ĐAU BUỒN NHƯ MỘT BÀI TẬP THIÊNG LIÊNG

Trong một quyển sách đáng chú ý, Tiếng nói bên trong của Tình yêu, The Inner Voice of Love viết trong lúc đang rơi vào trạng thái trầm cảm xúc cảm nặng, linh mục Henri Nouwen chia sẻ những lời sau: “Thử thách lớn nhất là sống với các tổn thương của mình thay vì xem xét chúng.  Khóc thì tốt hơn là lo lắng, cảm nhận sâu sắc tổn thương của mình hơn là cố gắng hiểu chúng, tốt hơn để chúng đi vào im lặng của mình hơn là nói về chúng.  Chọn lựa mà bạn phải liên tục đối diện là xem bạn đang xử lý các tổn thương này với cái đầu hay với quả tim.  Trong đầu bạn, bạn phân tích chúng, bạn tìm nguyên do, hệ quả và bạn tìm chữ để nói và viết về chúng.  Nhưng không có một chữa lành cuối cùng nào đến từ con đường này.  Bạn phải đem các tổn thương của mình vào quả tim.  Sau đó bạn đi theo chúng và khám phá chúng không hủy hoại bạn.  Quả tim của bạn thì lớn hơn là tổn thương của bạn.”

Và cha Nouwen có lý; quả tim của chúng ta thì lớn hơn các tổn thương, dù chúng ta phải cẩn thận trong khi đối phó chúng.  Các tổn thương có thể làm dịu quả tim chúng ta, nhưng nó cũng có thể làm quả tim chai cứng và đóng băng trong cay đắng.  Vậy thì con đường nào ở đây?  Cái gì làm quả tim ấm áp, cái gì làm quả tim lạnh lùng?

Trong một khảo luận đáng chú ý, Thảm kịch của em bé có năng khiếu đặc biệt, The Drama of the Gifted Child, bà Alice Miller, nhà tâm lý gia Thụy Sĩ giải thích cho chúng ta hiểu những gì làm chai cứng quả tim và những gì làm mềm quả tim.  Bà mô tả một thảm kịch đặc biệt thường xảy ra trong nhiều cuộc đời.  Theo bà, năng khiếu không phải là năng lực trí tuệ nhưng là năng lực của sự nhạy cảm.  Đứa trẻ có năng khiếu là đứa trẻ nhạy cảm.  Nhưng món quà nhạy cảm là một ân phúc có nhiều mặt.  Mặt tích cực là nó làm cho chúng ta cảm nhận mọi thứ một cách sâu đậm để niềm vui trong cuộc sống có ý nghĩa hơn là người dửng dưng.  Đó là mặt tốt của nó.

Tuy nhiên ngược lại, nếu nhạy cảm, chúng ta thường sợ làm người khác thất vọng, chúng ta thường sợ không được đánh giá đúng.  Và việc chúng ta không đủ khả năng để tự đánh giá thường khơi dậy cảm nhận lo âu và mặc cảm trong người mình.  Cũng vậy, nếu chúng ta cực kỳ nhạy cảm, chúng ta sẽ có khuynh hướng xóa mờ lỗi của mình, để người khác tự xoay xở, vì các nhu cầu riêng của mình không được thỏa mãn, rồi chúng ta tự lãnh các hệ quả.  Cuối cùng, nếu chúng ta cảm nhận mọi thứ một cách sâu sắc, thì chúng ta cảm thấy mình bị tổn thương sâu đậm nhất.  Nhược điểm của tính nhạy cảm và thảm kich mà bà Alice Miller gọi là “thảm kich của em bé có năng khiếu đặc biệt” là thảm kịch của người nhạy cảm.

Hơn nữa, theo quan điểm của bà, đối với nhiều người trong chúng ta, thảm kịch chỉ thật sự bắt đầu trong những năm ở tuổi trung niên và những năm sau đó, tạo nên thất vọng, bất mãn, giận dữ, cay đắng, khi các tổn thương thời thơ ấu và tuổi trưởng thành của chúng ta bắt đầu tan vỡ, đi qua và chế ngự các cơ chế bên trong mà chúng ta bắt đầu cự lại chúng.  Ở giữa cuộc đời và già hơn, các tổn thương của chúng ta sẽ kêu mạnh hơn đến mức các cách thức phủ nhận và thích ứng theo thói quen chúng ta không còn hiệu quả nữa.  Ở giữa cuộc đời, chúng ta nhận ra mẹ mình yêu chị mình hơn mình, cha mình không lo gì đến mình, và tất cả công việc tổn thương bạn ngấm chịu vì bạn nuốt không trôi và bạn chơi trò khắc kỷ anh hùng còn cay đắng gặm nhắm bên trong bạn.  Đó là cách tấn thảm kịch chấm dứt trong một quả tim giận dữ.

Vậy thì chúng ta ở đâu, Theo bà Alice Miller, câu trả lời nằm trong đau buồn.  Các tổn thương của chúng ta là có thật và chúng ta không thể làm gì với chúng, chúng là thuần khiết và đơn giản.  Đồng hồ không thể quay ngược lại.  Chúng ta không thể sống lại cuộc sống của mình với các cha mẹ khác nhau, bạn bè tuổi thơ ấu khác nhau, kinh nghiệm khác nhau trên sân chơi, chọn lựa khác nhau và tính tình khác nhau.  Chúng ta chỉ có thể dấn tới vượt quá các tổn thương của mình.  Và chúng ta làm điều này bằng sự “để tang.”  Bà Alice Miller xác nhận mọi nhiệm vụ tâm lý và thiêng liêng của tuổi ngoài bốn mươi và hơn nữa là “để tang” cho các tổn thương này, đau buồn cho đến tận nền tảng cuộc sống đủ để lay chuyển, đủ để có được một sự biến đổi.

Một vết sẹo tâm lý sâu đậm cũng như một phần cơ thể mình mang sẹo mãi mãi khi bị tai nạn.  Bạn sẽ không bao giờ còn như cũ và sẽ không có gì làm thay đổi điều này.  Nhưng bạn có thể có hạnh phúc lại; có lẽ còn hạnh phúc hơn bao giờ hết.  Nhưng sự mất mát trọn vẹn này phải được đau buồn, nếu không nó sẽ thể hiện dưới hình thức giận dữ, cay đắng và hối tiếc ghen tuông.

Linh mục Dòng Tên Roc O’Connor, nhà soạn nhạc, nhà văn thiêng liêng chia sẻ cùng quan điểm này, cha nói thêm, tiến trình đau buồn đòi hỏi kiên nhẫn lâu dài, trong thời gian này chúng ta phải chờ lâu để sự chữa lành sẽ diễn tiến theo nguyên tắc riêng của nó, theo nhịp tự nhiên của nó.  Ngài nói, phải ôm lấy tình trạng tổn thương nhân bản của chúng ta và không hành động.  Ngài đề nghị, những gì hữu ích là khóc cho các hạn chế nhân bản của mình.  Sau đó, chúng ta mới có thể chịu đựng đói khát, trống rỗng, thất vọng, sỉ nhục mà không cần tìm cách khắc phục nhanh chóng, ngay cả tìm giải pháp.  Chúng ta không nên cố gắng lấp đầy sự trống rỗng của mình quá nhanh mà chưa chờ đợi đủ.

Và chúng ta sẽ không bao giờ giải hòa với các tổn thương của mình nếu chưa “để tang” cho đủ.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

CUỘC XUẤT HÀNH ĐỔI THAY LỊCH SỬ

“Kìa, có hai vị đàm đạo với Ngài, đó là Môisen và Êlia.  Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem!”

Một nhà tu đức nói, “Ngài có thể bước đi trên nước, nhưng không thể bước đi khỏi đôi mắt đầy nước mắt của quả phụ Nain.  Ngài chỉ huy các tinh tú trong quỹ đạo của chúng, nhưng từ chối thay đổi hoàn cảnh cuộc xuất hành cuối cùng của mình, một ‘cuộc xuất hành đổi thay lịch sử!’”

Kính thưa Anh Chị em,

Cùng với ý tưởng “cuộc xuất hành cuối cùng” của nhà tu đức, Lời Chúa lễ Hiển Dung tường thuật cuộc biến hình trên núi của Chúa Giêsu!  Trong cuộc biến hình này, Môisen và Êlia bất ngờ hiện ra đàm đạo với Ngài; nhưng bất ngờ hơn, các đấng đàm đạo về “cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành.”  Cuộc xuất hành này còn vĩ đại hơn cuộc Xuất Hành thoát Ai Cập xưa, một ‘cuộc xuất hành đổi thay lịch sử’ nhân loại: giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết!

Thật lạ lùng, trong biến cố này, Chúa Giêsu không nói về những phép lạ Ngài sẽ thực hiện, những phú túc và vẻ đẹp của thế giới, những tham vọng Ngài đang ấp ủ; Ngài không quan tâm đến những cơ hội lẫn tài năng của mình… hầu vận dụng chúng để sở hữu những danh tước vĩ đại, tạo nên danh tiếng lẫy lừng cho bản thân, và dành sự tôn trọng của người khác.  Ngài không nói đến những điều này!  Ngài nói đến cuộc thương khó Ngài sắp chịu!  Bởi lẽ, mong muốn duy nhất của Ngài là hoàn tất cuộc xuất hành của chính mình, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh, hầu Chúa Cha được tôn vinh và kế hoạch cứu độ nhân loại của Chúa Cha được thành toàn.

Nội dung cuộc đối thoại giữa hai nhân vật Cựu Ước và Chúa Giêsu như muốn nói rằng, đây là điều mà các ngôn sứ và các bạn hữu của Thiên Chúa hằng mong đợi.  Thật ra, việc Chúa Giêsu rời cung lòng Cha khi vào trần gian, mặc thân xác phàm nhân, đã là một ‘cuộc xuất hành đổi thay lịch sử’ thế giới và nhân loại.  Và rồi, với cuộc xuất hành lên Giêrusalem cuối cùng này, Con Thiên Chúa không vượt qua Biển Đỏ nhưng dòng máu đỏ thắm của Ngài sẽ đổ ra rửa sạch tội lỗi nhân gian.  Phải, Ngài đã chết, chôn trong mồ, nhưng ngày thứ ba, đã sống lại vinh hiển!  Chính nhờ cuộc xuất hành này, vận mệnh con người đổi thay, tội Ađam được tẩy xoá và chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết nữa; nhưng được trở nên con cái Thiên Chúa, được chia sẻ sự sống mới, sự sống phục sinh nhờ thông phần sự chết và sự sống lại của Ngài.

Nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta, môn đệ của Ngài, thấy mình thật khác xa.  Đang khi chúng ta gắn bó với nhiều thứ, như tham vọng, thành công, thành tài, thành nhân… thì Chúa Giêsu đã dùng tất cả những khả năng này cho việc phụng sự Chúa Cha.  Việc phụng sự này bao hàm ý nghĩa “tách khỏi” thế gian của người môn đệ; nghĩa là sẵn sàng từ bỏ mọi sự hầu có thể yêu mến Chúa Kitô trên tất cả.  Chúa Kitô chính là Miền Đất Hứa đích thực và là sự giải phóng thật sự khỏi ách nô lệ của ‘chủ nghĩa vị kỷ.’  Kết quả của việc thoát khỏi những ràng buộc của ‘chủ nghĩa vị kỷ’ là niềm vui, bình an, tình yêu; và nhất là, cuộc sống vĩnh cửu.  Đây là ‘cuộc xuất hành đổi thay lịch sử’ mỗi người, dẫu không hề dễ dàng!  Tuy nhiên, tự cho mình là trung tâm sẽ làm chúng ta nghèo đi và làm hoen ố tình yêu; trên thực tế, chúng ta sẽ ‘ít yêu hơn’ so với khả năng có thể yêu.  Vì thế, để có thể ‘xuất hành’, người môn đệ nhất định phải ‘biến hình!’

Anh Chị em,

“Hai vị nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem!”  Nhờ cuộc xuất hành Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, toàn thể nhân loại bước sang một trang sử mới, một thời đại mới: thời đại ân sủng, cứu độ và giao hoà.  Tỏ cho các môn đệ phần nào cuộc xuất hành của Ngài, Chúa Giêsu mời họ chuẩn bị bản thân để cũng có thể bước vào cuộc xuất hành của chính họ.  Mừng Chúa Hiển Dung, ước gì chúng ta cũng được ‘biến hình’; tức là thay đổi suy nghĩ, cách sống, ước muốn… để tham dự vào công cuộc cứu độ của Ngài.  Để được vậy, mỗi ngày, chúng ta cần có những cuộc ‘xuất hành nhỏ’ nhưng không ít đau đớn, để ra khỏi cái tôi ích kỷ hạn hẹp, những thói quen thế tục vô bổ.  Can đảm lên, Chúa là sức mạnh của chúng ta!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ gì, với ân sủng Chúa, con được ‘biến hình’ mỗi ngày!  Nhờ đó, con cũng có thể may mắn có một ‘cuộc xuất hành đổi thay lịch sử’ linh hồn con!” Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN

Trong một thời gian ngắn các nước Á Châu đã phải chứng kiến sự ra đi của nhiều lãnh tụ.  Trước hết là việc chạy trốn của ông Fujimori.  Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Peru đến nhiệm kỳ thứ 2.  Nhưng vì tham nhũng, ông đã phải trốn chạy về Nhật. Tiếp đến là ông Estrada, tổng thống nước Philippin.  Ông đã thắng cử với số phiếu áp đảo.  Nhưng cuối cùng phải từ chức cũng vì tội tham nhũng.  Gần đây là ông Wahid, tổng thống Inđônêsia.  Ông đã ra nước ngoài  tị nạn cũng vì tham nhũng.  Tất cả chỉ vì họ đã làm sai nhiệm vụ.  Họ chỉ làm nhiệm vụ quản lý chứ không làm chủ đất nước.  Dân mới làm chủ.  Nhưng họ đã không làm tốt nhiệm vụ quản lý.  Nên họ đã bị sa thải.

Chúng ta cũng là người quản lý của Thiên Chúa.  Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban.  Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là, đều là của Chúa.  Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn?  Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc?  Tại sao tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay?  Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó.  Tất cả đều là của Chúa ban.  Chúng ta chỉ là quản lý.  Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian.  Nói theo ngôn ngữ Trịnh Công Sơn tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.

Con chim ở trọ cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn…
Môi xinh ở trọ người xinh,
Duyên dáng ở trọ đôi chân Thuý Kiều…
Tôi nay ở trọ trần gian
Mai sau về chốn xa xăm với Người.

Một ngày kia Chúa sẽ đòi ta tính sổ.  Lúc đó ta phải nộp cho Chúa cả vốn lẫn lời.

Là người quản lý, ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta là người quản lý trung tín và khôn ngoan.

Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao.  Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.

Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ.  Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ.  Người có của mắc nợ người nghèo.  Người có tài mắc nợ xã hội.  Nghệ sĩ mắc nợ khán giả.  Giám đốc mắc nợ công nhân.  Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân.  Linh mục mắc nợ giáo dân.  Cha mẹ mắc nợ con cái.

Là quản lý trung tín, ta không được phản bội.  Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa.  Đừng dùng sức mạnh mà áp bức người khác.  Đừng dùng tài năng phục vụ lợi nhuận riêng mình.  Đừng dùng trí thông minh gieo rắc nọc độc tư tưởng.  Đừng biến thân xác thành món hàng mua bán.  Nhưng dùng tất cả để phục vụ Chúa.  Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.

Là quản lý khôn ngoan, ta phải biết nhìn xa.  Sự sống, tài năng, sức lực, trí thông mình chỉ ở trọ nơi ta một thời gian.  Phải làm cho chúng biến thành vĩnh cửu.  Nhiều lần Chúa Giêsu đã dạy ta: “Hãy dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Để sau này họ sẽ đón rước ngươi vào chốn đời đời.”  Hôm nay Người dạy ta: “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng, cũng không có mối mọt đục phá” (Lc. 12:33).  Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian.  Để gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình.  Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi.  Càng cho đi lại càng giàu có.  Càng phân phát lại càng dư thừa.  Càng ban tặng lại càng phong phú.

Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức.  Cuộc đời ở trọ mau qua.  Chúa lại hay đến bất ngờ.  Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ.  Đợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Đợi chờ là phải tích cực làm việc. Thắt lưng vào, thắp đèn lên để làm việc cho mình chính như giữa ban ngày.  Để phục vụ không bao giờ ngừng.  Dù Chúa có đến lúc nào, Chúa cũng thấy ta đang mặc quần áo công nhân phục vụ.  Dù có bất ngờ như kẻ trộm, Chúa cũng thấy quản lý đang phục vụ anh em, phân phát lúa thóc cho họ.

Lạy Chúa, xin nhắc nhở  con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn chăm lo làm việc cho Chúa, luôn tỉnh thức sống dưới ánh mắt của Chúa. Amen.

TGM. Ngô Quang Kiệt

HỌC CÁCH TẬN HƯỞNG SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA

“Giải tán họ xong, Ngài lên núi cầu nguyện một mình.”

Theo Mark Twain, “‘Nửa đầu’ cuộc đời bao gồm khả năng tận hưởng mà không có cơ hội; ‘nửa cuối’ cuộc đời bao gồm cơ hội mà không có khả năng tận hưởng!”  Nhưng theo một nhà tu đức, “Tốt nhất, dù là ‘nửa đầu’ hay ‘nửa cuối’, bạn hãy ‘học cách tận hưởng sự hiện diện của Chúa!’”

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến việc ‘học cách tận hưởng sự hiện diện của Chúa’; nói cách khác, học cách cầu nguyện, “dù là ‘nửa đầu’ hay ‘nửa cuối’ cuộc đời!”  Nhưng thật thú vị, bên cạnh đó, Lời Chúa còn nói đến cô đơn!  Cô đơn và cầu nguyện thường đi liền nhau.  Ai biết ở lại trong Thiên Chúa, phó mình cho Ngài, người ấy không bao giờ cô đơn, bởi luôn có Chúa đồng hành.

Tin Mừng tiết lộ, sau khi giải tán đám đông, Chúa Giêsu một mình lên núi để cầu nguyện.  Ngài sẵn sàng rời bỏ sự phấn khích, thán phục của dân chúng dành cho ‘người đãi bánh’ thần kỳ; Ngài tìm nơi cô tịch hầu có thể một mình tâm sự với Cha.  Ở trong im lặng mà không có người khác, có thể nhanh chóng dẫn đến một sự cô đơn nhất định và nội tâm thì trống rỗng; và người ta có thể cảm thấy bị thôi thúc muốn tìm bất cứ một ai đó, bất cứ một thứ gì đó để gây mê cho bản thân khỏi cảm giác đau đớn khi phải ở một mình!  Nếu đó là điều xảy ra cho bạn và tôi, thì chúng ta cần kiên trì cầu nguyện nhiều hơn; và biết rằng, nỗi đau từ sự im lặng này vẫn có thể ‘hoá lành’ khi bạn và tôi tập ở lại trong Chúa và ‘học cách tận hưởng sự hiện diện của Chúa.’

Tin Mừng cho biết, Chúa Giêsu đi cầu nguyện từ chiều đến suốt đêm; và rạng sáng, các môn đệ gặp sóng gió trên biển hồ.  Ngài hiện đến trấn an họ, họ tưởng là ma; Ngài lên tiếng, “Hãy yên tâm.  Thầy đây, đừng sợ!”  Phêrô đáp, “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy.”  Đôi khi, nỗi sợ về việc phải im lặng khi cầu nguyện của chúng ta lại còn lớn hơn nỗi sợ của Phêrô khi thấy Thầy đi trên nước.  Tại sao?  Chúng ta đã quá quen với việc bầu bạn với người khác, gặp gỡ, trò chuyện, ăn uống… chúng ta không có ‘khả năng’ ở một mình, chúng ta sợ phải rời xa ‘những tiện nghi’ này dù chỉ trong thời gian rất ngắn để đi cầu nguyện.  Vậy hãy tập từ bỏ ‘những tiện nghi’ vốn có thể đã ‘thành nếp’; hay buồn hơn, phát xuất từ một lối sống ‘văn hoá nhàn rỗi!’  Hãy bắt đầu từ hôm nay, học lại cầu nguyện, học làm rỗng tâm hồn, để Chúa Kitô có thể đổ đầy vào đó tình yêu và sức mạnh của Ngài!

Tin Mừng còn cho biết, “Khi cả hai đã lên thuyền thì gió yên biển lặng.”  Một khi cùng Chúa Giêsu “lên thuyền”, tức là một khi quyết tâm ôm lấy việc cầu nguyện im lặng, tập trung, thì nỗi sợ hãi của chúng ta cũng sẽ lặng yên như gió biển.  Bài đọc Giêrêmia hôm nay cũng nói lên điều tương tự: Israel trở về với Chúa, và Ngài làm lại tất cả; Ngài tha thứ, trấn an; Ngài ở cùng, “Bấy giờ các ngươi sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.”  Thánh Vịnh đáp ca cũng nói lên niềm vui có Chúa hiện diện đó, “Chúa sẽ xây dựng lại Sion, sẽ xuất hiện quang vinh rực rỡ!”

Anh Chị em,

“Giải tán họ xong, Ngài lên núi cầu nguyện một mình.”  Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta, hãy biết tìm đến Chúa Cha sau một ngày sống.  Và ngay những giây phút chăm chú trò chuyện với Cha trong tĩnh mịch của canh khuya, ánh mắt và con tim của Chúa Giêsu vẫn không rời các môn đệ.  Thấu cảm nỗi khổ chống chọi với biển giả của họ, Ngài đến cứu giúp.  Cũng thế, Chúa Giêsu không bao giờ ‘thôi nhìn’ chúng ta, Ngài hiện diện với chúng ta qua người thân, qua gia đình, bạn bè, qua những người nghèo và cả những người chúng ta không thích.  Thế nên, ‘học cách tận hưởng sự hiện diện của Chúa’ trong thinh lặng và ngay cả trong sự ồn ào phải là một điều gì đó thường xuyên nơi chúng ta.  Thi thoảng, bạn và tôi cần trầm mình, ngỏ lời mời Chúa Giêsu bước lên ‘thuyền lòng’ mình, bình an và niềm vui sẽ ùa vào.  Và như thế, chúng ta sẽ hưởng nếm hạnh phúc thiên đàng ngay tại chốn này; vì lẽ, ở đâu có Giêsu, ở đó có thiên đàng!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con sẽ bước đi vững vàng trên con đường Chúa chỉ cho, dù là ‘đi trên nước’; con không lệch sang phải, không quẹo sang trái, vì con tin, có Chúa đồng hành bên con!” Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

KHI THẾ GIỚI CHÚNG TA SỤP ĐỔ

Thời đương tuổi thanh niên và mới làm linh mục, tôi dạy thần học ở Trường Thần học Newman tại Edmonton, Canada.  Trẻ tuổi, đầy sinh lực, đam mê giảng dạy và đang khám phá niềm vui mục vụ.  Có thể nói thời gian đó là những năm tháng tươi đẹp của đời tôi.

Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng êm đềm.  Chúng ta ai cũng có lúc rơi vào khắc khoải và rối loạn nội tâm.  Những đòi hỏi của việc mục vụ, những căng thẳng trong cộng đoàn, những ám ảnh cố hữu của tôi, sự ra đi cũng khá thường xuyên của những người bạn thân thương trong cộng đoàn, sự thay đổi thường xuyên những người đi qua đời tôi, tất cả đã làm cho tôi thỉnh thoảng rơi vào rối loạn cảm xúc, khó thở, khó ngủ, không biết mình có tìm lại được tâm hồn như trước nữa không.

Nhưng may là tôi có một công thức nho nhỏ để giúp xử lý chuyện này.  Mỗi khi rối loạn tăng, tôi sẽ lên xe, lái bốn tiếng về nông trại gia đình ở Saskatchewan.  Gia đình tôi vẫn sống trong ngôi nhà tôi lớn lên từ nhỏ, và tôi có thể ngồi bên chiếc bàn thơ ấu, ngủ tại căn phòng thơ ấu và bước đi trên mảnh sân mà tôi đã chập chững đi.  Thường thì mái ấm gia đình sớm hồi phục cho tôi.  Tôi chỉ cần một bữa ăn, một tối ngủ lại là những hỗn loạn và đau lòng sẽ bị dập tắt, tôi lại bắt đầu cảm thấy vững vàng trở lại.

Về nhà không chữa lành nỗi đau trong lòng, nhưng cho tâm hồn sự chăm sóc mà nó cần.  Không hiểu sao, cách đó luôn hiệu nghiệm.

Ngày nay, cũng những hỗn loạn cảm xúc và đau lòng đó vẫn thỉnh thoảng làm cho tôi rối bời và thậm chí bất định về bản thân, bất an về những lựa chọn của tôi trong đời, về người nào hay chuyện gì tôi có thể tin tưởng.  Tuy nhiên, tôi không thể lái xe về lại ngôi nhà thơ ấu như trước nữa, nên tôi cần tìm những phương cách mới để lấy lại sự vững vàng đó.  Không phải lúc nào cũng dễ tìm được, kể cả khi chúng ta ở trong một cộng đoàn tốt, một gia đình biết nâng đỡ, những người bạn yêu thương và có một công việc tốt.  Mái ấm có thể lu mờ trong một đêm rối bời.  Người chúng ta cần có để bình tâm, không phải lúc nào cũng có.  Khi chúng ta rời nhà, đôi khi thật khó để tìm đường về lại.

Vậy giờ tôi làm gì khi cần về nhà, chạm vào gốc rễ của mình để bình tâm?  Có khi, tôi tìm được điều đó nơi một người bạn, có khi là một người thân, có khi là một gia đình đã thân quen với tôi, có khi là cầu nguyện hay ở giữa thiên nhiên, có khi là đắm mình trong công việc, có khi tôi chẳng thể nào tìm được và tôi phải sống trong hỗn loạn, chờ đến khi cơn bão qua.

Qua năm tháng, tôi đã khám phá có một quyển sách đặc biệt có thể đưa tôi về mái ấm hệt như chuyến xe bốn tiếng khi trước.  Mỗi người tìm thấy mái ấm ở những nơi khác nhau.  Một quyển sách đã làm được thế cho tôi, hầu như lúc nào cũng làm được, chính là quyển Câu chuyện Linh hồn của thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.  Chẳng lạ gì khi đây là câu chuyện về một hành trình tĩnh, câu chuyện của thánh Têrêxa cố nắm bắt những gì mà mái nhà, mái ấm và gia đình từng cho ngài.  Nhưng hành trình tĩnh này tự nó không phải là điều cho quyển sách này sức mạnh đặc biệt đến vậy.  Nhiều tự thuật gây hoang mang hơn là ổn định.  Còn quyển sách này giúp xoa dịu tâm hồn.

Tuy nhiên, chỉ nhớ lại không hẳn đã chăm sóc được cho tâm hồn và đôi khi ký ức của chúng ta về mái ấm và thời thơ ấu mang lại nhiều nỗi đau, nặng nề hơn là ổn định và chữa lành.  Không phải mái nhà của ai cũng an toàn và nuôi dưỡng được.  Đau lòng là mái nhà đầu tiên cũng có thể là nơi mà sự tin tưởng và bình tâm của chúng ta bị phá tan không thể nào lành lại, đây là chuyện thường gặp trong những gia đình có bạo hành và lạm dụng.  Tôi là người may mắn.  Mái nhà đầu tiên của tôi cho tôi tin tưởng và đức tin.  Với những ai không đủ may mắn, họ cần tìm ra một mái ấm, một nơi chốn hay một người nâng niu trìu mến một tâm hồn bị tổn thương.

Điều gì làm cho mái ấm là nơi có thể nâng niu tâm hồn chúng ta?  Mái ấm là nơi ta an toàn.  Mái ấm cũng là nơi chúng ta cảm thấy được an tâm và tin tưởng, và sự bình tâm giúp chúng ta tin vào những chuyện của đức tin.  Tôi từng lái xe bốn tiếng để ăn một bữa, ngủ một đêm, để tìm lại điều đó.  Hiện giờ, tôi cần thực hiện hành trình tĩnh đó theo những cách khác.

Đó là hành trình chúng ta đều cần thực hiện trong những thời điểm hỗn loạn và bồn chồn thao thức trong cuộc sống, cụ thể là tìm một nơi chốn, một không gian, một người bạn, một gia đình, một mái nhà, một chiếc bàn, một chiếc giường, một quyển sách, một thứ gì đó cho chúng ta lại có được an toàn, tin tưởng, vững vàng và đức tin.

Dĩ nhiên, có những chuyện đau đầu và đau lòng mà không có cách nào chữa được, nhưng tâm hồn không cần được chữa lành, tâm hồn chỉ cần được quan tâm cho đúng.  Nhiệm vụ của chúng ta là về nhà, tìm ra những con người, nơi chốn, lời cầu nguyện và quyển sách nâng niu trìu mến tâm hồn chúng ta vào những lúc thế giới như đang sụp đổ.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

“TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?”

Video

Từ vài tháng nay, trong ngôn ngữ thường ngày hoặc các bài viết trên báo mạng, người ta trích dẫn một câu nói đã trở thành “nổi tiếng”: “Tiền nhiều để làm gì?”  Đây là phát ngôn của một vị đại gia có tiếng tăm trong thương trường, được người ta tôn làm “vua” và sở hữu một tài sản khổng lồ.  Điều đáng nói là vị đại gia ấy, tuy nhiều tiền, mà hạnh phúc lại long đong.  Thế nên, sau nhiều năm chung sống, đôi vợ chồng ấy có nhiều bất đồng và phải ra tòa ly dị.  Báo chí tốn khá nhiều giấy mực về việc ly hôn của cặp vợ chồng này.  Vụ án xem ra chưa có hồi kết thúc, vì còn nhiều bất đồng về việc chia tài sản.

Cùng với vụ ly hôn đình đám vừa nêu, xung quanh chúng ta có biết bao tranh chấp thường xuyên xảy ra và đã trở thành “chuyện thường ngày ở huyện.”  Đó là những xung đột, kiện cáo nhau ra tòa.  Nhiều vụ việc mà đương đơn và bị đơn là những người có mối liên hệ rất gần gũi thiêng liêng, thậm chí là cha mẹ với con cái.  Những điều này cho thấy không phải lúc nào tiền bạc cũng đem lại cho con người hạnh phúc.

“Tiền nhiều để làm gì,” khi mái ấm không còn, tình yêu biến thành thù hận, vợ chồng thành kẻ thù?  Đây là một trải nghiệm cay đắng.  Bởi lẽ tiền bạc rất quý, nhưng không phải lúc nào nó cũng đem cho chúng ta hạnh phúc.

Dù không trực tiếp đặt câu hỏi chính xác như trên, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng ngầm hỏi anh phú hộ: “Tiền để làm gì?” qua lời kết án: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”  Anh phú hộ đáng trách không phải vì anh giàu, mà vì anh sống ích kỷ, khép kín và không quan tâm đến người khác.  Anh nghĩ rằng tiền bạc sẽ đem lại cho anh tất cả, và nhất là cho anh được hạnh phúc.  Nhưng thực tế không phải như vậy.  Trong khi anh tự cho mình là giàu có và những người khác trầm trồ khen ngợi anh là khôn ngoan, thì Thiên Chúa lại bảo anh ta là “đồ ngốc.”  Anh mải mê tính toán và quá tự tin vào kho tàng của mình, nhưng điều quan trọng là sự sống con người thì anh lại chẳng giữ được.

Chúa Giêsu đã kết luận câu chuyện: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”  Thông điệp mà Chúa muốn gửi cho chúng ta qua hình ảnh người phú hộ quá rõ ràng: có nhiều người giàu có về của cải mà nghèo nàn về tình người.  Họ cũng sẽ phải chịu số phận như anh phú hộ trên đây.  Nếu chỉ lo tích cóp nhiều của cải, khi chết nào có mang được gì đâu.

Cuộc đời là phù du.  Tác giả sách Giảng Viên có lối hành văn của một lãng tử.  Ông coi mọi sự như rơm rác và cho rằng mọi sự dưới gầm trời này chỉ là “sắc sắc không không.”  Tất cả chi là hư vô.  Trăm năm trước chẳng có ta; trăm năm sau cũng thế.  Cuộc đời sẽ rất nhàm chán và đơn điệu nếu như không có Chúa.  Ngài là lý tưởng của đời sống chúng ta.  Tin vào Ngài làm cho cuộc sống này đậm đà hương vị và ý nghĩa ngọt ngào.  Tin vào Chúa giúp ta mở rộng tâm hồn để chia sẻ và cảm thông với tha nhân, và như thế cuộc đời bớt đi vẻ đơn điệu.  Kinh nghiệm thực tế cho chúng ta thấy một cuộc sống ích kỷ, khép kín dù có phú túc mà thiếu niềm vui, dù có dồi dào mà không hạnh phúc.  Khi kết luận mọi sự để hư vô, tác giả sách Giảng Viên khuyên chúng ta hãy tìm đến những giá trị bền vững, kiếm tìm những của cải không ai lấy mất được.

Thực ra, ai trong chúng ta cũng cần tiền và ai trong chúng ta cũng phải có tiền mới sống được.  Tiền bạc giúp chúng ta có cuộc sống ổn định và xứng với phẩm giá con người.  Tuy vậy, những ai tham lam và kiếm tiền bằng những phương pháp trái với lương tâm và luật Chúa, sớm hay muộn cũng sẽ thất bại.  Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, cùng với việc kiếm kế sinh nhai để bảo đảm cuộc sống cách lương thiện, chúng ta cũng phải lo lắng cho tâm hồn, để đến lúc Chúa đến gọi, chúng ta sẵn sàng và thanh thản về với Ngài.

“Hãy hướng lòng trí về thượng giới!”  Thánh Phaolô khuyên chúng ta như vậy (Bài đọc II).  Bởi lẽ cuộc sống này chẳng phải là quê hương vĩnh cửu.  Chúa Giêsu đã sống lại, như một bảo chứng của quyền năng Thiên Chúa.  Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới là mặc lấy Đức Kitô.  Ngược lại với thượng giới là hạ giới, tức là những nết xấu đang tồn tại trong con người chúng ta: gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam dối trá.  Khi loại bỏ được con người hạ giới, chúng ta sẽ nhẹ nhàng thanh thản để theo Đức Kitô và thuộc trọn về Người.

“Tiền bạc chưa bao giờ và không bao giờ khiến con người hạnh phúc, trong bản chất nó không có gì có thể tạo ra hạnh phúc.  Một người càng có nó nhiều bao nhiêu càng muốn nó nhiều bấy nhiêu” (Benjamin Franklin)

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

ĐỪNG BAO GIỜ ĐÁNH MẤT HY VỌNG

“Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Vương Quốc của Cha họ.”

Charles Read viết, “Gieo một hành động, gặt một thói quen.  Gieo một thói quen, gặt một tính cách.  Gieo một tính cách, gặt một số phận!”  Gieo một điều thiện, gặt một niềm vui; gieo một niềm cậy trông, gặt cả mùa hy vọng! “Đừng bao giờ đánh mất hy vọng!”

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng lạc quan của Charles Read được gặp lại trong Lời Chúa hôm nay.  Giữa một hoàn cảnh nghiệt ngã, có lúc dường như tuyệt vọng, bạn vẫn ‘Đừng bao giờ đánh mất hy vọng!’ Giêrêmia nói với dân, ‘Đừng tuyệt vọng!’  Chúa Giêsu nói với chúng ta, ‘Hãy cứ hy vọng!’

Bài đọc Giêrêmia phản ánh mặt tối, cũng là mặt thực, của một dân bị Chúa nghiêm phạt.  “Bước chân ra đồng nội, này kẻ chết vì gươm; quay gót trở về thành, họ bao người đói lả!”  Các nhà lãnh đạo, các tiên tri và các thầy tế lễ cũng đang kiệt lực ở mút cùng của sự hiểu biết; từ vực thẳm, họ thưa lên, “Chớ thì Chúa ruồng bỏ Giuđa sao?  Hay lòng Ngài ghê tởm Sion nữa?”; “Cớ sao Ngài đánh phạt chúng con đến vô phương chữa chạy?”; “Mong đến thời bình phục mà chỉ thấy rùng rợn khiếp kinh!”  Ấy thế, giữa những tàn khốc và tăm tối của cuộc khủng hoảng tôn giáo, chính trị như thế, dân Chúa vẫn không mất niềm cậy trông vào lòng thương xót của Ngài, “Lạy Chúa, Chúa là niềm hy vọng của chúng con.”  Thật khó để có thể giữ niềm tin khi con người dường như không còn gì để mất; tuy nhiên, Thánh Kinh vẫn luôn truyền cảm hứng để chúng ta tiếp tục cậy tin và ‘đừng bao giờ đánh mất hy vọng’, cả khi “ở trong vực thẳm khổ đau.”  Cứ kêu cầu Ngài, Thánh Vịnh đáp ca thổ lộ, “Lạy Chúa, để danh Ngài rạng rỡ, xin giải thoát chúng con!”

Với dụ ngôn ‘cỏ giữa lúa’, Tin Mừng thừa nhận, không phải lúc nào công việc tốt lành của Thiên Chúa cũng xuôi thuận và được thế gian đón nhận.  Hạng người mà Chúa Giêsu gọi là “kẻ thù” – luôn chống lại mục đích tốt đẹp của Chủ Mùa, người gieo giống tốt – sẽ tìm cách bóp chết lúa tốt.  Tuy nhiên, Chúa Giêsu bảo đảm, cuối cùng, mục đích của Thiên Chúa vẫn đi đến cùng, “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Vương Quốc của Cha họ.”  Chúa Cha đang làm việc và tiếp tục làm qua Chúa Giêsu, và con cái Ngài; và Ngài sẽ chiến thắng các thế lực của sự dữ, bảo đảm một sự toàn thắng cuối cùng.  Phaolô đã diễn tả niềm xác tín này một cách cô đọng, “Ở đâu tội lỗi đầy tràn; ở đó, ân sủng càng chan chứa!”  Đó là nền tảng niềm hy vọng, một hy vọng không bắt nguồn từ con người nhưng phát xuất từ Thiên Chúa; mà với Phaolô, hy vọng đó “có thể đạt được nhiều hơn những gì chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới!”

Anh Chị em,

“Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Vương Quốc của Cha họ.”  An ủi biết bao, khẳng định của Chúa Giêsu!  Bởi lẽ, bao lâu còn trong thế giới, chúng ta còn phải chiến đấu; và cam go nhất vẫn là cuộc chiến trong lòng mỗi người.  Cái ác dường như đang trên đà chiến thắng; nhưng đừng quên, nó không bao giờ là tiếng nói cuối cùng; cũng như cuộc chiến nội tâm là cuộc chiến trường kỳ nhất!  Nhìn vào Chúa Giêsu, dường như Ngài đã thua cái ác và sự dữ khi chết ô nhục trên thập giá; vậy mà, Chúa Cha đã phục sinh Ngài; để sự dữ, người dữ, và việc dữ dần dần được biến đổi và được cứu.  Vậy, mỗi khi cảm thấy mệt mỏi, đuối sức vì chiến đấu, chúng ta đừng bỏ cuộc.  Hãy nhìn lên Ngài để ‘đừng bao giờ đánh mất hy vọng!’  Không có Ngài, chúng ta bất lực.  Vì thế, hãy kiên trì “gieo niềm cậy trông”, tựa nương vào Chúa; Đấng đang rộng mở Vương Quốc Ngài phía trước để chào đón các chiến sĩ Kitô, con cái Ngài!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

Lạy Chúa, con biết, cuộc chiến mỗi ngày của con thật đáng quý trong mắt Chúa.  Nên dù phải gian nan thử thách, xin dạy con nhìn lên thánh giá, để ‘đừng bao giờ đánh mất hy vọng!’ Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

THÁNH GIACÔBÊ TÔNG ĐỒ

Thánh Giacôbê, con ông Giêbêdê và bà Salomê, là anh của thánh Gioan và bà con với Chúa Giêsu.  Người ta gọi ngài là thánh Giacôbê tiền, để phân biệt với thánh Giacôbê hậu, cũng là một tông đồ và làm Giám mục Giêrusalem.  Gọi là “tiền” vì ngài được gọi trước hay vì ngài cao lớn hơn, nhất là vì ngài lớn tuổi hơn.

Thánh nhân cùng với em là Gioan được kêu gọi làm tông đồ trong khi họ đang chài lưới bên bờ biển Galilê (Mc 1,19-20).  Trong tường thuật này, chúng ta thấy gia đình ông Giêbêđê xem như cũng khá giả và có thuê những người làm công.

Kể từ khi bỏ cha mẹ, chài lưới và những người làm công, anh em Giacôbê và Gioan luôn sát cánh bên Chúa.  Họ chia sẻ với Người nếp sống “con cáo có hang, con chim có tổ, con người không có chỗ dựa đầu” và trong những buổi tiệc vui như ở Cana (Ga 2,1).  Trong cộng đoàn tông đồ, Giacôbê luôn giữ một chỗ đứng quan trọng sau Phêrô.  Bởi vậy ngài được vào số ba môn đệ trong các biến cố phục sinh cho con gái Giarô (Mc 5,37), biến hình (Mc 9,2), và hấp hối ở Gethsemani (Mc 14,33).

Giacôbê hẳn phải hiểu rõ đặc ân của mình và ông đã đáp trả bằng một nhiệt tình cũng đặc biệt.  Một lần qua Samaria, ông đã bất mãn vì dân làng không tiếp đón Chúa Giêsu một cách nồng hậu.  Ông phát biểu: Thưa Ngài, Ngài có muốn chúng tôi khiến lửa từ trời giáng xuống mà tiêu diệt chúng không?

Nhiệt tình của ông giống như Êlia.  Nhưng Chúa Giêsu lại sửa sai tính nóng nảy ấy của ông: Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào (Lc 9,52-56).

Và người đặt cho Giacôbê và Gioan biệt danh là Boanerghê, nghĩa là con cái của sấm sét (Mc 3,17).

Dĩ nhiên là con người, khi theo Chúa Giêsu, các ông vẫn còn những yếu đuối, khi nghe loan báo về cuộc hoàn thành sứ mạng sắp tới, Giacôbê và em ông không ngần ngại thưa: Xin cho chúng tôi được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả, trong vinh quang của thầy.

Không hứa sẽ thỏa mãn ước vọng của họ, Chúa Giêsu đã chỉ hỏi: Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?

Một lần nữa, các ông bày tỏ nhiệt tình của mình: Thưa được (Mt 20,20-23; Mc 10,35-40).

Đã có những phút giây Giacôbê vì yếu đuối như các tông đồ khác, như khi ngủ vùi khi Chúa Giêsu trải qua cơn hấp hối, hay như việc ông trốn chạy trước cuộc khổ nạn của Thầy.  Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh, nhất là sau ngày lễ Hiện Xuống, Giacôbê đã thực hiện lời hứa của ngài.  Ngài sẵn sàng chịu chết dưới lưỡi gươm theo lệnh truyền của Hêrôđê Agrippa (Cv 12,2), có lẽ vào năm 42.  Thế là Giacôbê đã trở thành vị tông đồ đầu tiên lấy máu đào làm chứng đức tin và tình mến của mình vào thế kỷ II, Clêmentê thành Alexandria đã làm chứng rằng, chính kẻ tố cáo thánh nhân lại được ngài cải hóa và lãnh phúc tử đạo cùng lúc với ngài.

Truyền thống cho rằng Giacôbê đã mang Tin Mừng đến Tây Ban Nha.  Tuy nhiên điều này không được chứng thực rõ ràng.  Lần đầu tiên truyền thống này được viết ra vào thế kỷ VII, dựa vào nguồn Hy lạp không đáng tin.  Một thế kỷ sau, khi một ngôi sao chỉ cho thấy ngôi mộ của thánh Giacôbê, niềm tin của quần chúng bắt đầu lan rộng.

Nơi hành hương ở Compostella (có lẽ bởi chữ Campustella : cánh đồng sao) là trung tâm rất nổi tiếng, dầu chúng ta tin rằng thánh Giacôbê có đi Tây Ban Nha đi nữa thì cũng không thể nói được rằng nơi đây có di tích của thánh nhân.

Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý 

Cầu nguyệnLạy Chúa Giêsu, không phải chỉ có thánh Gia-cô-bê và thánh Gio-an, mà tất cả chúng con đều mơ ước được địa vị, thống trị người khác, được giàu sang, an nhàn.  Có lúc con đã tự hỏi: con theo Chúa và hy sinh cho Chúa, nhưng tại sao đời con vẫn nghèo đói, vất vả, bị chèn ép.

Lạy Chúa, Chúa cho con hiểu rằng theo Chúa là phải chấp nhận uống chén đắng khổ nạn của Chúa, chấp nhận từ bỏ mình chứ không phải để được hưởng thụ, hoặc được đặc quyền đặc lợi.  Chính Chúa đã đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc loài người.  Là môn đệ của Chúa, con không thể sống khác Chúa được.  Con không thể có con đường nào khác ngoài con đường phục vụ dâng hiến một cách vô vị lợi cho tha nhân.

Càng tiến sâu vào con đường thập giá, con càng được sàng lọc để nên giống Chúa hơn.  Nhưng để được điều đó, con phải vật lộn với chính mình, vật lộn với những cám dỗ của thế gian và nhất là phải chấp nhận thiệt thòi.

Lạy Chúa, dù phải trả giá, dù phải hy sinh, con xin sẵn sàng chấp nhận tất cả.  Đường thánh giá này con đã chọn, xin tình yêu Chúa trở nên sức mạnh nâng đỡ con.  Và con tin rằng chính Chúa sẽ làm cho những bước chân con trên đường hy sinh và phục vụ, nở thật nhiều hoa yêu thương, để từ đó nhiều người nhận biết Chúa và sẵn lòng bước theo Chúa cách vô điều kiện.  Amen!

TGM Giuse Nguyễn Năng

TÌNH CHA

Trong cuộc sống thực tế, người cha thường hay nghiêm khắc đối với con cái, nhưng lại dạt dào tình thương.  Nói đúng hơn, cách thể hiện tình cảm của người cha khác với người mẹ.  Tuy vậy, tình cha không kém gì tình mẹ, vừa rộng mở, vừa bao dung.  Nếu có nghiêm khắc, là vì muốn cho con nên người, bởi lẽ “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.”  Cũng trong quan niệm thông thường của người Việt Nam, chữ “tình” rất quan trọng.  “Trăm cái lý không bằng một tý cái tình.”  Vì tình nghĩa, người ta dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, “chín bỏ làm mười”, để quên đi quá khứ và sống hài hòa với nhau trong một làng, một xóm hoặc một đại gia đình.

Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa được xưng tụng là Cha.  Ngài rất khiêm khắc đối với tội nhân, nhưng lại bao dung đối với những ai thành tâm sám hối.  Ngài là Đấng “nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.  Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30,6).  Câu chuyện ông Abraham “mặc cả” với Chúa đã diễn tả lòng nhân từ của Ngài.  Thời đó, dân thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra sống trong tội lỗi và sa đọa, khiến Thiên Chúa bừng bừng nổi giận.  Ngài quyết định sẽ trừng phạt họ.  Ông Abraham đã “năn nỉ” với Chúa và dần dần từng bước hạ thấp điều kiện.  Từ con số năm mươi người công chính, ông đã hạ xuống chỉ còn mười người, nhờ đó mà Chúa thay đổi ý định trừng phạt.  Thiên Chúa đã bớt giận trước lời nài xin của ông Abraham và Ngài đã đồng ý: nếu có được mười người công chính thì Ngài sẽ không tru diệt hai thành này.  Tác giả sách Sáng thế đã dùng lối văn “như nhân” để diễn tả Thiên Chúa.  Ngài nguôi giận trước sự van xin của con người.  Nếu đọc tiếp đoạn Sách thánh này, chúng ta sẽ thấy, điều kiện có mười người công chính cũng không đạt được.  Thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra đã bị lửa diêm sinh từ trời thiêu rụi.  Tất cả đã bị tru diệt, chỉ trừ gia đình ông Lót, là người kính sợ Chúa.  Khi vừa chạy khỏi thành, bà vợ ông Lót, vì tiếc của quay lại, bỗng hoá thành tượng muối.

Nếu Thiên Chúa kiên nhẫn trước sự xúc phạm của con người, thì con người cũng phải kiên nhẫn cậy trông để thoát khỏi trừng phạt.  Người hàng xóm trong Tin Mừng thánh Luca đã kiên trì nhẫn nại để vay bánh vào lúc nửa đêm.  Sự kiên trì đã làm thay đổi lòng chai đá của chủ nhà, mà trỗi dậy lấy bánh cho người hàng xóm.  Chúa Giêsu đã dùng một tình huống đời thường để liên hệ đến lòng thương xót của Thiên Chúa.  Nếu người thường còn làm thế, huống chi Cha trên trời.  Hãy kiên trì cầu nguyện.  Hãy phó thác nơi Thiên Chúa những lo lắng của cuộc đời.  Ba động từ được Chúa Giêsu nhắc tới, đó là: xin, tìm, gõ cửa.  Cả ba hành động này đều diễn tả sự kiên nhẫn, lòng cậy trông và tin tưởng phó thác.  Thiên Chúa là Cha nhân từ.  Ngài luôn lắng nghe những ước nguyện chân thành của chúng ta.

Cầu nguyện làm nên cốt lõi đời sống người tin Chúa.  Vì cầu nguyện chính là than thở với Ngài, để trình bày với Ngài về nỗi niềm nhân thế.  Cầu nguyện cũng là xin Chúa đỡ nâng trên đường đời còn mang nhiều truân chuyên.  Đức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện.  Lời Kinh “Lạy Cha” diễn tả mối dây thiêng liêng giữa Thiên Chúa và người tín hữu.  Chỉ có Chúa Giêsu mới được gọi Thiên Chúa là Cha, vì Người là Con của Chúa Cha, như Người nhiều lần khẳng định.  Lời cầu nguyện mà Người dạy các môn đệ khởi đầu bằng hai chữ “Lạy Cha”, hoặc “Thưa Cha”, hoặc “Cha ơi.”  Như vậy, Chúa Giêsu đã cho phép chúng ta gọi Chúa là Cha, giống như bản thân Người.  Nói cách khác, nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, và với Chúa Giêsu mà chúng ta được gọi Chúa là Cha với tâm tình thân thương trìu mến.

Nếu chúng ta mạnh dạn đến với Chúa và thân thưa với Ngài: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, là nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.  Thánh Phaolô nói với chúng ta: trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.  Đức Giêsu đã giải phóng chúng ta khỏi mọi chướng ngại ngăn bước chúng ta đến gần Thiên Chúa.

Khác với lối cầu nguyện kể lể dài dòng và nhằm phô trương nơi những người biệt phái đã bị Chúa Giêsu kịch liệt lên án, kinh Lạy Cha ngắn gọn, đơn sơ mà lại mang nội dung rất phong phú.  Đây là tâm tình đơn sơ của người con thảo thân thưa với Chúa.  Điều cầu nguyện ưu tiên là ước mong cho vinh quang Chúa tỏ hiện giữa lòng nhân thế, để mọi người trên thế giới nhận biết Chúa là Cha vinh hiển quyền năng.  Tiếp đó là những ý cầu nguyện xin cho bản thân và cho những người anh chị em bạn hữu.  “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con.”  Lời kinh khiêm tốn nhẹ nhàng, vừa hướng chúng ta về Chúa, vừa liên kết chúng ta với tha nhân.  Lời kinh cũng thể hiện thiện chí sống hài hòa với mọi người nhờ ơn Chúa, để có được trái tim bao dung như Ngài.

Với tâm tình yêu mến, phó thác và cậy trông, chúng ta cùng thưa với Chúa; “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.  Chắc chắn lời kinh sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an, trong mọi tình huống của cuộc đời.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

BẮT ĐẦU BỞI MỘT ƯỚC MUỐN THAY ĐỔI BÊN TRONG

“Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ!”

C. S. Lewis nói, “Tình yêu là sự hiệp nhất sâu sắc, được duy trì bởi ý chí, được củng cố bởi các thói quen tốt, được nuôi dưỡng bởi ân sủng; nhưng trên hết, nó phải được “bắt đầu bởi một ước muốn thay đổi bên trong!” Từ đó, bạn mới có khả năng nhìn mọi sự với đôi mắt trẻ thơ!”

Kính thưa Anh Chị em,

“Tình yêu phải được ‘bắt đầu bởi một ước muốn thay đổi bên trong!’”  Lời Chúa hôm nay cho thấy điều C. S. Lewis nói thật chí lý!  Trong tình yêu đối với Thiên Chúa, thay vì đưa ra những đòi hỏi đối với Ngài, chúng ta sẽ đưa ra những đòi hỏi đối với chính mình!  Đòi hỏi trước nhất, quan trọng nhất là đòi hỏi thay đổi một thái độ, một cách nhìn, vốn cho phép mỗi người lớn lên trong khiêm nhường, trưởng thành trong tin yêu và tiến nhanh trên đường nên thánh.

Mặc dù đã chứng kiến bao việc kỳ vĩ Chúa Giêsu làm, các kinh sư biệt phái vẫn đòi Ngài làm thêm một dấu lạ.  Mối quan hệ của họ với Ngài là mối quan hệ một chiều; họ muốn kéo một Thiên Chúa xuống ‘ngang tầm’ một ông bụt!  Một khi họ yêu cầu, ‘Ông Bụt’ đáp ứng thoả đáng; nhờ đó, ‘Ông Bụt’ sẽ ăn mày được sự tôn trọng mà họ bố thí!  Chúa Giêsu không phải là một ông bụt, Ngài là Thiên Chúa!  Thật đáng tiếc, các kinh sư biệt phái đã đóng cửa trái tim họ đối với Chúa Giêsu từ trước; chính lòng kiêu hãnh của họ đã dẫn họ đến những yêu cầu bất khả thi đối với người khác.  Với Chúa Giêsu, lòng kiêu hãnh đó không bao giờ được thoả mãn; vì Ngài biết, tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu đối với sự thật, không có chỗ trong trái tim họ!  Và đích thị, lòng kiêu hãnh nơi họ là nguyên nhân của mọi chia rẽ, oán hận và đắng cay; đang khi mọi sự phải được ‘bắt đầu bởi một ước muốn thay đổi bên trong!’

Và này, câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn không nằm ngoài ý muốn thay đổi bên trong tâm hồn những con người kiêu căng này.  Ngài cho biết, như Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba đêm ngày thế nào; rồi đây, Ngài cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy.  Nghe lời Giôna, Ninivê đã thay đổi; nghe lời Ngài, họ cũng phải thay đổi!  Thế nhưng, lòng họ vẫn trơ lỳ, và Chúa Giêsu quyết định không giấu giếm họ một điều nào nữa, Ngài nói, “Ở đây, còn có Đấng cao trọng hơn Giôna!”  Ninivê đã nhận ra sứ điệp Giôna mang đến, họ đã ‘bắt đầu bởi một ước muốn thay đổi bên trong’; nhờ đó, họ được giao hoà với Thiên Chúa, gặp được lòng thương xót của Ngài.  Giới kinh sư, biệt phái thì không; họ từ chối Chúa Giêsu và sứ điệp Ngài mang đến; họ không bao giờ hiệp nhất với Thiên Chúa trong tình yêu, chẳng được nuôi dưỡng bởi ân sủng.

Cũng một tâm tình, sách Mikha hôm nay nói, Thiên Chúa không đòi hỏi gì khác, ngoài một việc là Israel phải hạ mình trước mặt Ngài, ‘bắt đầu bởi một ước muốn thay đổi bên trong’, “Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức là hãy thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa ngươi.”  Thánh Vịnh đáp ca cũng gợi lên đòi hỏi đó, “Ai sống đời hoàn hảo, Ta cho hưởng ơn cứu độ Chúa Trời!”

Anh Chị em,

“Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ!”  Đòi hỏi của giới kinh sư, biệt phái phần nào nói lên thái độ của chúng ta.  Lắm khi chúng ta chạy tìm khấn vái hết Đức Mẹ ở nơi này, đến Đức Mẹ nơi khác.  Hành động này chẳng khác nào chúng ta buộc Thiên Chúa làm phép lạ đó sao?

Và như thế, vô tình chúng ta thử thách Thiên Chúa và quyền năng của Ngài.  Đang khi Thiên Chúa là tình yêu, Ngài thấu hiểu con cái!  Chính khi chúng ta cầu nguyện, nhỏ to, tỉ tê, chia sẻ buồn vui cùng những khắc khoải âu lo với Ngài lại là lúc Thiên Chúa vui lòng nhất; qua đó, mối thân tình của chúng ta đối với Ngài ngày càng bền bỉ.  Chính qua sự gần gũi này, chúng ta mới nghe được điều Thiên Chúa muốn và nhận ra kế hoạch yêu thương của Ngài.  Như thế, ‘bắt đầu bởi một ước muốn thay đổi bên  trong’, chúng ta sẽ nhận ra sự khôn ngoan tuyệt vời trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa trên chính mình, và đó là phép lạ đáng ao ước nhất!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin giúp con ‘bắt đầu bởi một ước muốn thay đổi bên trong’; nhờ đó, con lớn lên trong khiêm nhường, trưởng thành trong tin yêu và tiến nhanh trên đường nên thánh!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế