PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VỊ THÁNH – ĐHY JOHN HENRY NEWMAN

Ngày 1 tháng 7 năm 2019, Tòa thánh Vatican loan báo Chân phước John Henry Newman và 4 vị khác sẽ được tuyên phong hiển thánh vào ngày 13 tháng 10 năm 2019.  Chân phước Newman được đánh giá là một trong những bậc thầy vĩ đại của Hội Thánh, vì thế sẽ thật hữu ích khi nhìn lại cuộc đời và giáo huấn của ngài để đón nhận những bài học cần thiết cho đời sống và sứ vụ của Hội Thánh ngày nay.

Một cuộc đời kiếm tìm chân lý

Đức hồng y John Henry Newman sinh tại Luân Đôn, Anh Quốc, ngày 21 tháng 2 năm 1801.  Ngài được dạy dỗ trong truyền thống Anh giáo và từ nhỏ đã có thiên hướng tôn giáo, cụ thể là siêng đọc Kinh Thánh.  Kinh Thánh giúp ngài sống đạo đức, nhưng mối quan tâm tri thức lại khiến ngài đặt những câu hỏi nền tảng và muốn tìm kiếm câu trả lời rõ ràng, chính xác.  Vì thế khi mới 14 tuổi, ngài đã bị cám dỗ bỏ đạo: “Tôi muốn sống tốt nhưng không cần theo đạo; tôi không hiểu Thiên Chúa yêu thương có nghĩa gì.”

Chính trong giai đoạn đó, Chúa gõ cửa lòng Newman.  Trong những ngày nghỉ lễ năm 1816, Newman đọc cuốn Force of Truth (Sức mạnh của chân lý) của Thomas Scott, và tác phẩm đó đã gây ấn tượng rất sâu đến nỗi ngài coi đó như “cuộc hoán cải đầu tiên,” và là một trong những ơn ban lớn nhất trong đời.  Newman bắt đầu nhận thức cách sâu sắc sự hiện hữu và hiện diện của Thiên Chúa cũng như của thế giới vô hình.  Ngài cũng rút từ tác phẩm của Thomas Scott hai câu ghi dấu ấn suốt đời ngài: “Tìm kiếm sự thánh thiện hơn là bình an,” và “Bằng chứng duy nhất của sự sống là sự tăng trưởng.”

Sau cuộc hoán cải đầu tiên này, Newman đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự và hết lòng bước theo Chân lý như ngài diễn tả trong tác phẩm Apologia pro vita sua: “Khi tôi 15 tuổi (mùa Thu năm 1816), một sự thay đổi lớn lao về tư tưởng diễn ra trong tôi.  Tôi đặt mình dưới sự hướng dẫn của Kinh Tin kính và tâm trí đón nhận đạo lý đức tin, đó là những điều nhờ lòng Chúa thương xót, sẽ không bao giờ lu mờ hoặc bị xóa nhòa.”  Newman bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của những tín điều trong Kitô giáo: sự Nhập thể của Con Thiên Chúa, công trình cứu độ của Đức Kitô, ân huệ Thánh Thần ngự xuống trong linh hồn người chịu Phép Rửa, đức tin không đơn thuần là một lý thuyết nhưng cần được diễn tả trong chương trình sống.

Sau khi hoàn tất chương trình học tại Trinity College, Oxford, Newman trở thành mục sư Anh giáo và sau này phụ trách nhà thờ Saint Mary, nhà thờ của đại học Oxford.  Trong thời gian này, ngài quan tâm nghiên cứu các Giáo phụ, đồng thời cảm thấy quan ngại trước tình trạng thiêng liêng của Giáo hội Anh giáo trước sự gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do (liberalism) tại Oxford cũng như trên khắp nước Anh.  Để chống lại xu hướng này, Newman cùng với một vài người bạn lập nên Phong trào Oxford (Oxford Movement) năm 1833.  Phong trào này phê phán việc Anh Quốc không còn thực hành đức tin, và kêu gọi phải trở về với Kitô giáo nguyên thủy thông qua cuộc cải cách đích thực về mọi mặt: tín lý, thiêng liêng, phụng vụ.  Với mục đích này, phong trào thực hiện những ấn phẩm nhỏ, dễ phổ biến, cố gắng gây tác động trên hàng giáo sĩ cũng như các tín hữu đơn thành, đang bị giằng co giữa hai thái cực là chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý.

Newman nhận ra rằng cuộc tranh luận chống lại chủ nghĩa tự do về mặt tôn giáo cần có một nền tảng giáo thuyết vững chắc, và ngài xác tín ngài đã tìm được nền tảng đó nơi những văn bản của các Giáo phụ mà ngài coi là các sứ giả và tiến sĩ đích thực của đức tin Kitô.  Từ đó, Newman khai triển lý thuyết được gọi là Via media (con đường trung dung).  Newman cũng tìm cách chứng minh rằng Anh giáo là người thừa kế hợp pháp của Kitô giáo nguyên thủy và là Giáo hội đích thực trong Đức Kitô, vì nơi Anh giáo không có những sai lầm về giáo thuyết như Tin Lành, cũng không có những lạm dụng mà ngài cho là đang có trong Công giáo Rôma.

Thế nhưng khi nghiên cứu lịch sử Giáo hội ở thế kỷ IV, Newman khám phá một điều quan trọng là Kitô giáo trong thời đại ngài đang sống lại phản ánh 3 nhóm tôn giáo ở thế kỷ IV, có thể so sánh như sau: Tin Lành giống như phái Ariô; Công giáo Rôma giống như các tín hữu Rôma; Anh giáo giống như người theo thuyết Ariô nửa vời (semi-Arianism).  Khám phá đó bắt đầu gợi lên những nghi ngờ về Anh giáo.  Không lâu sau đó, Newman đọc một bài viết trong đó tác giả so sánh Anh giáo với những người theo thuyết Donatism ở châu Phi thời thánh Ausgustinô.  Và ngài sẽ không bao giờ quên câu nói của thánh Augustinô: “Hội Thánh phổ quát, trong phán quyết của mình, là sự bảo đảm cho Chân lý” (Securus judicat orbis terrarum).  Newman nhận ra rằng những xung đột về giáo thuyết thời Hội Thánh sơ khởi được giải quyết không chỉ dựa vào nguyên tắc về tính cổ xưa (antiquity) nhưng còn là tính Công giáo (catholicity), nghĩa là ý kiến của Hội Thánh xét như một toàn thể chính là lời tuyên bố bất khả ngộ.

Trung thành với nguyên tắc phải tôn trọng Chân lý, Newman quyết định lui về Littlemore, một làng nhỏ gần Oxford, dành thời giờ cho việc cầu nguyện và nghiên cứu.  Ngài bắt đầu liên kết những đường dây suy tưởng xuất hiện trong những năm qua.  Câu hỏi đặt ra là nếu Hội Thánh Công giáo Rôma thực sự là tông truyền thì làm sao có thể lý giải những giáo thuyết bên Công giáo xem ra không phải là di sản được để lại từ Kitô giáo nguyên thủy?

Từ đó hình thành những suy nghĩ dẫn đến nguyên lý về sự phát triển chính thực mà Newman khai triển để giải thích những giáo huấn mới trong đời sống Hội Thánh: những tín điều sau này là sự phát triển chính thực mặc khải nguyên thủy.  Newman trình bày lập luận này trong bài An Essay on the Development of Christian Doctrine (Sự phát triển giáo thuyết Kitô), trong đó ngài phi bác quan điểm cho rằng chân lý hoặc sai lầm trong các vấn đề tôn giáo chỉ là những ý kiến khác nhau, và ơn cứu độ không lệ thuộc vào lời tuyên xưng đức tin đúng đắn.  Newman khẳng định: “Chân lý và giả dối được đặt trước mắt chúng ta để thử lòng chúng ta; chọn lựa của chúng ta là chọn lựa đáng sợ vì được cứu độ hay bị chối bỏ tùy thuộc vào đó; trước mọi sự, phải bám chặt vào đức tin Công giáo.”

Gia nhập Hội Thánh Công giáo

Khi Newman nghiên cứu về sự phát triển giáo thuyết Kitô, ngài nhận ra rằng Hội Thánh Rôma là Hội Thánh của các Giáo phụ, Hội Thánh đích thực của Đức Kitô.  Vì thế ngày 9 tháng 10 năm 1845, ngài tuyên xưng đức tin Công giáo, được Chân phước Dominic Barberi, người Ý, dòng Passionist, đón nhận vào Hội Thánh Công giáo.

Quyết định của Newman gia nhập Hội Thánh Công giáo đã gây chấn động lớn trong Giáo hội Anh giáo.  Có người cảm phục trước quyết định can đảm của ngài nhưng không ít người coi đó như sự phản bội, và Newman phải chịu nhiều đau khổ vì quyết định này.  Dư luận vẫn còn bám theo ngài trong nhiều năm sau đến độ có lúc báo chí tung tin Newman cảm thấy lạc lõng trong Hội Thánh Công giáo, nên sẽ trở lại Giáo hội Anh giáo.  Thế nhưng Newman rất vững tâm như ngài viết cho một người quen: “Kể từ khi được đón nhận vào Hội Thánh Công giáo, tôi không có lúc nào bị lung lay trong niềm tin vào Hội Thánh.  Tôi tin chắc, và sẽ mãi chắc chắn rằng Đức Giáo hoàng là trung tâm của sự hiệp nhất và là Đấng Đại diện Chúa Kitô; tôi mãi mãi tin vào Kinh Tin kính Hội Thánh tuyên xưng, mọi tín điều trong đó; tôi hoàn toàn thỏa mãn với việc thờ phượng, kỷ luật, giáo huấn của Hội Thánh; và dù rất khó khăn, tôi vẫn mong mỏi nhiều người bạn của tôi theo Tin Lành cũng sẽ được chia sẻ niềm hạnh phúc của tôi.”

Sau khi trở thành linh mục Công giáo, Newman lập chi nhánh Dòng Thánh Philip Neri ở Birmingham[1].  Trong nhiều hoạt động thần học và mục vụ, ngài chú trọng nhiều nhất đến việc đào tạo trí thức và thiêng liêng cho các tín hữu Công giáo, các anh em trong dòng và các tân tòng.  Ngài xác tín rằng trong thời đại hiện nay với những thay đổi rất nhanh về văn hóa và xã hội, cần phải có một đức tin có khả năng bày tỏ những lý do của niềm hi vọng Kitô giáo.  Vì thế ngài làm việc không ngơi nghỉ để huấn luyện những giáo dân có học thức, sống trong thế giới, làm việc trong ánh sáng đức tin và có khả năng bảo vệ đức tin của mình.

Cha John Henry Newman được Đức Giáo hoàng Lêô XIII nâng lên hàng Hồng y ngày 15 tháng 5 năm 1879, nhưng ngài xin là không chịu chức Giám mục và vẫn ở lại Birmingham.  Trong dịp này, ngài có bài phát biểu nổi tiếng, được coi như những lời tiên tri về thời đại chúng ta ngày nay:

“Chủ nghĩa tự do về tôn giáo là học thuyết chủ trương không có chân lý tích cực trong tôn giáo, niềm tin nào cũng tốt như nhau, và đây là chủ trương đang chiếm ưu thế từng ngày.  Chủ trương này không chấp nhận bất cứ tôn giáo nào là chân lý, vì mọi tôn giáo chỉ là chuyện ý kiến riêng.  Tôn giáo mặc khải không phải là chân lý nhưng chỉ là tình cảm và cảm nhận; không phải sự kiện khách quan; đó là quyền của mỗi người nói ra điều mình thích.  Đạo đức không nhất thiết phải xây nền trên đức tin. Người ta có thể đi nhà thờ Tin Lành hay Công giáo, có thể thấy ích lợi của cả hai nhưng không thuộc bên nào cả.  Người ta có thể làm bạn với nhau về tư tưởng và tình cảm thiêng liêng mà không có chung niềm tin và cũng không cần phải có.  Bởi lẽ tôn giáo là chuyện cá nhân, đặc thù, riêng tư nên không cần phải biết đến trong những tương giao con người.  Nếu một người cứ mỗi ngày lại theo một đạo thì mắc mớ gì đến bạn?  Thật không thích hợp nếu nghĩ về tôn giáo của một người như nghĩ đến nguồn lợi tức hoặc việc điều hành gia đình của họ.  Tôn giáo không liên quan gì đến mối dây xã hội cả.”

Những gì Đức hồng y Newman nói về chủ nghĩa tự do, ngày nay có thể gọi là chủ nghĩa tương đối và chúng ta không thể quên cụm từ nổi tiếng của Đức Bênêđictô XVI về “sự chuyên chế của chủ nghĩa tương đối!”  Lối nghĩ và lối sống mà Đức hồng y Newman cảnh giác xem ra ngày càng phổ biến và thắng thế, với những hậu quả tai hại rất lớn cho đời sống đức tin, nhất là chiều kích văn hóa và xã hội của đức tin.  Đức hồng y Newman nhắc nhở mọi Kitô hữu, mục tử cũng như giáo dân, rằng Chân lý là kho tàng quý giá mà chúng ta đón nhận bằng đức tin, chân lý ấy phải được loan báo cách trung thực và bảo vệ bằng mọi giá.

Ngày 11 tháng 8 năm 1890, Đức hồng y Newman qua đời tại nhà dòng ở Edgbaston.  Vào thời điểm đó, tờ Times of London (Thời báo Luân Đôn) viết: “Dù Rôma có tuyên thánh cho Hồng y Newman hay không, ngài cũng sẽ được tuyên thánh trong suy nghĩ của những người đạo đức thuộc nhiều niềm tin ở nước Anh.”

Sự nhìn nhận của Rôma

Trong dịp Đức Lêô XIII nâng cha John Henry Newman lên hàng Hồng y, Tòa Thánh Vatican đã gửi đến Hồng y Newman sứ điệp ngày 15 tháng 3 năm 1879: “Đức Thánh Cha trân trọng cách sâu sắc tài năng và học thức nổi trội của hiền huynh, lòng đạo đức và sự nhiệt thành của hiền huynh trong việc phục vụ Tác vụ thánh, sự tận tụy và sự gắn bó hiếu thảo của hiền huynh với Tòa Thánh, và sự phục vụ đáng kể của hiền huynh trong nhiều năm đối với tôn giáo, (ngài) quyết định dành cho hiền huynh bằng chứng công khai và cao quý về sự trân trọng và thiện ý của ngài.”

Trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày Newman được nâng lên hàng hồng y, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gửi thư cho Đức cha George Patrick Dwyer, Tổng giám mục Birmingham, trong đó ngài viết: “Tư tưởng triết học và thần học cũng như linh đạo của Đức hồng y Newman bám rễ sâu và được phong phú hóa nhờ Kinh Thánh và giáo huấn của các Giáo phụ, (tư tưởng đó) vẫn còn nguyên giá trị và tính độc đáo của nó….  Tôi hi vọng rằng dung mạo và giáo huấn của vị hồng y vĩ đại này sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho việc thi hành sứ mệnh của Hội Thánh trong thế giới ngày càng hiệu quả hơn, và giúp canh tân đời sống thiêng liêng của các thành viên trong Hội Thánh cũng như thúc đẩy việc phục hồi sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.”

Ngày 19 tháng 9 năm 2010, Đức Bênêđictô XVI nâng Đức hồng y Newman lên hàng Chân phước.  Trong giờ canh thức trước ngày tuyên phong, tại công viên Cofton Park, Luân Đôn, Đức Bênêđictô XVI đã nêu cao tấm gương của Newman: “Newman dạy chúng ta rằng nếu chúng ta đã đón nhận chân lý của Đức Kitô và trao phó đời sống cho Người, thì không thể có sự tách biệt giữa điều chúng ta tin và cách chúng ta sống.  Mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta phải quy hướng về vinh quang Thiên Chúa và mở rộng Vương quốc của Người.  Newman đã hiểu được điều này và đã là nhà vô địch đáng kính trong sứ vụ tiên tri của người Kitô hữu.  Ngài thấy rõ ràng rằng chúng ta không đón nhận chân lý như một hành động thuần tri thức cho bằng (đón nhận) trong một tiến trình năng động thiêng liêng, và chân lý ấy thấm vào tận tâm khảm chúng ta.  Chân lý được thông truyền không chỉ bằng giáo huấn, dù là điều quan trọng, nhưng còn bằng chứng tá của những cuộc đời đã sống chân lý ấy trong sự toàn vẹn, trung tín và thánh thiện; những ai sống trong và nhờ chân lý sẽ tự nhiên nhận ra những gì là giả dối, và vì giả dối nên cũng là thù nghịch của cái đẹp, cái thiện vốn song hành với vẻ huy hoàng của cái thật, Veritatis splendor.

Kết luận

Trong một bài thuyết trình về Đức hồng y Newman nhân kỷ niệm 100 năm ngày qua đời của ngài (1990), Đức hồng y Joseph Ratzinger (Đức Bênêđictô XVI sau này) đã nói: “Đối với tôi, đặc điểm của vị Tiến sĩ Hội Thánh là ngài không chỉ dạy chúng ta bằng tư tưởng và lời nói nhưng còn bằng đời sống của ngài, vì nơi ngài, tư tưởng và đời sống đan quyện vào nhau.  Nếu thế, Newman cũng đứng trong hàng ngũ những bậc thầy vĩ đại của Hội Thánh, vì ngài vừa chạm đến con tim chúng ta vừa soi sáng suy nghĩ của chúng ta.”

Nhận xét này vừa đáng quý vừa mang tính tiên tri.  Đáng quý vì chỉ cho chúng ta thấy dung mạo thực sự của Newman: không chỉ là nhà thần học với những suy tư sâu sắc nhưng còn là một vị thánh.  Và mang tính tiên tri vì nhiều người trong Hội Thánh Công giáo ngày nay đang nghĩ đến một ngày Thánh John Henry Newman sẽ được tuyên phong là Tiến sĩ Hội Thánh, vị tiến sĩ không chỉ dạy chúng ta thứ thần học bàn giấy nhưng còn giúp chúng ta sống nền thần học bàn quỳ vốn là điều hết sức cần thiết trong thời đại tục hóa ngày nay.

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: https://www.vaticannews.va


[1] Dòng Thánh Philip Neri (The Congregation of the Oratory of St Philip Neri) là Hội dòng giáo hoàng về đời sống tông đồ, quy tụ các linh mục và sư huynh sống chung trong một cộng đoàn, không có lời khấn công khai nhưng chỉ liên kết với nhau bằng mối dây đức ái. Thánh Philip Neri lập dòng này ở Rôma năm 1575. John Henry Newman, sau khi thành linh mục Công giáo, đã cùng với một vài linh mục lập chi nhánh ở Birmingham, cuối cùng dời về Edgbaston.

Tài liệu tham khảo

Herman Geissier, On the 125th Anniversary of John Henry Newman’s Becoming a Cardinal, L’Osservatore Romano, 11/18 August 2004.

Fabio Attard SDB, Blessed John Henry Newman, Theology and Holiness, www.newmanfriendsinternational.org/en/blessed-john-henry-cardinal-newman.

Benedict XVI, Prayer Vigil on the Eve of the Beatification of Cardinal John Henry Newman, www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/speeches/2010/september/documents.

John Paul II, Letter to H.E. Msgr. George Patrick Dwyer, Archbishop of Birmingham, for the first centenary of the elevation to the cardinalate of John Henry Newmanwww.vatican.va/content/john-paul-ii/en/letters/1979/documents.

LỜI CHÚA VỚI ĐỜI NGƯỜI

“Con lớn lên bằng lời ru của bà cùng với sự êm ái dịu dàng của Kymdan.”  Một câu quảng cáo đầy ấn tượng nhằm đạt đến mục đích cuối cùng của nhà sản xuất nệm Kymdan.  Điều đáng nói ở đây là câu quảng cáo ấy đã vô tình nói với mọi người một sự thật: Người ta lớn lên không chỉ bằng cơm bánh mà còn bằng lời nữa.  Từ lời ru êm khi còn nằm nôi cho đến lời dạy bảo nhắc nhở răn đe lúc đã lớn khôn.  Rồi trưởng thành bước vào đời, người ta vẫn cần lắm những lời khen tặng, động viên hay an ủi…  Thử hỏi, cuộc sống con người sẽ ra sao, nếu như những lời lẽ kia không được gieo vãi.

Thế nhưng trong thực tế, nhiều khi chúng ta nghiệm ra rằng cho dù lời người phàm cần thiết đến đâu thì cũng không làm cho người ta no thỏa.  Người ta cần một thứ lời có thể đáp ứng mọi tâm trạng và trong mọi hoàn cảnh, không phải chỉ là “2 trong 1” hay “3 trong 1” mà là “nhiều trong 1.”  Một thứ lời có thể hướng dẫn ta trong lúc nghi nan, trấn an khi gặp khó khăn, nâng đỡ khi sầu khổ, sửa dạy khi nông nổi, hối thúc khi lười biếng, cảnh giác trong nguy hiểm, và đem lại hy vọng những lúc ta chán nản tuyệt vọng.  Chỉ có Lời Chúa mới thỏa mãn những điều kiện ấy, mà Lời Chúa thì đã được gieo vãi trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người từ lâu rồi.

1. Lời được gieo cách hào phóng

Trước hết, Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là một người gieo giống đầy hào phóng và lạc quan.  Kinh nghiệm của một nhà nông không cho phép người ta phí phạm hạt giống lẫn công sức trên những mảnh đất cằn cỗi sỏi đá bởi kết quả thu được chắc chắn không thể bù lại những gì bỏ ra.  Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa lại hoàn toàn khác với cách suy nghĩ của con người.  Hạt giống Lời Chúa không chỉ dành cho những mảnh đất mầu mỡ mà được tung vãi khắp nơi, cả bên vệ đường, trên sỏi đá hay giữa bụi gai.  Lời Chúa không chỉ nói cho các thầy tư tế hay kinh sư, cho người lành người tốt.

Thiên Chúa đã tung gieo Lời của Ngài một cách hào phóng trên mọi mảnh đất, đến mọi hạng người, mọi tâm hồn bất kể là thu thuế hay gái điếm.  Nếu tính tỉ lệ thì ta thấy giữa đất xấu và đất tốt là 3/1.  Một tỉ lệ khá cao: cứ ba hạt bị mất mát mới có một hạt đem lại kết quả.  Thế nhưng, người gieo giống vẫn cứ ra đi, vẫn cứ gieo vãi.  Sẽ có người cho rằng người gieo giống quá phung phí và dở hơi; nhưng nếu nhìn xa hơn, nghĩ sâu hơn thì người gieo giống cực kỳ quảng đại, ông ta muốn mọi nơi trên cánh đồng đều có cơ hội sản sinh mùa màng thật tốt và đem lại thật nhiều hoa lợi.

Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót như thế đó.  Ngài không bao giờ nghi ngờ thiện chí của bất kỳ một tâm hồn nào.  Ngài đã quảng đại trao ban Lời của Ngài, trao ban chính Con của Ngài cho nhân loại và Ngài luôn chờ đợi hiệu quả phát sinh nơi tâm hồn và cuộc sống của chúng ta.  Tâm hồn nào cũng có thể trở nên mảnh đất mầu mỡ khi biết mở rộng lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, suy gẫm và làm cho phong phú cụ thể qua từng suy nghĩ, lời nói hay cử chỉ.

2. Lời mọc lên đầy hy vọng

Chúa Giêsu giảng dụ ngôn “Người Gieo Giống” trong bối cảnh những người trí thức có địa vị đang ra sức chống đối Ngài, còn những kẻ bình dân và các môn đệ thì đã bắt đầu ngã lòng hoài nghi trước những kết quả ít ỏi của lời Ngài giảng dạy.  Như thế, có thể nói đây là dụ ngôn tuyệt vời của niềm hy vọng dành cho những con người đang thất vọng.

Dụ ngôn “Người Gieo Giống” cho chúng ta thấy rằng hành trình Đức Tin của chúng ta phải là một hành trình trong tin yêu hy vọng: dù huê lợi không đồng đều nhưng đất mầu mỡ vẫn có đó, dù hạt giống có mất mát nhưng mùa gặt vẫn bội thu, dù vẫn có đó những chướng ngại nhưng Nước Thiên Chúa cũng sẽ đạt đến viên mãn.  “Cuộc đời chỉ là thời kỳ gieo hạt, mà mùa gặt không ở tại thế này” (Danh họa Van Gogh).  Chính niềm hy vọng là nguồn sinh lực dồi dào cho cuộc lữ hành của chúng ta.

Nhiều khi chúng ta thấy đường đi phía trước thật mịt mờ.  Hiện tại thì đầy khó khăn thử thách.  Tương lai càng tối tăm dầy đặc.  Chúng ta bị cám dỗ hoài nghi và mất hết niềm hy vọng.  Lời Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta một con đường đầy ánh sáng.  Đau khổ khó khăn hiện tại chính là liều thuốc kích thích Niềm Tin tưởng chờ đợi Ơn Cứu Độ.  Tin tưởng trong nỗ lực phấn đấu chứ không phải Niềm Tin lười biếng bạc nhược.  Số phận người đi gieo có hẩm hiu bạc bẽo, nhưng mùa thu hoạch thì đầy hứa hẹn huy hoàng.

3. Lời sinh sôi thật bất ngờ

Từ những khởi đầu ít hứa hẹn, điều kỳ diệu của hạt giống rơi trên đất tốt đã có thể bù đắp gấp bội những thất bại mất mát.  Tỉ lệ mất mát là 3/1, nhưng số thu lại không chỉ gấp ba mà là 30, 60 và thậm chí 100 lần.  Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta vươn tới sự thiện hảo và trổ sinh ngày càng nhiều hoa trái hơn trong cuộc sống.  Chỉ cần một câu Lời Chúa được tự do lớn lên trong lòng người ta thì cũng đủ để đời người hoàn toàn thay đổi.

Lịch sử Giáo hội và cuộc đời của nhiều vị thánh đã chứng minh điều này.  Chỉ một câu: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10, 21) đã làm thay đổi cả cuộc đời thánh Phanxicô Assisi, đến nỗi một kẻ vô thần độc tài cũng phải nhìn nhận rằng chỉ cần mười người như ngài là có thể thay đổi cả thế giới.  Rồi cuộc đời và thành quả truyền giáo của Thánh Phanxicô Xa-vi-ê cũng là hoa trái của câu Lời Chúa: “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?” (Mc 8, 36).  Cũng thế, tâm hồn và cuộc đời của Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng chính là mảnh đất mầu mỡ đã để cho Lời Chúa lớn lên và sinh sôi đem lại mùa bội thu cho cả thế giới.

Thửa đất không thể sinh hoa trái nếu không có hạt giống.  Cũng vậy, cuộc sống chúng ta sẽ cằn cỗi nếu không có Lời Chúa gieo trong tâm hồn.  Thiên Chúa không chỉ nói với chúng ta qua Thánh Kinh, Ngài còn nói với chúng ta qua các biến cố của đời mình.  Dụ ngôn “Người Gieo Giống” đòi chúng ta phải xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi ta phải cải tạo lại mảnh đất lòng mình, và tăng thêm sinh lực giúp chúng ta sống Lời Chúa.  Lời Thiên Chúa đã phán ra chỉ trở về khi đã đạt được kết quả.  Bổn phận của chúng ta là phải nỗ lực làm cho hạt giống Lời Chúa mọc lên tươi tốt, đâm rễ sâu trong tâm hồn, phát sinh những công việc phù hợp với Đức Tin và đem lại những kết quả tốt đẹp.

Lm. Kiều công Tùng

SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Cách ly đang gây hoảng sợ.  Văn hoá của chúng ta vốn đã quen với những lối giải trí tức thời không ngưng nghỉ thì viễn cảnh mỗi người phải tự cách ly lại càng gây thêm hoang mang.  Chúng ta phải đương đầu làm sao?

Tôi gặp lại chính mình khi nghĩ đến Đức Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận.  Tôi đã từng gặp ngài khi ngài còn ở Roma trong những ngày vàng son.  Ngài nhận chức Giám mục Nha Trang, Việt Nam, năm 1967 và được bổ nhiệm làm Giám mục Phó Sài Gòn năm 1975 ngay trước những ngày Sài Gòn rơi vào tay quân đội Bắc Việt.  Tháng tám năm đó, dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời, ngài bị bắt và trải qua mười ba năm sau đó trong tù.  Vào ngày được thả, ngài vẫn bị quản thúc tại nhà cho đến ngày bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1991.  Có đến chín năm trong thời gian mười ba năm tù đày, ngài bị biệt giam.  Chúng ta học được gì nơi ngài?

Rời Việt Nam, Hồng Y Thuận đến Roma.  Năm 1998, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đặt ngài làm Chủ Tịch Uỷ Ban Công Lý và Hoà Bình và vào năm 2000, Đức Thánh Cha mời ngài hướng dẫn tuần linh thao cho giáo triều Roma vốn được tổ chức mỗi năm vào đầu Mùa Chay.  Đức Gioan Phaolô II yêu cầu ngài trình bày những trải nghiệm riêng tư của những năm biệt giam.  Những bài nói chuyện của ngài sau đó được phổ biến như những Chứng Từ của Niềm Hy Vọng.

Đức Hồng Y đã mô tả những hoàn cảnh bị giam giữ.  Ngài ở trong một xà lim không có cửa sổ và trong nhiều ngày nhiều đêm đèn điện không bao giờ tắt; và sau đó, nhiều đêm nhiều ngày ngài lại bị vùi chôn vào bóng tối hoàn toàn.  Ngài cảm nhận như thể “đang ngạt thở vì cái nóng và độ ẩm đến phát điên.”   Ngài cảm thấy khủng hoảng vì không thể chu toàn sứ vụ linh mục của mình.

Và rồi, vào một đêm, từ sâu thẳm lòng mình, ngài nghe một tiếng nói, “Tại sao con phải dằn vặt như thế?  Con phải phân biệt giữa Thiên Chúa và công việc của Người.”  Ngài chợt nhận ra rằng, sứ vụ của ngài là tốt nhưng sứ vụ của ngài đã không là Thiên Chúa mà là công việc của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa có thể làm điều này điều kia tốt hơn ngài làm rất nhiều, vì thế, ngài phải chọn Thiên Chúa, không phải công việc của Người và chỉ chọn một mình Người.

Trải nghiệm của Hồng Y Phanxicô Xavier, dẫu quá khắc nghiệt như hoàn cảnh của nó, có thể giúp chúng ta suy nghĩ về các ưu tiên của mình trong thời gian dịch bệnh Corona.  Đây cũng là một khủng hoảng cá nhân đối với nhiều người trong chúng ta cũng như đối với tình trạng khẩn cấp về sức khoẻ và các biến động xã hội cũng như chính trị.  Một bài học nhớ mãi đối với Hồng Y Phanxicô Xavier là ngài ý thức sâu sắc về giá trị của giây phút hiện tại.  Ngài viết, “Đây là thời khắc duy nhất chúng ta đang có trong tay, quá khứ đã qua và chúng ta không biết liệu có một tương lai hay không.  Giây phút hiện tại là kho tàng lớn lao của mỗi người.”  Khi chúng ta chấp nhận cuộc sống giãn cách xã hội liệu chúng ta có quá để tâm đến quá khứ, hoặc quá bứt rứt về tương lai?  Hoặc là chúng ta có khả năng nhìn thời gian hiện tại, dẫu có thể đang khó khăn, như một quà tặng?

Việc sống giây phút hiện tại, trong thinh lặng và giãn cách xã hội không làm cho mọi sự nên dễ dàng.  Như Đức Hồng Y Phanxicô Xavier giải thích, “Thời gian trôi chậm trong nhà tù, đó là điều đáng nói nhất của việc cách ly.  Hãy tưởng tượng một tuần, một tháng, hai tháng và nhiều hơn nữa… trong thinh lặng.”  Chúng dài một cách kinh khủng và khi đã trở thành nhiều năm, chúng là vô tận.”  Dẫu chúng ta không nghĩ một điều gì đó khốc liệt hơn sẽ xảy ra nhưng những tuần sau đó, những tháng sau đó vẫn rất nghiệt ngã.  Hồng Y Phanxicô Xavier thừa nhận rằng, trong cuộc đời ngài, có những giai đoạn mà ngài cảm thấy hết sức đau khổ khi thấy mình không thể cầu nguyện, “Tôi trải nghiệm sâu sắc sự yếu hèn thể xác và tinh thần của mình.”  Nhiều lần ngài viết, ngài đã kêu lên như Chúa Giêsu đã kêu lên trên thập giá, “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con.”  Mỗi lần như thế, ngài thêm, “Vậy mà, con biết Chúa không bỏ con.”  Dẫu thế, những thời khắc này có thể vẫn rất khó khăn cho chúng ta và một đôi khi cũng thật khó để xác tín rằng, đức tin bảo đảm cho chúng ta, chúng ta không bao giờ bị bỏ rơi.

Trong khi họa lại trải nghiệm của mình về sự cách ly, Hồng Y Phanxicô Xavier không bao giờ để mình bị cuốn hút vào đó.  Đơn giản, cách ly không bao giờ là tất cả đối với ngài.  Trên hết, Ngài giữ cho tinh thần mình phấn chấn bằng một cảm thức mình là thành viên của Hội Thánh mà ngài thể hiện theo một cách thức khiến người khác ngạc nhiên.  Ngài kể, khi còn bị cách ly ở Hà Nội, một nữ công an mang đến cho ngài một con cá để làm thức ăn, con cá được gói với hai trang nhật báo Vatican, L’Osservatore Romano, vốn theo sự thường là bị tịch thu.  Ngài giấu nỗi vui khi nhìn thấy nó; sau đó, một mình, ngài rửa sạch, hong khô tờ báo và cất lấy nó, ngài coi nó như một vật thánh.  Ngài giải thích, “Với tôi, trong một chế độ cách ly ngặt nghèo không khoan nhượng đó, những trang này là một dấu chỉ của sự hiệp thông với Roma, với thánh Phêrô, với Giáo Hội và một cái ôm hôn từ toà thánh.”  Ngài thêm, “Hẳn tôi đã không thể sống sót nếu không nhận thức mình là một thành phần của Hội Thánh.”

Thế nhưng, cảm thức về cộng đoàn của Hồng Y Phanxicô Xavier không bao giờ chỉ hẹp hòi trong phạm vi Giáo Hội.  Giới răn yêu thương là nền tảng cho cuộc sống của ngài.  Không ai bị loại ra ngoài; cách riêng, không phải là những người canh gác ngài.  Các nhà chức trách thường xuyên thay đổi những người canh gác ngài vì sợ rằng, đặt họ ở đó, họ sẽ bị “lây nhiễm” bởi ngài.  Sau đó họ ngưng đổi người, vì sợ ngài sẽ làm lây nhiễm tất cả.  Ngày kia, một trong những người canh gác ngài hỏi, “Ông có yêu thương chúng tôi không?”, ngài trả lời, “Có, tôi yêu các anh.”  Người ấy không tin, “Nhưng chúng tôi bỏ tù ông nhiều năm, không một phiên toà, không một bản án và ông vẫn yêu thương chúng tôi?  Không thể có điều đó.”  Hồng Y Phanxicô Xavier nói với người canh gác mình rằng, “Tôi ở với các ông đã nhiều năm, ông thấy đó là sự thật.”  Người ấy nói với ngài, “Khi ông được tự do, ông không phái giáo dân tới đốt nhà chúng tôi và giết gia đình chúng tôi chứ?”; “Không!  Ngay cả nếu các người muốn giết tôi, tôi vẫn yêu thương các người”; “Nhưng tại sao?”; “Bởi vì Chúa Giêsu dạy tôi yêu thương mọi người, yêu thương ngay cả những kẻ thù của tôi.  Nếu tôi không yêu thương, tôi không đáng được gọi là người công giáo.”  Đó là một chuyện kể phi thường nhắc cho chúng ta rằng, giới răn yêu thương tha nhân của Chúa Giêsu một đôi khi lên tiếng mạnh mẽ nhất vào những thời điểm khi người ta cần đến nó nhất.  Một nét đặc trưng cho hoàn cảnh của chúng ta là chăm sóc, cách ly hay không cách ly, chúng ta cũng phải chăm sóc nhau.

Chuyện kể cuối cùng là khi Hồng Y Phanxicô Xavier còn là sinh viên ở Roma, ngài viếng Lộ Đức.  Tại hang đá, ngài suy nghĩ về lời Đức Mẹ nói với Bernadette, “Mẹ không hứa cho con niềm vui và những ủi an trên cuộc đời này, nhưng là thử thách và khổ đau.”  Ngài tự hỏi với thoáng chút sợ hãi rằng, liệu những lời này cũng nói với mình chăng.  Nhiều năm êm ả dần trôi, từ một Giáo sư chủng viện đến Giám đốc, rồi Tổng đại diện và Giám mục sau đó, thì ngài nghĩ rằng, những lời đó chẳng dính dáng chút nào đến mình.  Thế nhưng, đến năm 1975 và với năm đó, “Tôi bị bắt vào ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời với tù đày, cách ly; bấy giờ tôi mới hiểu, Đức Mẹ đã chuẩn bị cho tôi điều này từ năm 1957.”

Trải nghiệm của chúng ta vào những tuần những tháng sắp tới vốn sẽ không khắc nghiệt như trải nghiệm của Đức Hồng Y Phanxicô Xavier, chúng ta tin như thế; nhưng nó cũng trao tặng chúng ta một cơ hội.  Đức Hồng Y nói, “Khi tôi trải qua những giờ phút đau khổ cùng cực về thể xác và tinh thần, tôi nghĩ đến Chúa Giêsu chịu đóng đinh.  Với con mắt thế gian, cuộc đời của Ngài là một thất đoạt, thất vọng và thất bại…; vậy mà với cái nhìn của Thiên Chúa, đó là một thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của Ngài, bởi đó cũng chính là lúc Ngài đổ máu ra cho ơn cứu độ toàn thể nhân loại.”

Chúng ta đã sống những ngày đầu tiên của cuộc khủng hoảng này.  Khắc nghiệt là điều có thể có nhưng phải chăng trong cái nhìn quan phòng thì một điều gì đó xảy ra đã rất trùng hợp với Mùa Chay năm nay?  Như Đức Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận tại Lộ Đức, chúng ta có cảnh tỉnh trước những bài học vốn có thể dạy cho mình một điều gì đó?

Rev. Roderick Strange

Nguồn: https://www.thetablet.co.uk/features/2/17772/living-in-the-present-moment
Người dịch: Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Cha Roderick Strange là một giáo sư thần học của đại học St. Mary, Twickenham; ngài cũng là Viện Trưởng của Mater Ecclesiae College, một học viện giáo hoàng thuộc đại học St. Mary.  Cuốn sách mới nhất của ngài là Newman: The Heart of Holiness, do Hodder & Stoughton xuất bản.

THÁNH MARIA GORETTI TRINH NỮ TỬ ĐẠO

Thánh Maria Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Corinaldo, Italia, và qua đời với tư cách là vị thánh Đồng Trinh Tử Đạo ngày mồng 06 tháng 07 năm 1902 tại Nettuno, Italia.  Khi mới lên 11 tuổi, thánh nữ đã trở thành nạn nhân của một vụ sát hại dã man vì thánh nữ quyết bảo vệ sự trinh trong của mình.  Vào năm 1950, Maria Goretti đã được Đức Pi-ô XII tôn phong lên bậc Hiển Thánh.

1. Tiểu sử của thánh Maria Goretti:

Cha Mẹ của Maria Goretti là ông Luigi Goretti và bà Assunta Carlini.  Cả hai người đều có quê gốc tại Corinaldo, Italia, và là những nông dân thuần túy.  Họ có tất cả bảy người con, và Maria Goretti là người con thứ ba.  Cuộc sống của Maria Goretti, kể từ khi chào đời cho tới khi cô bị sát hại, đã diễn ra không khác gì cuộc sống của hầu hết các em bé vùng nông thôn Italia cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20: không được học hành tại trường, khả năng đọc sách rất kém, thậm chí còn không thuộc bảng chữ cái, phải làm việc trong nhà và trên các cánh đồng ngay từ khi tuổi đời còn rất nhỏ.  Khi Maria Goretti qua đời (lúc cô sắp mừng sinh nhật lần thứ 12), cô chỉ cao 1m38, thiếu cân, và đã có triệu chứng mắc bệnh sốt rét đang ngày một phát triển.

Vào năm 1897, gia đình ông Luigi Goretti chuyển nơi cư trú từ Corinaldo tới Agro Pontino, tức vùng đồng bằng Pontini.  Họ đến định cư tại làng Ferriere thuộc huyện Nettuno, và lại tiếp tục làm nghề canh tác ruộng vườn.  Agro Pontino là một vùng đồng bằng nằm tại khu vực Đông Nam Rô-ma, và hồi đó có tên là Paludi Pontine (tức đầm lầy Pontini), vì đó là một khu vực đầm lầy thường xuyên bị tấn công bởi bệnh sốt rét.  Mãi tới những năm 30 của thế kỷ 20, Mussolini mới ra lệnh phải tháo cạn nước khỏi khu vực đầm lầy đó.

Tại nơi ở mới, gia đình ông Luigi Goretti đã cùng với gia đình Serenelli điều hành một hợp tác xã nông nghiệp.  Nhưng chỉ một năm sau thôi thì ông Luigi Goretti, tức thân phục của Maria Goretti, đã qua đời vì bệnh sốt rét.  Vì thế, cô bé Maria đã phải cùng với mẹ mình chăm lo cho gia đình.  Mãi cho tới khi Maria lên 11 tuổi, cô mới được Xưng Tội Rước Lễ lần đầu.

Còn ông Serenelli, người cùng điều hành hợp tác xã nông nghiệp nói trên với gia đình Luigi Goretti, có một người con trai tên là Alexandro Serenelli, lớn hơn Maria Goretti 5 tuổi.  Cậu ta là người thanh niên hư hỏng, suốt ngày ăn chơi nêu lổng.  Khi Maria Goretti xuất hiện, cậu ta đã thường xuyên đeo đuổi và gạ gẫm cô.  Nhưng Maria luôn luôn cự tuyệt trước những lời gạ gẫm của cậu.  Vào ngày mồng 05 tháng 07 năm 1902, lúc đó Alexandro đã 16 tuổi, anh ta tìm mọi cách để cưỡng hiếp cô bé 11 tuổi này.  Khi anh ta xông vào cô bé, thì cô đã cố hô lên: “Không được, không được!  Làm vậy là có tội đấy anh Alexandro ạ, anh sẽ phải sa hỏa ngục đấy! Khi bị Maria nhất quyết từ chối và cự tuyệt, Alexandro cảm thấy nhục nhã và vô cùng tức giận, hắn đã vớ lấy chiếc đục gỗ và đâm cô bé tới 14 nhát.  Tuy nhiên, dù bị đâm tới 14 nhát, nhưng Maria vẫn còn thoi thóp.  Người ta đã mang cô vào bệnh viện Nettuno.  Tại đây, các bác sĩ đã tiến hành giải phẫu khẩn cấp cho cô, nhưng cuộc giải phẫu đã không thành công.  Cô đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày hôm sau, tức ngày mồng 06 tháng 07 năm 1902 tại bệnh viện nêu trên lúc sắp bước sang tuổi 12.  Khi Maria hấp hối, cô đã tha thứ cho kẻ giết mình với những lời sau đây: “Tôi tha thứ cho anh ta; tôi muốn có anh ta bên cạnh tôi trên Thiên Đàng.”

Về phần mình, Alexandro đã bị kết án lao động khổ sai 30 năm.  Theo lời kể của nhiều người, anh ta đã tỏ ra rất hối hận về hành vi của mình.  Anh ta đã trải qua nhiều thị kiến, và trong các cuộc thị kiến đó, Maria đã hiện ra với anh ta và còn mang hoa đến tặng cho anh ta nữa.  Vào dịp Lễ Giáng Sinh năm 1928, sau 27 năm lao động khổ sai, Alexandro đã được trả tự do trước thời hạn vì anh ta đã cải tạo rất tốt.  Ngay khi được phóng thích, anh ta đã tức tốc đến gặp bà Assunta Carlini – thân mẫu của Maria Goretti – để xin bà tha thứ cho hành vi của mình.  Và cũng ngay sau đó, anh ta đã gia nhập Dòng Thánh Phan-xi-cô, và quyết định sống ở bậc Hiến Sinh của Dòng này.  Thầy Alexandro qua đời trong Dòng Thánh Phan-xi-cô tại Tu Viện Macerata vào ngày mồng 06 tháng 05 năm 1970 lúc xấp xỉ 84 tuổi.

2. Thánh Maria Goretti Trinh Nữ Tử Đạo:

Còn về phía Maria Goretti, sau khi qua đời, cô đã được an táng trong nhà thờ Nettuno nằm ở phía Nam thành phố Rô-ma.  Sau khi cô được phong Thánh, nhà thờ này đã được đổi tên theo tên của cô, đó là Thánh Đường kính Thánh Maria Goretti.  Cả Đức Phao-lô VI lẫn Đức Gioan Phao-lô II đều đã đến viếng Thánh Đường này.  Trong nghệ thuật hội họa, cô được trình bày với hình ảnh một cô bé trong tay cầm bông huệ và cành lá cọ – biểu tượng của sự Đồng Trinh Tử Đạo.

Chẳng bao lâu sau khi Maria Goretti qua đời, nhiều người đơn thành, đặc biệt là các nông dân, đã bắt đầu tôn kính cô như một vị Thánh.  Lòng sùng kính dành cho cô càng ngày càng được nhân lên, và nở rộ dưới thời Phát-xít.  Trong thời chiến tranh, cả trong cuộc thế chiến thứ nhất lẫn thế chiến thứ hai, một vai trò mới của phụ nữ trong gia đình và xã hội đã trở nên nổi bật, và vì thế, mẫu gương của Maria Goretti đã được Giáo hội sử dụng để tán dương hình ảnh của phụ nữ trong vai trò truyền thống của mình với tư cách là những người mẹ và những người nội trợ tận tâm.  Alexandro – kẻ sát hại Maria Goretti – đã làm chứng về cô với những lời như sau: “Tôi không biết bất cứ điều gì khác về cô ấy ngoài việc biết rằng, cô là một cô bé tốt lành, ngoan ngoãn, vâng lời cha mẹ, kính sợ Thiên Chúa, nghiêm trang, không nhẹ dạ nông nổi và không thất thường như những cô bé khác; trên đường đi, cô ấy luôn luôn khiêm tốn, nhã nhặn, và chỉ nghĩ về chuyện làm sao để hoàn thành các nhiệm vụ được giao.”

Vào ngày 27 tháng 04 năm 1947, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong Maria Goretti, “Tớ Nữ Đáng Kính của Thiên Chúa”, lên bậc Chân Phước.  Trong Thánh Lễ tôn phong Chân Phước cho Maria Goretti, Đức Piô XII đã giới thiệu cô như là một ý tưởng ngời sáng và là một mẫu gương của sự giữ mình.

Ngay sau khi Maria Goretti được tôn phong lên bậc Chân Phước, cô đã thực hiện hai phép lạ chữa lành.  Phép lạ thứ nhất được cô thực hiện cho Anna Grossi Musumarra vào ngày mồng 04 tháng 05 năm 1947, và phép lạ thứ hai đã được cô thực hiện cho công nhân Giuseppe Cupe vào ngày mồng 08 tháng 05 cùng năm.  Anna Grossi đã phải chịu đựng cơn bệnh sưng màng phổi rất nặng.  Một thành viên trong gia đình của cô đã lên đường đến nơi bảo quản các Thánh Tích của Chân Phước Maria Goretti.  Người này đã ngắt một ít lá trên những đóa hoa được đặt trên rương đựng các Thánh Tích của vị Chân Phước, và mang những chiếc lá đó về cho bệnh nhân.  Bệnh nhân đã tiếp nhận những chiếc lá đó, và chỉ 24 tiếng đồng hồ sau, cô đã được hoàn toàn khỏi bệnh.  Còn anh Giuseppe Cupi thì lại bị một tai nạn: Một tảng đá khá lớn đã rơi xuống chân anh khi anh đang làm việc, và vì thế, tất cả bàn chân của anh đều bị dập nát.  Anh đã phó thác sự việc cho Chân Phước Maria Goretti.  Ngay sau đó, sự đau đớn đã biến mất, và anh đã có thể quay trở lại nơi làm việc ngay trong ngày hôm đó.

Vào ngày 24 tháng 06 năm 1950, sau hơn ba năm được tôn phong lên bậc Chân Phước, Maria Goretti đã được Đức Thánh Cha Piô XII tôn phong lên bậc Hiển Thánh.  Thánh Lễ Tôn Phong Hiển Thánh này đã diễn ra tại quảng trường Thánh Phê-rô với sự tham dự của hàng triệu tín hữu.  Trong số đó có rất nhiều những người hành hương từ xa đến, vì năm 1950 là Năm Thánh.  Thân mẫu của vị Thánh, bà Assunta Carlini, lúc đó đã 85 tuổi, cũng đã hiện diện trong buổi Lễ Tôn Phong Hiển Thánh cho con mình, giống như bà đã tham dự Lễ tôn Phong Chân Phước của con bà.  Thánh Lễ này có một điều đặc biệt, đó là sự hiện diện của Thầy Alexandro Serinelli – người đã sát hại Maria Goretti 48 năm trước đó, nhưng giờ đây đã là Tu Sĩ của Dòng Thánh Phan-xi-cô.

Vào năm 1951, Thánh Nữ Maria Goretti đã được Giáo hội đặt làm Nữ Bổn Mạng của các Hội Đoàn Đức Maria.

Giáo hội mừng kính Thánh nữ Maria Goretti vào ngày mồng 06 tháng 07, tức ngày qua đời của Thánh Nữ, với bậc Lễ Nhớ không buộc.

Phần lớn các Thánh Tích của Thánh Maria Goretti hiện đang được bảo quản và tôn kính tại Corinaldo, Italia, nơi chôn nhau cắt rốn của Ngài.  Phần còn lại, gồm hộp sọ và xương tay chân của Ngài, hiện đang được bảo quản và tôn kính tại Nettuno, Italia, nơi Thánh Nữ trút hơi thở cuối cùng.

Lm Đa-minh Thiệu O. Cist

DỊU HIỀN

Truyện kể: Thánh Jean Vianney, lúc còn là chủng sinh học hành rất chậm.  Ngày kia, một giáo sư thần học thừa lệnh Đức giám mục, đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không.  Vianney không thể trả lời xuông sẻ câu hỏi nào cả.  Vị giáo sư nổi nóng đập bàn nói: Vianney, anh dốt đặc như con lừa.  Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì?  Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: Thưa Thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương con lừa mà đánh bại 3 ngàn quân Philistin.  Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?

Sách tiên tri Giacaria được xếp vào áp cuối của bộ sách Cựu Ước.  Giacaria sinh sống tại Giêrusalem và thi hành sứ vụ tiên tri vào khoảng năm 520-518 trước Công nguyên.  Với việc lên ngôi của Zerubbabel, dòng dõi vua Đavid, Thiên Chúa khai mở triều đại mới trong vinh quang và sang giầu cho Giêrusalem.  Thiên Chúa muốn Zerubbabel và Joshua xây dựng lại Đền Thờ và lập lại hàng giáo sĩ giữ việc thờ phượng và dâng hương tại đó.  Giacaria cũng là một trong những người Do-thái bị lưu đầy được trở về Giêrusalem.  Ông cùng được dự phần trong nhóm các tiên tri Do-thái.  Ông phấn chấn lòng dân về tin mừng của Đấng cứu độ: Đây Chúa phán: Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng: Nầy vua ngươi đến với ngươi.  Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ.  Người khiêm tốn ngồi trên lừa con của lừa mẹ (Zach 9, 9).  Tiên báo về Đấng công chính ngồi trên lưng lừa con bước vào thành thánh Giêrusalem với lời tung hô vạn tuế.  Con cái Sion tung hô nhảy mừng ca hát: Vạn tuế, tung hô Đấng nhân danh Chúa mà đến.

Người đời hãnh diện với danh vọng và quyền lực để cai trị nhân dân.  Có nhiều người tự cao tự đại làm như họ sở hữu mọi gia sản trên đời.  Sự khôn ngoan, tài trí, sức mạnh và cả sự sống đều là ân huệ được trao ban.  Mỗi người có khả năng để phát triển tất cả kho tàng quý báu được ẩn dấu và phú bẩm.  Không có sự gì chúng ta sở hữu mà không do ơn trên ban cho.  Cho dù có thông giỏi, quyền thế và uy lực, con người cũng không thể hiểu thấu chính mình và vũ trụ chung quanh.  Chúa Giêsu Đấng trung gian vạn vật đã lên tiếng nói rằng: Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã dấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn (Mt 11, 25).  Thiên Chúa mạc khải nước trời cho những tâm hồn đơn sơ và chân thành.  Không phải cứ thông minh hiền triết là nắm giữ được chìa khóa của sự khôn ngoan.  Sự khôn ngoan gắn liền với sự đơn sơ khiêm tốn.

Sau khi chịu chức linh mục, cha Jean Vianney vì nổi tiếng nhân đức, giáo dân các giáo họ lân cận tuôn đến tham dự thánh lễ, nghe giảng và xưng tội.  Một cha sở kia tức giận vì tín hữu bỏ mình đến với cha Vianney.  Ông cha này đã viết thơ nhục mạ cha Vianney.  Cha Vianney nhận thơ, vội tìm tới xin cha sở kia xin tha lỗi và khẩn khoản xin cha sở kia giúp trình Đức giám mục đổi Vianney đi vùng khác hay tốt hơn cho nhập dòng nào đó để khỏi làm phiền các cha lân cận.  Trước thái độ khiêm hạ đó, cha sở kia quì mọp xuống xin lỗi và từ đó chọn cha Vianney là cha linh hướng.

Hãy tìm học với Chúa Kitô: Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an (Mt 11, 29).  Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa toàn năng toàn mỹ.  Chúa cư ngụ giữa xã hội con người đầy tội lỗi, yếu đuối và mỏng dòn.  Dù tình trạng con người xấu xa đến mức nào đi nữa, Chúa vẫn yêu thương, chữa lành và cứu độ.  Chúa không loại trừ sự dơ dáy tanh hôi của bệnh tật và tội lỗi.  Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại phải đối đầu với sự tà tâm của con người.  Chúa đã nhiều lần tranh luận, thuyết phục, răn dậy, sửa sai, hướng dẫn và dậy dỗ cả các Thượng tế, Tư tế, Biệt Phái, Luật sĩ, các Đầu mục các phái, các vị lãnh đạo và toàn dân.  Với lòng thương xót tuyệt đối, ánh sáng của Chúa chiếu dọi vào từng tâm hồn.  Chúa muốn chúng ta hãy học nơi Chúa sự dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng.

Trong khi loài người, gọi là đồng loại, thì phân biệt và cách biệt.  Phân biệt chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống, mầu da, sắc tộc, giầu nghèo, học thức, chức vị và muôn ngàn cách thế dị biệt.  Hình như nhiều người luôn tìm cách đánh giá sự hơn thua và vinh nhục ở đời như là cùng đích.  Dân tộc nào cũng muốn trội hơn.  Người nào cũng muốn khoe tài, khoe của.  Đâu mấy ai khoe sự khó nghèo, khiêm nhường hay hiền lành.  Nếu cứ mải mê chạy đua tìm kiếm những triều thiên giả tạo, chúng ta sẽ bị chìm đắm trong vòng xoáy tục lụy trần đời.  Biết rằng, sống là phải vươn lên và phấn đấu không ngừng.  Cho dù đứng trong bất cứ địa vị nào trong xã hội, chúng ta cũng chỉ là một con người đầy khuyết điểm và yếu đuối.  Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đấng kế vị thánh Phêrô, đã tiếp nhận được bài học quý giá của sự dịu hiền và khiêm hạ.  Từng việc cụ thể ngài thực hiện trong những ngày tháng qua đã làm nổi bật sứ vụ của đấng thay mặt Chúa.  Đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ.

Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt đối cho mọi người trong mọi thời.  Là môn đệ của Chúa, chúng ta cần suy tư sâu lắng tất cả những lời chỉ dậy và hành động gương sáng của Chúa.  Chúa giảng về sự tha thứ, thương xót, bác ái, khó nghèo, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, chịu đựng, hy sinh và ngay cả chết cho bạn hữu.  Chúa đã giảng và đã thực hành.  Trong khi chúng ta thích khoe mẽ, nói nhiều mà chẳng muốn áp dụng.  Lời nói chẳng đi đôi với việc làm, đôi khi còn ngược lại, nói một đường, làm một nẻo.  Khuyên dậy, giảng giải, trình bầy và thuyết phục điều hay lẽ phải thì ai cũng có thể làm được, nhưng thực hành những điều này cần có một ý chí và quyết tâm cao.  Thực hành sống đạo cũng thế, chúng ta cần có thái độ chọn lựa dứt khoát bước theo lề phải.  Tu thân tích đức từng bước mỗi ngày.  Các thói quen tốt lành sẽ trở thành các nhân đức.  Nhân đức dẫn chúng ta tiến gần trên con đường trọn lành.

Thánh Phaolô khuyên dậy: Vì chưng, nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống (Rm 8, 13).  Thân xác con người vốn có bản năng yếu đuối.  Các cơn cám dỗ luôn rình rập kéo lôi chúng ta trở lại tình trạng man rợ xa Chúa.  Nhờ thần trí hướng dẫn, chúng ta có thể thắng vượt những cạm bẫy giăng mắc quanh môi trường cuộc sống.  Xác thịt thì nặng nề yếu đuối nhưng thần trí cần phải dũng mạnh và cương trực.  Thân xác là máng chuyển các ơn huệ vào tâm hồn.  Chúng ta cần bồi dưỡng sức mạnh cho cả xác lẫn hồn để có hồn trong, xác mạnh.  Sứ mệnh và cùng đích của toàn diện cuộc sống con người là sự sống viên mãn ngày sau.

Lạy Chúa, dòng nước sẽ tuôn chảy về chỗ thấp trũng.  Ơn sủng của Chúa cũng tuôn đổ vào những tâm hồn biết khiêm nhượng đón nhận.  Xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân của Chúa.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

BÀN TAY THIÊN CHÚA TRONG ĐỜI CHÚNG TA

Theo Jim Wallis, vấn đề luôn mãi trong thế giới và trong các giáo hội là: phía bảo thủ hiểu sai và phía tự do (phản ứng thái quá với phía bảo thủ) chẳng hiểu được gì.  Tôi tin rằng, không ở đâu câu này đúng cho bằng trong cách chúng ta nhận ra bàn tay Chúa trong những sự kiện trong đời.

Chúa Giêsu bảo chúng ta nhận ra bàn tay Chúa trong đời mình bằng cách đọc dấu chỉ của thời đại.  Thế nghĩa là sao?  Điều này không hẳn là chúng ta nhìn vào mọi phân tích về tôn giáo, chính trị, xã hội để cố hiểu xem thế giới đang có chuyện gì, nhưng đúng hơn, là chúng ta nhìn vào mọi sự kiện trong đời mình, cả cá nhân lẫn toàn cầu, và tự hỏi: Chúa nói gì với tôi qua sự kiện này?  Chúa nói gì với chúng ta qua sự kiện này?

Thế hệ cao tuổi hơn hiểu điều này là cố hòa hợp bản thân với những hành động “quan phòng.”  Đường lối này có từ thời xưa trong Kinh Thánh.  Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy dân Chúa không xác định những chuyện diễn ra bằng lăng kính thuần thế tục hoặc trung lập về tôn giáo.  Đúng hơn, trong mọi sự kiện, dù là rất ngẫu nhiên và thế tục, họ đều thấy bàn tay Thiên Chúa.  Ví dụ như, họ tin rằng nếu thua trận, thì đó không phải do đối phương có quân lính thiện chiến hơn, nhưng là do Thiên Chúa đã dạy cho họ một bài học.  Hoặc nếu gặp tai ương, thì đó là do Thiên Chúa đã chủ động ngăn mưa rơi xuống đất, và một lần nữa dạy cho họ một bài học.

Chuyện này dễ bị hiểu lầm, vì khi viết ra như thế, các tác giả sách thánh đã gây ấn tượng rằng Thiên Chúa chủ động tạo ra sự kiện đó.  Đó là lời của họ, chứ không phải ý định hay ý nghĩa.  Kinh Thánh không định dạy chúng ta rằng Thiên Chúa tạo ra chiến tranh hay đóng cửa trời không cho mưa xuống, Kinh Thánh chấp nhận rằng chúng là kết quả của ngẫu nhiên trong tự nhiên.  Bài học cần rút ra ở đây là, Thiên Chúa nói qua những sự kiện đó.

Và đây là điều mà người theo chủ nghĩa bảo thủ thường hiểu sai và người theo chủ nghĩa tự do thường nhầm lẫn.  Một ví dụ mới đây cho chuyện này, là phản ứng của một vài giới tôn giáo nhất định, cả bảo thủ lẫn tự do, về sự bùng phát của bệnh sida.  Khi bệnh sida bùng phát, nhiều người bảo thủ mạnh mẽ đã lên tiếng rằng sida là do Chúa trừng phạt chúng ta, vì sự bừa bãi tình dục, nhất là tình dục đồng giới.  Còn phía tự do, nổi giận vì những lời này, đã đáp lại rằng: Chúa chẳng liên quan gì đến chuyện này cả!

Cả hai đều cần một bài học về hành động quan phòng.  Những người bảo thủ tôn giáo đã sai khi diễn giải như thế.  Chúa không gây ra sida để trừng phạt sự bừa bãi tình dục của chúng ta.  Ngược lại, phía tự do cũng sai khi nói rằng chuyện này chẳng liên quan gì đến Chúa cả.  Chúa không tạo ra sida hay bất kỳ một bệnh dịch nào, nhưng Chúa nói qua sida và mọi chứng bệnh khác.  Nhiệm vụ sống đạo của chúng ta là nhận ra thông điệp đó.  Chúa nói gì với chúng ta qua chuyện này?

James Mackey nói rằng sự quan phòng là một kế hoạch của những chuyện tình cờ, qua đó Thiên Chúa lên tiếng.  Frederick Buechner nói rõ hơn nữa: “Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa cho những sự kiện xảy đến với chúng ta để đẩy chúng ta theo những hướng nhất định, như những quân cờ.  Thay vào đó, những sự kiện tự nó xảy ra ngẫu nhiên, nghĩa là Thiên Chúa hiện diện trong các sự kiện đó, không phải như người tạo ra nó nhưng như là người dù buồn đau vì chúng, vẫn cho chúng ta khả thể của sự sống mới và sự chữa lành mà tôi tin chính là ơn cứu độ.”

Thiên Chúa luôn nói với chúng ta qua mọi sự kiện trong đời chúng ta.  Với một Kitô hữu, không có điều gì là trải nghiệm thuần túy thế tục.  Sự kiện này có thể là kết quả của những lực ngẫu nhiên và thuần túy thế tục, nhưng nó chứa đựng một thông điệp tôn giáo cho chúng ta, luôn là thế.  Nhiệm vụ của chúng ta là đọc ra thông điệp đó.

Và nói xa hơn nữa: hầu như chúng ta chỉ nghe tiếng Chúa trong những trải nghiệm cực kỳ đau đớn với chúng ta hơn là trong những sự kiện đem lại hân hoan và vui thú.  Nhưng chúng ta không nên hiểu lầm chuyện này.  Không phải Thiên Chúa chỉ nói với chúng ta qua đau đớn, và làm thinh khi chuyện tốt đẹp.  Đúng hơn, theo lời của C.S. Lewis, đau đớn là máy vi âm của Chúa với một thế giới điếc đặc.  Thiên Chúa luôn nói, nhưng hầu như chúng ta chẳng nghe.  Chỉ khi lòng chúng ta bắt đầu tan nát, chúng ta mới bắt đầu hòa hợp với tiếng của Chúa.

Sự quan phòng là một kế hoạch của những chuyện ngẫu nhiên, qua đó Thiên Chúa lên tiếng, và chúng ta phải cẩn thận để hiểu đúng theo cả hai phía.  Thiên Chúa không gây nên sida, khí hậu toàn cầu nóng lên, tình trạng người di dân, bệnh ung thư, nạn đói, bão lụt, hay bất kỳ điều gì khác nhằm dạy cho chúng ta một bài học, nhưng trong tất cả những chuyện này có gì đó mời gọi chúng ta cố gắng nhận ra điều Chúa muốn nói qua chúng.  Cũng như thế, Thiên Chúa không cho đội bóng bạn yêu thích vô địch, đó cũng chỉ là kết quả của kế hoạch của những chuyện ngẫu nhiên.  Nhưng Thiên Chúa nói qua tất cả những chuyện đó, kể cả việc đội bóng của bạn vô địch đấy!

Rev. Ron Rolheiser, OMI

PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ HAI VỊ THÁNH CỦA TINH THẦN HIỆP NHẤT

Có lần đến mừng bổn mạng một vị Linh mục trọng tuổi.  Ngài nói đùa rằng: “Tội nghiệp hai Thánh Phêrô và Phaolô quá!  Những ông thánh bà thánh khác nhỏ hơn, thế mà lại được đứng tên một mình độc lập tự do hạnh phúc trong một ngày lễ.  Đàng này Phêrô và Phaolô tiếng là hai thánh lớn của cả Giáo hội, thế mà lại phải chen vai đứng chung với nhau chật chội trong một ngày lễ, dẫu đó là ngày lễ lớn.  Ngài cười và phát biểu tiếp: Thà làm lớn trong một ngày lễ nhỏ, còn hơn là Phêrô và Phaolô lại chịu làm nhỏ trong một ngày lễ lớn.”

Dĩ nhiên linh mục ấy chỉ nói đùa thôi.  Nhưng trong cái tưởng như đùa cợt mua vui giữa các linh mục với nhau biết đâu lại chẳng ẩn chứa một chút nghiêm túc, một thoáng lắng sâu gợi mở cho suy tư về ngày lễ, để rồi khi nhìn vào chân dung của Phêrô và Phaolô bỗng chợt nhận ra dụng ý của Giáo hội; mừng hai Thánh Phêrô và Phaolô chung trong cùng một lễ là muốn nói lên tinh thần hiệp nhất, một tinh thần đã làm nên sự sống và mãi còn là sức sống của Giáo hội.

Phêrô và Phaolô: hai vị thánh có nhiều khác biệt

Nói đến hiệp nhất là nói đến một tinh thần gặp gỡ khởi đi từ những cái khác biệt.  Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm.

Về thành phần bản thân: Phêrô là dân chài lưới chuyên nghiệp, cuộc sống chỉ diễn ra quanh quẩn nơi biển hồ Tibêria.  Tác phong ngài bình dân, tính tình ngài bộc trực, có sao nói vậy, thậm chí đến độ thô thiển mộc mạc.  Mặc dù có bề dày kinh nghiệm tuổi tác và ngành nghề, nhưng kiến thức về đời sống của ngài có chăng cũng không lớn hơn diện tích biển hồ.  Còn Phaolô, ngược lại, là con nhà trí thức được ăn học đàng hoàng, đã từng có dịp đi lại đó đây.  Kiến thức rộng, gốc gác Biệt phái nhiệt thành với truyền thống cha ông, đầy năng lực, tuổi trẻ tài cao và cũng không thiếu tham vọng cho tương lai, nên Phaolô mới nổi máu anh hùng “vấy máu ăn phần” trong việc bách hại các Kitô hữu thuở ban đầu.

Về ơn gọi theo Chúa Giêsu: Phêrô thuộc hệ chính quy, là một trong những tên tuổi mau mắn đáp lời theo Chúa Giêsu từ những ngày đầu sứ vụ công khai của Người.  Nhanh nhẩu, mau mắn, hăng hái, ông thường thay mặt cho anh em để lên tiếng phát biểu.  Được đặt làm đầu Nhóm Mười Hai đặc tuyển tức là Thủ quân đội tuyển Tông đồ với một bề dầy thành tích đáng gờm.  Trong khi đó, Phaolô chỉ là đàn em, đã chẳng được theo trực tiếp Chúa Giêsu lại còn khét tiếng phản động đến nỗi trên đường đi Đamas để bố ráp tín hữu, tiếng từ trời đã phải can ngăn “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ.”  Nhưng đó cũng là khởi đầu của ơn gọi để Phaolô nghĩ lại sám hối mà đầu quân phục vụ Giáo hội.  Chính Phaolô đã có lần thú nhận chẳng giấu giếm chi “Tôi là dân sinh sau đẻ muộn.”  Không mặc cảm.

Về truyền giáo: Nếu Tông đồ là kẻ được sai đi truyền giáo, thì tuỳ theo khả năng cá nhân, mỗi người lại phục vụ theo cung cách của mình.  Phêrô chủ trương “đánh bắt tại chỗ,” phục vụ Kitô hữu đa phần gốc Do Thái trở lại, nên thiết lập toà Antiôkia để dễ dàng điều hành quy tụ là chuyện bình thường.  Chính tại Antiôkia, lần đầu tiên trong lịch sử Công giáo, các tín hữu nhận lấy danh xưng: “Kitô hữu.”  Còn Phaolô lại theo chủ trương “đánh bắt ngoài khơi,” ra khơi để truyền giáo với những chuyến hải trình không mệt mỏi.  Trẻ trung, khỏe mạnh, học rộng, biết nhiều đã trở thành lợi thế cho ngài hành trình về phía trước dân ngoại.

Chủ trương khác nhau nên có lúc không tránh hết được những va chạm.  Đã có to tiếng về vấn đề cắt bì hay không cắt bì cho những người ngoại giáo gia nhập Kitô giáo.  Đã có hiểu lầm ấm ức khi đối mặt giữa một bên là cầm cương nẩy mực đạo giáo và một bên là quan tâm đến những nhu cầu mục vụ chính đáng của tín hữu gốc lương tâm.  Tuy nhiên khi hiểu ra, hai đấng đã tay bắt mặt mừng trong một tinh thần hiệp nhất lạ lùng!

Phêrô và Phaolô: tượng đài hiệp nhất

Khởi đầu sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, nếu hai vị đã hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng thì cũng hiệp nhất trong cùng một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin trung thành minh chứng.

Cùng chết tại Rôma.  Cùng chịu tử đạo dù hình thức khác nhau trong những thời điểm khác nhau.  Cùng trở thành nền đắp xây toà nhà Hội thánh.  Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công giáo, để rồi hằng năm cứ vào ngày 29 tháng 6 lại cùng được mừng chung trong một ngày lễ.  Chừng đó chữ “cùng” cũng đủ đề Phêrô gần gũi Phaolô, và để Phaolô đứng chung với Phêrô như hình với bóng.  Mình mới ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai.  Mãi mãi Phêrô và Phaolô là tượng đài bất khuất và là bài ca không quên của tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.  Tinh thần ấy hôm nay chỉ ra rằng.

Hiệp nhất không phải là đồng nhất theo kiểu đồng bộ nhất loạt ai cũng phải như ai, giống đồng phục của một hội đoàn, hay như trong sản xuất hàng hoá đồng loạt.  Nếu máy cùng một đời thì cũng cùng kiều dáng và chất lượng như nhau.  Hiệp nhất là khởi đi từ những cái khác nhau, những cái dị biệt, để hiểu biết tôn trọng và gắn bó hợp tác chung xây.  Như thế mới phong phú đa chiều đa diện đa dạng, như những thành phần khác nhau làm nên một tổng hợp duy nhất hài hoà, như những chi thể khác nhau kết nên một thân mình, như những nốt nhạc cung bậc khác nhau làm thành một hòa âm tròn đầy.

Hiệp nhất cũng không phải là cầu toàn mười phân vẹn mười gọt giũa kỹ càng theo một hình mẫu, làm như tuỳ thuộc hoàn toàn vào ý chí con người mà không cần biết đến những biến số mang tính quyết định khác.  Xây dựng một công trình vật thể như nhà cửa phòng ốc không ưng ý, người ta có thể đập bỏ để làm lại một cái mới vừa ý hơn, nhưng xây dựng một công trình phi vật thể nhất là lại liên quan đến yếu tố nhân sự thì không thể một sớm một chiều mà phá huỷ hoặc làm lại được.  Nếu “duy ý chí” đã là một lực cản đáng buồn cho sự tiến bộ, thì ở đây xem ra lại còn đáng buồn và đáng ngại hơn.

Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự dẫn dắt linh động của ơn thánh và chí bền khát khao của mọi thế hệ.  “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

Nhưng đa dạng cũng đi liền với đa đoan.  Không thể có hiệp nhất mà không vất vả.  Hiệp mà không nhất chỉ là khiên cưỡng ép duyên bất hạnh ngục tù.  Nhất mà không hiệp sẽ cứng cỏi lạnh lùng tự đủ thờ ơ.  Hiệp để trở nên nhất và nhất mà vẫn luôn cần chất keo tinh thần của hiệp, đó mới là giá trị làm nên nét đẹp Kitô giáo.  Nếu trong tình yêu hôn phối, những điều giống nhau là để hiểu nhau, còn những điểm khác nhau mới để yêu nhau, thì trong hiệp nhất Giáo hội cũng vậy, những điều giống nhau là nền tảng gặp gỡ, còn những điểm khác biệt lại là điều kiện tự nhiên để trở thành đa dạng, cho dẫu nhiều khi vì quá chú tâm đến những khác biệt người ta đã phải gạt lệ nhìn nhau xa cách.  Hai cực nam châm giống nhau sẽ đẩy nhau, nhưng hai cực khác nhau mới thu hút gắn bó với nhau.

Tóm lại, Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm, nhưng một khi đã được biến đổi bởi niềm tin Phục sinh và nguồn ơn Thánh Thần, hai vị đã trở nên những con người mới, những phần tử hàng đầu xây dựng hiệp thông Giáo hội.  Mừng lễ chung hai vị cũng là lúc thể hiện lòng yêu mến và phó thác.  Xin hai vị luôn nâng đỡ Giáo hội hiệp thông.

Gm. Giuse Vũ Duy Thống

NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ

Chuẩn bị nhân sự tiếp nối công việc truyền giáo ở trần gian, Chúa Giêsu đã tuyển chọn các môn đệ.  Tuyển chọn rồi Chúa còn đào tạo để các ngài nên những chứng nhân trung thành của Chúa.  Hôm nay, Chúa nêu lên những đức tính cần thiết của người môn đệ.

Người môn đệ của Chúa phải có tâm hồn quảng đại.

Tiên tri Elisêô đã hào phóng đối với gia đình tiếp đón Ngài.  Tiên tri là hình ảnh đẹp về các môn đệ của Chúa.  Người môn đệ là đại diện cho Đấng sai mình.  Người đại diện tốt phải là người trình bày được dung mạo của Đấng sai mình.  Chúa Giêsu, Đấng sai ta là người vô cùng rộng lượng.  Người đến trần gian không phải để thu tích mà để ban phát.  Trọn cuộc đời, Người ban phát không biết mệt mỏi.  Người đến không phải để xét xử, luận phạt, nhưng để tha thứ.  Người tha thứ một cách dễ dàng cho tất cả những tội nhân đến với Người.  Người đến không phải để giết chết, nhưng là để cứu chữa.  Người đến cho ta được sống và sống dồi dào.  Người môn đệ của Chúa cũng phải có tâm hồn quảng đại, rộng lượng, bao dung như Chúa.

Người môn đệ của Chúa phải sống khiêm nhường.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là những người bé mọn.  Chống lại những thói kiêu căng, phô trương, Chúa Giêsu luôn thao thức sao cho các môn đệ của Người trở nên bé nhỏ, khiêm nhường.  Bé nhỏ trong tâm tình đạo đức để phó thác mọi sự trong tay Cha.  Bé nhỏ về của cải, đừng mang “hai áo, mang theo túi tiền.”  Bé nhỏ trong cách cư xử với nhau, đừng tranh giành chỗ nhất, nhưng hãy chọn chỗ chót.  Bé nhỏ để quỳ xuống phục vụ: “như Thầy đã rửa chân cho các con, các con hãy rữa chân cho nhau.”  Bé nhỏ để sau khi làm mọi việc rồi, hãy nhận mình là “tôi tớ vô duyên bất tài.”

Người môn đệ của Chúa phải biết tập trung vào Chúa Kitô.

Người môn đệ là người chọn Chúa Kitô làm lý tưởng.  Người môn đệ cũng là người đi làm chứng về Chúa Kitô.  Vì thế mọi lời ăn tiếng nói, cả đến tâm tư tình cảm phải qui hướng về Chúa Kitô.  Chúa Kitô phải chiếm vị trí ưu việt trong tâm hồn người môn đệ.  Nói thế không có nghĩa là người môn đệ chối bỏ mọi tình cảm chính đáng, dứt lìa những mối liên hệ gia đình.  Nhưng có nghĩa là từ nay người môn đệ có yêu thương ai thì cũng là yêu thương trong tình yêu của Chúa Kitô và bằng tình yêu của Chúa Kitô.

Người môn đệ của Chúa sống cho Chúa và chết cho Chúa.

Chúa Giêsu không sống vì mình và cho mình.  Người luôn sống vì và cho người khác.  Người sống vì Chúa Cha và cho Chúa Cha.  Nên mọi việc Người làm đều vì Chúa Cha và cho Chúa Cha.  Người là tình yêu hoàn hảo dâng tặng Chúa Cha.  Nên Người đã “vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.”  Người sống vì con người và cho con người.  Nên người đã ban tặng chính sự sống của Người cho nhân loại, đã hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại.

Nên thánh Phaolô khuyên người môn đệ của Chúa hãy bắt chước Chúa mà chịu phép rửa trong sự chết của Chúa Kitô.  Hãy yêu mến, sống cho Chúa và chết cho Chúa.  Chắc chắn ta không chết một lần, nhưng sẽ chết dần mòn.  Chết cho tội lỗi để không bao giờ phạm tội nữa.  Chết trong quên mình âm thầm.  Chết trong những hy sinh nhỏ bé.  Chết trong nhiệt thành phục vụ nước Chúa.  Chính khi chết đi như vậy, ta lại được một sự sống mới tràn ngập tâm hồn, sự sống sung mãn, phong phú của Thiên Chúa.  Chỉ có những ai đã trải qua cái chết, mới cảm nghiệm được sự sống ấy, Thánh Phanxicô chắc chắn đã trải qua cuộc lột xác ấy nên mới thốt ra được những lời bất hủ: “Chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời.”  Vì thế thánh nhân đã trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô.

Lạy Chúa, xin thanh luyện tâm hồn con, để con xứng đáng là môn đệ của Chúa.  Amen.

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

HƯƠNG SẮC CỦA GAI

Đôi hoa tai lấp lánh hai hạt ngọc nhỏ, sáng màu sao trời, nằm ngoan hiền trong bàn tay người thiếu nữ.  Người thiếu nữ biết mình sẽ đẹp hơn nếu đeo đôi hoa tai ấy lên đôi tai mịn màu da tuổi dậy thì.  Xoa xoa vành tai, nhưng mỗi lúc đầu gai nhọn châm vào da thịt, nàng lại thấy đau buốt.  Nhìn mặt mình trong chiếc gương bạc, nàng thấy mình như một đóa hoa lưu ly.  Hẩy nhẹ mớ tóc xoã ngang vai ra sau lưng rồi nhìn vào vành tai còn trống trơn.  Ướm thử đôi hoa lên vành tai.  Chiếc khuyên vàng nổi trên làn da trắng.  Hạt kim cương óng ánh như giọt sương ngũ sắc.  Nàng đẹp.  Người thiếu nữ mỉm cười.  Nhưng làm sao để đeo đôi bông ấy được?  Người thiếu nữ nhìn cành gai.  Nhọn quá.  Mỗi khi định bấm chiếc gai vào vành tai, nàng lại nhăn mặt.  Đau đớn.

Nắng gắt hơn mọi ngày.  Giêsu ngồi nghỉ, mồ hôi thấm ướt chiếc áo mẹ may cho thưở nào.  Ba mươi tuổi đời, tuổi của chàng trai mới bóc lớp vỏ thanh niên để chuyển mình thành cây tre bước ra gánh vác việc làng.  Giờ sắp đến.  Chung quang nôn nao về một ngày bất định.  Những ngày trước mặt sẽ là tang chế.  Mặt đất chuyển về đôi chân sắp bước tới một cuộc động đất kinh hoàng.  Chân người thanh niên trẻ Giêsu không vững.  Cố mà giữ khỏi nghiêng ngả.  Mơ hồ đã có máu và nước mắt, mồ hôi và cát.  Tâm tư người thanh niên ba mươi tuổi đời ngộp thở cho những quyết định vô cùng táo bạo.  Mây đang vần vũ trên bầu trời tâm hồn, lối nghĩ nào cũng là kẹt cứng khô cằn.  Âm vọng từ đường xá đi vào, từ con tim thở ra, những âm vọng sắc như dao nhọn.  Không còn văn chương và thơ.  Không còn trăng mềm và đãi ngộ của đất trời.  Đã đến ngõ làng vào Jêrusalem.  Tiếng thở chần chừ: Lạy Cha, nếu được xin cất chén đắng này khỏi con.

Đường Nước Trời cũng giống như người thiếu nữ và đôi hoa tai.  Lối ở phía trước nhan sắc.  Nơi đó, mây trời đang chờ đợi hơi sương của đất.  Tình trời như đôi hoa tai sẽ làm người con gái thêm đẹp.  Tình đất là bàn tay vẫy gọi, là chân đi tới.  Nhưng làm sao lãnh nhận tình trời, cũng như người thiếu nữ làm sao đeo được đôi bông tai lên tai nếu không đủ can đảm bấm chiếc gai nhọn qua vành tai chờ đợi.

Giêsu đã một thưở mơ tình trời giao hòa cùng tình đất, đã có lúc ngại ngần vì khổ đau.  Nhưng Giêsu đã bấm cành gai nhọn.  Vòng gai trên đầu Giêsu đã sáng ngời mũ quân vương thắng trận.  Muốn có vẻ đẹp phải chấp nhận đớn đau.

Người thiếu nữ lại ướm khuyên vàng với vòng tai mình trong ước mơ thèm muốn.  Đôi tai vẫn trống trải đợi chờ.  Tất cả hệ tại đôi tay can đảm và lòng muốn thiết tha của nàng.  Những sợi tóc thánh thiện đang nôn nao đợi, những sợi tóc mai mong manh chờ.  Lại nhìn mình trong dáng gương thật trong.  Một nỗi cô đơn nào đó thoang thoảng trên khuôn mặt xinh.  Vẫn u hoài một thiếu vắng nào đó trên khuôn mặt đẹp.  Nàng biết nỗi u hoài ấy, nàng thấy cái thiếu vắng ấy chính là thiếu vắng của đôi hoa tai.  Nhưng cành gai nhọn quá.  Nàng có thể chần chừ cho giây phút trang điểm.  Nhưng thời gian không đợi chờ nàng.  Cứ nhìn mình trong gương và cành gai, nhưng không vì thế mà cành gai thông cảm bớt sắc đau.

“Lạy Cha, đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha.”  Trăng đêm ấy là trăng nhỏ màu.  Ánh trăng chênh chếch không dám nhìn thẳng.  Giữa những cành ôliu già sần sùi gắng gượng, Giêsu đã phó mình trong tay Cha, hoàn tất cho một yêu thương nhất định.  Chỉ có tình yêu mới đẩy tảng đá che mồ mà bước vào.  Đất đã lở cho lửa thiêu đốt những lưỡng lự ngái ngủ.  Hệ luỵ điêu linh người thanh niên Giêsu đã anh dũng lãnh nhận.  Đêm Giêtsimani.  Đêm nghiệt ngã.  Cành gai nhọn đã trùm lên đầu đau đớn.  Đêm linh thiêng.  Đau đớn của thập giá và vinh quang của phục sinh là nhan sắc mà mất một mà là mất cả hai.   Lời nguyện xin vâng là chuyến đi tìm nhan sắc xuyên qua rừng gai dầy.  Đôi hoa tai sẽ nhạt duyên nếu không gắn trên vành tai người con gái.  Và cất giấu đôi hoa thì khuôn mặt người thiếu nữ cũng bình thường lặng lẽ mà thôi.

Người thiếu nữ nhìn cành gai nhọn trong tay thon nhỏ.  Tiếng gọi của cành gai là nhan sắc ở đằng sau.  Trong tim người thiếu nữ có bài ca của lời thánh vịnh thênh thang.  Người thiếu nữ hiểu rằng không phải nhan sắc trong gương mà mình muốn nhận mũi nhọn của cành gai.  Đằng sau nhan sắc là tình yêu mà nàng đang chờ.  Đôi hoa tai chỉ là tiếng thơ cho một giọng ngâm rất ấm mà nàng đang rủ Hoàng Tử Bình An của nàng vào thơ.  Người thiếu nữ, trước ranh giới, không phải gian nan và nhan sắc nữa mà là giữa bến đau thương và bờ đậu hạnh phúc.  Nhan sắc chỉ là bậc thang cho chân đi vào hoàng cung với Người Yêu Muôn Thưở.  Bởi đó, lựa chọn đưa đôi hoa lên vành tai bây giờ là lựa chọn thử thách của Thiên Đàng và Sự Chết.  Hiểu được chiều sâu của nét đẹp con gái thì đôi hoa tai vàng duyên sắc như thế nào.  Tuy thế, sự hiểu biết ấy chẳng làm cho cành gai bớt nhọn và bớt đau thương.  Đường về Thượng Trí vẫn chẳng tùy thuộc trí hiểu mà là ý chí.

Giêsu không xin luật trừ cho vòng gai tử nạn.  Cha Ngài cũng im lặng.  Trong ý sâu nhất của linh hồn, Giêsu đã hiểu, và giục giã hồi chiêng trống, Giêsu vào tình sử.  Trọn vẹn.  Có ngại ngùng nhưng không thiếu thiết tha…  Có thách đố nhưng không vắng bóng lòng dũng cảm.  Giêsu đi trọn đường trần.  Gió bay muôn hướng buông vãi ánh sáng phục sinh xuống khắp nhân gian.  Trầm trầm rừng hương ca tụng một trái tim thanh niên, rất cao sang, rất thánh.

Người thiếu nữ ngồi đây, phân vân trên tay cành gai nhọn với đôi hoa tai tuyệt đẹp.  Đôi má xuân thì đang thèm muốn.  Ngoài kia đời đang chờ tiếng sáo bay lên.  Lời mời gọi về đường nhân đức cũng vây, là lựa chọn không thể từ chối từ can đảm mà có chiến thắng vượt qua.  Trái tim người thanh niên đang tìm nét đẹp cho êm lòng, cho khơi nguồn sáng tạo trong cuộc đời thiếu nữ.  Đức Kitô cũng đang chờ chân bước tới của kẻ muốn theo Ngài làm môn sinh.

Làm sao để người thiếu nữ đeo được đôi hoa tai ấy?  Nàng biết có câu trả lời ở bên kia bờ.  Nhưng từ bên này qua bờ bên kia có cách biệt bởi dòng sông thương đau của cành gai.  Đường về thánh thiện cũng thế thôi.  Liệu kẻ theo Đức Kitô có dám chèo qua dòng sông, rẽ gai bước tới?

Nguyễn Tầm Thường, SJ.

CHA TÔI YÊU TÔI TỪNG NGÀY

Cái số của tôi Ông Trời bắt không có cha, nên tôi không có một chút kinh nghiệm nào về người cha trần gian của tôi cả!  Tôi nhớ không lầm thì từ cái thuở tôi biết suy nghĩ thì không một lần tôi ao ước muốn có cha, tôi không hiểu sao vì sự ao ước ấy không một lần đến trong đầu và trong đời tôi?  Có thể vì khi tôi còn nhỏ thì hình ảnh của người cha của tất cả bạn bè hay người thân thương của tôi, họ không có sự trìu mến và yêu thương gia đình hay con cái của họ, để tôi cảm thấy cần phải có người cha bên cạnh.

Người cha trong ký ức của tôi là những người cha lạnh lùng và dữ tợn.  Tôi chỉ thấy họ la lối, đánh đòn, và phạt các con của họ qua rất nhiều hình thức khác nhau.  Có thể đó là cách thời của tôi xưa ở Việt Nam mà các người bố cần phải nghiêm nghị và dữ tợn vậy đối với các con của họ chăng?  Vì sợ chúng hư hỏng nhất là các con trai của họ.  Rồi thì trong trường học cũng vậy, sự trừng phạt những đứa học trò con trai là những lằn roi đánh vun vút vào các tay hay các lưng của những thằng học trò con trai, có thành tích luôn phá phách, mà tôi nghe ông nhà tôi kể lại.

Rồi thì sau biến cố của năm “75”, tôi đã được sang Mỹ định cư ở tuổi đời còn rất non trẻ.  Ở tuổi còn cắp sách đến trường học cho hết bốn năm trung học, rồi đại học.  Tôi cũng chẳng thấy cần có bóng dáng của người cha trong cuộc đời đầy khốn khổ và thiếu thốn của tôi.

Ở đây sở dĩ tôi không có ý than vãn gì đâu hay muốn được chú ý đến, hoặc muốn ai tội nghiệp dùm cho tôi, mà những gì tôi muốn nói ở phần sau mới là quan trọng cho cả cuộc đời tôi.

Có thể vì cuộc đời của tôi Ông Trời bắt phải vậy, phải khác với mọi người, phải như thế là để giúp Người một bàn tay cho công trình của Người trên trần thế này hay chăng?  Tôi chỉ biết có một điều là cả tuổi trẻ của tôi, không một người thân thiết có thể ủi an và xoa dịu được những gì quá khứ tôi phải một mình gánh chịu.  Tôi mồ côi mồ cút từ tấm bé.  Có cha nhưng được ghi vào thẻ học bạ và giấy khai sanh “bố: vô danh.”  Chắc nhờ thế mà tôi tự tung tự tác muốn học thì học mà muốn chơi thì chơi, chẳng một ai trông chừng trông đỗi tôi hết!  Nói thế chắc không đúng bởi nếu tôi mồ côi mồ cút, không ai trông chừng, chắc tôi đã ra hư hỏng từ lâu lắm rồi!

Thiết tưởng Cha tôi Người vẫn luôn trông chừng tôi qua Chúa Thánh Thần?  Giờ nghĩ lại tuy tôi không thấy Cha tôi đâu, nhưng có phải Người vẫn mãi sống gần bên tôi, như chưa từng bao giờ rời xa tôi cả!  Phải công nhận cả cuộc đời tôi sống gần như thui thủi có một mình, có những tư tưởng không mấy bình thường, cũng có những lần vui chơi không lành mạnh, nhưng không vì thế mà tôi vung đà quá trớn.  Có những điều quá khứ không làm cho tôi quên được!  Nhưng có phải thế tôi mới học đời và có kinh nghiệm đời?  Mà nhờ thế bây giờ tôi mới biết cách trông chừng và dậy các con cái của chúng tôi?

Vì tôi côi cút nên lửa của Chúa Thánh Thần trong tôi không được rực nóng lắm!  Vì tôi côi cút nên nhà thờ là nơi tôi ít tới lui.  Vì tôi côi cút nên hình bóng của Cha tôi không được rõ nét trong tâm hồn tôi và trong trái tim tôi.  Và vì tôi côi cút nên cuộc đời của tôi cũng không có gì gọi là thành công, ngoài lấy được cái chứng chỉ y tá quèn, cũng gọi là đủ để tôi phụ giúp ông nhà tôi trong suốt bao nhiêu năm trời cùng nhau dưỡng dục nuôi nấng các con của chúng tôi.

Nhưng việc gì đến thì nó phải đến thưa anh chị em!  Đó là ngày mà Chúa Thánh Thần đến để đánh thức tôi tỉnh dậy và trở về Nhà Cha trong tâm hồn quạnh quẽ của tôi.  Ngày ấy chắc Cha của tôi bảo là đã đến lúc Nó phải biết Cha của nó hiện hữu, và phải thay đổi cuộc sống của nó.  Phải biết là Nó có Cha và Cha nó rất thương nó.  Để cuộc sống của nó phải được thay đổi, và để con cái của nó có nguồn cội đàng hoàng, và để chồng của nó nữa cũng phải biết Cha.

Thế là từ ngày đó trở đi Nó vô cùng hạnh phúc vì đã được Cha của nó nhận diện.  Từ đó trở đi phụ tá của Cha nó đã luôn là người chỉ đạo cho nó sống thế nào thì vừa ý Cha của nó, sống sao để đẹp lòng Cha nó, và để sẽ được trở về nhà Cha nó vĩnh viễn.  Thế là từ ngày nó biết Cha nó đến nay, không ngày nào mà nó không gần Cha nó, để thủ thỉ ngày cũng như đêm.  Để hỏi ý kiến và cần người hướng dẫn.  Thế là từ ngày đó Nó thực sự hạnh phúc sống bên Cha đời đời của nó thưa anh chị em!  Không ngày nào mà nó không lãnh nhận được Ơn của Người Cha.  Không ngày nào mà nó còn ngờ vực hay nghi ngại trên con đường đời vì tuy Cha nó không thực sự nắm tay nó, nhưng Nó hiểu rất rõ là nó không đi xa hơn vòng tay yêu thương của Người.

Vâng, nhân ngày Father’s Day sắp đến đây, tuy tôi không có hình ảnh của người cha trần thế, nhưng tôi biết Cha của tôi đang ngự ở trên Trời, trong lòng, và trong trái tim của tôi.  Tôi biết trong ngày Father’s Day Cha tôi rất vui sướng vì Người biết tôi yêu Người.  Vì Người biết thấu trái tim tôi nên Người luôn gìn giữ tôi hằng ngày cho đến muôn đời sau.  Tôi cũng xin chúc mọi người cha trần thế, kính chúc quý cha Linh Mục, tìm được hạnh phúc trong gia đình và trong cộng đoàn.  Được Cha trên Trời luôn chúc lành và luôn yêu thương con cái Người bây giờ và mãi mãi, một tình yêu trao ban rất nhưng không. Amen.

Y Tá Của Chúa
Tuyết Mai