THẬP GIÁ CỦA CHÚA – THẬP GIÁ CỦA TÔI

Lễ nghi chiều thứ Sáu Tuần Thánh được đề nghị cử hành vào lúc 3 giờ chiều (đối với những nơi phù hợp), vì theo truyền thống, Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên cây thập giá vào lúc giờ thứ chín (x. Mt 27,45-46). Phụng vụ hôm nay mang màu sắc đau thương, nhưng không hoàn toàn bi thảm, vì thập giá của Đức Giêsu vừa là dụng cụ khổ hình, vừa là cờ hiệu chiến thắng.

Chúa Giêsu đã tự vác thập giá, từ dinh quan Philatô đến núi Canvê. Theo những khám phá từ tấm khăn liệm thành Turinô và những nghiên cứu sử học, thì người bị kết án tử hình phải vác cây gỗ ngang, còn cây gỗ dọc thì đóng sẵn trên đồi. Việc vác cây gỗ ngang nhằm tránh tử tội trốn thoát, đồng thời cũng là một nhục hình để trừng phạt. Truyền thống Giáo Hội diễn tả con đường thập giá của Chúa Giêsu qua 14 hình ảnh được gọi là “Mười bốn chặng đàng Thánh Giá”. Trên con đường này, nhiều biến cố đã xảy đến với Chúa Giêsu. Từ cuộc gặp gỡ với Đức Mẹ đến cuộc gặp gỡ với những người dân thành Giêrusalem. Từ  những người ghen ghét chê bai nhạo cười đến những người cảm thương và giúp đỡ. Ông Simon và bà Vêrônica là hai người  xa lạ và có địa vị thấp kém trong xã hội, lại là những người giúp Chúa, một người vác đỡ thập giá, một người lau mặt Chúa đang đầm đìa mồ hôi và máu. Trong hành trình thập giá, Chúa ngã ba lần, nhưng Người lại gượng dạy bước đi. Có lẽ, lời nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây Dầu luôn vang lên trong tâm trí Chúa: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đó là một cuộc giằng co khốc liệt giữa sự yếu đuối của con người và sự mạnh mẽ của Ngôi Hai nhập thể. Chúa Giêsu đã dứt khoát thi hành ý Chúa Cha, chấp nhận mọi nhục hình và gian nan khốn khó. Thập giá chính là bằng chứng của sự tuân phục và hy sinh của Người.

Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang nhìn tôi với cái nhìn đầy yêu thương. Trong thinh lặng, Chúa nói với tôi: “Ta tha thứ mọi tội lỗi cho con”. Vì thế, chiêm ngắm Chúa trên thập giá đem lại cho tôi hạnh phúc vì thấy mình được yêu thương. Trong giáo huấn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dạy hãy tha thứ cho kẻ thù. Giờ đây, trên thập giá, Chúa dạy tôi bài học tha thứ. Lúc này, Người thực hiện lời giáo huấn ấy khi xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình. Biết bao lần tôi cố chấp muốn tự khẳng định vị thế của mình trong gia đình và trong xã hội. Sự cố chấp làm tôi mù quáng, không nhìn ra đâu lẽ phải, không nhận ra ai là anh em. Chúa Giêsu đã tha thứ trong lúc trái tim rướm máu. Điều đó cho thấy, để có thể tha thứ, phải chấp nhận hy sinh. Khi tha thứ, nhiều khi tôi phải chịu tiếng là hèn nhát, có khi tôi phải hạ mình và mất thanh danh. Tuy vậy, dù thế nào đi nữa, khi tôi tha thứ, chắc chắn tôi tìm được sự an bình thanh thản trong tâm hồn.

Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Viên bách quan đội trưởng là người đã tham gia vào vụ hành hình Chúa. Vậy mà vào lúc Chúa tắt thở, ông ta lại nhận ra thân thế đích thật của Người và hô lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Một Thiên Chúa trần trụi, bị khinh khi, khổ nhục và chịu chết vì yêu thương con người. Thập giá dạy tôi một cách nhìn nhận mới về đau khổ: Thiên Chúa đau khổ cho con người hạnh phúc. Người chết cho con người được sống. Như vậy, nếu muốn đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh, tôi không thể trốn tránh đau khổ. Muốn yêu Chúa Giêsu, tôi không được khước từ thập giá. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là một cây gỗ vô hồn; Chúa Giêsu không có thập giá không phải là Chúa Giêsu của Đức Tin.

Khi tôi chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh, tôi thấy những anh chị em Kitô hữu của tôi ở nhiều nơi đang bị bách hại. Chúa nhật Lễ Lá vừa qua (29-3-2015), tại quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các tín hữu trên toàn thế giới hãy cầu nguyện cho những tín hữu bị giết tại một số quốc gia trên thế giới. Họ là những thừa sai, những linh mục, tu sĩ và có nhiều tín hữu giáo dân. Họ đã chết chỉ vì một lý do đơn giản: họ là Kitô hữu. Qua Đấng chịu đóng đinh, tôi cũng nhìn thấy những mảnh đời bất hạnh, những người nghèo nàn, bệnh tật, đau khổ. Họ quằn quại trong nỗi đau của kiếp người mà chưa có lối thoát. Chúa Giêsu vẫn đang chịu đóng đinh nơi những người bất hạnh này. Thập giá là lời kêu gọi hãy ngưng bạo lực, hãy xử với nhau cho đúng phẩm giá con người và hãy liên đới nâng đỡ nhau trong cuộc sống.
“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, tôi thấy Người mời gọi tôi hãy vươn cao, hãy sống cao thượng, hãy hướng về trời. Dù tôi yếu đuối và tội lỗi, tôi vẫn có thể vươn cao, vì Chúa lôi kéo tôi bằng sự trợ giúp thiêng liêng. Tuy vậy, vươn cao để gặp Chúa đòi hỏi nhiều hy sinh. Phải can đảm dứt bỏ những gì đang ràng buộc. “Ai theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Theo Chúa Giêsu là đi trên con đường hy sinh của thập giá. Như thế, thập giá không phải một kỷ niệm vô hồn của quá khứ xa vời, nhưng là chính cuộc sống hằng ngày của tôi. Mỗi ngày sống, tôi đều có cơ hội tiếp cận thập giá, điều quan trọng là thái độ của tôi thế nào trước cây gỗ mà trên đó Con Thiên Chúa đã chịu đau đớn và đã chịu chết vì yêu tôi.

Lễ nghi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh nhắc bảo tôi: Thập giá của Chúa cũng là thập giá của tôi. Khi suy niệm mầu nhiệm Mân Côi, thứ bốn của Năm Sự Thương, tôi cầu nguyện: xin cho tôi được vác thánh giá theo chân Chúa. Vâng,“Đây là gỗ thánh giá, nơi treo Đấng Cứu chuộc trần gian!” Tôi đến để tôn kính và thờ lạy. Tôi tin chắc Đấng đóng đinh sẽ ở bên tôi. Niềm xác tín ấy giúp tôi tìm thấy thư thái và an bình.

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

YÊU THƯƠNG CHO ĐẾN CÙNG

Tin mừng theo thánh Gioan không tường thuật việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể, nhưng lại tường thuật việc Chúa rửa chân.  Điều đó cho thấy việc rửa chân có một tầm vóc rất quan trọng.  Theo thánh Gioan việc rửa chân nói lên tình yêu đến tận cùng của Chúa Giêsu.  Chiêm ngắm việc Chúa rửa chân cho các Tông đồ, ta có thể thấy có 3 cuộc thanh tẩy.

Thanh tẩy thể lý.  Rửa chân là việc mỗi người phải làm hằng ngày.  Bàn chân là vị trí thấp nhất trong cơ thể nên dễ bị nhiễm bẩn và vì thế cần được rửa ráy nhiều nhất.  Nhưng cũng vì thế mà rửa chân là công việc tầm thường nhất, đây là công việc của người đầy tớ.  Hôm nay Chúa Giêsu tự nguyện đảm nhiệm công việc của đầy tớ.  Chúa bắt đầu bằng cởi áo choàng.  Áo choàng tượng trưng cho địa vị cao cả, cho phẩm giá con người.  Khi cởi áo choàng, Chúa cởi bỏ địa vị làm Chủ, làm Thầy, làm Chúa để làm đầy tớ cho các môn đệ.  Chúa lấy khăn thắt lưng.  Thắt lưng là thái độ của người lao động, buộc áo cho gọn gàng để việc phục vụ nhanh nhẹn hữu hiệu hơn.  Chúa bưng chậu nước.  Đây là thái độ của người đầy tớ phục vụ.  Và đến rửa chân cho từng môn đệ.  Rửa chân nói lên cử chỉ chăm sóc yêu thương.  Vì yêu thương nên khiêm nhường hạ mình chăm sóc phần thấp hèn nhất của cơ thể.

Tuy việc rửa chân có ý nghĩa yêu thương phục vụ, nhưng với Chúa Giêsu và trong bữa Tiệc Ly, việc rửa chân còn mang ý nghĩa cao sâu hơn vì nhằm thanh tẩy tâm hồn.

Thanh tẩy tâm hồn.  Khi nói với Phêrô: “Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu”, Chúa Giêsu có ý nói đến việc thanh tẩy tâm hồn các tông đồ khi rửa chân cho các ngài.  Bữa Tiệc ly là bữa tiệc Vượt Qua mới.  Để tham dự bữa tiệc Vượt Qua cũ, người Do Thái buộc phải tẩy rửa thân xác cho thanh sạch, dù trong tiệc Vượt Qua cũ, người Do Thái chỉ tưởng niệm một biến cố đã qua và ăn thịt con chiên một tuổi vô tì tích.  Vì thế khi tham dự tiệc Vượt Qua mới, ta càng cần thanh tẩy tâm hồn cho thanh sạch vì ta được gặp gỡ trực tiếp Chúa Giêsu Thánh Thể và được lãnh nhận Con Chiên Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, vô cùng tinh tuyền.

Nhưng đi xa hơn nữa, Chúa còn muốn qua cuộc rửa chân này, thanh tẩy toàn diện cuộc đời các tông đồ.

Thanh tẩy cuộc sống.  Bữa Tiệc Ly tiên báo cái chết của Chúa.  Phép Thánh Thể là lễ hi sinh trên thánh giá.  Việc cởi áo tiên báo Chúa Giêsu sẽ bị lột áo.  Việc thắt lưng tiên báo Chúa bị bắt và bị giết.  Nước rửa tiên báo nước và máu từ cạnh sườn Chúa đổ xuống.  Thật vậy chẳng có nước nào thanh tẩy được con người nếu không phải là nước và máu tuôn ra từ Trái Tim của Chúa.  Cái chết của Chúa chính là phép rửa mà Chúa đã nói trước : “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 50).  Như thế, Chúa Giêsu dùng chính cái chết của mình để rửa chân cho các tông đồ, để thanh tẩy các tông đồ và để biến đổi đời sống của các ông.  Đây quả là một tình yêu cho đến tận cùng, yêu thương nên phục vụ đến hiến cả mạng sống.

Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu mời gọi các ông: Như Thầy đã rửa chân cho anh em, anh em cũng hãy rửa chân cho nhau.  Để rửa chân, phải quì xuống.  Thế giới hôm nay tràn đầy sự kiêu hãnh, hợm mình và muốn chèn ép người khác để nâng mình lên.  Người môn đệ hãy noi gương Chúa từ bỏ chính mình, tự hạ mình, quì gối khiêm nhường phục vụ.  Để rửa chân, phải cởi bỏ áo ngoài.  Thế giới hôm nay muốn tô điểm mình bằng đủ mọi thứ hình thức vỏ bọc bên ngoài.  Người môn đệ phải theo gương Chúa cởi bỏ áo choàng, cởi bỏ hết những gì giả tạo bên ngoài, khiêm nhường sống với con người thực của mình.  Để rửa chân phải lấy khăn thắt lưng.  Thế giới hôm nay thường muốn trói buộc người khác và tự buông thả chính mình.  Người môn đệ Chúa hãy biết thắt lưng, tự chế bản thân.  Để chân sạch, phải lau sau khi rửa.  Thế giới hôm nay thường đổ lỗi cho người khác.  Người môn đệ hãy biết noi gương Chúa, lau sạch lỗi lầm của anh em, nhận lấy lỗi lầm của anh em và đeo vào thắt lưng, đảm nhận những yếu đuối của anh em.

Khi rửa chân, Chúa nói với thánh Phê rô : “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.”  Lời này làm ta nhớ lại khi hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả và bên hữu, Chúa đã hỏi: “Các con có thể uống chén ta sắp uống và chịu phép rửa ta sắp chịu không?” (Mc 10, 38).  Hôm nay Chúa muốn rửa chân cho các tông đồ để các ngài được “chung phần với Chúa.”   Chung phần cao nhất là cùng uống chén Chúa sắp uống và chịu phép rửa Chúa sắp chịu nghĩa là cùng chết với Chúa, chết cho con người tội lỗi, chết cho đời sống xác thịt, chết cho trần gian, để sống một đời sống mới của con người mới thánh thiện, theo thần khí trong cuộc sống cho Nước Trời.

Chung phần như thế là một vinh dự lớn lao.  Chung phần như thế là được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ thế giới.

TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

NÓI CHUYỆN VỚI SIMON KYRÊNÊ: NGƯỜI VÁC ĐỠ THÁNH GIÁ CHÚA

Trên đường từ Jerusalem trở về quê nhà Galilê, bước đi trên con đường mòn ngang qua làng quê xứ Kyrênê, tôi tình cờ gặp lại Simon khi anh đi ra đồng làm việc.

 Tôi thán phục lòng can đảm của Simon, anh không biết Giêsu, chưa một lần gặp gỡ Giêsu, chỉ nghe người ta nói về Giêsu, vậy mà anh không một chút sợ hãi, anh chạy lại vác đỡ thập giá cho thầy Giêsu của tôi, anh đi bên Giêsu, giúp Giêsu vác thập giá bước đi đến đỉnh đồi Golgotha (Ga.23:26).

Tôi chạy lại hỏi thăm anh, cầm tay anh tôi nói:

 – Simon, anh có khoẻ không?  Cám ơn anh đã vác đỡ thập giá cho thầy Giêsu của tôi.  Sao anh can đảm thế?  Anh không sợ hãi tí nào sao?

– Tôi sợ hãi nhiều lắm chứ.  Hôm ấy tôi tình cờ đi làm về ngang qua đó, lính nhìn thấy tôi, chúng bắt tôi vác đỡ thập giá cho Giêsu thì tôi vác, can đảm gì đâu anh!  Không nghe lời chúng, chúng đánh chết chứ giỡn chơi sao!  Nhưng có một điều tôi phải nói với anh:

“Khi vác đỡ thập giá cho Giêsu, tôi đi bên cạnh Ngài, Ngài ở bên cạnh tôi, Ngài nhìn tôi, tôi nhìn Ngài, bốn mắt nhìn nhau, ánh mắt ấy đã cảm hóa lòng tôi, cái nhìn ấy đã biến đổi đời tôi…  Tôi không còn sợ hãi như trước nữa.  Tôi nhận ra rằng: “Vác đỡ thập giá cho Giêsu là niềm vui, là vinh dự và là hãnh diện cho cuộc đời mình…  Vì tôi được tham dự vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

Simon Kyrênê ơi!  Cám ơn anh về cuộc gặp gỡ thân thương hôm nay.  Cám ơn tâm tình chia sẻ của anh đã nói với tôi, đã làm tôi phải suy đi nghĩ lại về mối liên hệ của tôi với Giêsu, về mối tình của tôi với Ngài.

*******************************

Bạn thân mến!  Tâm tình chia sẻ của Simon Kyrênê đã đánh động lòng tôi.  Lời nói của Simon cứ vang vọng trong tôi luôn mãi:

1)- “Ở bên cạnh Giêsu, Ngài đã cảm hóa lòng tôi, Ngài đã biến đổi đời tôi.  Đó là tâm tình của Simon với Giêsu.  Còn tâm tình của tôi với Ngài thì ra sao?

Giêsu ơi!  Phải chăng được cảm hóa và biến đổi là dấu chỉ Ngài hiện diện bên con?  Vậy mỗi khi con không được biến đổi để yêu thương nhiều hơn, con không được cảm hóa để tha thứ nhiều hơn…  Thì đó cũng là dấu chỉ con không có Ngài ở ngay bên, con không có Ngài hiện diện trong lòng con.

Nếu con không được Ngài cảm hóa và biến đổi, thì cho dù con có tham dự thánh lễ hằng ngày, con có rước lễ thường xuyên, Giêsu và con vẫn nghìn trùng xa cách.  Con và Giêsu vẫn là hai thế giới cách xa và riêng biệt. 

Thật nguy hiểm biết bao nếu con không nhận biết mình đang sống xa Ngài.  Thật buồn biết mấy nếu con không nhận ra con người thật, khuôn mặt thật của chính mình.  Những đẩy đưa cám dỗ và khen tặng, những tự cao và tự mãn nổi lên trong lòng, những hình thức rộn ràng bề ngoài…  Tất cả đã làm con lầm tưởng rằng con đang có Giêsu, con đang có Ngài ngay bên, nhưng thật sự là con đang xa Ngài.  Lòng con không có chỗ trống để Ngài đến cư ngụ.  Tim con khép lại, không chấp nhận, không để cho Ngài đi vào để cảm hóa và biến đổi.

2)- “Vác đỡ thập giá cho Giêsu là niềm vui, là vinh dự và hãnh diện.  Simon tâm sự như vậy đó.  Vác thập giá của chính mình đã khó khăn vất vả.  Vác thập giá cho người không quen không biết, như Simon vác đỡ cho Giêsu, thì lại càng vất vả khó khăn hơn.  Làm sao lại coi đó là niềm vui, nìềm vinh dự được?  Phải chăng chỉ có tình yêu mới giúp tôi coi đó là niềm vui: Tình Yêu càng lớn thì niềm vui càng nhiều…. Và phải chăng lòng tôn kính đặt để nơi người quyền cao chức trọng, mới giúp tôi coi đó là niềm vinh dự hãnh diện: Niềm tôn kính càng cao thì niềm vinh dự hãnh diện càng lớn.

Giêsu ơi!  Tình yêu nào con dành cho Ngài hôm nay?  Lòng tôn kính nào con đặt vào Giêsu trong lúc này?  Vì Giêsu, thập giá nào con chấp nhận để vác trên vai con hôm nay?

Phải chăng những chê trách hiểu lầm, những ghen ghét đố kỵ con gặp phải trong đời sống phục vụ…  Đó chính là thập giá mà Ngài mời gọi con ôm lấy và vác đi?

Phải chăng những khó khăn vất vả trong cuộc sống, những bệnh tật yếu đau, những đam mê yếu đuối con người mà con đang chiến đấu để vượt qua…  Cũng chính là thập giá mà Ngài mời gọi con vác đi trên đường đời? 

3)- “Vác đỡ thập giá cho Giêsu là được tham dự vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.”  Đó là lời tâm tình chia sẻ của Simon Kyrêné.  Giêsu đến trong thế gian để thực thi “công trình cứu chuộc” của Thiên Chúa.  Ngài đến để mang tình yêu thương tha thứ cho muôn người.  Ngài đến để cứu chuộc nhân trần, để chết thay cho người mình yêu, để mang người mình yêu trở về với Nguồn Cội, trở về với Đấng Yêu Thương Ngàn Đời.

Giêsu ơi!  Mỗi khi con sống yêu thương tha thứ hôm nay, cũng là lúc con làm vơi bớt những đau thương tủi nhục của Ngài trên đường thánh giá năm xưa.  Phải chăng đó cũng là lúc con được tham dự vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa?

Mỗi khi con mang được người thân quen bạn bè về với Giêsu, mỗi khi con giúp họ đi vào trong tình thân mật với Ngài, cũng là lúc con lau khô những giọt máu đào Ngài đã đổ ra trên thập giá năm xưa.  Phải chăng đó cũng chính là lúc con được tham dự vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa?

Giêsu ơi, giống như Simon Kyrênê năm xưa….  Xin cảm hóa và biến đổi lòng con, để con luôn có Ngài ngay bên, vì Ngài là hạnh phúc và là cùng đích của đời con.  Amen!

Linh Xuân Thôn

PHÓ MÌNH TRONG TAY CHÚA CHA

Trình thuật về cuộc thương khó của Chúa, giúp chúng ta theo Chúa Giêsu từ phòng tiệc ly đến chân thánh giá.  Trong biến cố này, có sự phản bội của Giuđa, sự hận thù ghen ghét của các kỳ mục Do Thái, sự thay lòng đổi dạ của quần chúng đám đông.  Nhưng trên hết, đó là sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý của Chúa Cha.  “Người đã yêu thương đến cùng,” Thánh Gioan nói với chúng ta như vậy (Ga 13,1).  Ðức Giêsu như một người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa được loan báo trong ngôn sứ Isaia.  Người mang trên đôi vai mình tội lỗi của nhân loại.  Người không dùng bạo lực đối lại với bạo lực, không dùng lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa.  Người là con chiên vượt qua mà người Do Thái vẫn giết trong Ðền thờ vào dịp lễ để kỷ niệm cuộc xuất hành khỏi Ai Cập.  Máu của Người đổ ra là hy lễ xá tội muôn dân.

Trước biến cố thập giá, Chúa Giêsu luôn phó thác nơi cánh tay Chúa Cha.  Người sẵn sàng đón nhận cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng.  Người đến trần gian để thực hành thánh ý của Chúa Cha.  Người chấp nhận mọi sự, miễn là ý của Chúa Cha được thành tựu.  Lời cầu nguyện: “Xin đừng theo ý con, một theo ý Cha” đã diễn tả niềm tín thác kỳ diệu ấy.  Trong sa mạc, đã có lần ma quỷ thách thức Người gieo mình từ trên nóc Ðền thờ xuống.  Nếu khi ấy, Người đã không gieo mình xuống theo thách thức của tên cám dỗ, thì giờ đây, Người lại hoàn toàn phó thác mà gieo mình vào lòng Chúa Cha.  Người không tính toán, không băn khoăn, nhưng một niềm tin tưởng nơi Chúa Cha.

Thập giá là trung tâm điểm của nghi thức phụng vụ Tuần Thánh.  Hai mươi thế kỷ đã qua, các tín hữu được mời gọi nhìn lên thập giá để cảm nhận lòng xót thương của Thiên Chúa.  Thập giá là một mầu nhiệm mà trí khôn loài người không thể suy thấu.  Quả thật, làm sao có thể lý giải được việc Thiên Chúa chịu đau khổ và chịu chết?  Làm thế nào để hiểu sự kiện một Thiên Chúa quyền năng lại chấp nhận chịu bắt bớ, hy sinh và cuối cùng phải chết một cách nhục nhã trên cây thập giá?

Quyền năng Thiên Chúa ở đâu nơi thập giá?  Có một câu trả lời duy nhất và ngắn gọn, đó là tình thương.  Cũng như chỉ có tình thương mới giúp người mẹ hy sinh khuya sớm để chăm sóc đứa con bệnh tật lâu năm mà không một lời phàn nàn oán trách, chỉ có tình thương mới dẫn đưa Ðức Giêsu đến việc chấp nhận khổ đau và chết trên thập giá.  Trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để tất cả những ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).

Vụ án Chúa Giêsu không chỉ là câu chuyện của quá khứ, nhưng là của ngày hôm nay.  Tại một số nước, vẫn có các Kitô hữu bị thảm sát, là nạn nhân của mối thù hận.  Ðây đó trên thế giới, vẫn còn những người vô tội bị giết.  Bóng thập giá vẫn phủ ngang qua mọi mảnh đời bất hạnh, phá vỡ hạnh phúc, xói mòn niềm tin.  Ðấng Cứu thế vẫn đang bị hành hình nơi những người nghèo khổ, người di dân lánh nạn và người cô thế cô thân.  Thập giá là tiếng kêu hãy ngưng bạo lực và đối xử với nhau cho xứng tình người.  Một điều lạ lùng là, chính khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá là lúc mọi người nhận ra Người là Con Thiên Chúa, trong khi trước đó họ nhạo báng Người.  Viên đại đội trưởng là đại diện cho dân ngoại, và dân chúng có mặt lúc bấy giờ đều đấm ngực ăn năn.  Họ đã nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng Công chính.  Khi chiêm ngưỡng và suy ngắm mầu nhiệm thập giá, chúng ta cũng hãy nhận ra nơi con người chịu treo trên thập giá là Ðấng Cứu độ trần gian.  Thập giá cũng mời gọi chúng ta noi gương Chúa Giêsu, phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa quyền năng và nhân hậu, để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống trần gian.  Ðó là niềm tín thác trọn vẹn của người con nơi cha mình, biết rằng bao giờ cha cũng muốn những điều tốt lành cho con và làm mọi sự để con được sống vui và hạnh phúc.

Bài Thương Khó kết thúc trong bầu khí trầm lắng suy tư.  Mỗi người chúng ta có thể nhận ra mình là một nhân vật trong “vở kịch thương khó” mà thánh sử đã thuật lại.  Dù chúng ta là nhân vật nào đi nữa, lời mời gọi nhận ra tình thương vô bờ của Thiên Chúa vẫn đang thôi thúc.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

TRUNG THÀNH MÀ CHỐI, CHỐI MÀ VẪN TRUNG THÀNH

Phêrô chối Thầy, một sự kiện khó quên.  Khó quên đối với chính ông và cũng khó quên đối với nhân loại.  Dù xảy ra đã khá lâu, nhưng đó vẫn luôn là đề tài lý thú. “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng.”[1]  Lời thề hứa mạnh mẽ bao nhiêu, sự phản bội đau đớn bấy nhiêu.  Hình ảnh “Phêrô chối Chúa” từ lâu đã trở thành điển tích.  Hình ảnh ấy lưu lại một thất bại thê thảm trong cuộc đời Phêrô.  Phêrô đã hối cải, nhưng sự hối cải không thể thay đổi tính chất của việc đã xảy ra.  Người đời vẫn nhắc đến ông như một Tông đồ đã từng phản bội.

Tuy nhiên, lần lại từng chi tiết trong Kinh Thánh, có nhiều điều thú vị xoay quanh sự kiện đáng buồn ấy.  Tại vườn cây dầu, khi nghe Đức Giêsu nói đến cuộc khổ nạn và các môn đệ sẽ bỏ Người, Phêrô dõng dạc tuyên bố: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấy ngã” – lời tuyên bố hùng hồn từ trái tim đầy nhiệt huyết và trung thành.  Ngay thời khắc ấy, Phêrô không hề dối lòng.  Đức Giêsu nói thêm để cảnh tỉnh: “Thầy bảo thật anh, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.”[2]  Điều Chúa nói rồi sẽ diễn ra, nhưng đó cũng là điều mà chính Phêrô không thể chấp nhận được.  Ông thề: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” [3] – lời tuyên bố của người môn đệ quyết tình trung tín, chứ không phải của kẻ lấp liếm gian ngoa.  Đây là điều mà không phải ai cũng có được.  Chuyện vấp ngã xét sau, nhưng nhiệt tâm nồng cháy mãnh liệt dù có xuất phát từ con tim yếu đuối vẫn đáng trân trọng hơn là chẳng có chút gì nhiệt tâm để thể hiện.

Đâu phải chỉ riêng Phêrô thề với Chúa, “tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy”[4].  Mọi người, ai ai cũng muốn thể hiện lòng trung tín với Thầy.  Ngay sau đó, khi giờ đã điểm, Giuđa dẫn quân binh đến bắt Đức Giêsu thì “các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết”[5].  Nhiệt tâm là thế, ý muốn là thế, nhưng đối diện với nỗi sợ hãi, với khổ đau, với sự chết thì không hề đơn giản.  Nỗi sợ hãi bắt đầu trong vườn Êđen khi nguyên tổ phạm tội và trải dài xuyên suốt phận người.  Hăng hái thề thốt rồi yếu đuối vấp ngã đâu chỉ có mình Phêrô.  Mọi người khẩn cấp thoát thân.  Có người buông cả áo quần chạy trần truồng.  Chỉ một kẻ ở lại vì Thầy, đó là Phêrô.  Ông tuốt gươm và chiến đấu[6].  Phêrô yếu đuối, phải, ông yêu đuối thật.  Nhưng nếu đặt mình trong hoàn cảnh ấy, có ai dám bảo mình mạnh mẽ hơn ông?

Đức Giêsu chịu bị bắt và giải đi.  Trong đêm hoảng loạn kinh khiếp đó, còn môn đệ nào theo Người?  Chỉ có Phêrô.  Ông theo Chúa vào tận bên trong dinh thượng tế.  Nơi đây, ông đã chối Thầy.  Người ta thường nhớ đến sự kiện này qua hai chữ “chối Thầy.”  Mấy ai nghĩ rằng Phêrô mang theo sự yếu đuối khốn cùng của bản thân nhưng vẫn quyết tình theo Chúa.  Phêrô chối Chúa ba lần.  Ba lần đớn đau.  Ba lần không vượt qua được bản thân để làm chứng cho Thầy.  Nhưng lạ lùng thay, hoảng loạn, khiếp run và sợ hãi nhưng Phêrô không trốn chạy.  Trong vườn cây Dầu ông đã có thể thoát thân.  Sau lần chối thứ nhất, ông cũng có thể bỏ trốn.  Sau lần thứ hai, lần thứ ba cũng thế…

Nếu chỉ nghĩ cho bản thân và giữ gìn mạng sống, Phêrô không dại gì ở lại để chịu thêm rắc rối.  Không, ông vẫn lầm lũi theo Thầy, ông mang vác cả thân phận yếu hèn của mình để theo.  Ông không thể chối bỏ nó.  Nhưng hơn cả, ông không thể để Thầy ở lại một mình.  Phêrô vấp ngã, nhưng ai thấy được tình yêu ông dành cho Thầy tha thiết đến chừng nào.  Có người sẽ trở ngược vấn đề: tại sao yêu Thầy như thế, ông lại chối Thầy?  Lẽ nào chúng ta tự cho mình quyền đòi hỏi một con người hơn khả năng họ có thể.  Chúng ta có quyền đòi hỏi ai đó hơn những gì Thiên Chúa đòi hỏi họ sao?

Sợ.  Rất sợ.
Chối.  Đã chối.
Bỏ.  Không bỏ.
Theo.  Vẫn theo.
Và yêu Thầy đến chết.

Phải, chỉ mình Phêrô chối Thầy.  Mọi người không ai chối.  Có theo Thầy đâu mà chối.  Họ đã bỏ Thầy từ lâu rồi.  Hành trình khổ đau của Thầy đâu có dấu chân họ.  Họ trốn biệt.  Chỉ còn lại Phêrô.  Phêrô nhiệt tâm lắm.  Phêrô thề thốt lắm.  Phêrô yếu đuối lắm.  Phêrô cũng yêu Thầy nhiều lắm.  Phêrô mạnh miệng.  Phêrô chiến đấu.  Phêrô vấp ngã.  Phêrô chối Thầy, nhưng Phêrô vẫn theo Thầy.  Phêrô tiếp tục yếu đuối vì hoảng sợ, Phêrô lại chối Thầy nhưng ông không bỏ Thầy.  Lần thứ ba cũng thế.  Phêrô yêu Thầy hơn tất cả, tình yêu được ấp ủi bằng con tim yếu đuối nhưng vẫn yêu.  Tình yêu ấy có thể chẳng là gì so với người khác, nhưng đủ mạnh để giúp ông vượt thắng cả tội lỗi chính bản thân và hạ mình xuống vực thẳm cậy trông mà sám hối.  Yếu đuối làm ông ngã quỵ, nhưng tội lỗi không hạ gục được ông.

Gà cất tiếng gáy.  Chúa nhìn Phêrô.  Ánh mắt trách móc, ánh mắt phản tỉnh hay ánh mắt thất vọng?  Không, Chúa biết ông yếu đuối đến ngần nào.  Chúa biết ông sẽ vấp ngã ra sao.  Và Chúa cũng biết, trong khoảnh khắc lịch sử có một không hai ấy, chỉ còn mỗi Phêrô là trung tín.  Ánh mắt Người xuyên thấu tâm can ông.  Ánh mắt ấy vực dậy người môn đệ từ trong nỗi hãi hùng khiếp sợ.  Ánh mắt nâng đỡ một tình yêu đang quằn quại giữa muôn vàn yếu đuối.  Ánh mắt khai thông sự bế tắc đang dằn vặt tâm hồn.  Ánh mắt trìu mến nhắc ông về tình yêu lớn lao làm tâm hồn ông vỡ òa thống hối và yêu mến nhiều hơn.  Ánh mắt in dấu ấn chứng nhận cho tình yêu không thể thốt nên lời.  Người môn đệ tín trung lúc này lặng lẽ theo Thầy.  Ông là môn đệ trung kiên, để rồi đây ông sẽ được diễm phúc chết giống như Thầy.  Một tình yêu ngời sáng rực rỡ qua cuộc đời đầy yếu đuối.  Ông thề không bỏ Thầy và đã không bỏ Thầy.

Phêrô ba lần chối Chúa – ba lần vấp ngã – ba lần khoét vào tâm hồn những vết thương muôn đời không thể xóa nhòa.  Hay đó cũng là ba lần thích vào trái tim đang quằn quại đau đớn những ấn tích của tình yêu.  Có yêu mới vì nhau ở lại.  Có yêu mới phải quay quắt dằn vặt với từng yếu đuối.  Có thật sự yêu và đau đớn bởi tình yêu mới dám nói với Thầy: “Lạy Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.”[7]  Có ai như Phêrô dám nhìn thẳng Thầy mà nói như thế, dù trước đó không lâu đã chối Thầy.  Phải, ông tin Thầy biết mọi sự.  Thầy thấu tỏ lòng ông.

Đêm ấy còn đây:

Kẻ muôn thu chịu tiếng “chối Thầy” – nhưng vẫn theo đến cùng.

Còn những người khác không ai chối Thầy –  đơn giản vì họ không theo.

VẬY AI THẬT SỰ CHỐI THẦY?

TMT – Học Viện Đa Minh

[1] Lc 22,33
[2] Mt 26,34; Mc 14,30; Lc 22,34
[3] Mt 26,35; Mc 14,29-31; Lc 22,33
[4] Mt 26,35; Mc 14,31
[5] Mt 26,56; Mc 14,50
[6] Mt 26,51; Mc 14,47; Lc 22,49-51; Ga 18,10
[7] Ga 21,15-17

SUY TƯ VỀ GIUĐA ÍTCARIỐT

Theo truyền thống, Thứ Tư Tuần Thánh được gọi là “Spy Wednesday,” (Thứ Tư Do Thám) vì đó là ngày tông đồ Giuđa phản bội Thầy Giêsu.  Đó là lời nhắc nhở chúng ta đã ít nghĩ về Giuđa… có lẽ vì chúng ta không thích những gì chúng ta biết.  Đây là 8 điều đáng để chúng ta suy tư:

1. Giuđa Thuộc Nhóm Mười Hai
Nói chung, đó là điểm rõ ràng và không thú vị.  Nhưng đó là điều thực sự đáng cân nhắc.  Điều đó cho thấy rằng Giuđa là một trong số mười hai môn đệ đầu tiên được Đức Kitô truyền chức thánh trong Giáo Hội – được chính Chúa Giêsu tuyển chọn, Ga 6:70-71.  Điều đó gợi nhiều ẩn ý.

Vào lúc nào đó, Giuđa đã bỏ mọi sự để theo Đức Kitô (Mc 10:28) Các câu chuyện như vậy thật rắc rối.  Tôi nhớ rằng Charles Templeton là người đi loan báo Tin Mừng cùng với Billy Graham, nhưng rồi từ bỏ Kitô giáo và theo thuyết bất khả ngộ hoặc vô thần.  Có lẽ nhiều người cho rằng không thể có chuyện như vậy, thế nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật.  Thánh Phaolô biết lịch sử Israel, cho biết rằng nhiều người được Thiên Chúa cứu khỏi Ai Cập nhưng rồi lại từ bỏ Ngài và chết.  Thánh Phaolô nói: “Ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã.” (1 Cr 10:12).  Giuđa nhắc chúng ta nhớ tới điều tương tự.  Nếu Giuđa có thể bỏ mọi sự và dành nhiều thời gian cho Đức Kitô, thậm chí là thân thiết với Ngài, mà vẫn sa ngã, bạn và tôi không nên tự phụ.  Nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta tiến bước.

2. Giuđa Không Kỳ Cục
Không có lý do gì để tin rằng Giuđa là trường hợp duy nhất.  Nghĩa là dễ rơi vào cái bẫy suy nghĩ của Giuđa là trường hợp duy nhất trong lịch sử sa đọa đến nỗi ông có thể phản bội Chúa Giêsu như thế.  Dĩ nhiên điều đó không thật.  Ông không là Kitô hữu duy nhất, cũng chẳng là giáo sĩ duy nhất.  Chúng ta có gợi ý về điều này trong những lần thất bại của các môn đệ khác – chẳng hạn, Phêrô chối Thầy, hoặc các môn đệ khác bỏ của chạy lấy người khi Chúa Giêsu bị bắt.  Nhưng chúng ta có gợi ý về điều này trong Giáo Hội về các vụ bê bối ngày nay.

3. Giuđa Che Giấu Cuộc Chiến Nội Tâm
Vấn đề của Giuđa không bắt đầu trong Tuần Thánh.  Đã có vẻ như Giuđa không là môn đệ trung thành, và rồi ông đã phản bội Chúa Giêsu không biết vì lý do gì.  Không phải vậy, có một đường dài dần dần ông chuyển từ ánh sáng sang bóng tối.  Trong Ga 6:70-71, Chúa Giêsu cho biết rằng Giuđa thoái hóa, khi đó Ngài nói về Thánh Thể.  Sau khi Ngài nói rằng thịt và máu Ngài là của ăn và của uống thật, nhiều môn đệ đã xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá!  Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60) Phêrô nói thay cho cả Nhóm Mười Hai, xác tín vào Chúa Giêsu, nhưng lúc đó Ngài ám chỉ việc phản bội của Giuđa.  Có điều gì đó có vẻ buồn cho Giuđa.  Thánh sử Gioan cho chúng ta biết rằng Giuđa ăn cắp tiền (Ga 12:6).  Nếu bạn phạm tội trọng, đó là tội lăng nhăng ngoài hôn nhân hoặc tội gì đó, có cơ hội tốt để tội đó không là điểm khởi đầu.  Một loạt các hành vi xấu xa dẫn tới hậu quả rất tồi tệ.  Thánh Phanxicô Salê mô tả quá trình đó là “sự cám dỗ, sự ham muốn, và sự ưng thuận.”

Một người vợ yêu dấu của người chồng, có người gởi tin nhắn cám dỗ người vợ này không chung thủy.  Thứ nhất, tin nhắn đó là đề nghị của người đàn ông kia.  Thứ hai, người vợ có thể chấp nhận hoặc từ chối.  Thứ ba, cô ta có thể bằng lòng hoặc khước từ.  Mặc dù vậy, khi Satan, thế gian, và xác thịt nhìn vào linh hồn gắn liền với Con Thiên Chúa, chúng đặt ra những chước cám dỗ và lời đề nghị với linh hồn đó, do đó –

[1] Tội lỗi được đề nghị với linh hồn đó;
[2] Lời đề nghị có thể làm vui hoặc không vui đối với linh hồn đó;
[3] Linh hồn đó có thể bằng lòng hoặc từ chối. 

Nói cách khác, có bộ ba là “sự cám dỗ, sự ham muốn, và sự ưng thuận.”  Mặc dù bộ ba này có thể không phải lúc nào cũng rõ ràng và dễ nhận ra, mà chúng theo dấu trong các tội trọng.

Thánh Giacôbê nói rằng có hệ lụy tất yếu: “Một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi thì sinh ra cái chết.” (Gc 1:15) Vấn đề ở đây không phải là Giuđa chiến đấu với cơn cám dỗ – tất cả chúng ta cũng vậy.  Mà vấn đề là Giuđa có vẻ chiến đấu một mình, cứ để chúng cắn rứt cho tới lúc dám phản bội Thầy.  Thánh Gioan nói: “Đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3:19) Ma quỷ phát triển trong bóng tối, thế nên nếu bạn chiến đấu về điều gì đó về tâm linh, hãy chia sẻ điều đó với một người mà bạn tin tưởng – một linh mục, một người uy tín, một người thân, một người bạn,… Và bạn sẽ ngạc nhiên thấy chước cám dỗ phải teo dần trong ánh sáng.

4. Giuđa Không Quan Tâm Thần Học
Là Kitô hữu, chúng ta thuộc về “Israel Mới.”  Nhưng điều đó có ý nghĩa gì?  Đáng nhớ tên gọi này có từ đâu.  Tổ phụ Giacóp được đổi tên thành Israel sau khi vật lộn suốt đêm với thiên thần.  Cuối cùng, thiên thần nói: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Giacóp nữa, nhưng là Israel, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng” (St 32:29).  Nói cách khác, chúng ta có một Thiên Chúa là Đấng trở thành sự cố gắng.  Và Giuđa có vẻ phiền vì sứ điệp của Chúa Giêsu, nhưng ông không quan tâm hoặc không muốn cố gắng.

Một điều nổi bật về Giuđa là, qua các Phúc Âm, chúng ta không thấy ông nói về chính mình và tiền bạc.  Có lẽ những gì ông nói là tự thêu dệt hoặc kêu gọi về tài chính.  Trong Tuần Thánh, tại nhà ông Simon Cùi, cô Maria ở Bêtania xức dầu thơm hảo hạng lên chân Chúa Giêsu, Giuđa đã phản đối: “Phí dầu thơm như thế để làm gì?  Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo” (Mc 14:4-5) Chúa Giêsu nói: “Cứ để cho cô làm.  Sao lại muốn gây chuyện?  Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa.  Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được!  Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!  Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng.  Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô” (Mc 14:6-9).

Câu trả lời của Chúa Giêsu là thần học.  Khó có thể tưởng tượng rằng điều đó lại vô nghĩa đối với Giuđa, bởi vì ông không có ánh mắt cần thiết (ít là ngay lúc đó) để biết tại sao điều đó tốt đẹp đối với Thiên Chúa.  Lý luận của Giuđa là sự lạnh nhạt của thời hiện đại – những thứ tốt đẹp và mắc tiền như nước hoa phải bán đi để lấy tiền mua lương thực cho người nghèo, hoặc ít ra là để dằn túi của những người như Giuđa và những người có thói quan liêu.

Nói cách khác, đó là lần duy nhất chúng ta nghe Giuđa yêu cầu điều gần gũi với vấn đề tôn giáo, điều thuần túy là “Phúc Âm công bình xã hội” không có chỗ cho sự siêu việt, vẻ đẹp, Thập Giá, hoặc Thiên Chúa.  Bức tranh về Giuđa nổi bật trong Tân Ước là con người không thể nắm bắt chiều kích “thẳng đứng” của Kitô giáo, nhưng là con người chỉ nghĩ theo chiều ngang.  Sự tập trung của ông có vẻ ít tập trung vào Thiên Chúa, mà tập trung vào con người – và cuối cùng là tập trung vào chính mình.

5. Giuđa Không Tôn Kính Thánh Thể
Trước tiên, Giuđa có vẻ bắt đầu tách khỏi Đức Kitô sau khi nghe giáo huấn về Thánh Thể trong Ga 6, có vấn đề là không biết Giuđa có được thúc đẩy bởi các lý lẽ thần học hay không (không thích điều Chúa Giêsu nói), hoặc những điều cá nhân (không thích khi thấy Chúa Giêsu bị người ta bỏ rơi).  Nhưng điều này lên cao điểm trong việc phản bội vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh.  Đáng chú ý cách phản bội của Giuđa được mô tả là có liên quan Thánh Thể.

Thánh Luca kể: Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em.  Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.”  Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.  Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy.  Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người” (Lc 22:19-22).

Chúa Giêsu tố cáo sự trơ tráo của Giuđa khi tham dự Thánh Lễ đầu tiên mà lại mưu tính phản bội.  Các môn đệ cũng lầm lẫn về ý nghĩa của lời nói gở của Chúa Giêsu, và họ bắt đầu hỏi nhau xem Chúa Giêsu ám chỉ ai.  Thánh Gioan kể lại những gì tiếp tục xảy ra:

Chúa Giêsu nói: “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy.”  Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt.  Y vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào y.  Đức Giêsu bảo y: “Anh làm gì thì làm mau đi!”  Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Ngài nói với y như thế.  Vì Giuđa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giêsu nói với y: “Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ,” hoặc bảo y bố thí cho người nghèo.  Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra.  Lúc đó, trời đã tối. (Ga 13:26-30)

Giuđa nhận miếng bánh một cách bất xứng – rước lễ bất xứng, Gioan mô tả việc lãnh nhận bất xứng đó là lúc Satan nhập vào Giuđa.  Sau đó, Giuđa đứng dậy và bỏ đi – dĩ nhiên mang theo cả túi tiền.  Như vậy, Giuđa coi thường việc tham dự nghi lễ tôn giáo – dạ tiệc mừng Lễ Vượt Qua, Thánh Lễ đầu tiên, chỉ vội đi lo chuyện xấu xa.  Điều đó cũng giống như khi chúng ta rước lễ xong rồi ra ngoài ngay, không ở lại cho đến hết lễ – và không tâm sự với Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở trong lòng mình.

6. Giuđa Hợp Tác Với Satan
Điều kinh khủng về Giuđa không chỉ là một Kitô hữu phản bội Đức Kitô, mà còn là một trong Nhóm Mười Hai lại liên minh với ma quỷ – nghĩa là Giuđa biết mình đang tuân lệnh của Satan, còn hơn là sự yếu đuối bình thường của nhân loại.  Điều ranh mãnh siêu nhiên là chỗ đó.  Nếu chúng ta rời ánh mắt khỏi những điều thuộc về Trời, chúng ta sẽ chỉ chú ý vào những gì thuộc thế gian.  Lúc đó, chúng ta nửa hướng mắt nhìn lên, nửa hướng mắt nhìn xuống những gì ở bên dưới chúng ta.

Đừng bao giờ tự mãn, hãy luôn bám chặt vào Đức Kitô, đặc biệt là kết hiệp với Ngài qua bí tích Thánh Thể.  Một người cai rượu nói: “Nếu tôi uống lại, vấn đề sẽ tồi tệ hơn trước.”  Đó là vấn đề quan trọng đối với bạn và tôi.  Sự cám dỗ trở thành sự thích thú, sự thích thú trở thành tội lỗi.  Đào vi thượng sách, tránh voi chẳng xấu mặt.  Tội nhỏ trở thành tội lớn, nếu chúng ta không đưa nó ra ánh sáng.  Đó là bài học đắt giá chúng ta học được từ Giuđa.

Joe Heschmeyer
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ ShamelessPopery.com)

NHỮNG VIÊN ĐÁ OAN NGHIỆT

Khởi đi từ câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” trong Tin Mừng Thánh Gioan mà trong ngôn ngữ của nhiều nước, trong đó có Việt Nam chúng ta, có lối nói “ném gạch đá” để chỉ những lời phê bình chỉ trích của công chúng nhắm tới một cá nhân hay một tập thể.  Thông thường, những “gạch đá” này không mang tính chất xây dựng, mà là những kết án, đôi khi vội vàng và thiển cận.  Không thiếu những viên gạch đá đã làm tổn hại thanh danh của nhiều người, thậm chí gây áp lực lớn cho đương sự, đến nỗi có người bị dồn đến bước đường cùng, tự tìm đến cái chết để thoát khỏi những thị phi.  Những “gạch đá” trong cuộc sống thường ngày thật oan nghiệt biết bao!

Thánh Gioan là tác giả duy nhất ghi lại câu chuyện người phụ nữ ngoại tình.  Câu chuyện này được trình bày như một vụ án.  Người bị cáo là một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang (nhưng không có tòng phạm bị tố cáo), người tố cáo là các kinh sư và biệt phái, thẩm phán là Chúa Giêsu.  Vụ án được trình bày như một vở kịch, nhân vật trung tâm là Chúa Giêsu.  Trong vụ này, các kinh sư và biệt phái muốn gài bẫy thử Chúa.  Bởi lẽ nếu Chúa nói đừng ném đá, họ sẽ kết án Chúa bãi bỏ Lề Luật Môisen (x.Lv 20,10; Dnl 22,23-24); nếu Chúa đồng ý cho họ ném đá, Chúa sẽ mâu thuẫn với lời Người rao giảng về lòng bác ái bao dung.  Những kẻ gài bẫy Chúa tỏ ra hỉ hả vì chắc chắc Người không thể thoát khỏi mưu mô của họ.

Chúa Giêsu đã ứng xử rất khôn ngoan, không mắc bẫy và không rơi vào hai tình huống trên.  Người không phủ nhận Luật Môisen, cũng không làm trái với lời giáo huấn của Người.  Với câu trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi“, Chúa đã lưu ý những người đang tố cáo hãy nhìn lại mình.  Không ai dám cầm đá ném người phụ nữ, vì chẳng ai dám nhận mình là người sạch tội.  Và, kết quả là, những người tố cáo dần dần rút lui, chỉ còn lại Chúa Giêsu và người phụ nữ.  Khi những lời tố cáo ồn ào đã lắng xuống, chỉ còn lại một bên là tội nhân đáng thương, một bên là lòng thương xót của Thiên Chúa.  Những người trước đó vài phút còn dương dương tự đắc, nay thấy hổ thẹn và rút lui.  Lòng thương xót đã chiến thắng.  Người phụ nữ đã thoát chết.  Chị được phục hồi và trước mắt chị vẫn có một tương lai để làm lại cuộc đời.  Lòng nhân từ của Chúa đã cứu sống chị.  Những người tố cáo không còn có lý do để bắt bẻ Chúa.  Họ cũng không hằn học coi khinh một người đã phạm tội, vì họ nhìn lại chính bản thân mình và nhận ra thân phận tội lỗi của họ.  Chúa Giêsu được tác giả Tin Mừng trình bày như một vị tôn sư khôn ngoan, đầy lòng nhân hậu.

Giữa cuộc sống đầy hận thù ghen ghét, Thiên Chúa sẽ can thiệp và thể hiện tình yêu thương.  Tình yêu thương ấy phát xuất từ lòng bao dung của Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng tha thứ cho mọi tội nhân.  Ngài quên quá khứ đen tối của con người, mở ra trước mặt họ một con đường tương lai.  Hoang mạc khô cằn sẽ vọt lên dòng suối mát, làm nước uống cho dân được tuyển chọn (Bài đọc I).  Tình thương của Chúa sẽ như đại dương, tẩy sạch mọi tội lỗi của con người.

Cuộc sống hôm nay vẫn đầy rẫy những kinh sư và biệt phái.  Đó không phải là ông A, ông B, mà là chính chúng ta.  Bởi lẽ rất nhiều lần chúng ta đóng vai trò của những người này, khi chúng ta phê phán người khác.  Phê bình chỉ trích người khác là tự đặt mình làm chuẩn mực cho lối sống và cách ứng xử.  Người hay phê bình người khác cho mình là hoàn hảo, và áp đặt người khác phải có lối suy nghĩ như mình, lý luận như mình và hành xử như mình.  Những đòi buộc ấy là vô lý và chủ quan, nhưng tiếc thay, nó vẫn tồn tại trong cuộc sống của chúng ta.

Khi tuyên bố: “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đã mà ném trước đi!”, Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta hãy nhìn lại mình, trước khi kết án phê bình người khác.  Bởi lẽ trên trần gian, không ai là hoàn thiện.  Trong thời đại bùng nổ thông tin và kỹ thuật hiện đại hôm nay, người ta lạm dụng các trang mạng xã hội để vu khống, lăng mạ và kết án người khác một cách tàn bạo.  Những “anh hùng bàn phím” là những người giấu mặt.  Họ tự do phát biểu, vội vàng kết án, và suy diễn theo cái nhìn chủ quan của mình.  Đây chính là những “viên đá oan nghiệt” của thời hiện đại.  Những viên đá này đang hủy hoại mối tương quan con người với nhau một cách tàn bạo, tạo nên những khoảng cách, thậm chí những mối oán thù và bạo lực.  Câu chuyện người phụ nữ ngoại tình được đọc trong Chúa nhật hôm nay, khi chúng ta đã đi gần hết chặng đường của Mùa Chay, như lời mời gọi chúng ta hãy nhìn lại mình.  Có thể chúng ta đang là những kinh sư và biệt phái, chuyên săm soi và kết án người khác mà không nhận ra tội lỗi của mình để ăn năn sám hối.

“Con hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa.”  Chúa Giêsu không bao che cho kẻ có tội.  Người cứu thoát họ khỏi mối nguy hiểm của đám đông đang hằm hằm giận dữ, đồng thời khuyên họ hãy đoạn tuyệt với tội lỗi để xứng đáng đón nhận lòng thương xót của Chúa và sự cảm thông của anh chị em mình.

Người tin vào Chúa sẽ từng bước trưởng thành để thuộc về Chúa Kitô hoàn toàn.  Thánh Phaolô đã dùng cách nói “được Chúa Kitô chiếm đoạt” để diễn tả sự biến đổi của người tín hữu, trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu.  Quả vậy, đời sống đức tin chính là cuộc chạy đua liên lỉ.  Mỗi người phải quên đi mọi sự để chỉ chú tâm về đích, lao mình về phía trước.  Nơi đích điểm ấy, có Chúa đang chờ đợi chúng ta (Bài đọc II).

Thiên Chúa không lên án chúng ta.  Ngài luôn yêu thương và rộng lượng thứ tha mọi tội lỗi ta đã phạm, miễn là chúng ta thành tâm trở về với Ngài.  Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định một danh xưng của Thiên Chúa: “Danh Ngài là Thương Xót.”

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

NƯỚC CỦA ẢO ẢNH

“Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt.  Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm.”

Samuel Baker kể về một trung đoàn chết khát trên sa mạc.  Nhìn xa xa, họ nghĩ, họ thấy nước; nhưng hướng dẫn viên Ả Rập cảnh báo, đó chỉ là ‘nước của ảo ảnh!’  Họ cãi cọ, hướng dẫn viên bị giết!  Trung đoàn lao về phía trước; dặm này, dặm khác.  Ảo ảnh dẫn đoàn quân tiến sâu hơn vào sa mạc.  Quá muộn, họ đã nhận ra sự thật.  Họ đã chết khi theo đuổi một điều viển vông!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay không nói với chúng ta về ‘nước của ảo ảnh’ đã dẫn đến cái chết của một trung đoàn, nhưng nói về một ‘mạch nước thật’ làm cho sống và sống đời đời!  Thật ý vị khi Gioan nhắc đến con số “38.”  Người đàn ông trong Tin Mừng phải sống cuộc sống bại liệt những 38 năm!  “38 năm,” khoảng thời gian Israel lang thang trong sa mạc; cũng thế, người này nằm bên hồ suốt 38 năm, nhưng không với tới nước.  Người ấy ‘lang thang trong sa mạc của mình!’

Trong Đệ Nhị Luật 2, 14, Môisen viết, “Thời gian chúng ta đi từ Cađê Bacnêa cho đến khi qua thung lũng Derét là 38 năm.”  Sa mạc, nơi thử thách; ở đó, thiếu thốn trăm bề, và cái cần nhất là nước!  Thế nhưng, Chúa không để Israel chết khát, nước từ các mạch đá đủ cho họ suốt gần 40 năm.  Thánh Vịnh đáp ca xác tín, “Chính Chúa Tể Càn Khôn ở cùng ta luôn mãi, Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta!”   Từ đó, chúng ta hiểu ý nghĩa thị kiến nước trào ra từ đền thờ mà Êzêkiel nhìn thấy hôm nay!  Phụng vụ Phép Rửa sẽ ca lên, “Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra; và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên, Halleluia!”.

Một chi tiết thú vị khác chúng ta cần lưu ý là, Êzêkiel chẳng những là một ngôn sứ, ông còn là một tư tế!  Vì thế, khi nói về nước chảy ra từ bàn thờ, đền thờ, thì phải chăng tư tế Êzêkiel đang mơ về một Giêsu Tư Tế Thượng Phẩm; Đấng sẽ là bàn thờ, là đền thờ, cũng là dòng nước cứu độ ban sự sống và chữa lành.  Ngài từng tuyên bố, “Ai đến với Tôi, sẽ không khát bao giờ!

Trở lại với Tin Mừng, Chúa Giêsu tự nguyện đến với người đàn ông ‘lang thang trong sa mạc;’ Ngài bước vào sự cô lập của anh dù không được mời!  Ngài nhìn thấy anh, biết hoàn cảnh của anh, đến gặp anh và nói chuyện trực tiếp với anh.  Thoạt tiên, Ngài hỏi, “Anh có muốn khỏi bệnh không?”  Anh không trả lời, “Có” hay “Không” nhưng anh phàn nàn, “Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động.”  Anh ta mắc bệnh bi quan; anh phát ốm vì buồn; anh bị bệnh lười!  Đây là căn bệnh của anh, “Đúng, tôi muốn lành, nhưng…”, và anh đợi ở đó.  Thế mà mấu chốt là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu; dẫu xem ra, anh không cần được chữa lành.  Phải chăng anh đang tiếc nuối thuở lang thang?

Tuyệt vời thay!  Chúa Giêsu đã chữa lành con người bi quan tuyệt vọng này mà không cần nhúng anh xuống hồ Bêthesda.  Bêthesda có nghĩa là “Ngôi nhà của lòng thương xót,” hoặc “Ngôi nhà của ân sủng” theo tiếng Do Thái.  Đúng thế, người đàn ông này đang cần lòng thương xót và ân sủng ngay cả khi anh không ý thức.  Và Chúa Giêsu không phải là ‘nước của ảo ảnh’ nhưng là mạch ân sủng và xót thương đã thương phục hồi anh!  Thánh Augustinô nói, “Vết thương của chúng ta rất nghiêm trọng, nhưng vị Thầy Thuốc thì toàn năng.  Tôi sẽ tuyệt vọng về vết thương chí mạng của tôi, nếu tôi không tìm thấy một Thầy Thuốc vĩ đại như Ngài!”

Anh Chị em,

Chúa Giêsu, không phải là ‘nước của ảo ảnh’, nhưng là đài phun chữa lành đích thực; Ngài là nước làm cho sống!  Ngài là đền thờ mới mà Êzêkiel đã có một tầm nhìn với một dòng suối tuyệt vời chảy sâu hơn bao giờ hết từ phía bên phải của nó.  Nơi nào nước này chảy qua, nó đều mang lại an lành và sự sống.  Đỉnh đền thờ mới là Canvê, nơi nước ngọt ngào của phép Rửa chảy ra từ cạnh sườn Đấng Kitô khi người lính lấy giáo đâm cạnh nương long Ngài.  Ngày nay, dòng nước cứu độ ấy vẫn tiếp tục chảy và rửa sạch mọi thương tích trong tâm hồn chúng ta.  Nước Giêsu cho chúng ta sống hạnh phúc viên mãn ngay trong sa mạc trần gian khô khốc này!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con không thể cứu con; tệ hơn, con ‘vui tươi’, an phận trong sa mạc đời mình; ở đó, con chạy theo ‘nước của ảo ảnh.’  Xin cứ dìm con vào Chúa mà đừng thèm hỏi con!”  Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

HÒA GIẢI VỚI ANH CHỊ EM

Hòa giải là lời mời gọi khẩn thiết của Mùa Chay.  Hòa giải với Chúa và hòa giải với anh chị em mình.  Tuy vậy, hòa giải với Chúa là việc dễ dàng, trong khi hòa giải với anh em là một việc làm hết sức khó khăn.  Trong cuộc sống trần gian, con người “đầu đội trời, chân đạp đất.”  Họ vừa có tương quan với đất và tương quan với trời.  Họ cũng không là những ốc đảo tách biệt cô đơn, nhưng sống chung với nhau và cần đến nhau.  Hòa giải với anh chị em sẽ giúp chúng ta xây dựng cuộc sống lý tưởng, làm thành một gia đình trong tình huynh đệ thân thương.

Câu chuyện “Người cha nhân hậu” là một trong những áng văn chương tuyệt vời nhất của Kinh Thánh.  Câu chuyện ấy nhấn mạnh tới lòng nhân hậu của Thiên Chúa, mà nhân vật người cha là biểu tượng.  Người cha tôn trọng tự do của người con thứ, sẵn sàng để nó ra đi.  Người cha ấy cũng luôn mong ngóng đợi chờ và vẫn tin chắc có ngày nó trở lại.  Sự trở về của người con là niềm vui lớn lao của người cha, đến nỗi ông mở tiệc tưng bừng để đón con trở về.  Bởi lẽ, như ông nói, con ông đã mất mà nay lại tìm thấy, đã chết mà nay đã sống lại.  Còn niềm vui nào lớn hơn là tìm thấy của cải đã mất và gặp lại người thân đã chết?  Vì thế mà niềm vui hội ngộ càng tưng bừng lớn lao.

Tuy vậy, nếu Thiên Chúa là cha bao dung nhân hậu, sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của con người, thì con người lại hà khắc và cứng nhắc đối với nhau.  Mỗi người trong chúng ta đều đã có lần cảm nhận điều đó nơi chính bản thân và nơi những người xung quanh.  Có ba nhân vật trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, cả ba nhân vật đều là nam giới.  Người con cả, từ lúc ban đầu xem ra là người tử tế, vì khi người con thứ đòi chia gia tài và bỏ nhà ra đi, thì anh vẫn ở lại với cha mình.  Tuy vậy, những gì anh nói với Cha, xem ra là những uất ức được dồn nén trong nhiều năm: “Cha coi, con ở với cha bao nhiêu năm….”  Người cha giật mình nhận ra, mặc dù thân xác đứa con cả vẫn ở với cha mình, mà tâm hồn nó lại xa vời vợi.  Nó phủ nhận tình huynh đệ máu mủ khi gọi em mình là “thằng con của cha kia.”  Người cha đau khổ nhận ra rằng, ông đã mất cả hai đứa con, mỗi đứa một cách khác nhau.

Nhân vật người con cả giúp chúng ta liên tưởng đến mối tương quan với tha nhân.  Nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng giống như người con cả, luôn cố chấp, ích kỷ và ôm mối hận thù.  Hình ảnh người con cả cho thấy một thái độ chủ quan tự tin, nghĩ rằng mình là người ngay thẳng và là người đạo đức, coi mình là tiêu chuẩn để đánh giá và phê phán người khác.  Cả ba nhân vật trong câu chuyện đều nhắn gửi đến chúng ta những thông điệp quan trọng: Thiên Chúa là Cha yêu thương.  Ngài nhân hậu bao dung và rộng lòng tha thứ.  Người con thứ tượng trưng cho người lầm lạc tội lỗi, nay quyết tâm chỗi dậy trở về để sống trong tình yêu thương của cha mình.  Người con cả là những người cố chấp và khó hòa đồng với những người xung quanh, thậm chí ngăn cản họ, không cho về với Chúa.  Cả người con thứ và người con cả đều cần phải trở về.  Cả hai đều phải tự vấn lương tâm về đời sống quá khứ của mình, đồng thời nhận ra Chúa nhân hậu bao dung, từ đó cố gắng sống tốt như người cha hằng mong muốn.

Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa với người rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa.  Đó là điều người con thứ đã chuẩn bị sẵn để khi gặp cha sẽ nói.  Tuy vậy, người cha không để cho con nói hết những gì nó đã chuẩn bị.  Tình thương của Thiên Chúa mênh mông vời vợi, không cần những công thức, nhưng chan hòa như đại dương, phủ lấp những yếu đuối của phận người.

Chúng ta đã đi đến nửa chặng đường của Mùa Chay.  Lời mời gọi hòa giải lại vang lên, nhắc chúng ta lên đường trở về.  Thánh Phaolô năn nỉ chúng ta: “Vì Đức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hòa với Thiên Chúa” (Bài đọc II).  Hòa giải với Ngài sẽ đem cho chúng ta hạnh phúc và bình an, đồng thời tạo nên một cuộc sống trần thế an bình.  Niềm vui của hòa giải, được phụng vụ so sánh như niềm vui của người Do Thái đến đất hứa sau 40 năm hành trình sa mạc.  Họ không còn lang thang phiêu bạt nữa, nhưng được định cư ở miền đất Chúa hứa cho cha ông họ và được hưởng những thổ sản của địa phương.  Họ được chứng kiến những gì trước đây chỉ là lời hứa, nay thành hiện thực ngay trước mắt.  Họ như người con thứ trong Tin Mừng, được trở về nhà của mình, không còn là khách lạ (Bài đọc I).  Mỗi chúng ta cũng vậy, khi thành tâm sám hối, chúng ta được nối lại mối tình cha con đối với Chúa và mối tình huynh đệ đối với anh chị em mình.

Hãy sám hối!  Hãy trở về!  Lời gọi ấy đang vang lên trong đời sống và trong tâm hồn mỗi chúng ta.  Trở về với Chúa và trở về với anh chị em, đó chính là thông điệp được nhấn mạnh của Phụng vụ hôm nay.  Hiệu quả của Mùa Chay tùy thuộc vào thiện chí hòa giải đối với anh chị em mình.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

HAI CUỘC TRUYỀN TIN

Hôm nay lễ Mẹ truyền tin.  Lời Chúa dẫn đưa chúng ta đến một khung cảnh thật bình dị, ấm cúng nơi mái nhà nhỏ bé miền quê Nagiaret.  Nơi đó đã diễn ra một cuộc đối thoại lịch sử giữa sứ thần Chúa và cô thôn nữ Maria.  Sứ thần Chúa đã viếng thăm đột ngột.  Đột ngột quá nên chẳng có gì chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất đối với cô Maria.  Sứ thần thì chủ động – Maria thì bối rối.  Lời sứ thần nói như đã được chuẩn bị chu đáo.  Còn Maria thì phân vân, đắn đo từng lời.  Sứ thần Chúa đã mang đến cho cô một thông điệp thật bất ngờ và quá cao vời.  Cao vời đến nỗi cô không dám nghĩ mình được phước đức như vậy?  Vì có bao giờ cô nghĩ rằng mình sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế?  Có bao giờ phận nữ nhi thường tình như cô lại được giao trọng trách cao quý như vậy?  Cô đã không dám tin điều đó.  Vì cô cảm thấy mình bất xứng và bất tài.  Thế nhưng, sứ thần Chúa đã trấn an cô.  Cô được chọn không vì tài năng hay sắc đẹp.  Cô được chọn vì cô hằng sống đẹp lòng Thiên Chúa.  Từ trời cao Chúa đã nhìn thấy tấm lòng cô.  Một tấm lòng thanh khiết vẹn tuyền.  Một tấm lòng bao dung độ lượng.  Một tấm lòng bác ái yêu thương.  Nhưng tất cả những phẩm chất đó vẫn không thể giúp cô hoàn thành chương trình của Thiên Chúa.  Cô phân vân và do dự.  Vì phận nữ nhi yếu đuối, vì việc phu thê cô chưa bước tới.  Sứ thần Chúa đã trấn an cô: “Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Chúa sẽ rợp bóng trên cô.”  Maria với tấm lòng quảng đại và niềm tín thác sắt son đã thưa vâng để chương trình Thiên Chúa được thực hiện.

Ngược lại, trước đó sáu tháng.  Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Giacaria cũng diễn ra trong âm thầm, ấm cúng.  Sứ thần Chúa cũng đề nghị với Giacaria về việc Thiên Chúa sắp làm nơi ông.  Nhưng ông đòi dấu lạ.  Lòng tin của ông đòi bằng chứng.  Sứ thần Chúa đã để ông câm lặng, như dấu chỉ về những điều mà Thiên Chúa sắp làm cho gia đình ông.

Có thể thấy hai cuộc truyền tin nhưng hai thái độ khác nhau.  Maria thì tin vào quyền năng Chúa có thể thực hiện được mọi sự.  Giacaria thì hoang mang lo lắng.  Maria để Chúa thực hiện theo ý định của Chúa.  Giacaria đòi dấu lạ để kiểm chứng.  Chính hai thái độ đón nhận sứ điệp khác nhau nên kết quả cũng khác nhau.  Maria thì hết lời ngợi khen Chúa.  Giacaria thì câm nín.  Nhưng dầu trong cách đón nhận nào, thì Thiên Chúa vẫn thực hiện chương trình của mình trong sự cộng tác của con người.

Điểm chung của Maria và Giacaria chính là đời sống hằng đẹp lòng Thiên Chúa.  Dầu ở hoàn cảnh cô thôn nữ nhà quê hay một tư tế đền thờ.  Các ngài đã làm tất cả chỉ để đẹp lòng Chúa.  Các ngài đã sống hết mình với bổn phận bằng tình yêu nồng nàn với Chúa và tha nhân.  Cuộc sống của các ngài luôn rạng ngời biết bao hy sinh làm nên nhân đức.  Các ngài đã sống đẹp giữa dòng đời đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về các ngài.

Phải chăng đó cũng là cách sống chung của những người con cái Chúa?  Là người Ki-tô hữu chúng ta phải lan tỏa hương thơm bác ái cho anh em. Là người Ki-tô hữu chúng ta phải sống sao cho người khác nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ.  Khi chúng ta sống hết mình vì Chúa, Chúa sẽ làm tất cả những điều tốt đẹp xuống trên cuộc đời chúng ta, như chính Ngài đã nói: “Các con hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho sau.”  Điều đó Chúa đã thực hiện trên cuộc đời của Maria, của Giacaria.  Khi các ngài sống hết mình phụng thờ Chúa, thì Chúa lại làm biết bao điều cao siêu trên cuộc đời các ngài.

Nguyện xin Mẹ Maria là Đấng hằng đẹp lòng Thiên Chúa, xin cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết thể hiện nhân cách làm con cái Chúa qua đời sống bác ái yêu thương, qua đời sống thanh khiết vẹn toàn như Mẹ.  Amen!

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền