LỜI NGUYỆN VÀO THÀNH JERUSALEM

Lạy Chúa, Chúa đã nói với người mù: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”  Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.  Anh đã chọn một lối đi riêng cho anh. Chuẩn bị Lễ Vượt Qua, Chúa từ Jêricô về Jerusalem.  Trong đám người từ Jêricô này có anh mù Batimê.  Hôm nay con nghĩ nhiều tới anh trong cuộc rước Lá.  Bằng một linh hồn khôn ngoan, anh tìm cho mình một hướng đi.  Ở những bước chân con đang đi đây, anh mù Batimê ngày xưa cũng đã đi.

Lạy Chúa, Con không đến đây như khách du lịch.  Con là kẻ hành hương.  Con muốn đi lại những con đường lịch sử có thật.  Trên đường đi, con thấy lòng mình thật bâng khuâng.  Nơi này Chúa đã thực sự bước đi sao?  Con thấy Chúa quá gần con người.  Chúa là con người thật sự.  Nơi này anh mù Batimê đã đi hay sao.  Họ là những con người thật sự.

Khi đọc bài Chúa vào thành, con tưởng Chúa đi trên một đường mòn, như con đường làng.  Thấy địa lý vùng này con mới thấm thía khi Chúa dừng chân khóc Jerusalem.  Từ Bêtania và Bethage, leo núi Ôliu, từ độ cao con nhìn xuống, dưới chân núi Ôliu là thung lũng Kidron, và bên kia là thành Jerusalem.  Ở độ cao này, ánh mặt trời ngả chiều hắt xuống mái vàng đền thờ.  Bây giờ con mới thấy sự hoành tráng của các vì vua Salomon.  Con hiểu tại sao các môn đệ phải trầm trồ khen ngợi.  Kìa! Thầy nhìn vẻ đẹp của đền thờ.  Ðứng trên triền núi nhìn qua thung lũng Kidron, Jesusalem rất gần.  Gần trong không gian mà khó đến vì ngăn cách một thung lũng.  Thung lũng nhỏ thôi nhưng khó đến trong ý nghĩa thiêng liêng.  Phêrô chạy trốn.  Chính thung lũng Kidron này là nơi Ðavít đem quân lập quốc.  Bên này núi Ôliu, bây giờ có đền thờ Chúa khóc thương Jerusalem.  Ánh chiều hắt xuống, mầu vàng đền thờ rực sáng.  Bên bờ núi Ôliu này Chúa đem các môn đệ đến cầu nguyện và nghỉ ngơi.  Hai nghìn năm xưa với rừng ôliu thinh vắng, bên bờ núi này Chúa bị bắt.  Ðứng trên sườn đồi nhìn qua bên kia Jerusalem, con không ngờ con đang đi giữa những dấu tích lịch sử có thật của một thời Chúa đã đi qua.  Con phân vân hỏi lòng.  Thiên Chúa gần gũi con người đến như vậy sao.

Con đang vào Tuần Thánh.  Ðường đến Jerusalem với bóng hình của hai cuộc gặp gỡ: Ông Dakêu và người mù Batimê.

Ông Dakêu và người mù, cả hai đều là người “muốn nhìn.”

Ðể nhìn rõ, cả hai tìm lối lên cao.

Ðoàn người rước Lá qua chân núi Ôliu, nơi hôm nay có vương cung thánh đường Gietsimani.  Vườn Gietsimani còn sót lại mấy gốc ôliu già không biết từ nghìn năm nào.  Qua vườn Gietsimani là tới chân thung lũng vào cổng thành Jerusalem rồi.  Qua cổng thành, chừng mươi phút sẽ tới hồ Betsaiđa, nơi Chúa chữa người bất toại.

Lạy Chúa, Trên con đường này, đi thêm vài chục mét nữa là dinh tổng trấn Philatô.  Con đang ở rất gần nơi Chúa đã đứng ngày xưa.  Chặng Ðàng Thánh Giá bắt đầu từ dinh tổng trấn này lên đồi Golgotha.  Một chặng đường lên cao cho những ai muốn nhìn.  Chắc đoạn này phải có chân người mù Batimê từ Jêricô.  Vì anh là kẻ đi tìm ánh sáng, kẻ muốn nhìn.

Muốn sống vẻ đẹp phải là kẻ muốn nhìn.
Muốn nhìn vẻ đẹp phải lên cao.
Muốn lên cao cần phải bỏ đi những gì cản trở.

* * * * * * *

Lạy Chúa, nhiều người đã nâng đỡ con đi, đã chỉ cho con đi.  Con hiểu bước chân người mục tử phải đi về đâu, xin cho con những ơn cần thiết.  Làm sao con chuẩn bị lối đi hôm nay để bước vào đền thánh vĩnh cửu giờ con chết.  Con dự ngày lễ Lá ở Jerusalem cũng chẳng có ý nghĩa gì nếu không gặp dấu chân người xưa đã đi.

Mỗi người đều có một bước chân đi.  Chúa về Jerusalem để hoàn tất mầu nhiệm cứu độ.  Trong hành trình này Chúa nghỉ chân ở nhà mấy chị em Mácta.  Trưa nay con đang đi dưới bầu trời hanh nắng của vùng trời Chúa đã đi qua.  Căn nhà Mácta không còn.  Bóng người xưa không còn.  Còn lại là những trang Kinh Thánh nói cho con về những tình cảm êm đềm của mấy chị em này.  Con mong sao những nơi con dừng chân cũng có những tình cảm êm đềm như thế.  Có nhiều thứ tình cảm hôm nay, có nhiều thứ liên hệ thiệt thòi cho bước chân tự do.  Chúa không tránh những liên hệ cảm tình.  Phúc Âm tường thuật khi nghe tin Chúa đến, mấy chị em mừng lắm, chạy ra đón Chúa.  Tình cảm của Chúa là tình cảm rất con người.  Con mong sao và con sẽ gìn giữ những liên hệ tình cảm với người này, gia đình kia được thánh thiện, đơn sơ vui vẻ như liên hệ giữa Chúa với mấy chị em Mácta.

Xin cho con tha thiết với ánh sáng như anh mù Batimê.  Con cần can đảm đứng phắt dậy trong nhiều hoàn cảnh.  Như người mù khi nghe Chúa gọi, đứng phắt dậy, vứt cái áo choàng.  Con cần Chúa cho con tinh tế đối với những tấm áo choàng ăn xin mà hôm nay nó bao quanh cuộc sống bằng nhiều hình thức khác nhau.  Xin tình cảm.  Xin quyền lực.  Có nhiều công trình xem ra rất đẹp, nhưng nó vẫn là những chiếc áo choàng xin ăn.  Nhiều khi xin ăn hôm nay là một nghệ thuật.  Có khi người ta xét một người có giá trị nhiều hay ít là do khả năng người đó xin được nhiều hay ít.  Từ nghệ thuật xin ăn, nếu con tự tìm giá trị cho mình bằng những cuộc xin ăn thì tấm áo choàng trở nên quá nặng rồi.  Con cần tinh tế để biết lúc nào phải bỏ chiếc áo choàng lại.

Con cần đứng phắt dậy trong nhiều đau đớn.  Có những bóng đêm con tự xoay mình trong đó.  Nó có thể là quá khứ nuối tiếc, nó có thể là hiện tại hoang mang.  Nó có thể là ngần ngại mỏi mệt.  Anh mù ngồi bên bờ đường nhưng không ngồi bơ phờ.  Anh để ý người ta nói gì về Chúa.  Anh không nhìn thấy mầu sắc ngoài trời, anh nhìn mầu sắc trong linh hồn.  Cuộc đời anh vẫn là theo dõi một người, bởi anh biết người ấy thuộc dòng dõi con vua Ðavít.  Trong cái bóng tối buồn bã của con, chớ gì con biết ngồi ở chỗ Chúa có thể nhìn thấy đời con.

Xin Chúa cho con sáng kiến như ông Dakêu.  Cuộc sống đẹp là bước chân không gì ràng buộc được. Có nhiều thứ lên cao, nhưng lên cao để nhìn và để được nhìn là hai con đường khác nhau.  Cũng như con đường xuống thấp cũng vậy, xuống thấp để lãnh nhận như Dakêu thì khác xuống thấp trong bất mãn.  Con muốn lên cao để tìm mình, để nhìn trời, để gặp Chúa và yêu đời.

Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ
(Jerusalem Tuần Thánh 2006, Trích tập suy niệm KẺ ÐI TÌM)

ĐỨC TIN, HOÀI NGHI, ĐÊM TỐI, VÀ TRƯỞNG THÀNH

Trong một quyển sách nói về cầu nguyện chiêm niệm, Thomas Keating chia sẻ với chúng ta một chuyện mà cha nhiều lần nhắc đến khi linh hướng.  Người ta chạy đến với cha, chia sẻ rằng họ từng có một ý thức ấm áp và chắc chắn về Thiên Chúa trong cuộc đời mình, nhưng lại than với cha là hiện nay tất cả những ấm áp và xác quyết đó đã biến mất, và khiến cho họ phải đấu tranh với niềm tin, đấu tranh để cầu nguyện được như xưa.  Họ cảm nhận một cảm thức mất mát sâu sắc và lúc nào vấn đề của họ cũng là: Có chuyện gì với con thế này?”  Câu trả lời của cha Keating là: “Chúa có chuyện với con đó.”

Về căn bản, câu trả lời của Cha là: Dù bạn đau đớn, vẫn có một sự gì đó rất đúng với bạn.  Bạn đã qua thời tân tòng, đã qua các giai đoạn học đạo ban đầu cần có, và bây giờ bạn đang đi vào một đức tin, không phải bớt đi, nhưng là sâu sắc hơn.  Hơn nữa, sự sụt giảm lửa mến đó đưa bạn đến một sự trưởng thành chín chắn sâu đậm hơn.  Vậy nên, những gì bạn hỏi đúng ra là thế này: “Tôi từng khá chắc chắn về lòng đạo của mình, và cũng chắc chắn là nó có phần nào kiêu căng và phán xét.  Tôi cảm thấy tôi hiểu được Thiên Chúa và đạo, và tôi nhìn vào thế giới với đôi chút khinh thị.  Rồi đức tin tôi đi xuống, và cả những tin chắc của tôi nữa, giờ đây tôi thấy mình bớt chắc chắn về bản thân đi nhiều, biết khiêm nhượng, cảm thông và bớt phán xét đi nhiều.  Chuyện gì thế này?”

Hỏi như thế, thì cũng là câu trả lời.  Rõ ràng người đó đang tiến tới, chứ không phải thụt lùi.

Mất mát cũng là một bước.  Christina Crawford đã viết những dòng này, mô tả hành trình đau đớn của cô qua bóng tối để đến với sự chín chắn sâu đậm hơn. Để được cứu, trước hết, chúng ta phải nhận ra rằng, chúng ta đã lầm đường lạc lối, và thường thì cuộc sống chúng ta bị hụt hẫng để chúng ta nhận ra được điều này. Đôi khi, không có thuốc nào chữa chứng kiêu căng và tự phụ cho bằng một sự mất mát đầy đau đớn những xác quyết của mình về các ý niệm bản thân về Thiên Chúa, đức tin, và lòng đạo.

Thánh Gioan Thánh Giá đã nhận định rằng một đức tin lòng đạo sâu sắc bắt đầu khi chúng ta nỗ lực để hiểu, nhưng là bằng không hiểu hơn là hiểu.  Nhưng đây có thể là một cảm nghiệm rất bối rối và đau đớn, khiến nảy sinh cảm giác: Chuyện gì thế này?

Một động năng đầy hiếu kỳ và nghịch lý nằm ở đàng sau câu tự vấn này.  Chúng ta có khuynh hướng nhầm lẫn đức tin với năng lực của chúng ta trong việc vẽ lên một khái niệm về Thiên Chúa và hình dung sự hiện hữu của Ngài.  Hơn nữa, chúng ta nghĩ đức tin của mình mạnh nhất vào những lúc chúng ta có những cảm giác xúc động trước những tưởng tượng của chúng ta về Thiên Chúa.  Đức tin của chúng ta cảm thấy mạnh mẽ nhất khi được nâng đỡ và thổi bùng nhờ những cảm giác sốt mến đó.

Các ngòi bút thiêng liêng sẽ cho chúng ta biết rằng giai đoạn thiết tha này là một giai đoạn tốt trong đức tin, nhưng là một giai đoạn ban đầu, một cảm nghiệm chung khi chúng ta còn là những người mới theo đạo.  Cảm nghiệm thế này nâng đỡ đức tin.  Trong các giai đoạn đầu của cuộc lữ hành lòng đạo, thường có những hình dung và cảm giác mạnh mẽ đầy xúc động về Thiên Chúa.  Ở giai đoạn này, mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa cũng tương tự như mối quan hệ của cặp vợ chồng trong tuần trăng mật.

Trong tuần trăng mật, bạn có những cảm xúc mạnh mẽ và một sự chắc chắn nhất định về tình yêu của mình, nhưng rồi bạn sẽ về nhà.  Tuần trăng mật là một giai đoạn ban đầu, một món quà giá trị, nhưng là sự sẽ tan biến đi sau khi làm đủ phần của mình.  Một tuần trăng mật không phải là cả cuộc hôn nhân, dù người ta thường nhầm lẫn như thế.  Với đức tin cũng vậy, các hình dung tưởng tượng mạnh mẽ về Thiên Chúa không phải là đức tin, dù người ta thường nhầm lẫn như thế.

Các hình ảnh tưởng tượng và cảm xúc mạnh mẽ về Thiên Chúa, đến cuối cùng, chỉ là những hình dung.  Tuyệt vời, nhưng hình tượng thì vẫn là hình tượng.  Một hình ảnh không phải là thực tế.  Một hình tượng có thể đẹp và hữu ích giúp chúng ta hướng theo đường đúng đắn, nhưng khi nhầm lẫn hình tượng này với thực tế, thì nó trở thành một ngẫu tượng.

Vì lý do này, mà các ngòi bút thiêng liêng bảo chúng ta rằng, đến những thời điểm nhất định trong hành trình thiêng liêng của chúng ta, Thiên Chúa “lấy đi” sự tin chắc, tước mất của chúng ta những nồng ấm, những cảm giác trong đức tin.  Thiên Chúa làm thế chính là để chúng ta không thể biến các hình dung thành ngẫu tượng, để chúng ta không thể biến cảm nghiệm về đức tin thành mục đích cho chính đức tin, trong khi đức tin chính là một cuộc gặp gỡ hiện thực và nhân thể Thiên Chúa.

Các nhà thần nghiệm như Gioan Thánh Giá đã gọi cảm nghiệm tưởng như mất đức tin này là “đêm tối của linh hồn.”  Điều này mô tả cảm nghiệm khi chúng ta từng cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa một cách ấm áp và chắc chắn, nhưng bây giờ chúng ta cảm thấy như Thiên Chúa không hiện hữu, và chúng ta bị rơi vào hoài nghi.  Đây là những gì Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trên thập giá, và cũng là những gì Mẹ Teresa viết trong nhật ký của mình.

Và dù đêm tối tâm hồn đó có gây nhiều hoang mang, nhưng nó cũng có thể làm cho chúng ta trưởng thành.  Nó có thể giúp chúng ta ra khỏi sự kiêu căng, phán xét, ra khỏi tình trạng tân tòng, để trở nên những con người khiêm nhượng, cảm thông, sống trong một đám mây vô định, hiểu bằng cách không hiểu, hơn là hiểu, lạc lối nhưng được ơn ích trong một bóng đêm mà chúng ta không thể vận dụng hay điều khiển, để đến cuối cùng chúng ta được đẩy mạnh vào đức tin, đức cậy và đức mến đích thực.

Rev. Ron Rolheiser, OMI – J.B. Thái Hòa chuyển dịch

ĐẤNG GIẢI PHÓNG

Sống ở đời, chúng ta bị ràng buộc tư bề.  Con người bị ràng buộc do lối sống ích kỷ, do những thành kiến mặc cảm, và cũng có thể do những tham vọng đam mê và nhất là do tội lỗi.  Vì những ràng buộc này, con người trở thành nô lệ của chính mình, và họ luôn giãy giụa tìm cách để thoát ra khỏi vòng nô lệ ấy.  Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay muốn khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa là Đấng giải phóng và làm cho con người được tự do.

Dân Do Thái đang chán nản đau buồn trong cảnh lưu đày ở Babylon.  Họ phải sống trong cảnh tủi nhục nơi đất khách.  Không còn đền thờ, chẳng còn tư tế, vắng bóng các sinh hoạt truyền thống và các nghi thức tế tự.  Lòng người Do Thái quặn đau nơi lưu đày.  Họ không thể gượng vui mà hát xướng trước thái độ ngạo mạn của người bản địa.  Những người đạo đức luôn hoài niệm về quá khứ.  Họ hướng về Giêrusalem với đôi mắt đẫm lệ.  Trong bối cảnh ấy, Chúa dùng vua Cyrus, vua Ba Tư, cứu dân khỏi ách lưu đày và quyết định cho họ trở về quê cha đất tổ.  Khỏi phải nói, niềm vui của dân lưu đày vỡ oà.  Họ nhận ra Cyrus là vị cứu tinh.  Họ coi ông là người của Thiên Chúa đến để giải phóng dân riêng của Ngài và đưa về bến bờ tự do.

Nếu Thiên Chúa đã dùng ông Cyrus để cứu dân tộc Do Thái khỏi ách lưu đày ở Babylon, thì qua Đức Giêsu, Thiên Chúa muốn cứu độ cả thế gian, mọi nơi, mọi thời.  Ngài không cứu thế gian khỏi ách nô lệ của một chế độ, nhưng là ách nô lệ của tội lỗi, của quyền lực tối tăm.  Bài Tin Mừng ghi lại cuộc đàm đạo vào ban đêm giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô.  Ông này là thành viên Công nghị Do Thái, tạm coi như thành viên của quốc hội.  Ông cảm phục giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng còn nhiều điều băn khoăn nên đến gặp Người để khai thông trí tuệ.  Chúa Giêsu đã nói với ông về tình thương của Thiên Chúa Cha.  Tình thương ấy được chứng minh qua Ngôi Lời nhập thể, chính là người đang đàm đạo với ông về những thực tại thiêng liêng.  Đức Giêsu cũng khẳng định với ông Nicôđêmô: Thiên Chúa sai con của Ngài đến để giải phóng nhân loại.  Ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.  Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và quyền lực tối tăm.  Tình thương của Thiên Chúa được chứng minh qua mầu nhiệm thập giá.  Đức Giêsu đã nhắc tới con rắn đồng được treo trong sa mạc thời ông Môisen (x. Dân số 21,3-9) như hình ảnh báo trước cây thập giá.  Đương nhiên, Tin Mừng được viết sau biến cố thập giá và phục sinh, nên tác giả muốn diễn tả qua hình ảnh con rắn đồng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá.  Cũng như con rắn mang lại sức chữa lành cho dân Do Thái – những người bị rắn cắn – cái chết của Chúa Giêsu và sự phục sinh của Người cũng chữa lành những vết thương của con người do tội lỗi gây ra.

Chúa Giêsu khẳng định: một trong những điều kiện căn bản để được cứu độ hay được ơn giải thoát, đó là Đức tin vào quyền năng Thiên Chúa.  Tin là tự do chọn lựa Chúa và dấn thân sống hết mình vì chọn lựa đó.  Nếu bạn tin vào Chúa, bạn sẽ tìm được sự sống, sẽ được cứu độ trong ngày xét xử, sẽ được ánh sáng chiếu soi.  Một khi tin vào Chúa thì những hành động của bạn sẽ là những việc thiện lương.  Bởi lẽ bạn không thể tin vào Chúa mà lại có một lối sống ngược lại với điều bạn tuyên xưng.

Một cách cụ thể, tin vào Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô.  Tin vào Chúa không chỉ có nghĩa là tin Ngài đang hiện diện, mà còn là thiện chí thực hiện những điều Chúa Giêsu dạy.  “Ai khước từ Thày là khước từ Đấng đã sai Thày” (Lc 10-16).  Đức Tin giải thoát chúng ta khỏi sự chết và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.  Đón nhận và thực hiện lời Chúa Giêsu là tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa cách hữu hiệu nhất.  Nhờ việc tuân giữ giáo huấn của Người, chúng ta trở nên những tác phẩm của Thiên Chúa, được canh tân trong Chúa Giêsu, nên con người hoàn thiện, và như thế, chúng ta làm cho ánh vinh quang của Ngài tỏa rạng qua cuộc đời của chúng ta (x. Bài đọc II).

Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu vào ban đêm đã làm cho ông Nicôđêmô thay đổi cuộc đời.  Từ một người còn nghi ngờ, dè dặt, ông đã trở nên môn đệ của Chúa.  Ông không còn sợ hãi nữa, trái lại, ông đã công khai biện hộ cho Chúa Giêsu nơi những người biệt phái (x. Ga7,51) và đã cộng tác trong việc an táng Chúa Giêsu (x. Ga 19,39).  Một điều đáng chú ý là khi Chúa chịu chết đau thương trên thập giá, cũng chính là lúc ông Nicôđêmô sẵn sàng từ bỏ công danh sự nghiệp để công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu.  Thông thường ở đời, người ta đi theo và tôn vinh một người chiến thắng, không mấy ai chấp nhận đi theo một người bị lên án tử hình, như trường hợp ông Nicôđêmô.

Mùa Chay là thời điểm sống Đức tin một cách mãnh liệt hơn.  Phụng vụ khẳng định: nếu thành tâm tin vào Chúa, chúng ta sẽ tìm được niềm vui ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu.  Chúng ta lựa chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối?  Chúng ta đang làm việc thiện hay việc ác?  Chúng ta đang bảo vệ sự sống hay cổ võ sự chết?  Tất cả những vấn nạn này cần được trả lời bằng cuộc sống cụ thể của mỗi người.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”  Hãy nhìn lên cây thập giá để tôn vinh Chúa là Đấng giải phóng, để biết Chúa yêu chúng ta đến dường nào.  Từ cây thập giá, chúng ta học được những bài học cần thiết trong mối tương quan với Chúa và cách ứng xử với anh chị em.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

KHÁM TỔNG QUÁT

Sách Lê-vi, chương 13, đề cập 22 lần động từ “khám” – trong đó có 1 lần “tái khám.”  Đó là nói tới bệnh phong hủi ở con người.

Sinh, Lão, Bệnh, Tử là “chuỗi khổ” của kiếp người.  Trong đó, Bệnh là thứ cần được chữa lành.  Điều đó cũng ngầm hiểu rằng sự sống vô cùng quan trọng.  Và dù cho có chữa khỏi bệnh nào đó thì rồi cũng chẳng ai thoát khỏi “cửa tử”, y học có tiến bộ tới đâu thì cũng phải “bó tay”, chịu thua vô điều kiện.

Mùa Chay không chỉ là lúc thuận tiện để kiểm tra tổng quát về sức khỏe tâm linh, mà còn là Mùa Cứu Thương.  Mùa này không phải cố giành sự sống của thân xác – phần thể lý, mà cố giành sự sống linh hồn – phần tâm linh.  Trước tiên, có lẽ chúng ta cần đến Khoa Tai-Mũi-Họng để kiểm tra.  Trong sách Châm Ngôn 6:12-19, Thiên Chúa cảnh báo về Miệng, Lưỡi, Mắt, Tay, Chân, Tim và Óc (mưu tính).  Các cơ phận đó có vẻ đơn giản mà lại rất phức tạp!

Khám tổng quát để biết chi tiết.  Biết chi tiết nào trục trặc thì chữa trị ngay bằng biệt dược cầu nguyện, sám hối và đền tội.  Tất nhiên cũng phải “ăn kiêng” để việc điều trị thêm hiệu quả.  Về thể lý, đó là kiêng cữ một số thực phẩm nào đó; về tâm linh, đó là việc ăn chay và hãm mình.  Bỏ cái nhỏ để được cái to, bỏ cái đời thường (hạ cấp) để được cái diễm phúc (cao cấp).

Bệnh thể lý có thể chữa khỏi hoặc không thể khỏi, nhưng bệnh tâm linh chắc chắn được chữa lành nhờ Thần Y Giêsu.  Đây là một số câu Kinh Thánh cho chúng ta biết về hiệu quả của việc điều trị tại Nhà Thương Thiên Chúa:

1. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng (Tv 103:3-5).

2. Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành (Tv 147:3).

3. Ta sẽ mang lại cho nó một phương thuốc điều trị, sẽ chữa lành, sẽ tỏ cho chúng thấy một cảnh thái bình và một nền an ninh lâu dài (Gr 33:6).

4. Người gây thương tích, cũng chính Người băng bó, đánh bầm dập xong, lại ra tay chữa lành (G 5:18).

5. Tất cả những kẻ tiêu diệt ngươi sẽ bị tiêu diệt, mọi kẻ thù ngươi sẽ phải đi đày. Mọi kẻ bóc lột ngươi sẽ bị bóc lột, và mọi kẻ cướp phá ngươi, Ta sẽ để cho bị cướp phá. Phải, Ta sẽ phục thuốc cho ngươi, các thương tích của ngươi, Ta sẽ chữa lành vì người ta gọi ngươi là “Thành bị ruồng rẫy”, “Sion đó, kẻ chẳng được ai lo” (Gr 30:16-17).

6. Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân (Mt 4:23).

7. Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ (bị băng huyết mười hai năm) đã làm điều đó (sờ vào áo Ngài). Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người.  Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con.  Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5:32-34).

8. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành (1 Pr 2:24).

9. Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha.  Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát.  Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực (Gc 5:14-16).

10. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất (Kh 21:4).

Khám tổng quát và biết bệnh rồi thì phải điều trị ngay, càng sớm càng tốt.  Kinh Thánh xác định: “Người công chính phải có lòng nhân ái” (Kn 12:19).  Chính Thiên Chúa kê toa cho mỗi chúng ta: “Hãy trở về với Đức Chúa và từ bỏ tội lỗi, hãy cầu khẩn trước nhan Người và giảm bớt dịp tội.  Hãy đoạn tuyệt với gian ác, trở về cùng Đấng Tối Cao, và cực lực gớm ghét mọi điều ghê tởm” (Hc 17:25-26).

Với người phụ nữ ngoại tình (Ga 8:2-11), loại “bệnh” mà chúng ta thường coi như chứng nan y, dạng ung thư bất trị, thế mà Thần Y Giêsu chữa khỏi ngay chỉ bằng một liều thuốc đơn giản: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11).

Thần Dược thật tuyệt vời biết bao!  Thần Dược đó là “thương tình tha thứ.”  Loại biệt dược này vừa rẻ vừa hay.  Rẻ vì không tốn phí tức giận, ghen ghét, thù hận.  Hay là có hiệu quả mau chóng.

Nhà Thương Thiên Chúa là bệnh viện đa khoa, nhưng vẫn chuyên trị bất cứ chứng bệnh nào – kể cả các chứng nan y.  Hãy an tâm đến khám, hoàn toàn miễn phí cho mọi người – dù nghèo hay giàu.  Chỉ cần một chút “chi phí tùy tâm” là lòng thành tín (chân thành và tin tưởng).  Thế thôi!  Bệnh viện đa khoa nhưng có vô số “phòng khám tư” là Bí tích Hòa Giải, sau đó sẽ được bồi bổ bằng Bí tích Thánh Thể.

Nhà Thương Thiên Chúa tiếp nhận mọi bệnh nhân, dù nặng hay nhẹ.  Thời gian làm việc suốt ngày suốt đêm (24/7).  Hãy đến mau, đặc biệt trong Mùa Cứu Thương này: Mùa Chay.

Trầm Thiên Thu
Đêm Mùa Chay, 10-3-2019

IM LẶNG

Tội lỗi xấu xa tách rời Thiên Chúa
Tình thương chan chứa che phủ tội nhân

Thánh Mark khổ tu vừa khuyên nhủ vừa giải thích: “Ai đã phạm tội thì đừng thất vọng.  Đừng bao giờ.  Chúng ta không bị đoán phạt vì số lượng tội lỗi đã phạm, nhưng vì chúng ta không muốn sám hối và học biết những phép lạ của Chúa Kitô.”

Một trong các cặp đôi có thái cực đối lập là Tội và Tình.  Trong đó có một khoảng im lặng hoàn toàn, nhưng có khác nhau: Sự im lặng đó nặng nề và ngột ngạt đối với những kẻ lòng lang dạ thú, nhưng lại nhẹ nhàng và thông thoáng đối với những người thiện tâm.

Sự im lặng có thể là vàng – nghĩa là thực sự cần thiết, nhưng cũng có thể là “rác rưởi” vô ích, không cần thiết, thậm chí có thể là “chất độc” vì gây nguy hiểm.  Tội trái ngược với Tình, nhưng Tình liên quan mật thiết với Tha Thứ.  Các mẫu tự T độc đáo, mà cũng thực sự quan trọng trong cuộc đời chúng ta – đặc biệt đối với các Kitô hữu.

Kinh Thánh cảnh báo hai điều quan trọng liên quan tội lỗi: [1] “ĐỪNG tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa” (Hc 7:5), và [2] “ĐỪNG để tội nào trói buộc con đến hai lần, vì một lần thôi cũng đủ để bị phạt” (Hc 7:8).  Đó là dạng ảo tưởng và không nỗ lực (hoặc cố chấp).  Kinh Thánh cũng đề cập một dạng hệ lụy tất yếu: “ĐỪNG làm điều xấu thì cái xấu sẽ KHÔNG THẮNG được con” (Hc 7:1).  Chắc chắn là vậy, như người Việt cũng nói: “Cây ngay không sợ chết đứng.”

Đối với nhân loại, tội ác luôn trái ngược với tình yêu, tội lỗi luôn đối nghịch với lòng thương xót.  Tốt và xấu, hoặc lành và dữ, là những “cặp đối”, những thái cực hoàn toàn đối nghịch nhau, không thể “chung đường chung lối.”  Thật vậy, có tội ác thì không có tình yêu – và ngược lại.  Nhưng đối với Thiên Chúa thì lại khác hẳn, vì Lòng Thương Xót của Ngài còn lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại này, có thể hóa giải mọi thứ.  Đó là Mầu Nhiệm Tình Yêu mà loài người không bao giờ có thể hiểu được với trí óc hữu hạn phàm tục.

Quả thật như vậy, bất cứ điều gì đối với loài người là không thể thì đều có thể đối với Thiên Chúa, vì chính Ngài có thể biến hòn đá thành con cái của Áp-ra-ham (x. Mt 3:9) kia mà.  Như vậy, tư tưởng loài người chúng ta không làm sao có thể hiểu được ý Ngài.  Ngay như một người mẹ xả thân hy sinh vì một đứa con hư hỏng, chúng ta vẫn cho đó là một người mẹ nhu nhược, dại dột, hoặc ngu xuẩn.  Nhưng “yêu như điên” mới là yêu thật, yêu vì người được yêu, yêu vị tha chứ không chút vị kỷ.  Các dạng tình yêu của loài người dù có vị tha bao nhiêu thì vẫn có chút gì đó vị kỷ, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa là tuyệt đối vị tha.

TỘI THỪA – TÌNH THIẾU

Từ thời Cựu Ước xa xưa, ngôn sứ Isaia nói rõ về quyền năng của Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ: “Đức Chúa là Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương, một lối đi giữa sóng nước oai hùng, cho xuất trận nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng: tất cả đã nằm xuống, và không còn trỗi dậy, đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn” (Is 43:16-17).  Thật tuyệt vời, bởi vì chúng ta diễm phúc được tôn thờ một vị Chúa Tể như vậy, mặc dù “những lời chúng ta ca tụng Chúa không ích lợi gì cho Chúa, nhưng lại sinh ích lợi cho phần rỗi của chính chúng ta” (Kinh Tiền Tụng).  Thật là quá kỳ diệu, vượt trên cả sự tuyệt vời!

Rồi chính Thiên Chúa cũng đã căn dặn: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước” (Is 43:18).  Cái gì đã qua thì cho qua – Let bygones be bygones.  Bỏ qua chuyện cũ có nghĩa là yêu thương, là tha thứ, là quên cái Tội mà chỉ nhớ cái Tình.  Thiên Chúa sẵn sàng mở “con đường sống” cho dân chúng bằng cách thẩm vấn: “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?  Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn” (Is 43:19).  Hỏi thì hỏi nhưng Ngài lại trả lời. Vả lại, chính câu hỏi đó lại là cách trả lời xác định mạnh mẽ hơn.

Thật tuyệt vời về Thiên Chúa của chúng ta, vì chính Ngài minh định: “Loài dã thú, chó rừng và đà điểu, đều sẽ tôn vinh Ta; vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát” (Is 43:20).  Bởi vì Ngài “đã gầy dựng cho dân” nên “chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ngài” (Is 43:21a).  Thế nhưng buồn thay cho con người, chính “Israel bội nghĩa vong ân” (Is 43:21b).  Israel là dân Chúa, mà dân Chúa không chỉ là Israel mà còn là chính chúng ta – nghĩa là chính chúng ta cũng là những kẻ vong ân bội nghĩa.  Thật khốn biết bao!

Vì thế, chúng ta phải mau thức tỉnh mà trở về giao hòa với Ngài, càng sớm càng tốt, vì thời gian chẳng đợi chờ ai, giờ G đã điểm rồi.  Vả lại, Mùa Chay là thời điểm thuận tiện để sám hối, nhờ đó mà được Thiên Chúa thi ân và cứu độ (x. 2 Cr 6:2).

Thời điểm trở về là khoảnh khắc hạnh phúc vỡ òa bất ngờ, vì được chính Thiên Chúa dẫn đưa: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ,” và rồi họ “vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126:1-2).  Người ta ngạc nhiên khi thấy vậy, có những người trong dân ngoại xôn xao bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2).  Quả thật, “việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại!  Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3).  Chẳng phàm ngôn nào có thể diễn tả hết niềm vui sướng của tù nhân được phóng thích, ai đã ở tù rồi mới cảm nhận được rõ nét, có thể nói rằng chẳng khác chi từ hỏa ngục được bước vào thiên đàng, hoặc niềm hạnh phúc của đứa con hư hỏng được cha mẹ tha thứ và yêu thương như trước.  Khó có thể diễn tả trọn vẹn niềm hạnh phúc lớn lao như thế.

Noi gương Thánh Vịnh gia, chúng ta cùng chân thành cầu xin Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam” (Tv 126:4).  Cầu xin chân thành thì sẽ được xót thương, và niềm hạnh phúc sẽ dâng trào.  Thánh Padre Pio (Piô Năm Dấu) khuyên: “Hãy cầu nguyện, cứ hy vọng, và đừng lo lắng chi cả!”

Thật đơn giản mà kỳ diệu, chính niềm hạnh phúc khôn tả đó được ví như nông dân vất vả khi gieo hạt: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.  Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:5-6).  Hình ảnh rất thực tế và gần gũi với chúng ta – dù dân miền quê hay thành thị.

Cuộc sống bình thường nhưng vẫn luôn có những điều kỳ lạ.  Sau cú ngã ngựa “chí tử”, một Saolê của Tội đã biến thành một Phaolô của Tình.  Với kinh nghiệm bản thân, ông thật lòng tâm sự: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi.  Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.  Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3:8-9).  Phải thực sự cảm nghiệm Thiên Chúa sâu sắc lắm mới khả dĩ có quyết định rõ ràng như vậy.  Thật không dễ chút nào, thế nhưng nhờ tín thác và nhờ hồng ân Thiên Chúa, ai cũng có thể hành động như Thánh Phaolô vậy.

Không thể dừng lại, không thể không nói, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11).  Cảm nghiệm được như vậy nhưng thánh nhân vẫn khiêm nhường bộc bạch: “Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang CỐ GẮNG chạy tới, MONG chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt.  Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi.  Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3:12-13).  Đó cũng là điều mà ai cũng phải cố gắng – cố gắng triền miên, cố gắng không ngơi nghỉ.

Tuy nhiên, vấn đề không phải là chúng ta chiếm đoạt Đức Kitô, mà là tự nỗ lực hướng thiện để được Đức Kitô chiếm đoạt chúng ta.  Bởi vì mang thân phận phàm nhân, chúng ta quá yếu đuối, chỉ sơ sảy một chút là sa ngã ngay, chẳng ai dám nói khôn.  Vì thế, hãy không ngừng cố gắng học theo “phong cách” của Thánh Phaolô: “Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3:14).

TÌNH THƯƠNG THẮNG TỘI

Trình thuật Ga 8:2-11 ngắn gọn lời kể, nhưng đó là một bộ phim dài và hay, cốt truyện thú vị, tương phản hai cách đối xử – cách đối xử tồi tệ của đám đông (chủ yếu là những tay đầu xỏ) đối lập với cách đối xử khôn khéo và nhân từ của Chúa Giêsu.  Khi tư vấn hôn nhân và gia đình, người ta cũng thường lấy “điển tích” của đoạn Tin Mừng này để trưng dẫn.  Điều này cho thấy người đời, dù không là Kitô hữu, cũng vẫn phải công nhận cách cư xử tuyệt vời của Chúa Giêsu đối với một người yếu thế – một phụ nữ bị người ta bắt quả tang phạm tội ngoại tình và bị kết án tử.

Thánh sử Gioan cho biết: Vừa tảng sáng, Chúa Giêsu trở lại Đền Thờ.  Toàn dân đến với Ngài.  Ngài ngồi xuống giảng dạy họ.  Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.  Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.  Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.  Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8:4-5).

Đúng là họ đểu thật, vì chính họ gọi Chúa Giêsu là Thầy nhưng lại nói xỏ nói xiên nhằm thử Ngài, đặc biệt là họ muốn có bằng cớ để tố cáo Ngài.  Kinh tởm với những ác nhân có mặt người mà lòng lang dạ thú.  Thế nhưng Đức Giêsu vẫn thản nhiên, Ngài lặng lẽ ngồi xuống rồi lấy ngón tay viết trên đất.  Chẳng ai biết Ngài viết gì, có lẽ Ngài vẽ lên cát như trẻ con chơi đùa vậy thôi.  Tuy nhiên, Ngài làm vậy vừa hay vừa lạ.  Đúng như ca dao Việt Nam: “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo.”  Lúc đó, chắc hẳn các kinh sư và người Pharisêu tức điên lên được, nhưng cũng đành “bó tay” thôi.  Bồ hòn có vị đắng chát cỡ nào thì cũng đành ráng coi như vị ngọt.

Tuy nhiên, lũ ác nhân cứ gạn hỏi mãi, dai như đỉa đói, thế nên Ngài ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8:7).  Ui da, “sốc” ghê đi!  Rồi Ngài lại cúi xuống tiếp tục loáy ngoáy viết trên đất như chẳng có chuyện gì xảy ra.  Ai ngon thì cứ chơi?  Và rồi như kịch bản được viết sẵn, họ nghe Chúa Giêsu hỏi vậy thì cứ từ từ rút lui có trật tự, người trước bước đâu người sau bước đó, bắt đầu từ những người lớn tuổi.  Họ “đau” lắm mà không nói lại được gì.  Kể cũng “căng” dữ nghen!

Tại sao người lớn tuổi đi trước?  Bởi vì người lớn tuổi là người sống lâu năm, mà càng sống thọ thì càng tội nhiều.  Rất minh nhiên.  Nói ít, hiểu nhiều.  Chúa Giêsu chẳng học luật, không làm luật sư, và cũng chẳng làm thẩm phán, thế mà lý lẽ thâm thúy dù cách nói rất đơn giản, ai cũng có thể hiểu.  Chúa Giêsu đúng là thần tượng và vô địch.  Thật tuyệt vời!

Ngay sau đó, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, còn người phụ nữ vẫn đứng đó.  Có lẽ lúc này chị còn run rẩy và cũng vẫn sợ lắm.  Nhưng Chúa Giêsu ngẩng lên và nhẹ nhàng hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”  Chị khép nép và run giọng đáp: “Thưa ông, không có ai cả.”  Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!  Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11b).  Khi nói lời tha thứ này, có lẽ Chúa Giêsu cười rất hiền từ.  Án tử dành cho ả giang hồ chợt chuyển thành trắng án, hoàn toàn được tha bổng.

Thế là xong.  Chữ Tình đã hóa kiếp chữ Tội.  Nhưng vẫn có dấu hỏi to lớn.  Còn thắc mắc hoặc hỏi han gì nữa?  Còn chứ!  Liệu chúng ta có dám nhận mình cũng đã và đang có cách hành xử như các kinh sư ác ôn và nhóm biệt phái giả hình?  Có lẽ chúng ta không dám hành động rõ ràng như họ, nhưng sự thật là chúng ta vẫn hành xử như họ một cách tinh vi hơn họ đấy!

Chúa Giêsu ghét tội chứ không ghét người có tội.  Ai đã ngã mới biết đau, ai đã lỗi lầm mới biết cần được thông cảm.  Có một hệ lụy mang tính triết lý sống mà chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai được tha thứ nhiều thì yêu mến nhiều” (Lc 7:41-43; Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8.  Đó là chuyện cô nàng lấy tóc lau chân Chúa tại nhà ông Simôn cùi (không phải người phụ nữ ngoại tình trong Tin Mừng hôm nay).  Chúng ta cũng như phụ nữ ngoại tình, đã phạm tội, bị người ta ghét bỏ, nhưng lại được Thiên Chúa tiếp nhận và phục hồi cương vị làm con.  Niềm hạnh phúc lớn lao vô cùng!

Lạy Thiên Chúa, mặc dù chúng con là những tội nhân bất xứng, nhưng chúng con vẫn được Ngài tha bổng biết bao lần, mở con đường sống cho chúng con.  Xin cảm tạ Ngài đã không kết án chúng con, xin giúp chúng con biết thể hiện lòng thương xót với bất kỳ ai để minh chứng cụ thể.  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.  Amen!

Trầm Thiên Thu
Niệm khúc Tin Mừng TRẮNG ÁN
https://youtu.be/MOzmf4RalQk

LÀM MỚI ĐỀN THỜ TÂM HỒN

Trong những năm gần đây, báo chí thường chạy những bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi các đền chùa trong những dịp lễ hội đầu năm: nào là chen lấn xô đẩy để lĩnh ấn Đền Trần, nào là buôn bán chặt chém khách hành hương Chùa Hương, nào là hỗn loạn xin lộc đền bà Chúa Kho, v.v…  Mục đích đi chùa chiền là để cầu an, hay cầu tài, cầu lộc.  Nhưng nhiều khi tài lộc đâu không thấy mà thấy mất tiền vì bị kẻ gian móc túi, hay bị những người bán hàng chặt chém.  An bình đâu không thấy chỉ thấy bất an vì bị chen lấn, xô đẩy, bị văng tục khi không mua hàng của người mời, hay mua cho người này mà không mua cho người kia, v.v…  Thế mới thấy rằng chính não trạng vụ lợi muốn biến thần thánh thành công cụ phục vụ lòng ham muốn của mình đã mở đường cho việc thương mại hóa những giá trị cao quý linh thiêng của văn hóa và tín ngưỡng.

Cũng với não trạng ấy, người Do Thái xưa kia đã biến sân Đền Thờ Giêrusalem, một nơi thánh thiêng, thành một nơi bát nháo để trao đổi buôn bán, nhằm trục lợi.  Là Con Thiên Chúa và là Đấng Thánh, Chúa Giêsu không chấp nhận để Đền Thờ, “nhà của Cha Ngài,” bị tục hoá, giải thiêng, và làm cho trở nên ô uế.  Ngài đã hành động thẳng thắn để trả lại ý nghĩa đích thực của nó; đồng thời Ngài muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.

Đọc lại lịch sử dân thánh, ta có thể thấy Đền Thờ Giêrusalem mang ba ý nghĩa rất quan trọng sau đây:

1. Trước hết, Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết

Từ xa xưa, người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người.  Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau.  Gặp gỡ để thờ phượng, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.

Thế nhưng, một số người đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác.  Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chỗ đứng của Đền Thờ, vốn là “Nhà cầu nguyện”, nhà của sự gặp gỡ và nối kết giữa Thiên Chúa và con người.

2. Thứ đến, Giêrusalem còn là dấu chứng của tình yêu và hiệp nhất

Quả không sai khi nói rằng Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với dân Người, đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước.  Thánh Vịnh Lên Đền 122 đã nói lên ý nghĩa này: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: “Ta cùng trẩy lên Đền thánh Chúa!”  Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân.”

Thế mà các giới chức Do Thái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi…).  Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại.  Từ nay, mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo … đều được tôn trọng và đón nhận.  Tắt một lời, Đền Thờ phải là nơi dành cho tất cả mọi người.

3. Sau nữa, Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng tinh tuyền

Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ.  Vì đối với họ, không có nơi nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh và siêu việt của cõi thiên giới.  Bởi đó ta không ngạc nhiên khi thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem mà thề.

Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chỗ mua danh, chốn lạm quyền, v.v…  Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ.  Đồng thời, qua hành động và lời nói mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân Thể của Ngài.

Quả vậy, Đức Kitô chính là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được ba ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.

Trong Đức Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là anh em.  Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên “Aba” – lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.

Trong Đức Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường nghe đọc: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.”

Trong Đức Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng.

Hãy nhớ rằng trong Đức Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy.  Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy.”  Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô.  Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý.  Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có nguy nga đồ sộ như Đền thờ Giêrusalem đi chăng nữa, cũng đã tiêu tan.  Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ bền vững thiên thu.  Thế nhưng hằng ngày chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa?  Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính tóan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi, và bao nhiêu thói hư tật xấu khác?

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để ta làm mới lại tâm hồn của mình.  Xin Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương thanh tẩy tâm hồn chúng ta mỗi ngày.  Xin Ngài tiếp tục xua đuổi và lật nhào những gì làm cho tâm hồn chúng ta ra ô nhơ để trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào.  Amen!

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

CÁM DỖ CUỐI CÙNG

Cám dỗ cuối cùng là cám dỗ phản bội lớn nhất: Làm điều đúng nhưng với lý do sai.

Nhà thơ người Mỹ Thomas Stearns Eliot (1888-1965) đã viết câu trên để nói lên khó khăn biết bao khi loại bỏ các lý do xấu trong hành động tốt của chúng ta, bỏ tính ích kỷ để cuối cùng đừng làm các việc chính nghĩa chỉ vì mình.

Nhân vật chính trong vở Giết người ở Nhà thờ chính tòa (Murder in the Cathedral) của T. S. Eliot là Thomas Becket, Tổng giám mục giáo phận Canterbury, người đã tử vì đạo vì đức tin của mình.  Từ mọi hình thức bên ngoài, Becket là vị thánh, vị tha, hành động do đức tin và tình yêu thúc đẩy.  Nhưng như Eliot trêu chọc trong tác phẩm Giết người ở nhà thờ chính tòa, chuyện bên ngoài không nói lên chuyện bên trong sâu sắc hơn, không cho thấy hậu quả tận căn hơn.  Không phải vì Thomas Becket không phải là vị thánh hoặc không trung thực trong động lực làm điều tốt; nhưng đúng hơn đây là “cám dỗ cuối cùng” ông cần vượt lên để trở thành một vị thánh hoàn hảo.  Bên dưới bề mặt, luôn có một trận đấu tranh đạo đức sâu đậm hơn, tinh tế và vô hình hơn, một “cám dỗ cuối cùng” cần vượt lên.  Cám dỗ cuối cùng đó là cám dỗ gì?

Đó là cám dỗ được ngụy trang như một ơn và cám dỗ chúng ta theo cách: không vụ lợi, trung thành, làm điều tốt, không bao giờ thỏa hiệp với sự thật, quan tâm đến người khác, đưa cô đơn của mình lên một mức độ cao, vượt lên trên sự tầm thường của đám đông, là người có đạo đức xuất chúng, chấp nhận tử đạo nếu được yêu cầu.  Nhưng tại sao?  Vì lý do gì?

Có nhiều lý do để giải thích vì sao chúng ta muốn trở thành người tốt, nhưng động cơ ngụy trang như một ơn thực sự là một cám dỗ tiêu cực chính là điều này: hãy tốt vì được kính trọng, được ngưỡng mộ, bạn sẽ có danh tiếng mãi mãi vì điều này sẽ mang đến cho bạn.  Đây là cám dỗ mà người tốt phải đối diện.  Muốn có danh thơm không phải là một chuyện xấu, nhưng cuối cùng nó vẫn thuộc về chúng ta.

Trong những lúc suy nghĩ sâu xa, tôi bị ám ảnh về chuyện này và nó làm cho tôi nghi ngờ về mình.  Những gì tôi làm thực sự tôi làm cho Chúa Giêsu, cho người khác, cho thế giới hay tôi làm cho danh thơm của tôi, và tôi hài lòng về việc này như thế nào?  Tôi làm cho người khác để họ có thể có cuộc sống trọn vẹn hơn, ít sợ hãi hơn hay tôi làm vì được tôn trọng?  Khi tôi đi dạy, có phải động lực chính là làm cho người khác yêu Chúa hay để tôi được ngưỡng mộ vì tư tưởng của tôi?  Khi tôi viết sách báo, tôi thực sự cố gắng truyền khôn ngoan hay tôi muốn cho thấy tôi khôn ngoan đến như thế nào?  Đó là cho Chúa hay cho tôi?

Có lẽ chúng ta không bao giờ thực sự có thể có câu trả lời vì động lực của chúng ta luôn lẫn lộn và không thể phân loại chính xác.  Tuy nhiên, chúng ta còn nợ người khác và chính mình về điều này, xem xét kỹ lưỡng về cầu nguyện, về lương tâm trong việc hướng dẫn thiêng liêng, khi thảo luận với người khác.  Làm thế nào để chúng ta vượt qua “cám dỗ cuối cùng” đó, để làm những điều đúng đắn và không làm chỉ vì chúng ta?

Cuộc đấu tranh để vượt lên tính ích kỷ và động lực bản thân bằng tấm lòng vị tha trong sáng, trung thực có thể là một trận chiến không thể phân thắng bại.  Theo kinh điển, chúng ta có bảy mối tội đầu (kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, giận dữ, tham ăn, tham lam, lười biếng) gắn liền với bản chất của chúng ta và với chúng, chúng ta sẽ phải đấu tranh suốt đời.  Vấn đề là chúng ta tưởng mình đã vượt lên được, thì chúng ta lại ngụy trang dưới hình thức tế nhị hơn trong cuộc sống của mình.  Chẳng hạn, Chúa Giêsu khuyên không nên tự cao tìm chỗ cao nhất trong bàn ăn, sau đó phải xấu hổ khi bị mời xuống chỗ thấp hơn, nhưng khiêm nhường ngồi ở chỗ thấp nhất để sau đó được mời lên chỗ cao.  Rõ ràng, đây là lời khuyên thiết thực, nhưng nó cũng có thể tạo ra một kiểu tự hào để chúng ta có thể thực sự được tự hào.  Một khi chúng ta tỏ ra mình khiêm tốn và chúng ta được công chúng công nhận, chúng ta còn cảm thấy tự hào thực sự cao hơn là sự khiêm tốn của mình!  Với các mối tội đầu khác cũng vậy.  Khi chúng ta thành công để không nhường bước trước các cám dỗ khó khăn hơn, chúng sẽ bắt rễ lại trong các hình thức tinh vi hơn trong lòng chúng ta.

Chúng ta chỉ công khai và vụng về làm các lỗi lầm của mình khi chúng ta chưa trưởng thành, và thường nó không còn khi chúng ta đã trưởng thành.  Đơn giản chúng có hình thức tinh tế hơn.  Chẳng hạn khi tôi chưa trưởng thành, tôi còn bị cuốn hút trong đời sống riêng và tham vọng của mình, có thể tôi chưa nghĩ nhiều đến việc giúp đỡ người nghèo.  Nhưng khi tôi lớn tuổi hơn, chín chắn hơn và được học thần học nhiều hơn, tôi sẽ viết các bài báo công khai thú nhận chúng ta cần phải làm nhiều hơn cho người nghèo.  Vậy mà, thách thức người khác và chính mình quan tâm đến người nghèo là một điều tốt… và mặc dù điều này có thể sẽ không giúp được gì nhiều cho người nghèo, nhưng chắc chắn sẽ giúp tôi cảm thấy tốt hơn cho chính tôi.

Làm thế nào để chúng ta có thể vượt lên điều này, vượt lên cám dỗ cuối cùng này, để làm điều đúng nhưng với lý do sai?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

TẠI SAO NGƯỜI CÔNG GIÁO PHẢI ĂN CHAY?

Chúng tôi đã trải qua một cuối tuần ướt át lê thê ở giữa rừng.  Và bây giờ, buổi sáng Chúa nhật, người lớn báo cho biết bữa sáng sẽ được hoãn lại để những người Công giáo có thể giữ chay rước Lễ.  Cậu ấy là một trong các trại viên với nét mặt không được vui lắm.

Thắc mắc của cậu ta hiện lên trong trí khi Mùa Chay lại bắt đầu, vì ăn chay là việc thực hành đặc trưng nhất của mùa này.  Trong hai ngày Mùa Chay, Thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh, người Công giáo hạn chế việc ăn uống để không ăn no và kiêng thịt.  Vào tất cả các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay họ kiêng thịt.

Tại sao người Công giáo ăn chay?  Các lý do có nền tảng chắc chắn trong Kinh Thánh không?

Khi ăn chay, ta noi theo tấm gương thánh thiện.  Môsê và Êlia đã ăn chay bốn mươi ngày trước khi đến trước nhan Thánh Chúa (Xh 34:28, 1 V 19: 8).  Bà tiên tri Anna đã ăn chay để dọn mình đón Đấng Mêsia đến (Lc 2:37).  Tất cả họ đều muốn nhìn thấy Thiên Chúa và xem việc ăn chay là một điều kiện tiên quyết cơ bản.  Chúng ta cũng muốn Chúa hiện diện, vì vậy chúng ta ăn chay.

Chúa Giêsu đã ăn chay (Mt 4: 2).  Vì Ngài không cần phải thanh tịnh, nên chắc chắn Ngài đã làm điều này cốt để làm gương cho chúng ta.  Thật vậy, Ngài cho rằng tất cả các Kitô hữu sẽ theo gương mình.  Ngài nói: “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay” (Mt 6:16).  Lưu ý Ngài đã không nói “NẾU anh em ăn chay”, nhưng “khi.”

Và KHI bây giờ, vào Mùa Chay, Giáo Hội mở rộng ý tưởng của việc ăn chay, ngoài việc nhỏ bỏ qua các bữa ăn đến một chương trình vươn xa hơn là tự bỏ chính mình.  Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23).  Vì vậy, ta “bỏ” điều gì đó mà ta thường ưa thích: kẹo, nước ngọt, một chương trình truyền hình yêu thích hoặc ngủ nướng thêm.

Ăn chay có lợi cho sức khỏe, nhưng không giống như ăn kiêng.  Ăn chay là điều gì đó thiêng liêng và tích cực hơn nhiều.  Ăn chay là một bữa tiệc thiêng liêng.  Chay tịnh cần cho linh hồn giống như thể xác cần có của ăn.

Kinh Thánh giải thích rõ ràng những lợi ích tinh thần cụ thể của việc ăn chay.  Chay tịnh mang lại sự khiêm nhường (Tv 69:10).  Chay tịnh tỏ lộ sự đau buồn vì tội lỗi của ta (1 Sm 7: 6).  Chay tịnh dọn đường đến với Chúa (Đn 9: 3).  Chay tịnh là phương thế để nhận biết ý Chúa (Er 8:21) và là một phương pháp cầu nguyện rất hữu hiệu (08:23).  Đó là dấu chỉ sự hoán cải đích thực (Ge 2:12).

Ăn chay giúp ta dứt bỏ những gì thuộc trần gian này.  Chúng ta ăn chay không phải vì những thứ trần tục xấu xa, nhưng chính vì chúng tốt đẹp.  Chúng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho chúng ta.  Nhưng chúng tốt đẹp đến độ đôi khi ta thích những món quà này hơn cả Đấng đã ban cho.  Ta hóa ra đam mê lạc thú hơn là từ bỏ chính mình.  Ta thường hay ăn uống đến độ quên cả Chúa.  Những đam mê như vậy thực ra là một hình thức sung bái ngẫu tượng. Điều mà Thánh Phaolô có ý khi ngài nói, “Chúa họ thờ là cái bụng… những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian” (Pl 3:19).

Làm sao chúng ta có thể hưởng những ân ban của Thiên Chúa mà không quên Đấng ban cho?  Ăn chay là cách bắt đầu thích hợp.  Thân xác muốn nhiều hơn nó cần, vì vậy chúng ta nên cho nó ít hơn nó muốn.

Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng chúng ta không thể nâng tâm hồn lên với Chúa, nếu ta bị ràng buộc vào những thứ thuộc trần gian này.  Vì vậy, chúng ta bỏ những thứ thoải mái, dễ chịu và dần dần chúng ta không còn bị phụ thuộc nhiều vào chúng, không còn thấy quá cần thiết nữa.

Tất cả điều này là một phần chuẩn bị của chúng ta cho Nước Trời.  Vì dù sao ta cũng phải đi đến chỗ mất những thứ tốt đẹp ở trần gian.  Thời gian, tuổi tác, bệnh tật và “các chỉ định của bác sĩ” có thể không cho thưởng thức mùi vị của kẹo sôcôla, ly bia lạnh, và thậm chí cả những vòng tay thân mật từ người thân yêu của mình nữa.  Nếu ta không kiêng bớt các ước muốn của mình thì những mất mát này sẽ để cho ta những cay đắng và xa cách Thiên Chúa.  Nhưng nếu chúng ta theo Chúa Giêsu từ bỏ chính mình, chúng ta sẽ tìm được sự yên ủi thường xuyên hơn trong sự tốt lành tối hậu – là chính Thiên Chúa.

Làm sao mà một số người vẫn có thể thanh thản và tươi vui trong bối cảnh hết sức đau khổ và cả khi phải đối mặt với cái chết sắp xảy ra?  Điều ấy không phải chỉ là vấn đề của tính tình.  Họ đã chuẩn bị bản thân cho lúc phải bỏ những thứ của trần gian này, mỗi lần một chút.  Họ đã quen dần với sự hy sinh nhỏ bé để rồi sự hy sinh lớn không còn quá sức nữa.

Không ai nói ăn chay là dễ.  Thực vậy, Cha Thomas Acklin dòng Biển Đức, tác giả quyển The Passion of the Lamb: God’s Love Poured Out in Jesus, nói: “Ăn chay dường như là rất khó, và có vẻ như nếu không ăn tôi sẽ thành suy nhược, sẽ không làm việc được nữa, hoặc không thể cầu nguyện hay làm bất cứ điều gì khác.”

Ngài nói thêm: “Tuy nhiên, có khoảnh khắc tuyệt diệu, khi sau một ít giờ trôi qua, dạ dày của tôi không còn cồn cào và thậm chí tôi quên đi những gì mình đã bỏ qua, khi ấy có cảm giác nhẹ nhàng, tự do, sáng tỏ, thái độ và cảm nhận minh mẫn, một sự gần gũi với Chúa không thể so sánh được.”

Mùa Chay là một dịp đặc biệt, nhưng Chúa muốn bốn mươi ngày ấy có một ảnh hưởng lâu dài trong cuộc sống chúng ta.  Vì vậy, trong một nghĩa nào đó, ăn chay cần được giữ mãi.  Cha Rene Schatteman, một tuyên úy của Opus Dei ở Pittsburgh, nói rằng ngài đã tiếp thu được bài học này trực tiếp từ một vị thánh. “Tôi đã học được từ Thánh Josemaria Escriva, người mà đích thân tôi có vinh dự được biết, một người đã thực hiện các hy sinh nhỏ bé ở mỗi bữa ăn, luôn luôn như vậy, không chỉ trong Mùa Chay.”

Cha Schatteman nhấn mạnh tầm quan trọng của những điều nhỏ nhặt, và ảnh hưởng lớn mà chúng có thể mang lại: “Tất cả chúng ta nên cảm thấy cần phải giúp Chúa Kitô cứu chuộc thế giới bằng việc thực hành từ bỏ chính mình mỗi ngày, việc ăn uống bình thường… để bỏ đi một chút, hoặc một chút ít thứ chúng ta thích nhất, tránh ăn giữa các bữa, bỏ qua bữa ăn nhẹ hoặc món tráng miệng, v.v… mà không làm cho nó lớn chuyện.”

Một doanh nhân ở Pittsburgh (yêu cầu giấu tên) nói với tôi về việc thực hành ăn chay của ông vào các ngày thứ Sáu trong thời gian dài, “nhịn ăn 12 – 15 giờ, chỉ uống nước.”  Ông nói, tuy nhiên, điều này có thể khó thực hiện, không phải vì đói, nhưng vì nó có thể gây trở ngại cho cuộc sống gia đình.  “Thật khó để ngồi vào bàn ăn ở gia đình mà không ăn.  Chuyện cưỡng lại sự cám dỗ của món ăn không thành vấn đề lắm.  Tôi luôn cảm thấy như mình đang bị mất đi những giây phút gần gũi thân tình.  Việc ăn chay của tôi thực sự làm mình cảm thấy ích kỷ, như tôi đang lấy đi cái gì đó khỏi thời gian gia đình mình giữa những bữa ăn gần gũi với nhau.”

Từ khi ấy ông đã sửa đổi việc ăn chay của mình, “không thực hiện vào bữa tối của gia đình.”

Tại sao người Công giáo ăn chay?  Doanh nhân giấu tên ấy diễn tả điều này thật hay: “Nó là phương thuốc cho vấn đề lớn nhất của tôi là ích kỷ và thiếu tự chủ.  Để buộc bản thân mình kiềm chế thèm ăn, chứ không phải để thỏa mãn mong muốn của mình ngay cả chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, đấy là cách giữ chay tốt lành.  Để dâng một chút hy sinh cho Chúa, cho gia đình mình, cho những người đang đói mà không có sự lựa chọn nào cho riêng họ, điều này tôi nghĩ cũng có ích.”

Ba dấu chỉ đặc trưng của Mùa Chay: Cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.

Jos. Lê Công Thượng (chuyển ngữ từ catholiceducation.org)

HAI KHUÔN MẶT MỘT TÌNH YÊU

Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt.  Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tùy sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.

Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi.  Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.

Với một thân mình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình.  Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất.  Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi.  Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.

Thưa anh chị em,

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha, cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa.  Ở giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta.  Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người.  Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu.  Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến.  Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa.  Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài.  Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao?  (Rm 8,32).  Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?  Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thập giá trên núi Sọ.  Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.

Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa.”  Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh.  Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo.  Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó.  Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng.  Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa.  Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.

Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ.  Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta, góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

BÀI HỌC TỪ TỘI CỦA PHÊRÔ VÀ GIUĐA

Trình thuật Lc 22:54-62 (≈ Mt 26:57, 69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Ga 18:12-18, 25-27) cho biết: Họ bắt Đức Giêsu, điệu Người đến nhà vị thượng tế.  Còn ông Phê-rô thì theo xa xa.  Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phêrô đến ngồi giữa họ.  Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: “Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!”  Ông liền chối: “Tôi có biết ông ấy đâu, chị!”

Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: “Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng!”  Nhưng ông Phêrô đáp lại: “Này anh, không phải đâu!”  Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: “Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê.”  Nhưng ông Phêrô trả lời: “Này anh, tôi không biết anh nói gì!”  Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy.  Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.”  Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

Có lẽ ba lần ông Simôn Phêrô chối Thầy là lúc đáng tiếc nhất trong đời ông.  Biết rõ Thầy mình là Đức Giêsu Kitô, là sư phụ, là bạn hữu, và Chúa, thế mà ông vẫn chối phăng.  Thật khiêm nhường khi Phêrô chia sẻ chuyện buồn đó với Giáo Hội sơ khai, và thật tuyệt vời vì Chúa Thánh Thần linh hứng để câu chuyện đó được ghi chép lại trong các Phúc Âm.  Ông Simôn Phêrô cho chúng ta biết rằng người sa ngã có thể đứng dậy, người lang thang có thể trở về, các tội nhân đều có thể được tha thứ, dù cho người đó phạm tội nặng thế nào cũng có thể trở nên các vị đại thánh.

Chúa Giêsu phục hồi chức vụ cho Phêrô sau khi Ngài sống lại, lúc đó có đống lửa ở bờ biển Galilê.  Như phản ánh ba lần Phêrô chối Thầy, Chúa Giêsu cũng hỏi ông ba lần: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”  Simôn Phêrô thưa: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”   Chúa Giêsu bảo ông chăm sóc chiên con và chiên mẹ.  Bí tích Hòa Giải (xưng tội) là cách gặp gỡ Chúa Giêsu khi chúng ta tuyên xưng tình yêu của mình dành cho Thiên Chúa và lãnh nhận ơn tha thứ qua thừa tác viên linh mục.

Mặc dù tội của Simôn Phêrô đã được tha nhưng vẫn không phải là không mất mát và các cơ hội bị lãng phí.  Trong khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn, người ta thấy Ngài kiệt sức nên bắt ông Simôn người Kyrênê vác đỡ thập giá.  Nếu Simôn Phêrô không phạm tội chối Thầy đêm trước thì có lẽ ông có mặt lúc đó để giúp đỡ Thầy mình bằng cách vác thập giá mà đi với Thầy.  Thế thì tuyệt vời biết bao!  Nhưng cơ hội lại dành cho ông Simôn khác.

Tạ ơn Chúa, Thánh Phêrô đã sám hối.  Ông không thất vọng như Giuđa Iscariot.  Khi Giuđa thấy Chúa Giêsu bị kết án tử và bị dẫn đi hành hình, ông cũng rất hối hận về việc làm sai trái của mình.  Có người cho rằng lý do Giuđa bán Thầy vì muốn đối chất với các nhà lãnh đạo Israel về việc bắt Chúa Giêsu phải dùng quyền năng của Ngài và lên ngôi.  Giuđa đã trả lại 30 đồng bạc cho các thượng tế và kỳ mục rồi thú nhận: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan” (Mt 27:4a).  Nhưng họ thản nhiên trả lời: “Can gì đến chúng tôi.  Mặc kệ anh!” (Mt 27:4b).  Chính tay Giuđa đã ném trả số bạc đó vô Đền Thờ rồi đi thắt cổ.

Nếu như chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, Giuđa chạy ngay lên Can-vê thì sao?  Nếu ông sụp lạy dưới chân thập giá đang treo Đức Kitô và xin Ngài tha thứ thì sao?  Chúa Giêsu đã nói gì và làm gì?  Có lẽ ai cũng biết câu trả lời, hoặc là cũng đoán được kết quả.  Chắc hẳn là Chúa Giêsu đã tha thứ cho Giuđa.

Hãy đến với Chúa Giêsu qua Bí tích Hòa Giải, không bao giờ muộn.  Tội gì cũng có thể được tha thứ, chúng ta biết rằng mọi tội lỗi hoặc trì hoãn thú tội đều kéo theo hệ lụy mất mát, và cơ hội bị bỏ lỡ.

Lm Victor Feltes
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ parishableitems.wordpress.com)