BÍ TÍCH CỦA HIỆP THÔNG

Chúa nhật XIX Thường niên là Chúa nhật thứ ba, trong chuỗi 5 Chúa nhật liên tiếp của Phụng vụ năm B, đều có cùng một chủ đề chính là Thánh Thể.  Điều này cho chúng ta thấy việc tôn sùng yêu mến Thánh Thể quan trọng như thế nào trong đời sống Ki-tô hữu.

Công đồng Vatican II đã viết: “Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Ki-tô hữu” (x. LG 11).  Sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo khẳng định: “Tất cả các Bí tích khác đều quy hướng về Bí tích Thánh Thể như về cùng đích” (số 1211).  Những khẳng định này cho chúng ta thấy, đời sống hiện tại cũng như tương lai của Ki-tô hữu, cá nhân cũng như tập thể, đều hướng về Chúa Giê-su Thánh Thể, bởi trong Bí tích này, Chúa Giê-su đang hiện diện giữa chúng ta.  Thiên Chúa ở giữa loài người.  Việc tôn sùng Thánh Thể sẽ cho chúng ta cảm nhận hạnh phúc thiên đàng ngay khi còn ở dưới thế.

Ngôn sứ Ê-li-a đang bị vua A-kháp săn đuổi, sau khi ông chiến thắng trong cuộc thách chiến với các tiên tri của thần Ba-an.  Trong lúc mệt mỏi chán chường, ông tìm về hướng núi Hô-rép, là nơi Thiên Chúa đã ban Luật Giao ước cho con cái Ít-ra-en qua ông Môi-sen.  Trong hành trình chạy trốn này, Thiên Chúa đã nuôi sống ông bằng cách sai một con quạ hàng ngày mang bánh và nước đến cho ông, nhờ đó ông đủ sức đi đến núi Hô-rép.  Ở đó ông đã được gặp Chúa, và ông đã tìm lại được bình an.

Từ rất sớm, cộng đoàn Ki-tô hữu đã nhận thấy qua sự kiện này hình ảnh của Bí tích Thánh Thể.  Con đường dương thế vừa xa vời vừa nhiều chông gai cám dỗ.  Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh, giúp sức cho người tín hữu, nhờ đó họ được gặp gỡ Chúa ngay trong cuộc đời hiện tại, và cũng là bảo đảm sẽ được gặp gỡ Chúa trong hạnh phúc Nước Trời.

Thánh Thể là Bí tích của hiệp thông, hiệp thông với Chúa và hiệp thông với anh chị em.  Thánh Phao-lô đã viết cho giáo dân Cô-rin-tô như sau: “Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa, chẳng phải là thông hiệp với máu Chúa Ki-tô sao?  Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao?  Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh” (1Cr 10,16-17).  Qua những lời này, thánh Phao-lô đã diễn tả cả hai chiều kích hiệp thông nơi Bí tích Thánh Thể, đó là liên kết với Chúa và liên kết với anh chị em.  Khi rước Thánh Thể, chúng ta có sức sống thần linh nơi con người phàm hèn của chúng ta, để rồi sức sống ấy giúp chúng ta gắn bó với anh chị em mình.

Trong giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta thường đọc thấy cụm từ “Cộng đoàn Thánh Thể.”  Một gia đình, một hội đoàn, một giáo xứ được kêu gọi trở nên cộng đoàn Thánh Thể.  Điều này có nghĩa, mọi sinh hoạt của đời sống thường ngày nơi gia đình, nơi hội đoàn và nơi giáo xứ đều bắt nguồn từ Thánh Thể và phản ánh ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể.  Mọi sinh hoạt ấy phải giúp các cá nhân gặp gỡ Chúa Giê-su, liên kết với Chúa Giê-su, sống khiêm hạ, sẵn sàng phục vụ anh chị em mình, như Chúa Giê-su trong Bí tích cực trọng này.  Cộng đoàn Thánh Thể là nơi các thành viên đều cảm nhận tình thương yêu gắn bó, để không ai bị loại trừ và lãng quên.  Cộng đoàn Thánh Thể cũng được gọi là cộng đoàn hiệp thông, nơi có tình yêu Thiên Chúa ngự trị.

Trong cuộc tranh luận với người Do Thái, Chúa Giê-su đã chứng minh: Người đến từ Chúa Cha, và ai tin và đón nhận giáo huấn của Người, thì sẽ được gặp Chúa Cha.  Khi nhắc lại biến cố Man-na trong Cựu ước, Chúa Giê-su khẳng định: Người là Bánh hằng sống, và Bánh ấy chính là Thịt của Người, ban tặng vì phần rỗi thế gian.  Như thế, cộng đoàn Thánh Thể được nuôi dưỡng bởi Thịt và Máu Chúa Giê-su, để mỗi ngày thêm vững mạnh trong sự thánh thiện.

Thánh Thể là lời mời gọi chia sẻ.  Cộng đoàn Thánh Thể là nơi mỗi thành viên chuyên tâm làm việc bác ái.  Thánh Phao-lô mời gọi chúng ta: “Hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Ngài yêu thương.  Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta…”  Lối nói “bắt chước Thiên Chúa” và “sống như Đức Ki-tô” đều diễn tả tình yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, và tình yêu kỳ diệu ấy đang thể hiện qua Bí tích Thánh Thể.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

CHỐN CỰC LẠC

“Lạy Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!”

“Lạy Chúa, Ngài đem đến gian lao và cũng chính Ngài cất đi mọi nguy khốn.  Ngài trừng phạt con bằng bao cực hình tột độ.  Nhưng con được bình an, vì Ngài đã kịp chìa cho con cây sào thật đúng lúc để cứu con khỏi dòng nước cuốn.  Ôi có Ngài – thiên đàng của con – con không còn đớn hèn bạc nhược vốn chỉ biết say sưa với khoái lạc, kiêu hãnh và dâm ô.  Ôi, Giêsu – chốn cực lạc – Ngài giúp con hoàn thành những dự án giá trị và khả thi trong đời!” – Paul Verlaine.

Kính thưa Anh Chị em,

Như Paul Verlaine, ba môn đệ trên núi Taborê xem ra cũng được Chúa Giêsu chìa cho cây sào thật đúng lúc khi lòng họ đang rối loạn vì những gì Ngài nói về cuộc thương khó sắp tới.  Phêrô, Giacôbê và Gioan hạnh phúc tột độ khi Ngài biến hình sáng láng trước mặt họ, một phép lạ chưa từng thấy!  Với họ, Taborê, một ‘chốn cực lạc’ ngọt ngào!

Vậy mà cuộc Hiển Dung trên núi được mừng kính hôm nay vẫn không phải là một phép lạ!  Tại sao?  Vì đã có một phép lạ ‘thực sự’ và ‘thường xuyên’ khi Con Thiên Chúa ‘duy trì’ một sự xuất hiện trong dáng vẻ bình thường của một phàm nhân trên những nẻo đường Palestina!  Qua đó, các môn đệ và những người đương thời đã chiêm ngắm Ngài, ‘chốn cực lạc’ – ‘thiên đàng hạ thế!’

Kỳ diệu thay!  Trên những con đường ấy, những con đường triền đồi đầy đá và những thung lũng lặng lẽ của Đất Thánh, khuôn mặt của Thiên Tử Giêsu đã ‘không bừng sáng’ như mặt trời.  Sự bình thường của ‘nhân tính’ Ngài kín kẽ bền vững, che khuất thường xuyên ‘thiên tính’ rạng rỡ của Ngài.  Đó là phép lạ của sự khiêm nhường, phép lạ của sự hạ mình với ơn gọi nhập thể, ngôn sứ, chịu đau khổ và chết đi cho nhân loại.  Và này, Ngài sẽ lên trời – ‘chốn cực lạc’ – kéo nhân loại mà Ngài đến để đem về nơi nó phải về.

Đaniel tiên báo ‘chốn cực lạc’ ngọt ngào ấy, nơi mà tòa cao cả của Thiên Chúa rạng ngời uy nghi – bài đọc một.  Đấng Lão Thành là hình ảnh Chúa Cha, “Tôi thấy có ai như Con Người đang ngự giá mây trời mà đến.  Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành.”  Thánh Vịnh đáp ca reo lên, “Chúa là Vua Hiển Trị, là Đấng cao cả trên khắp địa cầu!”

Phêrô cũng xác tín những gì đã chứng kiến trên núi ngày ấy – bài đọc hai.  Đức Kitô mà Phêrô và các tông đồ rao giảng không phải là chuyện hoang đường, nhưng là một Thiên Chúa làm người, “Chúng tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của Người.”  Phêrô quả quyết đã nghe tiếng Chúa Cha trên núi ngày ấy, “Hãy nghe lời Người!”

Anh Chị em,

“Lạy Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!”  “Ở đây” là ở với Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, một Đức Giêsu Kitô Phục Sinh cho dẫu Ngài phải trải qua đau khổ, thập giá và sự chết.  Sự kiện Biến Hình mang đến cho chúng ta một thông điệp hy vọng; mời gọi chúng ta ước ao sống với Chúa Giêsu, ở lại với Ngài ngay hôm nay qua những anh chị em mà chúng ta phục vụ; mời gọi chúng ta vượt qua khổ đau, đừng quá gắn bó với những gì trần tục, để thực hiện một hành trình hướng về thiên đàng, chiêm ngưỡng Chúa Giêsu đời đời.  Vì thiên đàng chính là Ngài, ‘chốn cực lạc’, một con người, hơn là một địa điểm!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giữa biển đời dậy sóng khổ đau, cho con biết cố sức bơi về ‘chốn cực lạc’ Giêsu; ở đó, Ngài đang đợi để kịp chìa cho con cây sào!” Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CON ĐƯỜNG ÍT AI ĐI

Hai con đường rẽ ra trong một khu rừng – và tôi, tôi chọn con đường ít ai đi, đó là cả một khác biệt.

Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với lời của nhà thơ Mỹ Robert Frost (1874-1963), ông đã nói vô số lần trong các bài phát biểu tốt nghiệp và trong các dịp khác như một thách thức: chúng ta không nên đi theo đám đông, nhưng dám đi trên con đường của chính mình, nâng nỗi cô đơn của mình lên một tầm cao mới.  Đúng, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta như thế khi chúng ta đứng trước hai con đường rất khác nhau.

Trong Bài giảng trên núi, Chúa Giêsu tóm tắt nhiều lời dạy quan trọng của Ngài.  Nhưng những lời này dễ bị hiểu lầm và thường chúng ta hợp lý hóa nó.  Phần lớn chúng ta không nắm bắt được điểm chính yếu ở lời dạy này: đức hạnh chúng ta phải sâu sắc hơn đức hạnh của các luật sĩ và của người biệt phái Pharisêu.  Vấn đề ở đây là gì?

Hầu hết các luật sĩ và người Pharisêu đều là những người tốt, chân thành, tận tụy, mộ đạo, có đức hạnh cao.  Họ tuân giữ các Điều răn, họ là các ông các bà giữ công lý nghiêm ngặt.  Họ công bằng với mọi người, rất nhân từ và quảng đại với người lạ.  Vậy, họ còn thiếu gì?  Đúng, họ tốt nhưng chưa đủ.  Vì sao?

Vì chúng ta có thể là người đạo đức, hoàn toàn công bằng và quảng đại nhưng chúng ta vẫn có thể căm ghét, trả thù và hung bạo vì đó là những chuyện chúng ta vẫn có thể làm một cách công bằng.  Công lý nghiêm ngặt cho phép chúng ta có thể ghét người ghét mình.  Trả thù khi bị đối xử bất công và có thể ủng hộ án tử hình.  Mắt đền mắt!

Nhưng khi làm như vậy, chúng ta luôn làm những gì đến một cách tự nhiên.  Yêu người yêu mình là chuyện tự nhiên, ghét người ghét mình cũng là chuyện tự nhiên.  Nhưng đức hạnh thực sự đòi hỏi nhiều hơn thế.  Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta đến với điều gì đó cao cả hơn.  Ngài xin chúng ta yêu người ghét chúng ta, chúc phúc cho người nguyền rủa chúng ta, không bao giờ tìm cách trả thù và tha thứ cho những kẻ giết chúng ta – kể cả những kẻ giết người hàng loạt.

Phải thừa nhận, đây không phải là con đường dễ đi.  Hầu như mọi bản năng tự nhiên trong chúng ta đều chống lại điều này.  Phản ứng tự phát khi chúng ta bị oan là gì?  Chúng ta muốn trả thù.  Phản ứng tự phát khi chúng ta nghe tin kẻ nổ súng trong vụ thảm sát đã bị giết là gì?  Chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm.  Phản ứng tự phát của chúng ta khi kẻ giết người không hối hận bị hành quyết là gì?  Chúng ta cảm thấy vui vì hắn đã chết; chúng ta không thể kiềm chế các phản ứng này.  Công lý đã được thực thi.  Một điều gì đó đã được thực thi trong vũ trụ.  Sự phẫn nộ về mặt đạo đức của chúng ta đã được xoa dịu.  Đã có một kết luận.

Có một kết luận không?  Không.  Những gì chúng ta cảm thấy chỉ là giải thoát về mặt cảm xúc, là thanh tẩy; nhưng có một khác biệt rất lớn giữa thanh tẩy và sự khép lại thực sự.  Mặc dù về mặt tâm lý, sự giải thoát về mặt cảm xúc có thể lành mạnh, chúng ta được Chúa Giêsu và tất cả những gì cao cả nhất bên trong chúng ta mời gọi đến với một điều gì đó khác, đến một con đường vượt ra ngoài cảm giác giải thoát về mặt cảm xúc, cụ thể là con đường ít người đi để đến với lòng trắc ẩn: hiểu biết và tha thứ rộng lớn hơn.

Để đánh giá điều này, chúng ta nên xem lại cách Đức Gioan-Phaolô II giải quyết án tử hình.  Ngài là giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử Giáo hội hai ngàn năm lên tiếng phản đối án tử hình.  Ngài không nói án tử hình là sai, vì theo công lý nghiêm ngặt, án tử hình có thể được thực hiện.  Ngài chỉ nói chúng ta không nên làm điều đó vì Chúa Giêsu mời gọi chúng ta làm điều khác: tha thứ cho kẻ giết người.

Nói thì dễ! Khi nghe tin vụ xả súng hàng loạt, suy nghĩ và cảm xúc của tôi không tự nhiên hướng đến sự hiểu biết và thông cảm với kẻ xả súng.  Tôi không đau khổ về việc người này đã đau khổ như thế nào để làm việc này.  Tôi không thông cảm với những người có vấn đề tinh thần, những người bị tổn thương để họ có thể làm những chuyện như vậy.  Nhưng, cảm xúc tự nhiên của tôi là đi con đường của nhiều người đi: đây là người xấu xa, họ đáng chết!  Sự đồng cảm và tha thứ không phải là điều đầu tiên tôi nghĩ đến trong những tình huống này.  Thù hận và muốn trả thù: có.

Tuy nhiên, đó lại là con đường của cảm xúc, con đường được lựa chọn nhiều hơn.  Điều này dễ hiểu.  Ai muốn thông cảm cho kẻ giết người, kẻ ngược đãi, kẻ bắt nạt?

Nhưng đó chỉ là cảm xúc khi chúng ta trút giận.  Có điều gì đó khác bên trong chúng ta luôn kêu gọi chúng ta đến với điều cao cả hơn, cụ thể: đến với thông cảm và thấu hiểu mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong Bài giảng trên núi.  Hãy yêu kẻ ghét mình.  Chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình.  Tha thứ cho kẻ làm hại mình.

Hơn nữa, đức hạnh này không phải là điều chúng ta có thể có một lần và được mãi mãi.  Không.  Đức tin làm việc theo cách: có ngày chúng ta đi trên mặt nước, có ngày chúng ta chìm lỉm như tảng đá.  Vì vậy, giống như nhà thơ Robert Frost nói, có những khi chúng ta thấy mình đứng giữa hai con đường.  Một con đường nhiều người đi, con đường của căm thù, trả thù, con đường cảm thấy mình là nạn nhân; con đường kia ít người đi, mời tôi đi trên con đường của lòng trắc ẩn, thông cảm và tha thứ cao cả hơn.

Tôi sẽ chọn con đường nào?  Đôi khi là con đường này, đôi khi là con đường kia; dù tôi biết con đường nào Chúa Giêsu đang mời tôi.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

LÀM HAY LÀ?

Lời tuyên bố gây sững sờ

Đoạn văn hôm nay mở đầu cho cuộc đối thoại dài giữa Đức Giêsu với đám đông dân chúng muốn tôn Người làm vua, sau khi họ được chứng kiến phép lạ hóa bánh ra nhiều.  Cuộc đối thoại này được gọi là diễn từ về bánh trường sinh, trong đó Đức Giêsu đáp lại việc tìm kiếm của đám đông dân chúng qua những tuyên bố quan trọng, nhưng họ không hiểu nổi.  Đức Giêsu cố gắng giải thích cho họ hiểu tầm mức sâu xa của những điều mới xảy ra.  Bánh Người vừa ban cho đám đông mới chỉ là một dấu chỉ, qua đó Người loan báo một thực tại còn sâu sắc hơn nhiều.  Thực tại ấy là nguồn mạch đích thực của sự sống, bởi vì nó không chỉ diễn tả tình yêu, nhưng chính là tình yêu.

“Tôi là bánh trường sinh”

Một tuyên bố đầy mâu thuẫn và có tính khiêu khích.  Lời tuyên bố này buộc các thính giả phải đặt mình vào một tầm mức hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống thể chất.  Họ phải tự đặt câu hỏi cho chính mình: Đâu là khát vọng cơ bản đang thúc đẩy họ?  Phải chăng họ là những người đang ở trong tình trạng no nê, thoả mãn vì đã được ăn và bây giờ không còn đói?  Họ có cảm thấy khao khát một chuyện gì khác không, và chuyện đó là gì?

Lời tuyên bố của Đức Giêsu không có ý nói bánh ăn của con người không làm cho họ cảm thấy ngon miệng.  Người cũng không nói với họ là nhu cầu ăn uống không cần thiết nữa và phải loại bỏ.  Người có ý buộc họ phải đào sâu khát vọng của mình: họ có mong muốn được sống vĩnh cửu hay chỉ sống đời này?  Người cho họ hiểu rằng con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với thế giới đang nuôi dưỡng mình.  Con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với người khác cũng như với chính mình.

Đó là điều Đức Giêsu muốn đề nghị qua lời tuyên bố “Tôi là bánh trường sinh.”

“Việc Thiên Chúa muốn là các ông tin…”

Khi đám đông đến gặp Đức Giêsu, Người đã nói với họ: “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”  Đức Giêsu biết dân chúng đi tìm Người không phải vì đã hiểu được dấu lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng vì những mục đích phàm trần.  Trong thâm sâu, có lẽ Đức Giêsu muốn nói với họ rằng: “Việc các ông phải làm là đừng tìm kiếm thứ của ăn hư nát, nhưng là nhận ra trong dấu lạ tôi vừa thực hiện là hành động của Chúa Cha.  Chính Chúa Cha đã trao cho tôi làm thay và tôi là người do Chúa Cha sai đến.  Hãy tin vào tôi, đó là việc các ông phải làm.”

Lời tuyên bố làm đám đông ngạc nhiên, chưng hửng.

Tin vào tôi tức là vào Đức Giêsu, người đang nói chuyện với đám đông.  Đây không phải là tin cách mù quáng nhưng là đi vào trong nhãn quan mới của người đang nói chuyện.  Tin Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến có nghĩa là khám phá nơi chính bản thân mình ý nghĩa về cuộc sống của mình, về khát vọng cũng như lời mời gọi của mình.

Lời đề nghị của Đức Giêsu không bảo người ta phải rút lui, nhưng thúc đẩy họ đạt đến chân lý sâu xa đang ẩn giấu nơi tâm hồn con người, vì con người che giấu chân lý.

Về phần mình, qua hành động, qua cuộc sống và cái chết, Đức Giêsu buộc mỗi người phải đối diện với thực tại ấy.  Ai chấp nhận mở ra, người ấy vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, hiểu được nền tảng của thực tại và họ sống.

Cuộc đối thoại quyết liệt

Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và đám đông quả là một thứ bi kịch.  Đức Giêsu muốn bày tỏ những điều bí nhiệm, còn dân chúng lại cứ muốn hiểu theo nghĩa vật chất.  Các cử chỉ và lời lẽ của Đức Giêsu do thánh Gio-an thuật lại ghi nhận rằng mối căng thẳng từ bên trong mỗi lúc một tăng thêm.  Người ta phải đau đớn mà nhìn nhận rằng, giữa hai bên, không hề có sự thông cảm, khoan nhượng.  Một cuộc đối thoại quyết liệt.

Khởi đầu, đám đông đi tìm Đức Giêsu.  Sau khi được Người cho ăn bánh no nê, họ đã lạc mất Người, và họ đi tìm.

Nhưng họ đi tìm ai?  Có phải là tìm người vừa cho họ ăn bánh, hay là người sẽ giải quyết những vấn đề cụ thể của họ?  Sau khi được Đức Giêsu nuôi ăn, họ nghĩ rằng mình có quyền chiếm đoạt Người.  Gặp Đức Giêsu, họ đưa ra một loạt câu hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” – “Ông sẽ làm gì đây?” – “Ông làm được dấu lạ nào?”  Và cuối cùng, như một lệnh truyền: “Xin ban cho chúng tôi…”

Làm, đó là từ ngữ chính của đám đông.  Họ muốn Đức Giêsu phải luôn làm một điều gì đó, một điều gì mới với tư cách là một nhà ảo thuật đầy khéo léo.  Và họ sẽ đưa ra nhận xét về Đức Giêsu theo những việc Người làm.

Để đáp lại từ làm của đám đông, Đức Giêsu nói: “Tôi là.”

Họ hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”

Đức Giêsu đáp: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến.”

  • Xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.
  • Chính tôi là bánh trường sinh. Hãy đến và hãy tin.

Đây chính là trọng tâm của bi kịch; không có ánh sáng Thần Khí, không thể nào vượt qua được.  Không có thái độ sẵn sàng, làm sao có thể hiểu được là là quan trọng nhất, và “tôi làm” chỉ là một hình thức của “tôi là?”

Quả thật, người ta không thể nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà trong thực tế lại ghét anh em mình.  Nhưng người ta càng không thể coi điều này hơn điều kia để rồi không sống chính sự sống của Đức Kitô, không sống tình yêu Người trao tặng qua cuộc sống của Người.

Trong thực tế, người ta thường bỏ qua khó khăn này.  Người ta dễ dàng quả quyết Đức Giêsu là bánh trường sinh, nhưng lại không nhìn nhận đó là lương thực của mình.  Người ta rất ao ước đón nhận Bánh trường sinh, nhưng lại không muốn tiến đến với Đức Kitô, không muốn nhận lấy thập giá và bước đi theo Người.

Cuối cùng, người Do-thái chẳng hiểu được Đức Giêsu muốn nói với họ.  Họ chỉ mong muốn Đức Giêsu làm cho họ có bánh ăn, chứ không muốn Đức Giêsu là bánh cho họ.

Bánh là chính Thiên Chúa

“Tôi là bánh trường sinh.”

Đây là một khẳng định quan trọng Đức Giêsu gửi đến mỗi chúng ta.  Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta: “Hãy đến với tôi, anh em sẽ không còn đói; hãy tin vào tôi và anh em sẽ không còn khát.”

Thật thế, chúng ta đói, chúng ta thiếu, không phải chỉ bánh ăn; chúng ta khát không phải chỉ nước uống.  Chúng ta còn đói, còn khát tình bạn.  Chúng ta cần gặp được một cái nhìn, cần được nâng đỡ cách thân tình qua sự trợ giúp đầy tình huynh đệ.  Chúng ta cần biết, cần thấy rằng chúng ta được người khác hiểu biết, thông cảm, và nhất là được người khác yêu mến.

Sau nữa, chúng ta còn đói khát điều căn bản hơn là chính Thiên Chúa.  Cơn đói khát này, chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể làm thoả mãn.  Vì thế, Thiên Chúa đã đến với chúng ta, không chỉ như một sự kiện, nhưng nơi một con người là Đức Giêsu Kitô.

Chìa khoá mở ra tương lai của chúng ta chính là Đức Kitô, và chỉ một mình Người.
Chúng ta phải tiến đến với Đức Kitô, chứ không phải là đi tìm bánh.
Chúng ta phải đáp lại sự hiện diện của Đức Kitô không chỉ bằng từ ngữ, nhưng bằng thái độ sẵn sàng do Thần Khí thúc đẩy, Người sẽ giúp chúng ta nói lên:

“Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy đến.
Chúa thực là bánh trường sinh,
là bánh từ trời xuống.”

**********************

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con,
xin ban cho chúng con Người Con của Chúa.
Xin cho chúng con được ăn
thịt và máu Người.
Xin cho chúng con được hưởng
tất cả những gì Người đã nói và đã làm giữa chúng con.
Người thường hay nói lương thực của Người là thi hành ý Chúa.
Xin dạy chúng con
đừng chỉ tìm sống cho riêng mình
để biết mến yêu người khác,
và như vậy,
được bước từ cõi chết sang cõi sống.  (theo F. Cromphout)

Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

CHẤP NHẬN Ý CHÚA KHI THẤT VỌNG

“Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.  Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.  Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người.  Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.” (Tv 34:1-5)

Trong nhiều loại cảm xúc, thất vọng được liệt kê dưới dáng vẻ của nỗi buồn và sự xấu hổ.  Sự thất vọng kéo dài có thể chuyển sang cảm giác mất tinh thần hoặc không hài lòng.  Những từ đồng nghĩa này tiết lộ nhiều điều cho tâm hồn đang gặp rắc rối.  Trong các chu kỳ tôn giáo, nơi tâm linh tươi sáng được đề cao, sự thất vọng bị che giấu, bị vô hiệu, bị làm ngơ.  Tuy nhiên, hầu như mọi Kitô hữu đều trải qua sự thất vọng ở một mức độ nào đó trong cuộc sống.

Cách đây không lâu, con gái lớn của tôi muốn bày tỏ cảm giác thất vọng khi một người họ hàng gần quyết định từ chối chuyến thăm đã được lên kế hoạch từ nhiều tháng trước.  Con gái tôi đã hủy chuyến đi theo đúng nghĩa đen một tuần trước khi chuyến bay đến Indiana.  Nói Felicity thất vọng sẽ đánh giá thấp cảm xúc của con gái; nó đã bị tàn phá, bị nghiền nát.  Theo yêu cầu của con gái, chúng tôi đã tìm cách chia sẻ cảm xúc của nó một cách trung thực và cởi mở.  Phản ứng mà con gái tôi nhận được là “Mọi người đều thất vọng trong cuộc sống.  Bạn sẽ phải học cách đối phó với nó.”

Đôi khi chúng ta hiểu cùng một thông điệp này khi chúng ta thất vọng về ý Chúa đối với cuộc sống của chúng ta.  Có thể chúng ta đã mong đợi một kết quả khác với lời cầu nguyện của mình hoặc được yêu cầu “có thêm đức tin” rằng Thiên Chúa sẽ ban một phép lạ.  Khi điều có vẻ trái ngược với phúc lành làm suy sụp niềm tin của chúng ta vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, thì thật khó để tiếp tục theo cách tương tự.  Chúng ta cảm thấy bị lừa dối và kiệt quệ, xa rời việc cầu nguyện – như thể bí ẩn vĩnh cửu về cách thức và lý do Thiên Chúa chọn hoặc cho phép những hoàn cảnh nào đó tạo ra vực thẳm nghi ngờ trong chúng ta.

Ở đây, Thánh Vịnh gia biết rõ về sự thất vọng.  Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể nhảy vượt từ việc thực hiện ước mơ của mình đến một nơi vui mừng và ca ngợi Thiên Chúa.  Thay vào đó, đức tin của chúng ta linh hoạt hơn và thường lên xuống khi chúng ta vật lộn với những gì Chúa có thể yêu cầu chúng ta chịu đựng.

Phần đầu của Tv 34 sử dụng cách đặt liền nhau giữa người nghèo và người giàu.  Thánh Vịnh gia không viết về sự giàu có hay nghèo khó về vật chất, mà nói đến người nghèo về tinh thần.  Điển hình như trong thực tại tâm linh, chúng ta thấy một nghịch lý – người nghèo thực sự là người giàu, trong khi người giàu lại thiếu những gì quan trọng nhất.

Có vẻ như Thánh Vịnh gia muốn chúng ta nhớ rằng, khi thất vọng hoặc nản lòng, chúng ta lớn lên trong ơn phúc của sự nghèo nàn về tinh thần.  Chúng ta trở nên trống rỗng về bản thân, và dù đau đớn đến đâu, chúng ta vẫn mở lòng để Thiên Chúa di chuyển tự do hơn trong chúng ta.  Trong Thánh Vịnh này, người nghèo là những người đã “tìm kiếm Chúa” và “kêu cầu” với Ngài.  Cũng vậy, chúng ta có xu hướng khuỵu gối trong nỗi tuyệt vọng và khóc lóc khi dồn dập có những sự mất mát.

Thật thú vị khi Thánh Vịnh gia muốn bắt đầu bằng việc ca ngợi Thiên Chúa, bởi vì điều đó có vẻ khó khăn hơn khi chúng ta chán nản và cố gắng chấp nhận ý Chúa dành cho chúng ta.  Tuy nhiên, khi chúng ta hành động trái với cảm xúc của mình và nhớ lại đường lối của Chúa rất rộng lớn, những điều kỳ diệu của sự sáng tạo của Ngài, và những phúc lành trong quá khứ mà chúng ta đã nhận được, điều đó tạo ra lời cầu được xây dựng trên đức tính kiên cường và sau đó có thể chịu đựng được đau khổ lớn hơn.

Ở đây, điều an ủi là Thiên Chúa thấy người đau khổ đang quay về với Ngài.  Chúng ta có thể không nhận được câu trả lời mà chúng ta đang tìm kiếm khi cầu nguyện.  Chúng ta có thể không có thập giá cụ thể nào bị loại bỏ khỏi cuộc đời mình.  Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn rằng Thiên Chúa lắng nghe và không quên chúng ta.

Cuối cùng, ai kính sợ Chúa và kiên định thì tìm thấy phần thưởng của mình.  Thánh Vịnh gia nhắc nhở chúng ta rằng sự trung thành với Thiên Chúa là nền tảng khi chúng ta gần đến bờ vực thẳm của sự vô vọng và muốn bỏ cầu nguyện.  Kính sợ Chúa không phải là khiếp sợ Chúa như bạo chúa nhưng là khiêm nhường và nhận biết rằng những cách thức huyền bí và nghịch lý của Chúa đến từ nơi có tình yêu thương sâu sắc đối với chúng ta.

Giống như bất kỳ cảm xúc nào, sự thất vọng phải được nhận biết và chấp nhận chính điều đó.  Chúng ta có thể làm điều này mà không suy sụp, nhưng thay vào đó bằng cách vượt qua những thăng trầm trong mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa.  Như trong tất cả các mối quan hệ, thử thách và kiểm tra thường tạo ra kết quả tốt đẹp nhất – nếu chúng ta sẵn sàng đi đúng hướng và chịu đựng những gì gian khổ và khó khăn.

Jeannie Ewing
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

MỘT MÌNH

“Một Mình” là một trong những ít nhạc phẩm của người nhạc sĩ tài ba Lam Phương viết riêng cho mình.  Lúc sáng tác, ông chỉ đơn giản trút nỗi niềm u uẩn qua những vần thơ nốt nhạc, có điều ông không ngờ bài hát “Một Mình” được nhiều người ưa thích và trở thành một lời tiên tri buồn cho chính bản thân mình.  Sớm mai thức giấc, nhìn quanh một mình, ngoài hiên nắng lóe, đàn chim giật mình… đây có thể là nỗi sợ không chỉ một mình Lam Phương.  Ai cũng sợ một mình, dù giàu hay nghèo, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, khỏe mạnh hay bịnh tật…  Dù là bất chợt một khoảng khắc một mình, một quãng đời tạm một mình, hay cả đời một mình…. thì cái một mình nào cũng đáng sợ.  Với người Á Đông, từ nhỏ đã quen sống chung đụng với anh chị em, cha mẹ, ông bà… thì cái một mình cô đơn mới đáng sợ hơn.  Vậy một mình có thật sự đáng sợ không?

Từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã mời gọi con người một mình đi vào sa mạc để trong cõi hoang tịch cô liêu đó con người có thể nghe được tiếng tỏ tình từ trời cao “Này ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.” (Hs 2,16).  Trong cõi một mình của Lam Phương phủ đầy những nỗi niềm u uất, những trằn trọc giãy giụa muốn thoát ra khỏi cái một mình cô đơn đang bủa vây xung quanh, đang một mình nhưng không muốn một mình, muốn bay vút ra khỏi “ngoài hiên nắng lóe” rực rỡ ngoài kia, muốn có ai đó ở bên kia hàng hiên nghe được tiếng lòng của mình“biết lời tỏ tình, đã có người nghe….?”  Còn trong sa mạc của Kinh Thánh là một sa mạc tĩnh lặng, ngọt ngào, ngập tràn những tiếng lòng thổn thức lãng mạn mà chỉ khi một mình bước chân vào đó mới nghe được “Vào ngày đó…. ngươi sẽ gọi Ta: “Mình ơi,” chứ không còn gọi “Ông chủ ơi” nữa.” (Hs 2,18).  Một sa mạc mở rộng vòng tay mời gọi con người một mình tự do tự tại bước vào để sống chậm lại, để cảm nhận “lời Ngài đã hứa, ngọt ngào hơn mật ong trong miệng” (TV 119, 103), để “nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy, hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (TV 34, 9).  Hàn Mạc Tử khi một mình cô đơn đau đớn vì bịnh tật thay vì oán hận số phận hẩm hiu lại tha thiết mời gọi thế nhân “Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo; để nghe tơ liễu run trong gió, và để xem trời giải nghĩa yêu… (Đà Lạt trăng mờ).  Vì chỉ khi một mình trong thanh vắng tôi mới nghe, mới xem, mới cảm và mới nếm được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đang muốn mạc khải cho.

Nắng xuyên qua lá, hạt sương lìa cành, đời mong manh quá, kể chi chuyện mình, nắng buồn cuộc tình, bỗng tắt bình minh…  Cõi một mình của Lam Phương giăng đầy những nỗi buồn da diết kể về cuộc đời mong manh, là những giọt nước mắt khóc cho tình yêu dễ tan, là những tiếc nuối con người dễ quên, là cái nhìn ảm đạm cho một tương lai tăm tối sầu lo.  Lam Phương không hận, chỉ là những lời trách nhẹ nhàng bâng quơ “đường xưa quen lối, tình dối người mang,” buồn cho phận mình long đong lận đận tình duyên trăm mối, một kiếp đa đoan,” những nỗi buồn kế tiếp nỗi buồn.  Một nỗi buồn không chia sẻ được với ai, buồn lại càng thêm buồn, may mà có những nốt nhạc vần thơ nói lên được cõi lòng đơn côi của ông.  Ngược lại, cõi một mình trong sa mạc với Thiên Chúa là những hoan ca rộn ràng của hai tâm hồn có dịp gặp gỡ trò chuyện hàn huyên, là những nức nở buồn vui, cũng có những giọt nước mắt nuối tiếc cho những lầm lỡ sa ngã đã qua, sau đó là những vỗ về ủi an tha thứ, là những khích lệ nâng đỡ, là những lời tỏ tình mật ngọt… “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3).  Và đoạn kết của một chuyện tình đẹp là một kết thúc có hậu với “một hôn ước vĩnh cửu.  Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương.” (Hs 2,21).

Nghe rồi mới hiểu tại sao phải đi vào sa mạc cô tịch, tại sao phải là một mình, phải lắng đọng, phải thinh lặng mới nghe được những lời tỏ tình mật ngọt rất nhỏ kia.  Nếu Lam Phương không buồn, không một mình, không cô đơn thì chắc chắn sẽ không có nhạc phẩm bất hủ “Một Mình.”  Nếu tôi không chọn một mình, không đi vào sa mạc, không rũ áo với những tiếng ồn tất bật xung quanh, biết tôi có nghe được gì chăng cho dù Chúa vẫn nói?  Một mình không phải để viết nhạc như Lam Phương,  làm thơ như Hàn Mạc Tử, nhưng một mình để mở lòng hướng về trời cao, trao ban cho Thiên Chúa cái tự do để Ngài muốn viết nên những vần thơ, điệu nhạc gì lên linh hồn tôi thì tùy ý Ngài.  Khi một mình là lúc trở về với chính mình, tôi mới nhận ra có một niềm khắc khoải trong hồn muốn tìm về cội nguồn Chân Thiện Mỹ, mới nghe được những khao khát sâu kín trong trái tim mình.

Trong Tân Ước, Chúa Giêsu trước khi bắt đầu cuộc đời công khai, Ngài đã lui vào sa mạc để ở một mình 40 ngày.  Trước khi chọn 12 tông đồ, Ngài cũng đi vào cõi một mình và “Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6,12).  Sau những phép lạ, những lúc rao giảng mệt mỏi, Ngài lánh riêng ra một mình, khi thì “sáng sớm, lúc trời còn tối mịt,” hoặc “chiều đến.”  Trước khi bước vào cuộc tử nạn, Giêsu cũng đi vào cõi một mình trong vườn Cây Dầu cầu nguyện suốt đêm cho tới khi binh lính đến bắt Ngài.  Trong ba năm rao giảng và huấn luyện các tông đồ, Giêsu cũng buộc các ông sau những ngày bận rộn với đám đông, rao giảng, chữa lành… thì lánh riêng ra một chỗ nghỉ ngơi, cầu nguyện, tránh xa thế gian ồn ào… Đôi khi, Thầy Giêsu cũng phải dùng tới biện pháp mạnh là “đem các ông đi riêng với mình…” (Lc 9,10).

Như vậy một điều dễ nhận thấy là Giêsu thích ở một mình!  Khi tôi một mình ở với Giêsu Một Mình thì không còn là một mình nữa.  Hai cái một mình thì là hai rồi, không còn là một nữa.  Một mình ở với Giêsu không phải là cái một mình của cô đơn, lo lắng, tiếc nuối như cái một mình của Lam Phương, mà đó là cái một mình đáng yêu của Hàn Mạc Tử, trong đau đớn thể xác vẫn rung động với cảnh vật, vẫn nghe được Trời giải nghĩa yêu…

Một chiều thứ Sáu trên đồi Canvê năm xưa, có ba người tử tội bị hành hình trên ba cây thập tự giữa một đám đông ồn ào huyên náo, la hét, người cười kẻ khóc, người đau khổ tiếc thương, kẻ hả hê đắc chí….

Tử tội thứ nhất, tên cướp không ăn năn, khi sống hắn đã chọn con đường gian ác cô độc lẻ loi, ai ai cũng sợ hãi kinh khiếp tránh xa.  Đến gần với sự chết, hắn vẫn tiếp tục ngoan cố một mình giãy giụa trong sự dữ luôn miệng nguyền rủa và một mình đi vào cõi chết trong giận dữ, oán hận…  Cái một mình kinh hoàng của bóng đêm sự dữ, thiếu vắng bóng dáng tình yêu mặc dù Thiên Chúa Tình Yêu đang ở ngay cạnh bên.

Tử tội thứ hai, tên trộm lành, cũng như bạn mình đã sống cuộc đời của một tên cướp ác ôn.  Nhưng khi đối diện với thần chết, hắn lại mở lòng để nhìn ra những lầm lỡ sai trái của mình, mở mắt để nhìn thấy người tử tội bên cạnh là người vô tội bị án oan, dám mở miệng để mắng tên đồng bọn ngu ngốc, và khiêm nhường để xin sự tha thứ…  Và hắn đã được mãn nguyện!  Hắn không cô đơn một mình đi vào cõi chết!  Người bạn mới tử tù Giêsu đã nắm tay cùng đồng hành với hắn đi về một nơi mà hắn chỉ biết lơ mơ “Nước của ông,” với một lời hứa bao người mơ ước: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23, 43b).

Tử tội cuối cùng, Giêsu thành Nazaret, trong ba năm rao giảng làm bao nhiêu phép lạ cả thể, xung quanh lúc nào cũng có đám đông lớn nhỏ tung hô vạn tuế, với 12 tông đồ, 72 môn đệ, đến khi hấp hối chỉ còn một mẹ, một trò và vài người đàn bà khác dưới cây thập giá.  Lúc này đây có lẽ tử tội Giêsu mới thấm thía hai chữ một mình.  Một mình không nhất thiết là khi chỉ có một mình.  Một mình giữa đám đông với những tiếng la hét, nguyền rủa…  Một mình đang bị nhấn chìm từ từ với những cánh tay giơ lên “Đóng đinh nó vào thập giá!”  Một mình mới thấm thía cảm giác bị đệ tử thân tín phản bội, bị trò yêu chối bỏ, bị cả thế gian lên án.  Và cái đáng sợ nhất là cảm giác bị Người Cha yêu dấu bỏ rơi, để rồi trong hơi tàn sức kiệt trước khi chết, Giêsu đã phải thốt lên “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15:34b).  Cái một mình này mới thật đáng sợ!  Chúa Giêsu trên cây thập giá đã đi đến tận cùng của một mình cô đơn, bị kết án, bỏ rơi, nguyền rủa…  Có ai hiểu cảm giác một mình lẻ loi bị bỏ rơi cho bằng Giêsu?

Sống là chuẩn bị cho chuyến đi cuối cùng!  Trong chuyến đi đó dù muốn hay không ai rồi cũng phải một mình ra đi.  Cho dù có vạn người khóc, triệu người thương, nhà nhà tiễn đưa… nhưng không ai có thể cùng đồng hành với tôi trong chuyến đi đó.  Chỉ một mình tôi sẽ độc hành trong chuyến đi cuối cùng này.  Chỉ một mình tôi sẽ ra trước tòa phán xét của Đấng Tối Cao.  Chỉ một mình tôi thôi!  Một mình lúc đó mới thật đáng sợ!  Vậy sao ngay bây giờ tôi không tập sống một mình với Giêsu để Ngài sẽ cùng đồng hành với tôi trong chuyến đi cuối cùng như Ngài đã từng đồng hành với tên trộm lành trong chuyến đi cuối cùng của hắn.  Và tôi sẽ không bơ vơ một mình trước tòa phán xét vì đã có Giêsu bênh đỡ cho tôi.

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã yêu thích một mình, xin cho con biết sắp xếp thời gian bận rộn của mình để bước vào cõi tĩnh lặng với Chúa mỗi ngày, để làm bạn với Ngài ngay từ bây giờ để rồi con không phải một mình cô đơn trong cuộc sống này, không một mình trong chuyến đi cuối cùng, và chắc chắn sẽ không một mình lạc lõng trước tòa phán xét Chúa trong ngày sau hết.  Amen!

Lang Thang Chiều Tím

CƠN KHÁT LƯƠNG THỰC

Trong bối cảnh xã hội hiện tại, khi có những cuộc xung đột căng thẳng ở nhiều cấp độ, thậm chí chiến tranh đã và đang xảy ra ở một vài quốc gia châu Âu, một thuật ngữ được lặp đi lặp lại thường xuyên, đó là “an ninh lương thực.”  Đây là một nhận định và cũng là cảnh báo của các nhà chuyên môn, khi thấy các cuộc cấm vận và những mâu thuẫn chính trị tại một số quốc gia vẫn đứng hàng đầu trong việc cung cấp lương thực cho thế giới.  Nỗi lo cơm bánh vẫn luôn ám ảnh con người, kể cả trong xã hội được gọi là “hiện đại và phát triển” của chúng ta.  Cơn khát lương thực luôn hiện hữu trong cuộc sống, cá nhân cũng như tập thể.

Lời Chúa của Chúa nhật hôm nay xoay quanh đề tài bánh ăn, hay lương thực, ở những khía cạnh khác nhau:

Trước hết, đức tin Do Thái giáo và Ki-tô giáo đều khẳng định: Thiên Chúa là nguyên lý của mọi phúc lành.  Ngài ban cho mưa thuận gió hòa và những điều kiện thuận lợi để cung cấp bánh ăn cho con người.  Tác giả thánh vịnh đã diễn tả: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn.  Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Đáp ca).  Đức tin nói với chúng ta: những gì chúng ta đón nhận hằng ngày, những nhu cầu căn bản cho cuộc sống vật chất cũng như tinh thần đều là ân huệ Chúa ban.  Chúa Giê-su đã quả quyết: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 6,33).  Ý niệm cầu nguyện với Ông Trời và các thần linh để được mưa thuận gió hòa luôn luôn có trong tiềm thức và niềm tin bình dân của người Việt chúng ta.  Bài đọc I kể lại một phép lạ Thiên Chúa đã thực hiện qua trung gian ngôn sứ Ê-li-sa.  Với hai mươi chiếc bánh lúa mạch và chút cốm, vị ngôn sứ đã truyền cho tiểu đồng phân phát cho cả trăm người, mà vẫn còn dư.  Lòng tín thác cậy trông vào Chúa là điều kiện để phép lạ xảy ra.

Đức tin Ki-tô giáo cũng dạy chúng ta: sống trên đời, nếu chúng ta may mắn có được một cuộc sống ổn định hay dư dả về vật chất, đó là của Chúa ban, và chúng ta chỉ là người quản lý.  Thiên Chúa mới là sở hữu chủ chính thức của tài sản trên thế gian.  Vì vậy, mọi người tùy theo khả năng của mình, đều được mời gọi chia sẻ cho anh chị em.  Bác ái chia sẻ là một điểm nhấn nổi bật trong giáo huấn của Chúa Giê-su và của Giáo hội.  Ngôn sứ Ê-li-sa đã lấy hai mươi chiếc bánh người ta tặng cho ông vào thời điểm nạn đói đang hoành hành.  Ông không giữ cho riêng mình, nhưng chia sẻ cho mọi người, và phép lạ đã xảy đến qua nghĩa cử chia sẻ rộng rãi đó.  Thánh Gio-an kể lại trong Tin Mừng: trong đoàn người đến nghe Chúa Giê-su giảng dạy, có một em bé mang theo năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá.  Em bé ấy đã vui vẻ chia sẻ những gì mình có cho mọi người, và phép lạ đã diễn ra.  Đương nhiên, phép lạ đến từ quyền năng Thiên Chúa, nhưng lại dựa trên sự chia sẻ và cộng tác của con người.  Nếu hiểu mỗi người chỉ là người quản lý tài sản Chúa trao, và sau này chết chẳng mang theo được, thì người ta sẽ dễ dàng chia sẻ cho anh chị em.  Nếu các nước giàu chia sẻ cho các nước nghèo, thì lương thực trên thế giới sẽ đủ nuôi mọi người và nạn đói sẽ không còn hoành hành ở một số quốc gia châu Á và châu Phi nữa.

Cùng với những giáo huấn về chia sẻ, Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về lương thực thiêng liêng Chúa ban cho các tín hữu.  Câu chuyện ngôn sứ Ê-li-sa và sự kiện Chúa Giê-su làm phép lạ nhân bánh ra nhiều đều là hình ảnh của Bí tích Thánh Thể.  Trong đêm tiệc ly, Chúa Giê-su đã thiết lập Bí tích Thánh Thể.  Người đã biến bánh thành Mình và rượu thành Máu Người.  Đây không phải là biểu tượng, cũng không phải là nghĩa bóng, mà là một thực tại.  Bí tích Thánh Thể, hay sự hiện diện của Chúa Giê-su trong Hình Bánh Rượu là tín điều, tức là điều phải tin đối với các Ki-tô hữu.

Sau cùng, Phụng vụ hôm nay dạy chúng ta sống mầu nhiệm Thánh Thể.  Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm của sự hiệp thông, hiệp thông với Chúa và với anh chị em mình.  Thánh Phao-lô trong Bài đọc II đã nói đến sự liên kết gắn bó giữa các Ki-tô hữu.  Vị Tông đồ dân ngoại đã dùng hình ảnh của một thân thể, để diễn tả cộng đoàn Ki-tô hữu.  Để có sự hiệp thông đích thực, thánh nhân khuyên các tín hữu Ê-phê-sô: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại: hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng nhau…”  Vâng, bác ái, hiệp thông, chia sẻ… đó là những thông điệp mà Đức Giê-su đang hiện diện trong Bí tích Thánh Thể muốn nói với chúng ta.

Thánh Tê-rê-sa Can-cút-ta là một mẫu gương của thời đại chúng ta về lòng yêu mến Thánh Thể.  Trong đời sống cũng như trong sứ mạng, Mẹ đã khơi nguồn sức mạnh từ Nhà Tạm, nơi Chúa Giê-su hiện diện.  Đối với Mẹ Tê-rê-sa, Thánh Thể chính là tình yêu hy tế mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, để được ăn vào và tiêu hóa, và trở thành một phần trong con người chúng ta.  Khi chúng ta đón rước Thánh Thể, thì chúng ta được Thiên Chúa ban sức mạnh để yêu mến những người khác, với cùng tình yêu mà Đức Ki-tô đã bày tỏ cho chúng ta.  Bằng cách này, Bí tích Thánh Thể giúp chúng ta mang tình yêu của Đức Ki-tô đến với người nghèo, và cảm nhận được sự hiện diện của Người nơi những người ấy.

Thánh nữ đưa ra một lời khuyên rõ ràng: “Tôi xin bạn hãy đến gần hơn với Thánh Thể và Đức Giê-su … Hỡi các linh mục giáo xứ, xin các cha yêu cầu các giáo dân chầu Thánh Thể trong các nhà thờ của mình bất cứ ở đâu có thể được.  Hãy chầu Thánh Thể ít nhất mỗi tuần một lần, sao cho sự dịu hiền của tình yêu có thể phát triển trong tâm hồn các cha, hầu chia sẻ tình yêu ấy cho những người khác.”

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

1. Thân thế của Giacôbê:

Giacôbê là con của ông Dêbêđê và bà Salômê, anh của thánh Gioan Tông Đồ; sống nghề chài lưới ở biển Giênêgiaréth, bạn chài với Phêrô và Andrê.  Tin Mừng thường nhắc đến hai anh em Giacôbê và Gioan Tông Đồ nhiều lần.

Họ thuộc nhóm những môn đệ tâm giao của Chúa Giêsu (cùng với Phêrô và Gioan).  Các ngài được chứng kiến: Việc Chúa cho con gái ông Giairô sống lại, sự hiển dung của Chúa ở đồi Thabor, lúc Chúa cầu nguyện ở vườn Cây Dầu.

Giacôbê là người đầu tiên trong Nhóm Mười Hai đã lấy máu đào của mình làm chứng cho Chúa Giêsu: vua Hêrôđê Antipa đã ra lệnh chặt đầu ngài vào năm 44 (Cv 12,2; Mt 20,22-23).  Như thế ứng nghiệm lời Chúa tiên báo cho ông: “ông đã thông chia chén của Chúa.”

2. Tính tình của Giacôbê: Giacôbê được gọi là vị Tông Đồ cao vọng (Mt 20,20).

Giacôbê được Chúa gọi là “con của thiên lôi,” điều này cho thấy rằng ông là con người nóng nảy và cuồng nhiệt đến thế nào.  Quả vậy, phản ứng của ông đối với các dân thành Samaria đã giải thích điều đó.  Khi Chúa qua con đường Samaria để về Giêrusalem, dọc đường những người Samaria đã từ chối không đón tiếp Chúa, Giacôbê đã đề nghị với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt chúng không?” (Lc 9,54).

Cao vọng của Giacôbê còn được thể hiện qua sự việc bà Salômê, là mẹ của ông, đã thỉnh cầu Chúa Giêsu cho Giacôbê và Gioan rằng: “Xin Ngài truyền lệnh cho các con tôi được ngồi một đứa bên tả, một đứa bên hữu Ngài trong Nước của Ngài” (Mt 20,21).

Cao vọng của người mẹ truyền sang cho người con đến độ người mẹ không xin thì con cũng tự xin.  Bằng chứng là Marcô kể lại câu chuyện thỉnh nguyện này mà không nhắc đến người mẹ, nhưng chỉ kể Giacôbê và Gioan tự miệng nói ra câu ấy (Mc 10,37).

Tuy Giacôbê có cao vọng như vậy, nhưng Chúa vẫn chọn ông và tín nhiệm ông, và Người đã hoán cải ông.  Chúa hoán cải các môn đệ: Bằng đời sống gương mẫu của ngài: Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông Đồ và Người bảo các Tông Đồ hãy rửa chân cho nhau, vì “Ai muốn làm lớn trong anh em, thì hãy hầu hạ anh em” (Mt 20,27).  Bằng cái chết của Người: con Người đến để thí mạng sống mình hầu làm giá chuộc thay cho nhiều người (Mt 20,28).  Các Tông Đồ đã lần lượt chịu tử đạo để theo gương Chúa.

3. Nhận thức và áp dụng:

Thánh Giacôbê thuộc giới thợ thuyền làm nghề chài lưới vất vả; đàng khác lại có tham vọng đi ngược với vai trò và tinh thần của người tông đồ, nhưng Chúa Giêsu vẫn gọi và chọn ông đi theo Chúa và làm Tông Đồ cho Chúa.  Điều này chứng tỏ ơn thánh của Chúa Kitô quả có sức làm biến đổi tâm hồn và cuộc sống của Giacôbê đến độ ông đã hiến mình trọn vẹn cho Chúa.

Noi gương thánh Giacôbê: người tông đồ không nên tự ty mặc cảm về những hèn kém của mình, nhưng tin tưởng vào tình thương và sức mạnh của ơn Chúa để hiến thân trọn vẹn cho Chúa.

Đi theo Chúa, Giacôbê vẫn còn có những tham vọng phàm trần, song nhờ sự giáo huấn của Chúa và nhất là gương sống của Chúa đã khiến ông từ bỏ mọi sự và từ bỏ chính bản thân mình để hiến mình cho Chúa cách trọn vẹn.

Người tông đồ cần lắng nghe lời Chúa để đón nhận những giáo huấn của Chúa; đồng thời phải biết chiêm ngắm gương sống của Chúa để noi gương bắt chước sống trọn vẹn cho Chúa.

Giacôbê được Chúa dành riêng trong nhóm những người thân cận của Chúa để được chứng kiến những sự việc cần thiết cho sứ mạng làm chứng nhân trong vai trò người Tông Đồ.

Những ai được mời gọi sống đời thánh hiến, cũng được tuyển chọn riêng trong thời gian tu luyện để tìm gặp Chúa, đến với Chúa, ở lại với Chúa và để được biến đổi trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, hầu có thể chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.

Phụng vụ chư Thánh

CUỘC ĐẤU TRANH HỤT HẪNG VỚI TÍNH KHIÊM NHƯỜNG

Thật khó để khiêm tốn, không phải vì chúng ta không đủ thiếu sót để xứng đáng với tính khiêm nhường, nhưng vì bên trong chúng ta có một cơ chế khéo léo thường không cho chúng ta có được tính khiêm tốn.  Nói một cách đơn giản, khi chúng ta cố gắng quên mình, khiêm tốn, không đạo đức giả thì chúng ta lại tự hào về điều đó, và rồi cảm thấy tự mãn, chúng ta trở nên người đi phán xét người khác.

Chúa Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn tuyệt vời về chuyện này, nhưng chúng ta thường quên bài học này.  Tất cả chúng ta đều biết dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế.  Chúa Giêsu kể câu chuyện hai người vào nhà thờ cầu nguyện.  Người đầu tiên là người biệt phái sốt sắng, ông nghiêm túc giữ đạo hạnh.  Ông cám ơn Chúa về lòng sốt sắng đạo hạnh của mình và cám ơn Chúa vì mình không như người thu thuế không đạo đức đang ở cuối nhà thờ.  Người thứ hai là người thu thuế nhận biết mình là người không đạo đức (ông chân thành và không biện minh gì), ông là người có tội và xin Chúa tha cho các yếu kém của mình.  Chúng ta đều biết Chúa Giêsu đánh giá hai người này như thế nào.  Người biệt phái thật sự đã không cầu nguyện, còn người thu thuế thì cầu nguyện.  Hơn nữa, dụ ngôn làm nổi bật sự mù quáng bên trong của người biệt phái, một thứ không thể nào không thấy.  Tất cả những ai đọc câu chuyện này đều không thể không thấy sự thiếu khiêm tốn của ông.

Tuy nhiên, thách thức là xem phản ứng của chúng ta về câu chuyện này.  Ngay lập tức chúng ta thấy sự khác biệt giữa niềm tự hào rởm và tính khiêm nhường thật sự.  Và chúng ta thấy người này kiêu căng đến mức độ nào khi ông nói: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như tên thu thuế kia!”  Nhưng, tôi nghĩ 98% trong chúng ta khi nghe câu chuyện này sẽ nghĩ, “tôi không như người biệt phái kia!”  Khi nghĩ như vậy, chúng ta đều giống ông!  Chính xác giống ông, chúng ta đầy tràn ý thức về đức hạnh, chính vì vậy, chúng ta bắt đầu phán xét người khác.  Lời cầu nguyện của chúng ta thường ngược với lời cầu nguyện của người thu thuế.  Chúng ta không cầu nguyện vì tội của mình mà là cầu nguyện: “Con cám ơn Chúa, con đã không mù quáng với bản thân và không phán xét như nhiều người khác!”  Thật khó để được như người thu thuế.  Đức hạnh và tính khiêm nhường của chúng ta luôn quay chung quanh chính mình và làm cho chúng ta tự hào và đi chỉ trích.

Câu trả lời ở đây là gì?  Làm sao chúng ta bứt được cái vòng luẩn quẩn này?  Ở đây chỉ có một cách duy nhất và người thu thuế đã chỉ cho chúng ta.  Như thế nào?  Ông thật sự cầu nguyện cho tội lỗi của mình.  Đó là người phạm tội và ông chân thành thú nhận.  Còn về phần chúng ta, chúng ta nói chúng ta là kẻ có tội nhưng chúng ta không thật sự nghĩ như vậy!  Chúng ta thừa nhận chúng ta có các thiếu sót và đôi khi chúng ta phạm tội, nhưng như người biệt phái, ngay lập tức chúng ta tạ ơn vì chúng ta không có các thiếu sót và tội lỗi như người khác.  Thường thường chúng ta nghĩ theo kiểu: “Chắc chắn rồi, mình cũng có các khiếm khuyết, nhưng ít nhất mình không ngốc và ích kỷ như bạn đồng nghiệp mình!”, “Với tất cả thiếu sót của tôi, tôi cám ơn Chúa, tôi đã không tự ái như ông chủ của tôi!”, “Có thể tôi không có nhiều đức tin nhưng ít nhất tôi không đạo đức giả như nhiều người trong nhà thờ!”, “Tôi có thể có nhiều lỗi, nhưng tôi không có các lỗi như anh Gioan!”  Niềm tự hào luôn luôn luẩn quẩn chung quanh hàng rào phòng thủ của chúng ta và chúng ta để lòng khiêm nhường đứng xa xa.

Nhưng có một trường hợp khác, có thể không giống như vậy, đó là khi chúng ta thực sự nhận biết tội của mình.  Khi chúng ta ý thức được tình trạng tội lỗi của mình, như người thu thuế, chúng ta sẽ không phán xét ai, ngay cả chính mình.  Là linh mục công giáo đã nghe xưng tội trong vòng 47 năm, tôi không ngần ngại nói, những người tốt lành nhất là những người chân thành xưng các thiếu sót của mình . Khi chúng ta thật sự biết tội của mình, chúng ta không phán xét ai.  Trong tinh thần này, chúng ta không bao giờ nghĩ: “Tạ ơn Chúa, con đã không phạm tội của anh Gioan!”  Chúng ta biết bản thân mình là đủ.  Vì thế lời cầu nguyện phải chân thành và theo Chúa Giêsu, thì lời cầu nguyện chân thành sẽ được trên trời nghe thấy.

Và chúng ta phải nhận biết sự tồn tại của tội lỗi của chúng ta và chịu đựng nó.  Các thiếu sót khác, các bất toàn bẩm sinh và cá nhân có thể giúp chúng ta trở nên khiêm tốn, nhưng vì chúng ta không chịu trách nhiệm về mặt cá nhân hay đạo đức, nhận biết các thiếu sót này không phải như nhận biết tội lỗi của mình.  Chúng ta không có trách nhiệm về ADN thể lý hay tâm lý của mình.  Chúng ta không chịu trách nhiệm về sắc dân hay màu da của mình.  Chúng ta cũng không chịu trách nhiệm về thành phần gia đình, về khu phố, về văn hóa mà chúng ta được nuôi dạy.  Và chúng ta cũng không chịu trách nhiệm về những chuyện xảy ra ở công viên hay ở sân chơi khi chúng ta còn nhỏ.  Dù vậy tất cả những điều này có một tác động sâu đậm trên các thiếu sót cũng như trên sức mạnh của chúng ta.  Nhưng vì chúng ta không có trách nhiệm nên chúng ta không cần phải khiêm tốn về những chuyện này.

Nhưng chúng ta phải khiêm tốn về các tội lỗi của chính mình.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

MỘT CÕI RIÊNG TƯ

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.  Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo.  Sau chuyến đi, các học trò trở về.  Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm.  Chúa chia sẻ niềm vui với các môn sinh và khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”  Một lời khuyên rất thiết thực, một sự quan tâm thật ân cần, ấm áp tình thầy trò.

Chúa Giêsu rất thương các môn đệ.  Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc.  Nghỉ ngơi ở đây không phải là chè chén say sưa, hưởng thụ thỏa thích, hay lười biếng “nhàn cư vi bất thiện,” nhưng đó chính là thời giờ bồi dưỡng tâm hồn, là dịp tĩnh tâm của các Tông đồ.  Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.

1. Thinh lặng là một cõi riêng tư

Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người.  Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.

Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.

Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư:” Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.  Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.  Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.  Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại, để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.

Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.

2. Chúa Giêsu, mẫu gương thinh lặng

Thinh lặng là điểm nổi bật nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu.  Chúa sống thinh lặng, yêu thích thinh lặng, dạy thinh lặng, và dùng sự thinh lặng như một phương thế hữu hiệu để hoạt động tông đồ.  Chúa khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người.  Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.  Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha.  Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người.  Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông.  Người chọn những nơi hiện diện: “Một ngọn núi cao riêng biệt” (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…

Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.

Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người.  Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện.  Làm việc và cầu nguyện, sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài,” đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.

3. Thinh lặng để sống nội tâm

Thinh lặng thuộc về yếu tính của thánh thiện.  Trong thinh lặng và lòng cậy trông, sức mạnh của các Thánh được hình thành (Is 30,15).  Ðời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển.  Thiên Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng.  Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển.  Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.

Là Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người, Chúa Giêsu nói bằng thinh lặng nhiều hơn bằng những lời rao giảng của Ngài.  Thinh lặng cũng là luật sống của Mẹ Maria.  Triết gia Jean Guitton gọi Mẹ Maria là “Trinh nữ suy tư.”  Người trinh nữ ấy “ghi nhớ mọi sự và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19).  Mẹ không vội vã phản ứng và phát biểu nhưng “ghi nhớ” và “suy đi nghĩ lại trong lòng.”  Trong thinh lặng, Mẹ khám phá ý nghĩa các sự kiện và biến cố.  Trong thinh lặng, Mẹ đi vào cuộc giao tiếp thâm sâu với Lời Thiên Chúa và để Lời ấy nên hình hài trong lòng Mẹ.  Nếu Tin Mừng ghi lại một vài câu nói của Mẹ Maria thì Thánh Cả Giuse không có một lời nào, hoàn toàn thinh lặng.  Ngay giữa lúc được Thiên Thần hiện đến trong giấc mộng để báo tin về Mẹ Maria cưu mang Ngôi Hai Thiên Chúa, Thánh Giuse cũng không nói một lời nào, và nhất là Ngài âm thầm ra đi khỏi cuộc đời lúc nào cũng không ai hay biết.

Thinh lặng là miền đất phì nhiêu cho hạt lúa đơm bông.  Thinh lặng là cung lòng người mẹ cho tư tưởng mang lấy hình hài.  Thinh lặng nội tâm để cầu nguyện, đó chính là những tâm tình kết hợp với Thiên Chúa trong đời sống nội tâm, “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1Sm 16, 7b).  Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời.  Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi.  Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện.  Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.

Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại.  Con người thời nay dễ bị căng thẳng.  Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga,Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.

Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghỉ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi.  Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng…  Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người.  Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt.  Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.

4. Thinh lặng cầu nguyện

Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết.  Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa.  Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm.  Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc.  Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa.  Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.

Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện.  Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng.  Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được.  Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức.  Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.

Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa.  Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2).  Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.

Sứ điệp Ngày Truyền Thông Quốc Tế năm 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chọn chủ đề “Thinh Lặng và Lời: Con Đường Phúc Âm Hóa.”  Sứ điệp viết: Nếu Thiên Chúa nói với chúng ta ngay trong thinh lặng, chúng ta sẽ khám phá trong thinh lặng khả năng để nói với Chúa về Chúa…  Trong sự chiêm niệm thinh lặng, Lời Hằng Sống, qua Đấng cấu tạo thế giới, trở nên hiện diện mạnh mẽ hơn và chúng ta ý thức nhiều hơn về kế hoạch cứu chuộc Chúa đang thực hiện trong lịch sử chúng ta bằng lời nói và việc làm…  Lời nói và thinh lặng: học cách truyền thông là học cách lắng nghe và chiêm niệm cũng như học nói.

Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện tha thiết.

Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng, xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói, để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sựAmen!

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An