, như một thói quen, chúng ta hướng lòng tập trung vào những nghi thức diễn ra trên bàn thờ.  Trong thánh lễ trực tuyến trên Zoom, không như thói quen, chúng ta thật sự phải để ý kỹ càng hơn người chúng ta muốn thấy, tiếng chúng ta muốn nghe hay vẫn còn những anh chị em ẩn mình sau những khung hình hay sau một cái nút bấm không hiển thị trên bàn phím.  Dừng lại một chút, qua những vắng mặt của người anh chị em này, chúng ta thấu cảm được Nhiệm Thể Đức Kitô ngày hôm nay vẫn còn mang trên mình những vết thương cần được chữa lành và cảm thông.

Trong hoàn cảnh Covid hiện tại, trong cái không gian và thời gian hoàn toàn mới lạ không như thói quen này, câu hát mở đầu xin đổi lại thành câu cầu nguyện, mời gọi mọi người sống yêu mến chân tình hơn.  “Lạy Chúa! Xin giúp con tham dự Thánh Lễ trực tiếp hay trực tuyến chậm lại một chút – thêm một khoảng trống, thêm một phút nữa – để chiêm ngắm Mình Máu Thánh Chúa đang ngự vào lòng con cách trực tiếp hay cách thiêng liêng.  Và như thế, con có thể nhìn rõ Nhiệm Thể Đức Kitô nơi tất cả những người anh chị em con, để con biết con cần Chúa, cần nhau và yêu thuơng nhau nhiều hơn.”

Hưng Phạm, SJ – CTV Vatican News

LƯƠNG THỰC THẦN LINH

Là người Việt Nam, hầu như ai cũng biết, hoặc được nghe kể lại về nạn đói năm Ất Dậu 1945.  Đây là một vết thương lớn không phai trong lòng người dân Việt.  Một khi cơn đói cồn cào, họ tìm kiếm bất cứ thứ gì có thể ăn được dù đó là những củ chuối ngoài đồng, hay các lá non của cây cỏ, thậm chí ngay cả đến những con rắn mối, thằn lằn họ cũng bắt và cho vào miệng ăn không chút đắn đo.  Nhưng cuối cùng những con người xấu số ấy cũng bị tử thần cướp đi vì đói.

Ngày nay, chuyện chết đói nào đâu đã hết, các nước nghèo trên thế giới vẫn còn thảm cảnh này xẩy ra.  Chúng ta hãy xét đến sự tương trợ nhau phát sinh từ tình yêu nhân loại.  Tuy cũng có viện trợ và giúp đỡ nhưng vẫn chưa bù đủ vào con số đói nghèo trên thế giới.

Trong lãnh vực niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa, hôm nay lễ Mình và Máu Thánh Chúa.  Đây chính là lương thực thần linh nuôi sống linh hồn tín hữu chúng ta.  Trong tiếng La Tinh “Corpus Christi” nghĩa là “Thân Thể Chúa Kitô.”  Chúng ta cùng nhau tìm hiểu tình yêu trao ban của Ngài đối với nhân loại chúng ta.

1. Bánh nuôi nhân loại

Trong bài đọc một, sách Đệ nhị luật đã trình thuật việc dân Do Thái được Thiên Chúa Giavê bảo vệ và dẫn đưa ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi hoang địa và nọc rắn độc.  Thiên Chúa đã khiến nước từ tảng đá vọt chảy ra và cho Manna nuôi dân sống để tiến về đất hứa.  Còn trong Tin Mừng chúng ta cũng thấy những phép lạ được nhân lên qua bánh và cá.  Với năm chiếc bánh và hai con cá đã trở thành lương thực nuôi được 5000 người, sau đó thu lại còn dư những 12 thúng vụn.  Riêng bài Phúc Âm hôm nay Chúa không còn dùng hình bóng hay úp mở gì nữa mà Người đã xác định với dân của Ngài: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời, và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống.”

Quá hiển nhiên và rõ ràng.  Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài đã trở nên lương thực cho linh hồn ta ăn.  Con Chiên vượt qua lại càng rõ và tiêu biểu hơn.  Hình ảnh này được yêu chuộng đến độ chính Chúa Giêsu cũng được xưng tụng là: “Chiên Thiên Chúa.”

Đọc Tin mừng, cả ba tác giả của Phúc Âm nhất lãm đều đề cập đến bữa tiệc ly.  Chính trong bữa ăn tối này Bí tích Thánh Thể được thiết lập, và một lễ vượt qua cũ được chuyển đổi sang lễ vượt qua mới.  Biến cố làm nên nhiệm tích Thánh Thể chính là cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu Kitô.  Qua tình yêu này chúng ta thấy Thánh Thể ban cho chúng ta ví như một tuyệt tác và tặng ân của Ba Ngôi Thiên Chúa, toàn thể Ba ngôi đều cộng tác vào việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể: Ngôi Con tự hiến, Ngôi Cha đón nhận hiến lễ, và nhờ Ngôi Thánh Thần Ngôi Con hiến tế cho Ngôi Cha.

2. Thông hiệp với Mình và Máu Chúa Kitô

Theo tự nhiên, khi chúng ta ăn thực phẩm, dạ dày sẽ bóp, nghiền và biến thành chất bổ để châu lưu nuôi sống con người.  Khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được thông hiệp với mình và máu Chúa Kitô.  Thánh Phao lô đã viết: “Chén chúc tụng Ta cầm lên tạ ơn không phải là thông phần Máu Chúa Kitô sao?  Và bánh Ta bẻ ra không phải là thông phần Mình Chúa Kitô sao?” (1 Cr. 10,16).  Mỗi lần hiệp lễ linh hồn và con tim chúng ta trở nên cung điện của Chúa Ba Ngôi cực thánh, và khi Thiên Chúa đến, thì toàn thể thiên đàng cũng hộ giá và đến với chúng ta.  Tình yêu Thiên Chúa chiếm trọn tâm hồn và chúng ta bước vào sự thông hiệp nhiệm mầu, xác thực, sâu xa với cả Ba Ngôi.

Hơn nữa, chúng ta cũng có thể thấy rõ rằng: khi hiệp lễ, chúng ta mở cửa tâm hồn ra đón nhận Chúa Giêsu ngự vào.  Ngài là vị thượng khách của linh hồn ta.  Chúng ta cũng nhận ra khi thân xác đói khát sẽ trở nên thờ thẫn và yếu đuối, nhưng khi đã no nê thì trở nên nhanh nhẹn và tỉnh táo.  Linh hồn một khi được no thỏa bởi Mình và Máu Thánh Chúa cũng vậy.  Khi ấy, căn nhà tăm tối sẽ trở nên sáng láng, căn phòng lạnh lẽo sẽ trở nên ấm áp.  Sự đói khát tình yêu sẽ bù đắp vào thay thế một hạnh phúc đầy tràn dư dật.  Lúc ấy, hết thảy những ai lãnh nhận từ tình yêu cách chân thật, thì họ cũng ban phát tình yêu ấy một cách tràn đầy.  Thánh Thể Chúa là lò sưởi ân tình.  Chúa phán: “Hết thảy những ai đến với Ta, họ sẽ không còn đói khát.”  Sở dĩ Chúa xác định cách cụ thể như vậy vì chính lúc đó họ đã hoà nhập với Đấng Toàn Yêu của họ, và cũng từ nơi ấy, họ học được Tình Yêu từ Thầy Chí Thánh của họ: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.”

3. Cảm nhận của Tình Yêu

Trong lời nói chậm rãi và trịnh trọng, tựa như một di chúc vọng ra sự truyền khiến, căn dặn tràn ngập ân tình: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta.”  Chúng ta có nhận ra đây là một kho tàng, gia tài vô giá mà Thiên Chúa đã để lại qua “Di chúc” của Ngài.  Thử hỏi xem có người con hiếu thảo nào lại không thi hành di chúc của cha mẹ?  Xét về lãnh vực thiêng liêng đây là kho báu Đức Giêsu Kitô để lại cho nhân loại.  Kho tàng tình yêu không bao giờ tàn phai hay hủy hoại.  Kho tàng Thánh Thể Chúa Kitô.  Cảm nhận tình yêu của Chúa đối với chúng ta, thì chúng ta cũng có sự đáp lại ân tình ấy.  Thánh Thể Chúa đợi mong ta từng giây phút, ao ước ta no thoả Ngài trong mọi phút giây.  Ngài là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là trao tặng, cho đi.  Đáp trả ân tình, chúng ta hãy đến với Thánh Thể bằng sự chiêm niệm với tâm tình người con hiếu thảo.  Thánh Thể và Chiêm niệm là hai con đường dẫn linh hồn người tín hữu đến tận hưởng Thiên Chúa, làm cho linh hồn kết hợp mật thiết với Chúa cách hạnh phúc và no thoả.  Tuy nhiên Thánh Thể mang tính khách thể, còn Chiêm niệm thiên về niệm hướng.  Tuy có phần khác biệt hay độc lập nhau chút ít thế nhưng cốt lõi vẫn là một trao đổi tình yêu.  Bảo rằng tôi kính thờ Thánh Thể nhưng không bao giờ hướng lòng chiêm ngưỡng thì sao gọi được là đầy tràn tình yêu?  Thủy triều càng dâng cao thì những vẩn đục của giòng sông sẽ loãng lỏng dần rồi trở nên trong sạch hoàn toàn.  Do đó tính phủ bọc và tha thứ của Thánh Thể tình yêu cũng luôn biến đổi chúng ta như thế.  Miễn là chúng ta biết đáp trả lại tiếng gọi “Ta khát” liên tục phát ra trong nhà tạm hằng giây, hằng phút.  Tiếc thay!  Ngày nay cũng như ngày xưa, sự thờ ơ, lãnh đạm của tâm dạ con người thường hay đổi thay như chong chóng.  Vào thời Chúa Giêsu, dân chúng cũng đã tung hô Ngài, nhưng sau đó lại hô to tiếng: “Đóng đinh nó vào thập giá.”  Thì ngày nay trong các nhà tạm trên thế giới, Chúa Giêsu Thánh Thể cũng vẫn luôn cô đơn và chờ đợi.  Phải, Ngài chẳng cô đơn sao được khi chính những con cái Ngài thương yêu hết mực lại quay đầu chống lại Chúa.  Một Giuđa đã chứng minh cho nhân loại nhận ra sự bội phản không một chút thể hiện sám hối.  Hơn nữa, những linh hồn sống trong tội lỗi vẫn chưa trở lại giao hòa với Chúa, họ tiếp tục sống trong tình trạng chết phần linh hồn.  Những thái độ này là nguyên nhân làm cho Thánh Thể Chúa tiếp tục “khát.”  Vậy hỡi nhân loại!  Hãy mau thay đổi và hoán cải, và tức tốc an ủi Chúa đang ngày đêm cô đơn, giam cầm trong nhà tạm vì thiếu sự đáp trả tình yêu của loài người.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con ao ước và quyết tâm sống kết hợp mật thiết với Chúa, con luôn cố sống trong sạch để linh hồn con trở thành nhà tạm và đền thờ chứa Chúa Thánh Thể.  Con tin Thánh Thể Chúa chính là Con Đức Chúa Cha xuống thế làm người đã giáng sinh ở Belem vào đêm đông giá lạnh.  Con tin Tấm Bánh thần linh ngự trong các nhà tạm thánh chính là Đấng đã chết treo trên thập giá trên đồi Golgotha để qua cái chết, Chúa hủy diệt tội lỗi.  Con vững tin hơn cả qua sự phục sinh của Chúa để hủy diệt sự chết.  Tất cả là tình yêu, tất cả vì sự cứu độ trần gian.

Lạy Mẹ Maria, bằng tiếng Xin Vâng, Cung lòng Mẹ đã trở nên nhà tạm để Chúa Giêsu cư ngụ.  Xin Mẹ cầu cho chúng con luôn biết trang điểm nhà tạm linh hồn mình bằng những quà tặng của đức bác ái để xứng đáng cho Chúa Giêsu con của Mẹ mãi mãi hiện diện trong tâm hồn con.

Br. Nguyễn Kim Thanh

THƯ CỦA MỘT LINH MỤC HẤP HỐI GỬI CHO CHÚA

“Con sợ rằng, vào giờ sau hết, con sẽ có chung một ý tưởng như mẹ con đã có khi bà lìa đời.  Ý tưởng đó là, con chết mà thấy mình chẳng có công nghiệp gì, có thể nói là trắng tay, vì không gì Chúa gửi đến mà lại quá sức con…”

Cha José Luis Martín Descalzo người Tây Ban Nha, một phóng viên, một nhà văn, cũng là con út trong một gia đình công giáo đạo đức gồm bốn anh chị em.  Ngài tốt nghiệp khoa Lịch Sử và Thần Học của Đại Học Giáo Hoàng Grêgôriô tại Rome, thụ phong linh mục năm 1953.  Ngài làm việc trong tư cách giáo sư và giám đốc tại một công ty kịch nghệ; và trong thời gian diễn ra Công Đồng Vaticano II, cha José Luis Martín Descalzo là một thông tín viên.

Là một nhà báo, cha José đã điều hành nhiều tạp chí khác nhau và một chương trình truyền hình.  Ngài đã viết nhiều tác phẩm văn chương, một số được biết đến nhiều nhất là “Cuộc Đời và Mầu Nhiệm Của Chúa Giêsu thành Nazareth”, “Những Lý Do Để Sống”, “Những Lý Do Để Hy Vọng”, “Những Lý Do Để Yêu Thương” và “Những Lý Do Cho Đời Sau”, vốn tích hợp nhiều đề mục liên quan đến các biến cố thực và cuộc sống thường ngày.

Cha José Luis Martín Descalzo đã dâng trọn đời mình cho thiên chức linh mục; ngài nguyện trung thành với ơn gọi một cách đơn sơ nhưng sâu lắng.  Từ lúc còn trẻ, trải qua những cơn đau tim và thận suy nghiêm trọng, ngài đã phải lọc máu nhiều năm.  Sống trọn vẹn những giờ khắc hiện tại Chúa ban, Ngài không ngừng toả lan niềm hy vọng cho đến lúc lìa đời tại Madrid ngày 11 tháng 6 năm 1991.  Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu bài viết cuối cùng của ngài trước khi ngài ra đi, đó là một lá thư gửi cho Thiên Chúa, chất chứa những tâm tình quý giá đáng cho chúng ta nghiền ngẫm và chia sẻ.

“‘Con cám ơn Chúa’, những lời này sẽ gói trọn tất cả những gì con muốn gửi đến Ngài, lạy Thiên Chúa, tình yêu của con; bởi lẽ, đó cũng là tất cả những gì con muốn thưa lên cùng Chúa, ‘Cám ơn Chúa’, ‘Cám ơn Chúa’.  Đứng từ chỏm núi cao nhất của 55 năm đời mình, con nhìn lại và dường như không thấy gì khác ngoài những dãy núi trùng trùng điệp điệp bất tận của tình yêu Chúa.  Lịch sử đời con, chẳng chỗ nào lại không được rọi sáng bởi lòng thương xót Chúa dành cho con; ở đó, đã không một giây phút nào mà con đã không nghiệm ra một sự hiện diện yêu thương đầy tình phụ tử của Chúa đêm ngày chăm bẵm linh hồn con.

Ngay mới hôm qua, một người bạn vừa nghe biết vấn đề sức khoẻ của con gửi cho con một bưu thiếp; trong đó, đầy phẫn nộ, cô bạn viết cho con những lời này, “Một sự giận dữ lớn lao xâm chiếm toàn thân con, và con đã nổi loạn với Chúa vì đã để cho một người như cha phải khốn khổ.  Một điều gì đó thật đáng thương!  Cảm xúc nơi cô đã khiến cô mù loà để không trông thấy sự thật.  Đó là đang khi con chẳng còn quan trọng gì so với bất cứ ai, thì trọn đời con đã là một chứng từ cho sự sống và niềm tin.  Suốt 55 năm đời con, con đã đau khổ hơn nhiều lần dưới bàn tay người đời; bao lời nộp rủa và sự vô ơn cũng như cô đơn và hiểu lầm.  Vậy mà, từ nơi Ngài, con đã không nhận được gì khác ngoài những cử chỉ âu yếm bất tận, kể cả cơn đau sau cùng của con.

Trước hết, Chúa cho con sự sống, kỳ diệu thay con được làm người, để con vui thoả cảm nhận sự mỹ miều của thế giới.  Cho con niềm vui trở nên một phần của gia đình nhân loại; cho con vui sướng vì biết rằng, cuối cùng, khi con đặt mọi sự lên bàn cân thì những vết cắt, những thương tích luôn luôn ít hơn tình yêu lớn lao mà cũng chính những con người đó đã đặt lên đĩa cân bên kia của đời con. Dường như con khá may mắn hơn những người khác thì phải.  Có thể.  Nhưng giờ đây, làm sao con có thể vờ vịt làm một kẻ bị đọa đày của nhân loại khi biết chắc một điều là, con đã được đỡ nâng và cảm thông nhiều hơn là những khó nhọc.

Hơn thế, cùng với quà tặng làm người, Chúa còn cho con quà tặng đức tin.  Ngay từ thời thơ ấu, con cảm nhận sự hiện diện của Ngài hằng bao bọc con; với con, xem ra Chúa thật dịu hiền.  Nghe đến danh Ngài, con chẳng hề sợ hãi bao giờ.  Linh hồn con, Chúa đã trồng vào đó những khả năng phi thường: khả năng nhận thức, con đang được thương yêu; khả năng cảm biết, mình đang được cưng chiều; khả năng trải nghiệm sự hiện diện mỗi ngày của Chúa trong từng giờ khắc lặng lẽ trôi.  Con biết, vẫn có một ít người nguyền rủa ngày họ chào đời, họ thét lên với Chúa rằng, họ không cầu xin để được sinh ra; con cũng chẳng cầu xin điều đó, vì trước đó làm gì có con.  Nhưng nếu con biết đời mình là gì, hẳn con vẫn sẽ van nài cho được hiện hữu, một sự hiện hữu như Ngài đang ban cho con.

Con thiết nghĩ, vẫn là tuyệt đối cần thiết để được sinh ra trong mái gia đình mà Chúa đã chọn cho con.  Hôm nay con sẽ sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì con sở hữu chỉ để được lại ba mẹ và anh chị em con như con đã được.  Tất cả họ là những chứng nhân sống động cho sự hiện diện của tình yêu Chúa; qua những người thân yêu đó, con dễ dàng học biết Chúa là ai.  Nhờ họ mà việc kính mến Chúa yêu thương người của con nên dễ dàng hơn rất nhiều.  Thật vô lý nếu không yêu mến Chúa cũng như không dễ gì để có thể sống đắng cay.  Hạnh phúc, niềm tin và lòng tín thác tựa hồ món bánh kem mà mẹ con luôn luôn dọn sẵn sau bữa cơm chiều, một món gì đó gần như chắc chắn không thể không có; hôm nào không có bánh kem thì thật đơn giản, chỉ vì không có trứng chứ không phải tình yêu đang thiếu đi.  Con cũng học biết rằng, đau khổ là một phần của cuộc vui; đau khổ không phải là một lời nguyền rủa nhưng là một phần cho cái giá của sự sống, một điều gì đó vốn không bao giờ đủ để lấy mất niềm vui của chúng con.

Nhờ tất cả những điều ấy, giờ đây con cảm thấy thẹn thùng khi nói lên và rằng, cơn đau không làm con đau, đắng cay không làm con cay đắng.  Được như thế, không phải vì con can trường nhưng đơn giản chỉ vì ngay từ tấm bé, con đã học nhìn ngắm những khía cạnh tích cực của cuộc sống và tập bước đi trong những vùng tối tăm; để rồi khi chúng ập đến, chúng không quá tăm tối nhưng chỉ hơi xám một chút.  Một người bạn khác vừa viết cho con trong mấy ngày qua rằng, con có thể chịu đựng được việc lọc máu cùng lúc khi “con say Chúa.  Điều này, với con, xem ra hơi quá đáng và cường điệu.  Bởi vì ngay từ thuở nằm nôi, con đã ngất say với sự hiện diện tự nhiên của Ngài, lạy Chúa, và trong Ngài, con luôn cảm thấy cứng cáp để chịu đau đớn hoặc cũng có thể chỉ vì đau đớn thật sự Chúa đã không gửi đến cho con.

Đôi khi con nghĩ, con thật “quá đỗi may mắn.  Các thánh đã dâng Chúa bao điều lớn lao, còn con, đã không bao giờ có gì đáng giá để dâng Ngài.  Con sợ rằng, vào giờ sau hết, con sẽ có chung một ý tưởng như mẹ con đã có khi bà lìa đời.  Ý tưởng đó là, con chết mà thấy mình chẳng có công nghiệp gì, có thể nói là trắng tay, vì không gì Chúa gửi đến mà lại quá sức con; cũng không phải ngay cả sự cô đơn hay phiền muộn Chúa trao cho những ai thực sự thuộc về Ngài.  Tha lỗi cho con, nhưng con sẽ làm gì đây khi Chúa không bao giờ bỏ con?  Đôi lúc con cảm thấy xấu hổ khi nghĩ rằng, con sẽ chết mà không được ở bên Chúa trong vườn Ôliu, không được trải qua hấp hối của mình trong vườn cây dầu.  Chỉ bởi Chúa, con không hiểu tại sao, không bao giờ để con vắng mặt trong các Chúa Nhật Lễ Lá dù con phải nằm bệnh viện triền miên.  Thi thoảng, trong những giấc mơ anh hùng của mình, con từng nghĩ táo bạo rằng, lẽ ra con cần trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin để tự chứng tỏ cho Chúa thấy.  Người ta nói, lòng tin đích thực được chứng tỏ nơi thập giá đang khi con chưa bao giờ gặp phải bất kỳ một thập giá nào ngoài đôi tay mơn trớn dịu hiền của Ngài.

Đó chẳng phải vì con tốt lành hơn những người khác.  Tội lỗi tiềm ẩn trong con, nó sâu sắc làm sao… Chúa với con cùng biết.  Sự thật là ngay cả vào những thời khắc tồi tệ nhất, con vẫn chưa trải nghiệm được cái nghiệt ngã của bóng tối sự dữ, bởi lẽ, ánh sáng Chúa đã đêm ngày chiếu soi con.  Ngay trong khổ đau, con vẫn thuộc về Chúa; quả vậy, tình yêu Chúa dành cho con xem ra càng tăng thêm mỗi khi con lỗi tội nhiều hơn.

Con cũng đã tựa nương vào Chúa suốt những thời điểm bách hại và khó khăn.  Chúa biết, ngay cả trong những chuyện thế gian, thì ở đó, bên con, luôn luôn có nhiều người tốt hơn kẻ bội phản.  Vì lẽ, cứ mỗi lần hiểu lầm, con lại nhận được những mười nụ cười.  Con thật may mắn vì sự dữ không bao giờ phương hại được con; và quan trọng nhất, sự dữ không bao giờ có thể làm nội tâm con cay đắng.  Ngay đến cả những trải nghiệm tồi tệ cũng làm gia tăng trong con sự khát khao được nên trọn lành và kết quả là, con có những người bạn hết sức bất ngờ.

Rồi, Chúa đã gọi con, kỳ diệu thay!  Con là linh mục, một điều không thể, Chúa biết điều đó… nhưng với con, con biết, thật nhiệm mầu.  Hôm nay hẳn con không còn nhiệt huyết với mối tình trẻ như những thuở đầu; nhưng may thay, thánh lễ đã không bao giờ chỉ là một thói quen thường nhật và con vẫn run lên mỗi khi giải tội.  Con vẫn cảm nhận niềm vui vô bờ khi đang ở đây để có thể nâng đỡ người khác, cũng như niềm vui hiện diện để rao truyền danh Chúa cho anh em.  Chúa biết, con vẫn sùi sụt khóc mỗi khi đọc lại dụ ngôn đứa con hoang đàng; nhờ ơn Chúa, con vẫn xúc động mỗi lần đọc Kinh Tin Kính ở phần nói đến cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa.

Dĩ nhiên, quà tặng lớn nhất của Chúa là chính Con Một, Chúa Giêsu.  Ngay cả khi con là con người đáng thương nhất hoặc khi khổ đau vẫn cứ đeo bám con mọi ngày trong đời thì con biết rằng, con sẽ chỉ nhớ đến Chúa Giêsu mà vượt qua chúng.  Việc ý thức Chúa đã nên một người như chúng con giúp con giao hòa với những thất bại và trống rỗng của mình.  Vậy tại sao lại có thể buồn một khi biết rằng, Chúa đã bước những bước trên hành tinh này.  Còn gì dịu dàng hơn việc chiêm ngắm khuôn mặt sầu bi của Mẹ Maria?

Hẳn con đang hạnh phúc, sao mà không hạnh phúc được?  Con đang hạnh phúc ngay đây dẫu đang ở ngoài vinh quang thiên đàng.  Chúa hãy nhìn xem, con đâu sợ chết, nhưng con không vội đến đó.  Liệu con được gần Chúa hơn khi đến đó so với bây giờ không?  Thật là kỳ diệu, có thiên đàng ngay khi chúng con có thể yêu mến Chúa.  Cabodevilla, bạn con, nghĩ đến một điều gì đó khi nói, “Chúng ta sắp chết mà không biết đâu là quà tặng tuyệt vời nhất của Chúa, hoặc Chúa yêu mến chúng ta hoặc Chúa cho chúng ta mến yêu Ngài.

Vì lý do này, con đau lòng biết bao khi ai đó coi thường cuộc sống của họ.  Quả thật, mỗi người chúng con đang làm một điều gì đó cao cả hơn vô vàn so với phận mình, phàm phu tục tử; đó là yêu mến Chúa và cộng tác với Chúa trong việc kiến tạo một toà nhà bát ngát bao la của tình yêu.

Con cảm thấy không ổn khi nói rằng, chúng con làm vinh quang Chúa ở thế gian này; nói thế thì thật quá đáng.  Con tin rằng, con sẽ vui thỏa khi con gối đầu vào tay Chúa để Chúa có cơ hội vỗ về con, thế thôi.  Việc nói rằng Chúa sẽ ban thiên đàng cho chúng con như một phần thưởng khiến con thầm cười.  Phần thưởng cho cái gì đây?  Chúa thật đáo để khi vừa ban thiên đàng vừa cho chúng con cảm thấy mình xứng đáng với điều đó.  Chúa quá biết, chỉ tình yêu mới có thể đáp đền tình yêu.  Hạnh phúc không là kết quả cũng không là hoa trái của tình yêu; tình yêu tự nó là hạnh phúc.  Nhận biết Chúa là Cha của con, và đó là thiên đàng.  Dĩ nhiên, Chúa không cần cho con mọi điều, nguyên việc cho con yêu mến Chúa đã là quà tặng lớn lao cho con, Chúa không thể cho con nhiều hơn.

Vì tất cả điều này, lạy Chúa, Thiên Chúa của con, con đã muốn nói về Chúa và với Chúa ở trang cuối cuốn sách “Những Lý Do Để Yêu Thương” của con.  Chúa là cùng đích và là lý do duy nhất cho tình yêu của con, con không còn lý do nào nữa.  Sẽ không có bất cứ hy vọng nào cho con nếu không có Chúa.  Niềm vui của con sẽ được tìm thấy ở đâu, dựa trên cái gì, nếu vắng bóng Ngài.  Rượu tình của con sẽ vô vị nhạt nhẽo biết bao nếu không được ủ ấp trong tình yêu Chúa.  Chúa cho con sức mạnh và cuộc đời để con biết rất rõ rằng, nhiệm vụ duy nhất của con là như một phát ngôn nhân lặp đi lặp lại danh Chúa mãi mãi.  Và như thế, con thanh thản ra đi.

Con, José Luis Martín Descalzo”

Luisa RestrepoLm. Minh Anh dịch từ catholic-link.org (tonggiaophanhue.org 28.04.2020)

SỐNG YÊU THƯƠNG THEO KHUÔN MẪU CHÚA BA NGÔI

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm quan trọng nhất trong các mầu nhiệm của Đạo Công Giáo.  Bởi vì mầu nhiệm này là mẹ sinh ra các mầu nhiệm khác, nói cách khác, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm nguồn của mọi mầu nhiệm.

Khi nói đến mầu nhiệm, người ta cảm thấy không thể lý giải được theo sự hiểu biết tự nhiên, vì thế, nó đã trở nên rào cản và cớ vấp ngã cho những ai mong thỏa mãn sự hiếu tri và đang cố gắng đi tìm cho được lời giải đáp “Ba Ngôi Một Chúa”; hay “Một Chúa Ba Ngôi.”  Nhưng với những người có niềm tin, qua ánh sáng mặc khải soi chiếu, và luôn khao khát đi tìm ý nghĩa của nó, thì mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không xa lạ, nhưng lại rất gần gũi, mặc dù cao siêu và vượt quá sức tưởng của con người.  Qua mầu nhiệm này, chúng ta khám phá được sự hiệp nhất, yêu thương nơi Thiên Chúa, và mỗi lần Giáo Hội cử hành mầu nhiệm này, Giáo Hội luôn mời gọi con cái mình yêu thương nhau theo khuôn mẫu của Ba Ngôi Thiên Chúa để được cứu độ.

1. Bản chất Thiên Chúa là “Tình Yêu”

 Khi nhắc đến Thiên Chúa, hẳn mỗi chúng ta đều có một định nghĩa riêng về Người, tuy nhiên, thánh Gioan đã cho chúng ta biết một mặc khải rất quan trọng khi nói về Thiên Chúa, đó là: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Khi nói đến tình yêu, chúng ta ai cũng hiểu rằng tình yêu thì không “đơn phương độc mã”, không ích kỷ cũng chẳng bon chen; không quy chiếu về mình mà luôn hướng tha.

Muốn có được tình yêu, ắt phải đón nhận.  Khi có cả hai chiều cho và nhận, thì tình yêu mới thực sự triển nở và ý nghĩa.  Như vậy, tình yêu phải có điểm xuất phát, điểm hội tụ và mức độ lan tỏa.

Khi diễn tả ý tưởng trên, thánh Âutinh đã ví: “Nguồn mạch chính là Chúa Cha, Người chính là điểm xuất phát tình yêu; Chúa Con chính là điểm hội tụ, là điểm quy chiếu của tình yêu; và Chúa Thánh Thần là sự liên lạc hai chiều, là mối dây liên kết của tình yêu và làm cho tình yêu được tỏa sáng.”

Trong lối diễn tả của thánh Âutinh cho thấy tình yêu được khởi đi từ Thiên Chúa Cha, đến với Chúa Con và qua Chúa Thánh Thần.  Thiên Chúa Cha vì yêu nên đã trao ban tất cả, ngay cả Người Con duy nhất của mình cho nhân loại.  Chúa Con đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha trọn vẹn đến nỗi bằng lòng chết trên thập giá để thực hiện ý định yêu thương của Chúa Cha cho nhân loại.  Chúa Thánh Thần là mối dây liên lạc, thông hiệp giữa Chúa Cha và Chúa Con nhờ tình yêu.  Như vậy, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu hướng ra để làm cho lan tỏa.

Thiên Chúa không để dành tình yêu cho chính mình, cho riêng Cha, Con và Thánh Thần, nhưng chính là cho chúng ta, những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh của Người, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8); “… nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6).  Như vậy, Thiên Chúa là tình yêu.

2. Thiên Chúa “yêu” đến cùng

Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua hành vi tự hiến của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16a).  Từ “đến nỗi” ở đây cho thấy Thiên Chúa yêu đến tột cùng, yêu “đến nỗi” không còn gì để diễn tả, để trao ban hơn được nữa, vì thế chỉ còn cách duy nhất là trao ban chính Con của mình đến để diễn tả tình yêu cho nhân loại bằng chính cái chết mà thôi.

Tại sao Thiên Chúa lại trao ban Con Một?  Thưa! “…để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16b).  Như vậy, Tình yêu chân chính là mong sao người mình yêu được hạnh phúc hơn cả bản thân mình.  Thật vậy, Thiên Chúa yêu thế gian cách tuyệt đối và mong sao cho chúng ta được hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối là được vào ở trong tình yêu của Thiên Chúa.  Bởi vì: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” Ga 3,17).

3. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mời gọi ta sống yêu thương

Qua mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi, mỗi người chúng ta được mời gọi sống yêu thương, hiệp nhất như Thiên Chúa là tình yêu.  Không yêu thương nhau, chúng ta vẫn mãi là người xa lạ với mầu nhiệm này, bởi vì mầu nhiệm này là mầu nhiệm tình yêu, muốn hiểu được thì phải yêu.  Nói như thánh Gioan: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8), nên “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8).

Vì thế, trong đời sống gia đình, mỗi người hãy yêu thương nhau.  Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô yêu thương Hội Thánh, và như Hội Thánh phục tùng Đức Kitô thế nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong mọi sự như vậy.  Sự xuất hiện của người con trong đời sống hôn nhân chính là kết quả của tình yêu giữa vợ và chồng, vì thế, như một điều kiện cần để được hạnh phúc, con cái hãy yêu mến cha mẹ mình, và tỏ lòng thảo hiếu với cha mẹ để đáng được hưởng sự chúc lành của Thiên Chúa.

Tình yêu ấy lại không chỉ dừng lại với chính người thân của mình, mà còn phải hướng ra xa, rộng lớn hơn tới hết mọi người, kể cả yêu kẻ thù của mình nữa.

Như vậy, để tình yêu có giá trị, cần phải có sự hy sinh, quên mình và phục vụ lẫn nhau.  Yêu nhau mà không chấp nhận hy sinh, gian khổ vì nhau và với nhau, thì chưa phải là tình yêu thật sự.

Khi yêu như thế, tình yêu của vợ chồng và con cái cũng như với tha nhân đang phỏng chiếu tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống thực tại của mình.

Muốn giữ được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa nơi mình, người Kitô hữu phải luôn ý thức mình thuộc về Thiên Chúa, khi thuộc về Người, thì ta cũng sẽ trở nên những người có: “… lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại.  Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau” Cl 3,12-13).

Mong sao, mỗi khi chúng ta đặt tay lên trán, trên ngực và ngang vai, để tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thì cũng là lúc chúng ta nhớ đến bản chất của mầu nhiệm này là tình yêu; đồng thời, chúng ta cũng xin Chúa ban cho chúng ta được sống trong tình yêu đó của Thiên Chúa để “… đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2 Cr 13,13), hầu chúng ta cùng mạnh dạn tuyên xưng: “Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen”.

Jos. Vinc. Ngọc Biển

SỐNG HIỆP THÔNG CHIA SẺ

Có người nông dân dạy con trai mới lớn: muốn cho mướp ra nhiều trái phải bấm ngọn.

Cậu bé hỏi: tại sao?

Người cha trả lời: vì nó tức nên nó đâm trái.

Có thể cậu bé không bằng lòng với câu trả lời của cha, nhưng sau này khi vào đại học nông nghiệp, cậu sẽ biết rõ lý do.

Một em bé đứng trước thi hài ông nội, hỏi mẹ: Mẹ ơi sao ông nội chết vậy hả mẹ?

Mẹ đáp: vì ông nội già rồi.

Bé lại hỏi: thế bà nội già rồi sao không chết?  Chú Tư trẻ vậy sao lại chết?

Người mẹ vui mừng vì thấy con thông minh lý sự nhưng lúng túng không tìm ra câu trả lời thoả đáng.  Khi lớn lên bé sẽ hiểu lý do.

Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu.  Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau: Đố ai biết lúa mấy cây, biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng.  Đố ai quét sạch lá rừng, để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.

Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất.  Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa.  Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.

Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa.  Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất.  Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu.  Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa ‘cho chúng ta’.”

Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiểu nổi.  Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1? Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?

Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa, vượt quá mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người.  Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.

Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.

– Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi.  Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước (Đnl 6, 4-5).  Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.

– Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi.  Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.”  Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.  Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1, 32-34).  Tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là con Ta yêu dấu (Mt 1, 11).  Tiếng nói, chim câu, Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi.  Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bào Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật…”  Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bào Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Trong phúc âm Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 19).  Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.

Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần.  Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.  Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa.  Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất.  Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II: Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha.  Chúa Cha chia sẻ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính.  Đức Kitô thực hiện phần đầu.  Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ.  Phần hai dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên, đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần.  Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bỗng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.

Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau.  Ba Ngôi là một gia đình.  Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa.  Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau.  Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo.  Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin.  Thực tại Ba ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý.  Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận, và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.

Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ.  Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu. Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.  Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài.  Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực.  Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô.  Khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.

Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống đó là tình yêu thần linh.  Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ.  Với chúng ta sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua thánh thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 34).  Khi chia sẻ chén hiệp thông cuả Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một (Ga 17, 21).

Chúng ta đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa.  Nói theo kiểu nói của Đức Hồng y Henry de Lubac: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương.  Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng.  Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.  Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương.  Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa.  Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa.  Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ.  Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.

Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu.  Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác “Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh thần.”  Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Lm Jos Nguyễn Hữu An

QUYỀN NĂNG THA TỘI

Trong một lần giáo huấn, Đức Giêsu đã quả quyết với các Tông đồ: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc.  Sự gì các con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 18,18).  Và hôm nay, sau ngày phục sinh, trong một lần hiện ra với họ, Chúa Giêsu đã phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha.  Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại.” (Gn 19, 22-23).  Khi nói lên lời đó, Ngài chính thức thiết lập Bí tích Giải tội, ủy thác cho Hội thánh quyền năng tha thứ và cầm buộc.  Quyền năng nầy không chỉ được trao ban cho các Tông đồ nhưng còn thông chuyển đến các đấng kế vị là các Giám mục và những linh mục hiệp thông với các ngài.

Qua lời tuyên bố thiết lập Bí tích Giao hòa Chúa Giêsu muốn nói với các vị thừa tác viên đầu tiên và những người kế nghiệp rằng: một khi dưới đất họ đọc lên lời tha tội “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì lập tức trên trời Ngài sẽ chuẩn y, và dù tội con người có thẫm như máu đào cũng sẽ được biến đổi tinh trắng như bông.

Trong Tông thư Reconciliation and Penance, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Khơi dậy lòng sám hối và thay đổi tâm hồn nhân thế cùng trao ban cho con người tặng phẩm giao hòa chính là sứ mạng đặc thù của Hội thánh khi tiếp nối công trình cứu độ của Đấng Sáng Lập.”

Có người đặt vấn đề: Tại sao lại phải đi xưng tội với một linh mục?  Tới thẳng với Chúa không được sao?

Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu có trăm muôn ngàn cách tha thứ tội lỗi con người, nhưng phương cách Ngài “làm người” để cứu thế và “chọn con người” để thi hành quyền năng tha tội là một ý định tỏ tường.  Tuy nhiên, bên cạnh ý định của Thiên Chúa cũng có đó một số lý do khiến cho việc xưng tội với một linh mục trở nên cần thiết.

Catholicism and Life có chỉ ra những lý do như sau:

Thứ nhất, vì “có những tội được tha và có những tội bị cầm” nên hối nhân phải xưng tội mình ra thì linh mục mới có thể xác định được tội nào được tha và tội nào bị cầm.

Thứ hai, việc xưng tội với một linh mục sẽ giúp cho con người trở nên khiêm tốn.  Người ta dễ chừa tội hơn khi biết rằng nếu mình phạm, mình sẽ phải xưng.

Thứ ba, chắc chắn hối nhân sẽ đón nhận được ơn thánh hóa từ bí tích Hòa giải.  Nhưng trước đó, họ sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích từ vị linh mục, giúp họ thăng tiến hơn trên đường thiêng liêng.

Thêm vào đó, có không ít khuynh hướng nhiệm nhặt hay buông thả khiến cho có người quá khắt khe, thấy điều chi cũng tội, hay có người qua lỏng lẻo đến nỗi bao tội tày trời cũng cho là chẳng có gì ghê gớm.  Thậm chí có khi còn biện minh để lương tâm thấy tội nhẹ đi hay không còn tội lỗi gì nữa.  Vì vậy, nếu không có sự trợ giúp của vị linh mục làm sao người ta có thể quân bình với chính mình và chân thành với Thiên Chúa được.

Cuối cùng, khi ban ơn tha tội, vị linh muc thay mặt Chúa sẽ bảo đảm ơn tha thứ cho hối nhân.  Đối với người đi “xưng thẳng” với Chúa, ai sẽ đoan quyết cho điều đó?  Chắc chắn không ai hết.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh cáo những người cho mình không cần Bí tích Giải tội như sau: “Thật là điên rồ và kiêu căng đối với những ai tự ý coi thường phương thế trao ban ơn sủng và cứu thoát mà chính Chúa Giêsu thiết lập, nhất là đối với những kẻ cho rằng không cần đến Bí tích Giải tội để được tha tội.”

Có nhiều người vì ý thức lệch lạc nên coi thường xưng tội, nhưng cũng có không ít người vì đánh mất cảm thức về tội nên không còn thấy cần đi xưng tội nữa.  Thậm chí có người xấu hổ ngại ngùng khi phải thú nhận tội mình với kẻ khác.  G.K. Chesterton, một nhà văn trở lại Công giáo đã viết: “Không việc gì phải xấu hổ về những dại dột của mình…  Đã là con người không ai không có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm kinh khủng nhất của con người là cho mình không có lỗi.”  Thánh Gioan Tông đồ viết thẳng thừng hơn: “Nếu ta nói: ta không có tội là ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta” (1 Gn 1,8).  Trái lại, “Nếu ta xưng thú tội lỗi mình thì Người trung tín và công chính đủ để tha thứ tội lỗi cho ta, và tẩy ta khỏi mọi bất chính” (1 Gn 1,9).

Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là “ấn tòa” mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ.  Không một điều gì nghe trong toà mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe dọa hay an ninh quốc gia được bảo toàn.

Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó cũng có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ “ấn tòa giải tội.”

Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14.  Ngài là cha giải tội của Hoàng hậu Jane, nước Bohemia.  Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen tuông.  Vì muốn biết Hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên vua yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với Ngài.

Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm.  Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ điều gì.  Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối, và một đêm kia, bị nhận nước cho đến chết.

Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như lúc còn sống.  Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ: “Nơi đây vị chứng nhân của Ấn toà Giải tội đã nằm xuống.”

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao ban cho các Tông đồ món quà vô giá là Chúa Thánh Thần và quyền năng tha tội.  Sứ mạng của các ngài và những người kế vị sẽ là việc làm nảy sinh hoa trái cho toàn nhân loại.  Biết khiêm tốn mở lòng đón nhận ơn tha thứ, con người sẽ tìm thấy bình an và sự sống đích thực, dù thần chết có đang hăm he rình chờ.  Biết tìm đến cung tòa cáo giải, tâm hồn sẽ được chữa lành và ngập tràn hân hoan.

Lm Bùi Quang Tuấn

HƠI THỞ THÁNH THẦN

Hôm nay Chúa Giêsu thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ.  Hơi thở của Thiên Chúa là sự sống.  Như thuở tạo dựng, Thiên Chúa thổi hơi vào mũi Adam.  Từ bụi đất Adam trở thành người.

Thuở ban sơ Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước.  Ban sự sống cho muôn loài.  Ban hình dạng cho vũ trụ thiên nhiên.  Mọi sự đều tốt đẹp.  Nhưng kẻ thù gieo cỏ lùng vào ruộng lúa. Tàn phá vũ trụ.  Đem sự chết vào thế gian.  Thánh Thần Chúa không chịu thua lùi bước.  Người sáng tạo.  Người tái tạo.  Sửa chữa những sai lầm.  Phục hồi những tổn thương.  Phục sinh những chết chóc.

Kẻ thù đã giết chết Chúa Giêsu.  Thánh Thần Chúa đã cho Người sống lại.  Kẻ thù muốn kết thúc.  Thánh Thần Chúa lại mở đầu.  Ngày Chúa Phục Sinh trở thành ngày thứ nhất trong tuần.  Hôm nay  Chúa Giêsu thổi hơi trên vũ trụ để bắt đầu ngày thứ nhất mới.  Ngày khởi đầu của một vũ trụ mới .  Với công cuộc sáng tạo mới.  Với những con người mới.

Kẻ thù muốn giam kín môn đệ trong sợ hãi.  Thánh Thần Chúa mở tung cửa.  Ban cho các môn đệ ơn can đảm.  Mở tung cửa sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh.  Kẻ thù muốn tâm hồn con người bất an chao đảo.  Thánh Thần Chúa đến ban bình an.  Kẻ thù muốn gây ra những vết thương.  Thánh Thần Chúa băng bó chữa lành.

Kẻ thù muốn huỷ diệt con người trong tội lỗi và thù hận.  Thánh Thần Chúa ban ơn tha thứ và hoà giải.  Chúa Giêsu thổi hơi ban Thánh Thần và sai các môn đệ ra đi tha thứ.  Tha thứ là tẩy sạch tội lỗi.  Tha thứ là chữa lành vết thương.  Tha thứ là cho tâm hồn đã chết được phục sinh.

Hôm nay Chúa Giêsu Phục Sinh tràn đầy Thánh Thần Chúa.  Đã thổi hơi ban Thánh Thần.  Đã sai các môn đệ ra đi làm chứng.

Kẻ thù đã gây chia rẽ muốn tách con người khỏi Thiên Chúa và thù ghét lẫn nhau.  Thánh Thần Chúa là hợp nhất và yêu thương.  Đã làm cho các dân tộc trên thế giới trở nên một lòng một ý.  Hãy chiêm ngắm cảnh tượng ngày lễ Ngũ Tuần.  Hàng vạn người thuộc các chủng tộc ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.  Bỗng trở nên cùng một ngôn ngữ.  Đều hiểu tiếng nói của Chúa Thánh Thần.  Chúa Thánh Thần đã qui tụ muôn dân nước trên thế giới thành một dân mới.  Dân tuyên xưng Chúa Kitô là Đức Chúa.

Kẻ thù đã tàn phá hình ảnh Thiên Chúa nơi con người.  Hôm nay Thánh Thần Chúa chữa lành vết thương, trả lại dung nhan Thiên Chúa cho con người.  Khiến con người, không phải chỉ con người, nhưng toàn thể vũ trụ trở lại hình ảnh xinh đẹp của Thiên Chúa, hợp nhất thành thân thể Chúa Kitô.  Chúng ta hãy đọc lại những lời tuyệt diệu tràn đầy Thánh Thần của thư 1 Côrintô: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy.  Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.”

Chúa Kitô thổi hơi ban Thánh Thần và sai các môn đệ ra đi.  Ra đi để làm cho Ơn Chúa Thánh Thần tràn lan trên khắp vũ trụ.  Ra đi để biến đổi mặt địa cầu.  Qui tụ những phân tán.  Hàn gắn những chia rẽ.  Chữa lành những vết thương.  Vực dậy những yếu hèn.  Phục sinh những kẻ chết.

Vũ trụ hôm nay đang bị tàn phá.  Những vết thương trầm trọng trên khí quyển, trên biển, trên rừng, trên núi.  Thế giới hôm nay như một thân thể phủ đầy thương tích.  Thương tích trong chiến tranh, trong ngoại giao, trong kinh tế, trong hợp tác, trong ý thức hệ.   Xã hội đang bị thương tổn trầm trọng.  Thương tổn uy tín chính trị quyền lực.  Thương tổn công bằng xã hội.  Thương tổn tình yêu gia đình.  Thương tổn giáo dục học đường.  Thương tổn đạo đức luân lý.  Thương tổn phẩm giá nhân vị.  Trong mỗi con người đều mang những vết thương.  Vết thương tội lỗi.  Vết thương thất bại.  Vết thương bị phản bội.  Vết thương bị loại trừ.  Vết thương mặc cảm.  Vết thương nghi kỵ.  Chỉ có hơi thở Chúa Thánh Thần mới có thể chữa lành, hàn gắn, băng bó, phục hồi.

Thế giới đang phải chiến đấu với đại dịch Covid-19.  Trong đại dịch tôi rất cảm phục vì có nhiều người quảng đại.  Thiết lập những cây gạo ATM giúp người nghèo.  Trợ giúp những người bị cách ly mua sắm thực phẩm.  Sáng tác ca khúc, vũ điệu giúp người bệnh khuây khoả.  Vỗ tay cổ vũ các y bác sĩ.  Tôi cám ơn lòng quảng đại của hội Ilazaro mau chóng cứu giúp nạn nhân Covid-19 từ Việt nam đến Lào và Kampuchia.  Tôi cảm phục Đức Thánh Cha luôn cầu nguyện cho mọi thành phần bị đại dịch này ảnh hưởng đến đời sống.  Ngài không quên tặng máy thở và khẩu trang cho những nơi cần.  Tôi đặc biệt ấn tượng với các linh mục, trong đó có cha Antôn Phạm hữu Tâm, đã tình nguyện đi phục vụ tại nơi bệnh nhân bị bệnh nặng nhất.  Không chỉ ở bên cạnh để họ khỏi chết cô đơn, mà còn dùng điện thoại giúp họ liên lạc được với gia đình, để ít là giã từ người thân trước khi lìa đời.  Đó là hơi thở của Chúa Thánh Thần.  Đó là tiếp tay vào công trình sáng tạo của Chúa Thánh Thần.

Cách đây 29 năm tôi chịu chức linh mục vào ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng.  Tôi được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó.  Hôm nay ngày kỷ niệm rơi đúng vào lễ Chúa Thánh Thần.  Lời Chúa một lần nữa sai tôi đi phục vụ người nghèo.  Không chỉ nghèo về vật chất.  Nhưng còn nghèo về sức khoẻ, văn hoá, nhân phẩm, tu đức.  Nghèo về nhận thức, tình yêu, hi vọng, cảm thông.

Xin cám ơn biết bao người đã không ngừng nâng đỡ, cầu nguyện cho tôi trong khi thi hành chức vụ linh mục.  Xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi được ơn Chúa Thánh Thần, để tôi được Chúa Thánh Thần sửa chữa khỏi những sai lầm, để tôi đem hơi thở của Chúa Thánh Thần phục hồi sự sống cho những người bị thương tổn, cho tôi biết khám phá những vết thương âm thầm sâu xa và đau xót của những người chung quanh để có thể góp phần băng bó, chữa lành.

Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến và đổi mới mặt địa cầu.  Xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.  Amen.

TGM. Ngô Quang Kiệt

TÁI TẠO

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện các môn đệ Chúa Giêsu tự nhốt mình trong một căn phòng đóng kín các cửa, lòng đầy sợ sệt.  Nhưng sau đó Chúa Giêsu đến với họ và sai họ ra đi, khi đó lòng họ vui mừng và bình an.

Chuyện xảy ra với các môn đệ ngày xưa cũng là chuyện thường xuyên xảy ra cho chúng ta ngày nay.  Vậy chúng ta hãy xem lại từng bước câu chuyện này.

Bước thứ nhất: các môn đệ nhốt mình trong phòng kín.  Đây là tâm lý co cụm, khép kín.  Một tâm lý thường xảy ra.  Chắc nhiều người đã biết chuyện Lan và Điệp.  Hai người yêu nhau tha thiết.  Nhưng Điệp bị gài bẫy nên bị bó buộc phải cưới một người khác.  Lan buồn quá.  Rồi Lan làm gì?  Lan co cụm lại bằng cách đi vào trốn trong chùa.  Lan không muốn gặp gỡ ai cả nên trong chùa có một chiếc chuông để khi ai muốn gặp người nào trong chùa thì kéo chuông.  Lan cắt đứt luôn sợi dây chuông ấy, nghĩa là cắt đứt hẳn mọi liên hệ với mọi người khác.

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta vì nhiều lý do nên cũng rơi vào tâm lý co cụm khép kín như thế.  Lý do của Lan là thất tình.  Có người khác co cụm vì thất vọng.  Có người khác nữa vì mặc cảm tội lỗi.  Còn lý do của các tông đồ trong tường thuật này là sợ: các ông coi ai cũng là kẻ thù có thể hại mình bất cứ lúc nào nên co rút vào trong phòng và đóng kín các cửa lại.  Nhưng ta nên biết con người là một hữu thể mang tính xã hội.  Làm người là phải sống với những người khác.  Càng sống với chừng nào thì càng đúng là người chừng nấy.  Khi ai đó co cụm lại, rút vào vỏ sò thì kể như người ấy không còn là người nữa, người ấy như đã chết.

Ta hãy trở lại câu chuyện Lan và Điệp.  Vì Lan đã cắt đứt dây chuông nên Điệp không đến với Lan được.  Hai người không bao giờ gặp nhau nữa và dần dần chết héo chết mòn.  Chuyện tình của họ đi vào ngõ cụt không lối thóat.  Còn câu chuyện trong bài Tin Mừng này thì khác hẳn.  Các tông đồ đóng kín cửa không muốn gặp ai, nhưng Chúa Giêsu thì chủ động tìm gặp họ.  Họ không có khả năng đến với Chúa thì Chúa chủ động đến với họ.  Như thế là Ngài phá vỡ một chiều hướng của sự co cụm.  Nói cách khác, Chúa Giêsu mở cho họ một cánh cửa, cánh cửa mở ra phía Chúa.  Ngài còn mở cho họ cánh cửa thứ hai hướng về phía tha nhân bằng cách sai họ đi, đi ra khỏi thế co cụm của mình để đến với người khác.  Con người là một hữu thể có tính xã hội, làm người là phải sống với người khác.  Khi con người cắt đứt mọi liên hệ thì người đó kể như chết.  Nay Chúa Giêsu đến với các tông đồ và còn sai họ đến với người khác tức là Ngài nối lại những mối dây liên hệ, tức là Ngài làm cho họ sống lại.  Nói đúng hơn, Chúa Giêsu đã tái tạo các môn đệ.

Nhờ đâu mà Chúa Giêsu tái tạo được các môn đệ như thế.  Thưa nhờ Chúa Thánh Thần.  Bài Tin Mừng này có một chi tiết hàm chứa ý nghĩa rất sâu.  Đó là Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ.  Cũng như ngày xưa, Ađam ban đầu chỉ là một tượng bằng bùn đất, nhưng ngay khi Thiên Chúa thổi hơi vào thì tượng bùn đất ấy trở thành người.  Thì ngày nay cũng thế, Chúa Giêsu thổi hơi vào các tông đồ.  Làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, nhờ Chúa Thánh Thần mà các môn đệ đã được tái tạo lại thành những con người mới.

Những con người mới này có những gì đặc biệt: thưa cái đặc biệt thứ nhất là niềm vui.  Bài Tin Mừng nói “các tông đồ vui mừng vì thấy Chúa”; cái đặc biệt thứ hai là bình an: không còn sợ gì nữa cả nhưng lòng rất thanh thản.  Bài Tin Mừng viết “Chúa Giêsu đứng giữa các ông và nói: bình an cho chúng con”; và cái đặc biệt thứ ba là mang ơn tha thứ đến cho những người khác, bài Tin Mừng nói “Chúng con hãy nhận lấy Thánh Thần.  Chúng con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha.”

Nhiều khi chúng ta rơi vào tâm trạng sợ sệt, bất an, mặc cảm tội lỗi.  Khi đó chúng ta co cụm lại, rút lui vào nỗi cô đơn của mình và không muốn gặp ai cả.  Tình trạng này thật là buồn chán.  Phải sống trong tình trạng này thì chẳng khác nào như đã chết.  Do đó cần phải có ai đó giúp chúng ta thoát khỏi tâm trạng bất thường ấy.  Người ấy là ai?  Thưa chính là Chúa Thánh Thần.  Chúa Thánh Thần là Đấng tái tạo những gì suy sụp và hư mất.  Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng kính Chúa Thánh Thần.  Nếu có gì đang khiến chúng ta buồn sầu co cụm khép kín, chúng ta hãy bày tỏ với Ngài và xin Ngài giải thoát chúng ta, tái tạo chúng ta thành con người mới, an bình, vui tươi, vui sống với mọi người.

Trích trong “Sợi Chỉ Đỏ”