TRO MÙA CHAY

Chúng ta bước vào mùa Chay bằng cách rắc tro lên đầu.  Việc này tượng trưng cho điều gì?  Có lẽ chuyện này hiểu bằng tấm lòng thì tốt hơn là bằng trí óc, bởi vì giáo dân đi nhà thờ ngày thứ Tư Lễ Tro nhiều hơn bất kỳ ngày nào khác trong năm, nhiều khi còn hơn cả lễ Giáng Sinh.  Dòng người đi nhận tro trong các nhà thờ dài bất tận.  Tại sao lại thế?  Tại sao mọi người xem trọng chuyện xức tro nhiều như thế?  Tôi cho rằng lý do vì đây là một biểu tượng, tro là thứ thô sơ, nguyên thủy, nguyên hình, và nói lên tiếng nói của tâm hồn.

Chúng ta biết chính xác trong lòng vì sao chúng ta đi xức tro.  Không cần đến lời giải thích cao siêu hàn lâm gì cả.  Tro là bụi, là đất, là bùn, là khiêm hạ tận cùng khiêm hạ.  Tro luôn là biểu tượng lớn trong mọi tôn giáo.  Xức tro lên đầu, ngồi trong đống tro, là nói với tất cả mọi người và nói với bản thân, chúng ta đang sám hối, đây không phải là “thời gian thông thường” của chúng ta.  Xức tro lên mình là nói rằng, đây không phải là lúc ăn mừng, rằng trong lòng chúng ta đang nghiêm túc, và nói lên rằng chúng ta đang ở trong khối tro than của một ngọn lửa đang tắt, chờ đợi một sự viên mãn hơn trong đời.

Tất cả những ý nghĩa này có những nguồn gốc thâm sâu.  Trong linh hồn con người có gì đó bẩm tại hiểu được rằng thỉnh thoảng chúng ta phải đi xuống, phải chìm xuống, phải mất đi hào quang và chờ đợi để tro bụi thực hiện công việc thầm lặng của nó.  Mọi truyền thống cổ xưa, dù là trong tôn giáo hay thần bí hoang đường, đều có nhiều câu chuyện về việc ngồi trong đống tro.  Ví dụ, chúng ta ai cũng biết chuyện Cô bé Lọ Lem Cinderella.  Đây là câu chuyện đã có từ bao nhiêu thế kỷ trước, đầy khôn ngoan, nói lên giá trị của tro bụi trong đời sống.  Cái tên Cinderella tự nó đã thể hiện đủ.  Theo nghĩa đen, Cinderella là “thiếu nữ ngồi trong đống tro than.”  Hơn nữa, như câu chuyện mở ra, trước khi mang đôi giày pha lê, trước khi có bộ váy lộng lẫy, trước khi dự dạ hội, trước khi khiêu vũ với hoàng tử rồi kết hôn với chàng, phải có một thời gian cô ngồi trong tro than, khiêm hạ, hèn mọn, kiên nhẫn chờ đợi dù trong lòng đã sẵn sàng cho niềm vui tột cùng và sự viên mãn.  Trong câu chuyện Cô bé Lọ Lem, chúng ta có thể thấy được tinh thần của mùa Chay.

Truyền thống người bản địa châu Mỹ cũng luôn có một vị trí đặc biệt cho tro.  Trong một số cộng đồng Da Đỏ, có khái niệm rằng thỉnh thoảng người ta sẽ ngồi trong tro một thời gian.  Không ai biết tại sao người nào đó thấy cần phải ngồi trong tro, nhưng ai cũng biết, đây là một điều rất tự nhiên, biết rằng tro có tác động quan trọng lên linh hồn, và cuối cùng, người đó sẽ trở lại cuộc sống bình thường và trở nên tốt hơn nhờ đã có thời gian ngồi trong tro.

Tôi xin kể rõ thêm về chuyện này.  Có một vài cộng đồng Da Đỏ sống trong nhà dài.  Nhà dài là tòa nhà chung, nhà của cả cộng đồng.  Nhà dài hình chữ nhật dài, với mái nghiêng, phần đỉnh mái thường để mở như lỗ thoát khói.  Lửa được đốt liên tục ở trung tâm nhà dài để nấu ăn và giữ ấm.  Người dân quy tụ lại đó, gần bên ngọn lửa để nấu, ăn, và gặp gỡ nhau, nhưng họ ngủ xa đống lửa, dưới các mái hai bên nhà.  Thường xuyên, có một người, đàn ông hay phụ nữ, vì lý do gì đó mà họ không cần giải thích, sẽ không làm theo thông lệ đó.  Thay vào đó, họ im lặng, ngồi ngay sát bếp lửa, trên đống tro, ăn qua loa, không tiếp chuyện, không ra ngoài, không tắm rửa và không đi ngủ với những người khác, cứ ngồi đó giữa đống tro.

Ngày nay, chúng ta sẽ xem chuyện này như là trầm cảm lâm sàng và tức tốc lôi người đó đi khám.  Nhưng người Da Đỏ thời xưa thì không hoảng lên như vậy.  Họ thấy đây là chuyện bình thường, một chuyện mà ai cũng được kêu gọi thực hiện lúc này hay lúc khác trong đời.  Họ cứ để người đó ngồi trong tro cho đến một ngày nào đó người này đứng dậy, rũ sạch tro và bắt đầu sống lại đời sống thường lệ.  Họ tin rằng tro, hay thời gian ngồi thinh lặng, đã có tác động quan trọng, không thể thấy được bên trong con người.  Ta ngồi trong tro để được chữa lành.

Giáo hội cũng dựa vào những nguồn khôn ngoan thâm sâu này khi cử hành nghi thức xức tro lên trán chúng ta vào đầu mùa Chay.  Mùa Chay là mùa để mỗi người chúng ta ngồi trong tro, dành thời gian như Cinderella để nuối tiếc về những gì chúng ta đã làm sai, kiềm chế bản thân khỏi vũ hội, từ chối làm việc như thường lệ, để kiên nhẫn trong thinh lặng chờ đợi sự tăng tiến diễn ra trong con người mình.  Mùa Chay là thời gian để tĩnh lặng hầu cho tro có thể làm việc của nó trên con người chúng ta.

Và chúng ta không cần hiểu chính xác tro hoạt động thế nào trên mình.  Tro đã kiên nhẫn nâng đỡ chúng ta suốt bao đời nay rồi.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

TIẾN VỀ PHÍA TRƯỚC

“Thần câm điếc kia, Ta truyền cho ngươi: ra khỏi đứa bé, và không được nhập vào nó nữa!”

Một nhà tu đức nói, “Tội lỗi sẽ đưa bạn đi xa hơn bạn từng nghĩ bạn sẽ đi lạc.  Tội lỗi sẽ khiến bạn lạc lối, bạn nghĩ rằng bạn sẽ không bao giờ tìm thấy con đường của mình.  Tội lỗi sẽ giữ bạn lâu hơn bạn nghĩ bạn sẽ ở lại.  Tội lỗi sẽ khiến bạn phải trả giá đắt hơn những gì bạn từng nghĩ mình phải trả.  Và tội lỗi sẽ kìm hãm ý chí của bạn đến mức bạn nghĩ sẽ tuyệt vọng, không bao giờ ‘tiến về phía trước.’”

Kính thưa Anh Chị em,

“Tội lỗi sẽ kìm hãm ý chí của bạn đến mức bạn nghĩ sẽ tuyệt vọng, không bao giờ ‘tiến về phía trước.’”  Ý tưởng của nhà tu đức trên sẽ được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay.  Sau khi ra lệnh cho quỷ “ra khỏi đứa bé,” Chúa Giêsu bảo, “đừng bao giờ nhập vào nó nữa!”  Trong đời sống thiêng liêng, lời này có nghĩa là đừng sợ, cứ ‘tiến về phía trước!’

Mệnh lệnh kép của Chúa Giêsu đáng cho chúng ta suy gẫm.  Chắc chắn, việc cứu đứa bé khỏi sự chiếm hữu của quỷ là điều quan trọng; nó sẽ thay đổi cuộc đời cậu.  Nhưng hành động thương xót này, cuối cùng, sẽ kết thúc trong thảm kịch nếu quỷ lại nhập vào nó sau khi Chúa Giêsu rời đi.  Do đó, mệnh lệnh thứ hai, cấm quỷ trở lại, cũng là một hành động rất nhân từ.

Hành động này nói với chúng ta rằng, chiến thắng cái ác là không đủ!  Tại sao?  Bởi lẽ, những cám dỗ và áp bức đến từ quân đoàn các cơ binh là liên tục và không ngừng.  Điều thường xảy ra là, khi một người tìm được tự do khỏi ảnh hưởng của ma quỷ và một tội lỗi nào đó, thì họ lại sa vào tội lỗi ấy và trở nên buông thả hơn.  Vì vậy, hãy nhớ rằng, một khi đã chiến thắng tội lỗi, một cám dỗ hay áp bức nào đó, chúng ta phải luôn cảnh giác để không sa vào những tệ nạn cũ.  Việc liên tục cảnh giác là điều cần thiết nếu chúng ta muốn tiếp tục vững chắc đi trên con đường dẫn đến nhân đức và thánh thiện.  Khiêm tốn nhìn nhận sự bất lực của mình, để chỉ một cậy trông vào Chúa là điều kiện tiên quyết để chúng ta mãi ‘tiến về phía trước.’

Hãy suy gẫm về bất kỳ cám dỗ nào mà bạn đã chịu đựng và vượt qua, chỉ để lại rơi vào nó.  Đặc biệt, suy gẫm về tầm quan trọng của sự cảnh giác cần thiết, để không những kiềm chế không tái phạm tội cũ mà còn tiến tới trong sự thánh thiện và nhân đức.  Đừng quên, ma quỷ không bao giờ nương tay, nhưng Thiên Chúa lại càng không khoan nhượng trong lòng trắc ẩn và ân sủng của Ngài.  Hãy tiếp tục tiến bước để không bao giờ trượt ngã và tái phạm tội lỗi trước đây.

Anh Chị em,

“Hãy ra khỏi đứa bé, và không được nhập vào nó nữa!”  Sống trong một thế giới mà xem ra, thần dữ đang thống trị, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở nên khiêm nhượng và hiền lành.  Khiêm nhượng không hệ tại ở việc hạ thấp bản thân, mà ở chỗ nhận ra thực tế tiềm năng cũng như sự khốn khổ của mình.  Bắt đầu từ sự khốn cùng của bản thân, sự khiêm tốn khiến chúng ta rời mắt khỏi chính mình để ‘tiến về phía trước,’ nghĩa là hướng mắt về Thiên Chúa, Đấng Khôn Ngoan, nguồn mạch khôn ngoan, như sách Huấn Ca hôm nay tiết lộ; cũng là Đấng có thể làm tất cả và thậm chí đạt được cho chúng ta những gì chúng ta không thể tự mình đạt được.  Chúa Giêsu từng nói, “Hãy đến với Tôi, tất cả những ai mang gánh nặng nề, Tôi sẽ bổ sức cho!”  Vậy, bạn và tôi đừng cậy sức mình, một cậy vào Ngài!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin giúp con luôn ‘tiến về phía trước’ và không bao giờ lơ là trong hành trình đức tin của mình!”, Amen

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

NÊN THÁNH BẰNG YÊU THƯƠNG

Ngay từ thời đầu của Giáo Hội, những tín hữu Kitô đã được gọi là “các thánh.”  Chính Thánh Phaolô đã dùng danh xưng này để chỉ những người đã gia nhập Giáo Hội qua bí tích Thanh Tẩy.  Khi gọi họ là “các thánh,” chắc hẳn vị Tông đồ vừa muốn diễn tả đời sống tốt lành của các tín hữu, đồng thời muốn nhấn mạnh tới lý tưởng, mục tiêu mà các tín hữu phải đạt tới.  Kitô hữu là người đang cố gắng để thánh hóa bản thân, làm cho mình trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô, để rồi lời nói của chúng ta là lời của Chúa, việc làm của chúng ta là việc làm của Chúa, chúng ta hiện diện nơi đâu là có Chúa hiện diện ở đó.

Như vậy, nên thánh không phải chỉ là tình trạng thiên đàng sau khi chúng ta đã chết, mà là một quá trình biến đổi để hoàn thiện chính mình, để rồi ngay khi còn đang sống ở đời này, chúng ta đã được nếm hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, qua việc được chiêm ngưỡng Chúa bằng đức tin và tình mến.  Nên thánh cũng không phải ảo tưởng hay giấc mơ về một thế giới xa vời, như để quên đi những đau khổ hiện tại.

Khái niệm nên thánh như đã nêu trên làm cho đời sống tín hữu không khô cứng, vô vị, nhưng luôn sống động và vươn lên không ngừng.  Người ước ao nên thánh là người muốn sống ngày hôm nay tốt hơn hôm qua, và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay.  Họ không dừng lại ở một cuộc sống đơn điệu, nhưng luôn khám phá ra niềm vui của đức tin và sự tốt lành của Chúa.  Cuộc sống mà dừng lại sẽ giống như ao tù.  Con người không lý tưởng sẽ giống như ngõ cụt.  Họ không biết mình sống cho ai và để làm gì.

Nên thánh là một lệnh truyền của Thiên Chúa cho dân riêng của Ngài.  Lời Chúa phán với ông Môisen cho chúng ta thấy rõ: “Hãy nói với toàn thể con cái Israen: ‘Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Bài đọc I).  Lý do của ơn gọi nên thánh là: vì Chúa là Đấng Thánh.  Ai muốn thuộc về Chúa thì phải nên giống như Ngài.  Thánh thiện chính là được san sẻ một phần vinh quang của Chúa, để rồi ngay khi sống ở trần gian, chúng ta đã tỏa sáng trong cuộc đời qua những cử chỉ tốt đẹp của mình đối với đồng loại.  Sau khi nhắc lại lệnh truyền nên thánh, tác giả sách Lêvi quảng diễn chi tiết về khái niệm thánh: đó là yêu thương anh chị em, đừng quở trách họ.  Không được trả thù, không được oán hận.  Trái lại phải yêu mến người khác như chính bản thân mình.

“Thương người như thể thương thân.”  Đó là nét đẹp truyền thống ngàn đời của người Việt Nam.  Nét đẹp này đã gặp gỡ lời dạy “Yêu đồng loại như chính mình” của Cựu Ước và còn hơn thế nữa, là lời dạy “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình” của Tân Ước.  Để có thể yêu thương kẻ thù, mỗi người phải vượt lên chính mình, để chiến thắng thù hận và chấp nhận mọi thị phi.  Yêu thương kẻ thù là một nhân đức anh hùng, là bằng chứng của sự từ bỏ chính bản thân và là tình yêu thương ở mức tuyệt hảo.  Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, đó là bằng chứng của lòng bao dung và tha thứ trọn vẹn.

Nên thánh không dừng lại ở một khái niệm lý thuyết, nhưng phải được thể hiện cụ thể trong việc làm và lối sống.  Nên thánh trước mặt Chúa là có một lối sống ngay thẳng chân thành.  Tuy vậy, sự ngay thẳng chân thành ấy phải được kiểm chứng qua mối tương quan hằng ngày với tha nhân.  Một cách rất cụ thể, Chúa Giêsu nói đến luật yêu thương và những lời khuyên để đem luật đó vào cuộc sống.  Đức yêu thương Chúa Giêsu truyền dạy ưu việt hơn những lệnh truyền của Cựu Ước.  Vì vậy, Chúa nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng….  Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”.  Qua những lời tuyên bố trên, Đức Giêsu chứng tỏ Người có sứ mạng kiện toàn lề luật.  Người dựa trên nền tảng Luật Cựu ước, đồng thời mặc cho Luật ấy một giá trị cao siêu hơn, hoàn hảo hơn.  Tình yêu thương Chúa dạy không chỉ được thực hiện nơi người đồng bào, người cùng phe cánh hay người làm ơn cho chúng ta mà thôi, nhưng là hết mọi người không phân biệt.  Luật mới của Chúa không chỉ bao gồm những điều cấm đoán, nhưng khuyên dạy làm những điều tích cực cho tha nhân.  Chính điều này làm cho lối sống của người tín hữu khác với những thực hành của những người thu thuế và người biệt phái.  Đối với người tín hữu, không có ai là kẻ thù hay người ngoại, vì hết thảy mọi người trên trái đất đều là anh chị em của cùng một Cha trên trời.  Mức độ thánh thiện của một người được lượng giá qua tình bác ái mà họ thực hiện đối với người xung quanh.  Một người sống khép kín, dửng dưng trước nỗi đau của người bên cạnh, không thể nên thánh.

Thánh thiện còn là nhận ra phẩm giá cao quý của mình trong cuộc đời này.  Mỗi người chúng ta không hiện hữu như một đồ vật vô tri vô giác, nhưng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (Bài đọc II).  Biết được phẩm giá của mình để tôn trọng thân xác và trau dồi bản thân trong những lãnh vực khác nhau.  Chỉ những ai biết yêu mến trân trọng bản thân mình, thì mới có thể yêu mến trân trọng tha nhân.  Tác giả thư gửi giáo dân Côrinhtô cũng chỉ rõ đâu là điều quan trọng đích thực mà chúng ta tìm kiếm: đó là Đức Kitô.  Người là lý tưởng và mẫu mực cho chúng ta trong hành trình nên thánh.  Một khi quy hướng về Đức Kitô, sẽ không còn chia rẽ và ganh tỵ bè phái như thực trạng của cộng đoàn Côrinhtô lúc bấy giờ, tức là người thì cho mình thuộc về Phaolô, người thì thuộc Apôlô, người thì thuộc Kêpha.

Nên thánh bằng yêu thương.  Đó là thông điệp mà Lời Chúa muốn thông truyền cho chúng ta.  Hai ngàn năm nay, Giáo Hội đã thực hiện lời mời gọi của Chúa, cổ võ tình yêu thương, phá bỏ những ngăn cách, hòa giải những bất hòa và nâng đỡ người bé mọn.  Chúng ta mỗi người đều là chi thể của Giáo Hội, chúng ta có ý thức được lời mời gọi nên thánh qua việc thực thi đức yêu thương không?

“Ai không có sức mạnh để tha thứ, cũng không có sức mạnh để yêu thương” (Martin Luther King Jr.).

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

CẬY TRỜI MÀ KHÔNG CẬY MÌNH

“Ông Noe được nghĩa trước mặt Chúa.”

Ngày kia, có một bánh xe gỗ, nó rơi mất một mảnh.  Khập khà khập khiễng, nó vụng về lăn qua các nẻo đường để tìm lại mảnh vỡ đã mất.  Ngạc nhiên thay!   Nhờ khiếm khuyết này, nó trở nên thân thiện với hoa lá và bạn bè hai bên đường. Cho đến một ngày, bánh xe tìm được mảnh vỡ, nó vui mừng và cố sức ráp lại; nó thấy mình tròn trịa duyên dáng.  Nhưng cũng từ đó, nó cảm thấy xa lạ và không còn thân thiện như trước.  Nó xé gió, lao đi vun vút; cỏ cây, chim chóc hai bên đường khiếp sợ.  Rồi một chiều, nó cảm thấy cô đơn.  Và rồi, nó dừng lại, quyết định tháo mảnh vỡ và ném nó thật xa.  Bánh xe trở nên chính mình trong dáng vẻ trước đó; lần thần, khiêm hạ.  Nhưng lạ thay, nó bình an; chim chóc, ong bướm, cỏ cây và mọi cảnh vật đang đón chờ nó.

Kính thưa Anh Chị em,

Trải nghiệm của bánh xe gỗ kia cũng có thể là trải nghiệm của mỗi người chúng ta; trải nghiệm về sự kiêu ngạo, trải nghiệm về sự khiêm nhường!  Sách Sáng Thế và Tin Mừng hôm nay nói đến một điều mà Thiên Chúa gớm ghiếc, đó là kiêu ngạo; loài người kiêu ngạo, các môn đệ kiêu ngạo; đó là những con người ‘cậy mình mà quên cậy Trời.’  Đang khi Thiên Chúa ưa thích những con người khiêm nhượng, những con người ‘cậy Trời mà không cậy mình!’

Bài đọc Sáng Thế nói, “Thiên Chúa thấy tội ác loài người lan tràn trên mặt đất, tư tưởng lòng người luôn hướng về đàng xấu; Ngài đau lòng mà nói, ‘Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất loài người Ta đã dựng nên…  Ta lấy làm tiếc đã tạo dựng nó.’”  Giữa loài người kiêu căng, ai ai cũng ‘cậy mình mà quên cậy Trời.’  May thay, Thiên Chúa tìm thấy Noe, một người ‘cậy Trời mà không cậy mình’; ông cậy trông Thiên Chúa, tuyệt đối khiêm nhường và Ngài đã cứu cả gia đình ông.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ bài học khiêm nhường nhân việc họ quên mang bánh.  Phải chăng Ngài đã đọc được sự tự phụ nơi các học trò khi họ đổ lỗi cho nhau, “Tự mình không mang bánh”; hay phải chăng họ tự phụ ỷ lại việc đã có Thầy, một người đã từng nuôi đến mấy ngàn người với chỉ năm chiếc bánh và hai con cá; hay phải chăng lòng họ đã quá kiêu ngạo đến nỗi vô lo?  Vì thế, Ngài bảo, “Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái.”  Họ là những người coi mình tài giỏi, đạo đức; cho mình là may mắn hơn người bởi họ cầu nguyện nhiều, ăn chay nhiều và nhiệm nhặt giữ luật.  Đó là lý do để họ kênh kiệu, tự coi là công chính, và khinh dể kẻ khác; thậm chí, coi khinh cả thầy trò Chúa Giêsu.

Anh Chị em,

“Ông Noe được nghĩa trước mặt Chúa.”  Chớ gì, bạn và tôi là những người được nghĩa trước mặt Chúa. Để được vậy, điều quan trọng là chúng ta phải suy gẫm thường xuyên cùng với lòng biết ơn, “Bạn có gì mà đã không nhận được?” Hãy nhớ rằng, ngay cả việc nên thánh của mỗi người chúng ta cũng khởi sự từ Thiên Chúa.  Và nếu Ngài đã đưa chúng ta tiến xa đến mức này chỉ với ‘một lượng hợp tác’ khiêm tốn từ phía mỗi người, thì chúng ta có thể tiến xa hơn biết bao nếu cống hiến hết mình cho Ngài?  Bao điều tốt đẹp sẽ nảy nở trong cuộc sống!  Bao vấn đề sẽ được bàn tay Ngài định hình vì lợi ích của linh hồn mỗi người!  Đừng quên, Thiên Chúa yêu thích những con người khiêm hạ, họ là những con người ‘cậy Trời mà không cậy mình!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con hợm hĩnh ‘cậy mình mà quên cậy Trời’; cho con xác tín rằng, trong mọi việc, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa, kể cả việc con nên thánh!” Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC VÀ THÁNH NỮ BERNADETTE

Lộ Đức là trung tâm hành hương quốc tế.  Cách đây mấy năm, tôi có đi hành hương Đức Mẹ Lộ Đức.  Từ Rôma qua hướng Tây Ban Nha, vượt đỉnh Pyrênê đến miền Nam nước Pháp.  Lộ Đức nằm ở một vị trí khá hẻo lánh, thuộc một tỉnh nhỏ.  Nơi đây, từng giờ từng phút, khách thập phương tấp nập đổ về để dâng lễ, cầu nguyện và xin ơn với Đức Mẹ.

Khi bước vào Vương Cung Thánh Đường Vô Nhiễm Nguyên Tội, tôi thấy bên phải, có phiến đá cẩm thạch ghi lời tuyên bố long trọng của Đức Giám Mục Laurence về những lần hiện ra của Đức Mẹ: “Chúng tôi tuyên bố rằng Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous, ngày 11 tháng 02 năm 1858 và những ngày kế tiếp, tất cả là 18 lần, trong hang động Massabielle, gần thành Lộ Đức; rằng sự hiện ra này mang tất cả những tính cách của sự thật, và các giáo hữu đều đã tin là chắc chắn.  Chúng tôi xin dâng cách khiêm nhường sự phán đoán của chúng tôi cho Sự Phán Đoán của Đức Giáo Hoàng, Vị được giao trọng trách guồng lái Giáo Hội hoàn vũ.”

Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần tại Hang đá Lộ Đức, từ ngày 11 tháng 02 đến ngày 16 tháng 07 năm 1858.

Ngày 28 tháng 07 năm 1858, Đức Giám Mục địa phận Lộ Đức đã thiết lập Ủy Ban Điều Tra về những lần Đức Trinh Nữ Maria hiện ra tại hang đá Massabielle.  Công việc điều tra kéo dài trong 4 năm.

Trang web: lourdes-france.com, cho biết công việc nghiên cứu điều tra tỉ mỉ và sự phân định sáng suốt, trong lời kinh nguyện.  Sau 4 năm, ngày 18 tháng 01 năm 1862, Đức Giám Mục, nhân danh Giáo Hội, nhìn nhận những lần hiện ra là đích thực.  Giáo Hội nhìn nhận chính thức những lần Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, dựa trên chứng từ xác quyết của cô Bernadette Soubirous.

Đức Thánh Cha Lêô XIII chấp thuận mừng lễ Đức Mẹ Lộ Đức và Đức Thánh Cha Piô X cho phép toàn thể Giáo hội mừng lễ này vào ngày 11.2 hàng năm.

Chúng tôi dâng lễ tại Hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra.  Cạnh bàn thờ dâng lễ là mạch nước chảy không ngừng từ trong Hang Đá.  Ngày nay, mạch suối này được dẫn xuôi theo Nhà thờ tới chân tháp để khách hành hương tới lấy nước và uống nước suối này.  Tôi uống liền mấy ly và đem về 5 lít nước để tặng cho bà con giáo dân.

Hành hương về Lộ Đức, tôi được hiểu biết thêm nhiều về lịch sử và sứ điệp Đức Mẹ nhắn gửi qua thánh nữ Bernadette.

Bernadette là một cô bé 14 tuổi, không biết đọc, không biết viết, con một gia đình nghèo ở Lộ Đức.  Gia đình cô tạm trú tại một nơi trước kia dùng làm nhà giam.  Nơi tồi tàn này, cả gia đình gồm ông bà thân sinh và bốn chị em Bernadette làm nơi nương thân.  Đức Mẹ muốn chọn một cô bé nơi nghèo hèn để làm sứ giả của Mẹ.

Theo lời kể của Bernadette. Hôm đó là ngày thứ năm, 11.02.1858, được nghỉ học, Bernadette xin phép mẹ đi nhặt củi.  Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô.  Nhưng suốt buổi sáng đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu.  Bernadette mới tiến đến một hang động gần đó mà dân làng quen gọi là Massabielle.  Cô đang loay hoay nhặt củi, từ trong hang đá, một thiếu nữ diễm lệ xuất hiện và đứng trên một tảng đá, ánh sáng bao trùm cả hang Massabielle.  Theo lời mô tả của cô, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi.  Bernadette tưởng mình như đang mơ.  Cô bước thêm bước nữa.  Người thiếu nữ diễm lệ chỉ mỉm cười.  Trong cơn xúc động, Bernadette lấy tràng chuỗi từ trong túi áo ra và bắt đầu đọc kinh Kính Mừng.  Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm hiệu cho cô tiến lại gần hơn.  Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn.

Cô về nhà kể lại biến cố ấy, nhưng chẳng ai tin cô.  Chính cha mẹ cô cũng không muốn cho cô trở lại hang đá nữa.  Nhưng như có một sức hấp dẫn lạ kỳ nào đó khiến cô vẫn trở lại hang đá ấy.

Sau lần này, cô còn được trông thấy “người thiếu nữ diễm lệ” hiện ra 17 lần nữa.

Khi hiện ra lần thứ ba, ngày 18.02.1958, người thiếu nữ ấy mới bắt đầu nói với cô: “Con có vui lòng đến đây liên tiếp 15 ngày nữa không?  Ta không hứa sẽ làm cho con được sung sướng ở đời này, nhưng là ở đời sau.”

Trong 15 ngày tiếp đó, người thiếu nữ đã nhắn nhủ và truyền cho Bernadette nhiều điều.  Cô kể: “Bà dặn tôi nhiều lần rằng: Hãy sám hối, hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây, hãy đến uống và rửa ở suối này, phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn hối cải.  Trong vòng 15 ngày ấy, Bà còn nói với tôi 3 điều và dặn tôi không được nói với ai.  Tôi vẫn trung thành giữ kín.  Sau ngày thứ 15, tôi hỏi Bà 3 lần liên tiếp: Bà là ai?  Nhưng Bà chỉ mỉm cười.  Tôi đánh bạo hỏi thêm lần thứ tư.  Lúc ấy, Bà mới buông tay xuống, ngước mắt nhìn lên trời rồi vừa nói vừa chắp tay trước ngực: ‘QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU.’”  Đó là thổ âm của vùng Lộ Đức lúc bấy giờ, được dịch ra tiếng pháp là: ‘Je suis l’Immaculée Conception’, và dịch sang tiếng Việt Nam là: ‘Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.’

Các bậc khôn ngoan chống đối, dân chúng xúc động, cảnh sát thẩm vấn Bernadette nhiều lần.  Cô bình thản trả lời và không hề nao núng trước những lời đe dọa.  May mắn là cô không bị vướng mắc vào những tiểu xảo của người thẩm vấn.  Các nữ tu dạy học cũng tỏ ra bất bình, còn Bernadette vẫn luôn giữ được thái độ khiêm tốn lịch sự.

Ngày 25/02/1858, một đoàn người cảm kích theo cô sau khi cầu nguyện, Bernadette đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rồi quì xuống.  Theo lệnh của “người thiếu nữ diễm lệ”, cô cúi xuống lấy tay cào đất.  Một dòng nước vọt lên.  Dòng nước đó đến nay cứ chảy mãi, cứ 24 tiếng đồng hồ là có khoảng 120.000 lít nước chảy ra.

Ông biện lý cho gọi Bernadette tới.  Ông chế giễu, tranh luận và đe dọa cô nữa.  Cuối cùng ông kết luận:

– Cô hứa với tôi là sẽ không tới hang đá nữa chứ ?

Nhưng Bernadette bình tĩnh trả lời cách rõ ràng.

– Thưa ông, cháu không hứa như vậy.

Cha sở tỏ ra nghi ngại, ngài cấm các linh mục không được tới hang.  Khi Bernadette tới gặp ngài và thuật lại ““người thiếu nữ diễm lệ” nói: “Ta muốn mọi người tổ chức rước kiệu tại đây.”  Cha sở liền quở trách và gằn từng tiếng:

– Con hãy nói với bà ấy rằng, đối với cha sở Lộ Đức, phải nói cho rõ rệt. Bà muốn những buổi rước kiệu và một nhà nguyện à?  Trước hết Bà phải cho biết Bà tên là gì và làm một phép lạ đã chứ.

Dòng nước vẫn chảy thành suối.  Dân chúng vẫn lũ lượt kéo nhau tới, những kẻ hoài nghi phải chùn bước.

Đã có những phép lạ nhãn tiền:

  • Một người thợ đẽo đá mù lòa đã thấy được ánh sáng.
  • Một phụ nữ bại tay sáu năm nay bình phục.
  • Một em bé hai tuổi bệnh hoạn đang hấp hối trước những cặp mắt thất vọng của cha mẹ.  Họ nghèo lắm, bà hàng xóm đã dọn sẵn cho một một cái quách. Người cha thở dài: – Nó chết rồi.  Người mẹ chỗi dậy.  Không nói một lời nào, bà ôm đứa trẻ chạy thẳng ra hang đá, dìm nó vào trong dòng nước giá lạnh.  Dân chúng cho rằng bà khổ quá hóa điên.  Sau khi tắm cho bé khoảng 15 phút, bà ẵm con về nhà.  Sáng hôm sau, bé hết bệnh.  Ba bác sĩ đã chứng thực chuyện lạ này.

Báo chí công kích dữ dội và cho rằng đó chỉ là ảo tưởng.  Bernadette vẫn giản dị vui tươi tự nhiên.  Hàng ngày cô trở lại hang đá.

Ngày 25/03, cô quì cầu nguyện và khuôn mặt bỗng trở nên rạng rỡ.  Rồi cô quay lại nói với vài người có mặt:

– Bà nói: Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội.

Vài phút sau, lời Đức Trinh Nữ được truyền từ miệng người này sang người khác.  Đám đông cất cao lời cầu khẩn:

– Lạy Đức Mẹ Maria chẳng hề mắc tội tổ tông, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Đức Mẹ.

Ngày 8.12.1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Hiến Chế Ineffabilis Deus.  Hơn ba năm sau, trong lần hiện ra ngày 25.3.1858, Đức Mẹ tự xưng là: “Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Vào năm 1866, Bernadette được gửi vào dòng Nữ Tu Ðức Bà ở Nevers.  Ở đây, sơ trở nên một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại.  Sự bất nhẫn ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn bệnh bất trị.  Sơ từ trần ở Nevers vào ngày 15.4.1879, khi mới 35 tuổi.  Sơ Bernadette được phong chân phước năm 1925, và được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1933.  Lễ kính thánh nữ vào ngày 16/04 hàng năm.

Lộ Ðức đã trở nên trung tâm hành hương và chữa lành, nhất là đức tin.  Ðối với những người có đức tin thì không có gì ngạc nhiên.  Ðó là sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu được tiếp tục thể hiện qua sự can thiệp của mẹ Người.

Nhiều người đến Lộ Ðức và trở về với một đức tin được đổi mới, sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa trong các nhu cầu của tha nhân.  Tuy nhiên vẫn còn nhiều người nghi ngờ việc hiện ra ở Lộ Ðức.  Ðể nói với họ, có lẽ tốt hơn là dùng những lời mở đầu của cuốn phim “Song of Bernadette:” “Với những ai tin vào Chúa thì không cần giải thích.  Với những người không tin, thì chẳng sự giải thích nào đầy đủ.

Sứ điệp Đức Mẹ trao cho Bernadette có thể tóm lược trong ba lời mời gọi sau đây:

  1. Mời gọi cầu nguyện: Khi hiện ra lần thứ nhất, Mẹ đã dạy Bernadette làm dấu Thánh Giá và lần hạt cách sốt sắng.  Mỗi lần hiện ra Mẹ đều làm như vậy.  Mẹ còn dạy riêng cho Bernadette một kinh nguyện, rồi cuối cùng mới trao cho cô sứ điệp cầu nguyện: Con hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở lại.
  2. Mời gọi sám hối:Đức Trinh Nữ lập lại với Bernadette ba lần: ‘Hãy sám hối, sám hối, sám hối.’  Ngày 25-2-1858, Mẹ nói với Bernadette: ‘Con hãy đến uống và rửa ở suối này.’  Mẹ chỉ cho cô tìm ra một dòng suối.  Suối nước này ban đầu rất đục, sau đó bùn lắng xuống rồi trở thành suối nước trong lành.   Đó là dấu hiệu cho sự sám hối. Nó tượng trưng cho sự lắng đọng trong tâm hồn tất cả những gì là vẩn đục hầu nên thanh sạch hơn.
  3. Mời gọi rước kiệu và xây nhà nguyện: “Con hãy nói với các linh mục xây nhà nguyện ở đây. Mẹ muốn người ta đến đây rước kiệu.”  Nhà nguyện là nơi dân Chúa tụ họp để nghe lời Chúa và cử hành nhiệm tích Thánh Thể. Để đáp lại nguyện vọng của Đức Maria mà ba đại giáo đường và 2 Nhà thờ khá lớn lần lượt được xây dựng ở đây. “Người ta sẽ xây nhà nguyện cho con, và xây rất lớn,” cha sở Lộ Đức Peyramale đã nói với Bernadette như thế khi cô đến trình bày về lời yêu cầu của Đức Mẹ, hẳn cha đã không ngờ rằng mình nói rất đúng.  Những Thánh đường này hằng ngày quy tụ từng đoàn người hành hương đến viếng thăm, chầu Thánh Thể và rước kiệu.  Chính tại nơi đây, Thánh lễ cũng như các buổi rước kiệu Thánh Thể luôn được cử hành rất long trọng.  Lộ Đức xứng với danh hiệu “Thành phố của nhiệm tích Thánh Thể.”

Hai buổi chiều, tôi dành thời giờ ngồi bên dòng sông Pau, đối diện với Hang Đá, ngắm nhìn Vương Cung Thánh Đường uy nghi xây vách đá, nơi Đức Mẹ hiện ra, nhìn dòng người không ngớt cầu nguyện dưới chân Mẹ.  Tôi hiểu tại sao Giáo hội, trong dọc dài thời gian hơn hai ngàn năm qua vẫn luôn vững bền và phát triển cho dù trải biết bao thăng trầm dâu bể của lịch sử nhân loại.  Nhờ Mẹ Maria luôn chở che Giáo hội như Mẹ đã bao bọc nâng đỡ các Tông Đồ sau Lễ Ngũ Tuần.  Mẹ là dòng sông tưới mát cho nhân loại đang trên hành trình tìm về nguồn hạnh phúc bên Chúa.

Lộ Đức là địa chỉ của tình thương, là điểm hẹn của bình an nội tâm.  Tạ ơn Đức Mẹ và xin Mẹ thương ban ơn cho các bệnh nhân.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

SỐNG THEO SỰ THẬT

Sống trên đời, lý tưởng và mẫu mực mà chúng ta chọn lựa không phải là một vĩ nhân nơi trần thế.  Lý tưởng sống của người tín hữu là chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố: Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống.  Nhờ việc chuyên chăm thực hiện giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta có thể sống theo sự thật và nên hoàn hảo trong cuộc đời trần thế, là bảo đảm hạnh phúc Nước Trời.

Tự bản chất, con người dễ dàng dối trá với người khác và dối trá với cả chính mình.  Vì dối trá, người ta sẵn sàng xúc phạm đến tha nhân, thậm chí xúc phạm cả Thiên Chúa.  Đức Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”  Bài Tin Mừng hôm nay là tổng hợp nhiều nội dung giáo huấn, nhằm giúp con người sống ngay thẳng trước mặt Chúa và đối với anh chị em đồng loại.  Trong giáo huấn này, Chúa khuyên chúng ta, lòng bác ái trung thực đối với tha nhân còn quan trọng hơn của lễ dâng cho Chúa.  Chính vì vậy, khi dâng lễ, nếu trong lòng còn những uẩn khúc và mâu thuẫn đối với người khác, thì điều ưu tiên là hãy làm hòa với nhau, vì Chúa chỉ nhận của lễ dâng của người có tâm hồn bình an thanh thản.  Thông thường, người ta dễ dàng nói những lời hoa mỹ đối với Chúa, nhưng lại dùng những lời thô tục hoặc cứng cỏi với tha nhân.  Sống theo sự thật là tạo mối tương quan chân thành với Chúa cũng như với anh chị em mình.

Nhờ sống theo sự thật mà chúng ta dễ dàng thực thi Luật Chúa.  Chúa Giêsu giảng dạy như một nhà cải cách luật pháp.  Người không dừng lại ở chữ nghĩa hay những công thức lý thuyết khô cứng, nhưng chú trọng đến tinh thần, đến tâm hồn của người giữ luật.  Quả thật, người muốn nên hoàn thiện không chỉ giữ con mắt giác quan bề ngoài, nhưng còn giữ tâm hồn và ý tưởng của mình ngay thẳng trung thực.  Vì sống ngay thẳng, nên người ta không cần thề thốt.  Chúa Giêsu lên án những thói quen nơi người Do Thái bình dân thời bấy giờ.  Họ thường lấy Danh Thiên Chúa hoặc Đền thờ Giêrusalem để thề, để chứng minh cho sự trung thực của mình.  Chúa nói: đừng thề chi cả, nhưng có thì nói có, không thì nói không; thêm thắt đặt điều là do ác quỷ mà ra.  Quả vậy, trong con người chúng ta vẫn có “ác quỷ” tức là mầm mống của sự dối trá.  Bổn phận của người tin Chúa là phải làm sao để mầm mống của sự thật lớn lên và sinh hoa kết trái, đẩy lui ảnh hưởng của sự dối trá đang hủy hoại tâm hồn và làm cho con người lạc hướng.

Tác giả sách Huấn Ca dạy chúng ta hãy khôn ngoan trong cách sống và trong nhận định của mình.  Nhờ khôn ngoan mà chúng ta chọn lựa những gì ích lợi thiêng liêng và bền vững, đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho những người xung quanh.  Ông đã dùng một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu: Đức Chúa đặt trước mặt con người lửa và nước, nếu muốn gì thì giơ tay mà lấy; Đức Chúa đặt trước mặt họ cửa sinh và cửa tử…  Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội (Bài đọc I).  Như thế, Thiên Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa sự sống hay sự chết cho mình, để rồi họ phải lãnh trách nhiệm về những chọn lựa cũng như những hệ lụy của chọn lựa ấy.  Vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá những hành động của họ.  Lề luật của Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi lề luật của loài người, nên luật đó có giá trị ưu tiên.  Mọi dân luật đều phải dựa trên luật của Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người.

Nếu sự khôn ngoan là một chọn lựa và tìm kiếm để nên hoàn thiện, thì theo nhãn quan Kitô giáo, Chúa Giêsu chính là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa Cha.  Đức Khôn Ngoan đã nhập thể, mang lấy thân phận con người để chung chia phận người với chúng ta.  Thánh Phaolô quả quyết: rao giảng Đức Kitô là rao giảng sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.  Đón nhận sự Khôn Ngoan chính là đón nhận Thiên Chúa.  Chính vì vậy, lý tưởng của người Kitô hữu là chính Chúa Giêsu, là Sự Khôn Ngoan vĩnh cửu và là Đấng Cứu độ trần gian.  Thánh nhân cũng mời gọi chúng ta hãy hành xử theo sự khôn ngoan đích thực, chứ không phải lẽ khôn ngoan theo quan niệm thế gian.  Trong tiến trình tìm kiếm sự Khôn Ngoan, có Thần Khí giúp đỡ chúng ta, để chúng ta không nản chí và không thất vọng.

Hành trình đức tin là hành trình tiến theo Sự Thật và tìm kiếm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.  Xin Chúa cho chúng ta được ơn kiên trung, để mặc dầu giữa những biến động của trần gian, chúng ta vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống.  Một khi trung thành với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ dễ dàng sống trung thực đối với anh chị em mình.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

NGÀY MAI VÀ NGÀY MAI

Trong Tự thú của Thánh Augustinô, ngài mô tả việc trở lại đạo của ngài liên quan đến hai khoảnh khắc ân sủng riêng biệt, khoảnh khắc đầu tiên thuyết phục ngài về mặt trí tuệ, Kitô giáo là đúng, và khoảnh khắc thứ hai giúp ngài sống theo những gì ngài tin.  Phải mất gần chín năm trôi qua giữa hai lần trở lại này và trong chín năm này, ngài đã có lời cầu nguyện nổi tiếng: Lạy Chúa, xin Chúa làm cho con thành người tín hữu Kitô tốt và khiết tịnh – nhưng chưa phải bây giờ.

Thật lạ lùng, Thánh Ephraim người Syria (306-373), một người cùng thời với ngài cũng viết lời cầu nguyện tương tự: Hỡi người yêu dấu của tôi, mỗi ngày tôi làm sai rồi tôi lại ăn năn.  Trong một giờ tôi xây và giờ sau đó tôi phá những gì tôi đã xây.  Buổi tối, tôi nói, ngày mai tôi sẽ ăn năn, nhưng khi sáng mai đến, tôi vui vẻ lãng phí một ngày.  Rồi đến tối, một lần nữa tôi nói, tôi sẽ thức suốt đêm và tôi sẽ xin Chúa thương xót tội lỗi của tôi.  Nhưng khi đêm đến, tôi lại ngủ say.

Điều mà Thánh Augustinô và Thánh Ephraim mô tả là rõ ràng (không phải không có chút hài hước), một trong những khó khăn chúng ta thực sự gặp trong cuộc đấu tranh để lớn lên trong đức tin và trong sự trưởng thành của con người, là thói quen để cuộc đời qua đi khi nói: “Đúng, tôi cần phải làm tốt hơn.  Tôi cần phải chịu đựng và cố gắng khắc phục những thói quen xấu của mình, nhưng chưa phải bây giờ!”

Và thật an ủi khi chúng ta biết đã có những thánh đấu tranh vất vả trong nhiều năm với sự tầm thường, lười biếng, với thói hư tật xấu trong nhiều năm, họ cũng nhún vai chịu thua như chúng ta: “Ngày mai, tôi sẽ bắt đầu một khởi đầu mới!”  Trong vài năm, một trong những câu nói của Thánh Augustinô là, “ngày mai và ngày mai!”

“Đúng, phải thay đổi, nhưng chưa!”  Điều này nói lên con người của chúng ta như thế nào?  Tôi muốn là người tốt, là người tín hữu Kitô tốt.  Tôi muốn sống theo đức tin nhiều hơn, bớt lười biếng, bớt ích kỷ, độ lượng với người khác hơn, chiêm niệm hơn, bớt giận dữ, bớt cay đắng, hoang tưởng và phán xét người khác.  Tôi muốn dừng việc ngồi lê đôi mách và vu khống.  Tôi muốn đóng góp nhiều hơn vào công lý.  Tôi muốn có một đời sống cầu nguyện tốt hơn.  Tôi muốn dành thời gian cho mọi việc, dành nhiều thời gian hơn cho gia đình, thưởng thức hương hoa, lái xe chậm hơn, kiên nhẫn hơn và ít vội vã hơn.  Tôi có một số tật xấu cần phải thay đổi, tâm hồn tôi vẫn còn cay đắng, tôi đã lỗi lầm quá nhiều thứ, tôi thật sự cần phải thay đổi, nhưng chưa phải lúc này.

Trước tiên, tôi phải giải quyết một mối quan hệ cụ thể, tôi lớn lên, thay đổi công việc, kết hôn, nghỉ ngơi, có được sức khỏe, học xong, có thì giờ đi nghỉ hè vì rất cần thiết, để một số vết thương lành lại, để con cái tự lập, nghỉ hưu, dọn đến một giáo xứ mới, và thoát khỏi tình trạng này – sau đó tôi sẽ nghiêm túc xem lại việc thay đổi những chuyện xấu này.  Lạy Chúa, xin làm cho con trở nên người trưởng thành hơn và là một tín hữu Kitô, nhưng chưa phải lúc này!

Cuối cùng, đó không phải là lời cầu nguyện tốt.  Thánh Augustinô nói với chúng ta, trong nhiều năm, khi đọc lời cầu nguyện này, ngài đã hợp lý hóa sự tầm thường của mình.  Tuy nhiên, một trận đại hồng thủy bắt đầu dấy lên trong tâm hồn ngài.  Chúa đã vô cùng kiên nhẫn với chúng ta, nhưng sự kiên nhẫn của chúng ta với chính mình cuối cùng cũng cạn kiệt và đến một lúc nào đó, chúng ta không thể tiếp tục như trước nữa.

Trong quyển 8 của bộ sách Tự thú, Thánh Augustinô kể, một ngày nọ, khi đang ngồi trong vườn, ngài bị choáng vì sự thiếu trưởng thành và tầm thường của mình và “một cơn bão to lớn ập đến trong tôi, tôi bật khóc sướt mướt…  Tôi gieo mình xuống gốc cây vả và để cho nước mắt tuôn trào… tôi khóc trong nỗi đau khổ: ‘Cho đến lúc nào tôi vẫn còn nói ngày mai, ngày mai đây.  Tại sao không phải bây giờ?’” Khi ngài đứng lên, cuộc đời ngài đã thay đổi; ngài không còn chấm dứt lời cầu nguyện với câu “nhưng chưa” dù là manh nha trong đầu.

Chúng ta tất cả đều có một số thói quen nào đó trong cuộc sống mà chúng ta biết là xấu, nhưng vì nhiều lý do (lười biếng, nghiện ngập, thiếu sức mạnh tinh thần, mệt mỏi, tức giận, hoang tưởng, ghen tuông, bị áp lực của gia đình, của bạn bè) chúng ta không chịu ngưng.  Chúng ta cảm nhận sự tầm thường của mình, nhưng tự an ủi, cho rằng mọi người (trừ các thánh) thường tự bào chữa, nói ra hoặc không nói ra trong lời cầu nguyện của họ: “Đúng, thưa Chúa, nhưng chưa phải lúc này!”

Thật vậy, trong lời cầu nguyện này có một an ủi xác đáng, nó nhận ra một điều gì đó quan trọng bên trong sự hiểu biết và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.  Tôi ngờ rằng Chúa đối phó với những lỗi lầm của chúng ta tốt hơn là chúng ta đối phó với lỗi lầm của mình và những người khác đối phó với chúng ta.  Tuy nhiên, giống như Thánh Augustinô, ngay cả khi chúng ta nói, “ngày mai và ngày mai”, một cơn bão vẫn tiếp tục dấy lên trong lòng chúng ta, sớm hay muộn, sự tầm thường của chính chúng ta sẽ làm cho chúng ta phát điên lên để nói: “Tại sao không phải bây giờ?”

Khi tác giả Thánh vịnh viết: “Hãy hát lên một bài ca mới”, chúng ta tự hỏi, bài ca cũ là gì?  Đó là lời cầu nguyện kết thúc, Đúng, lạy Chúa, nhưng chưa phải bây giờ!

Rev. Ron Rolheiser, OMI

CHÚT SUY TƯ VỀ THINH LẶNG

“Thiên Chúa, Người thầm lặng; tất cả những gì có giá trị trong thế giới đều chứa đầy thinh lặng.” – E.Mounier.

Trong thế giới ngày nay, tiếng ồn ào đã thâm nhập cuộc sống con người như một cơn sóng thần, âm thanh tràn ngập mọi ngóc ngách.  Phải công nhận rằng thời gian im lặng càng ngày càng trở nên hiếm hoi trong cuộc sống đời thường của đa số những con người ngày nay.  Họ hầu như bị chìm sâu trong làn sóng dư luận, bị chao đảo theo các ngọn gió tin tức truyền thông, rồi những tiếng ầm ầm của máy móc hay những âm thanh của máy vi tính, chuông điện thoại, tiếng ồn ào trong các quán ăn, nhà hàng… đã chiếm hết tâm trí của họ đến nỗi họ không còn biết mình từ đâu đến và sẽ đi đâu.  Sự hụt hẫng, trống rỗng, mà nhiều người ngày nay cảm nhận, chứng tỏ rằng họ đã bỏ sót một chiều kích của chính mình.[1]  Họ đã quên mất con đường về căn nhà lương tâm và về mảnh vườn nội tâm của lòng mình, nơi có thể nói cho họ biết tất cả…  Thiếu thinh lặng, con người đang sống ngoài lề của chính mình và thậm chí còn thu hẹp mọi tương quan với người khác.

Sự thinh lặng cần thiết biết bao!  Không biết có ai đã bao giờ tự hỏi rằng: Tại sao bản nhạc lại phải có dấu lặng?  Hay đã bao giờ có ai đọc một bài văn mà không hề có dấu chấm, dấu phẩy?

Nếu một bản nhạc không có dấu lặng, chúng ta sẽ chẳng bao giờ nghe được tiếng vọng của thanh âm, và những ngân nga của một giai điệu du dương.  Cũng vậy, nếu một bài văn không có dấu chấm dấu phẩy, chắc chắn là người đọc sẽ đứt hơi, hoặc sẽ chẳng thể hiểu được trọn vẹn bài văn ấy.  Thinh lặng cũng giống như một nốt lặng của bản nhạc, giúp ta nghe rõ hơn nốt trước và nốt sau đó, và cũng giống như dấu chấm dấu phẩy trong một bài văn, giúp người đọc hiểu trọn vẹn hơn ý nghĩa của bài viết.

Trên phương diện nhân bản, thì chỉ có sự thinh lặng mới giúp ta thực sự lắng nghe để thấu hiểu và đón nhận người khác một cách chân thực như chính họ, và giúp ta bước vào những mối tương quan bền vững hơn.  “Người ta sẽ tin bạn không phải vì bạn nói nhiều, nhưng vì bạn biết thinh lặng để lắng nghe”(Paul Xardel).  Còn trên phương diện tâm linh, thinh lặng càng cần thiết hơn, bởi vì tiếng ồn bên ngoài có thể gây biến động bên trong thay vì cho thấy những chiều sâu của tâm hồn[2].  Có sự thinh lặng trong tâm hồn ta mới có thể tiến tới đời sống tâm linh cao vượt mà con người hằng khát khao mong mỏi.  Sự thinh lặng ấy tạo điều kiện quân bình cho đời sống và sự tăng trưởng của cá nhân mỗi người.

Trong cái thế giới ồn ào ngày nay, thiết nghĩ, cần phải sống thinh lặng nhiều hơn, bởi vì sự thinh lặng rất cần thiết để mỗi người nhìn lại chính mình.  Trong sự thinh lặng ta dễ dàng làm chủ bản thân, làm chủ giác quan, và khi thinh lặng ta buộc phải đối diện với chính mình.  Từ đó, ta có cơ hội tìm về nội tâm, tìm về với chính con người thật của mình để nhìn lại, tìm hiểu và suy xét bản thân…

Nhưng cũng cần phân biệt: thinh lặng khác với im lặng.  Ta có thể im lặng bởi ta không thèm nói.  Hoặc ta có thể im lặng vì đang tức giận đến tột độ, hoặc đau khổ đến nỗi không thể thốt nên lời.  Nhưng thực ra, ngay lúc đang im lặng đó lại là những lúc ta đang “nói” nhiều nhất.  Thinh lặng là một trạng thái hoàn toàn khác, thinh lặng là khi mặt hồ của tâm hồn không hề gợn sóng, và thinh lặng là khi ta đang lắng nghe, đang đắm mình trong một không gian bình an, tĩnh tại, phẳng lặng và dịu êm.

Nói như vậy, cũng thật là khó để giữ thinh lặng trong chúng ta, vì cuộc sống đầy những ồn ào và lộn xộn.  Vì thế, muốn có được thinh lặng ta cần phải rất cố gắng.  Trước hết, ta cần học biết lắng nghe, lắng nghe tiếng lòng và lắng nghe tiếng Chúa.  Đồng thời, chúng ta hãy chiêm ngắm một gương mẫu tuyệt vời của sự thinh lặng, đó chính là Chúa Giêsu.  Người là Ngôi Lời Thiên Chúa trong xác phàm, đã im lặng ba mươi năm trong số ba mươi ba năm cuộc đời trần thế.  Người cũng đã thinh lặng bốn mươi ngày trong sa mạc trước khi bắt đầu cuộc đời công khai.  Và trong suốt cuộc đời, Người luôn sống trong thinh lặng.

Tất nhiên, Chúa Giêsu không tìm kiếm sự thinh lặng để mà thinh lặng[3] nhưng để thiết lập một mối tương quan mật thiết với Chúa Cha, và để mở lòng đón nhận chương trình yêu thương của Ngài.  Giờ đây, Chúa Giêsu cũng vẫn luôn hiện diện cách trọn vẹn trong thinh lặng và chờ đợi chúng ta trong thinh lặng.  Chính trong thinh lặng chúng ta sẽ được gặp Người và Người sẽ nói với tâm hồn chúng ta.  Tuy nhiên, để có thể lắng nghe Chúa nói, chúng ta cần có tâm hồn trong sạch, thành tâm ăn năn sám hối và trở lại với Người.

Thầy Giêsu ơi, con đang đi tìm thinh lặng nhưng chẳng thấy thinh lặng ở đâu hết.  Có lẽ bởi vì tâm hồn của con vẫn còn ồn ào quá!  Như con người ngày nay vẫn cứ chạy theo những ồn ào xao động đến điên cuồng ở ngoài kia mà cố tình bỏ quên mất cõi lòng mình.  Và con, phải chăng con vẫn còn là một kẻ như con người ngày nay ở ngoài kia…?

ĐS Vân Phong. CM

[1] Michel Hubaut, Những nẻo đường thinh lặng, NXB Tôn giáo, 2007, tr 8
[2] Lm. Thái Nguyên, Thinh lặng sống tâm tình mùa chay, 2006
[3] Mẹ Teresa, Trên Cả Tình yêu, NXB Văn Hoá Sài Gòn 2009,  tr 19

TỎA SÁNG GIỮA ĐỜI

Sống trên đời, mỗi người chúng ta giống như một ngôi sao trên bầu trời.  Triệu triệu ngôi sao trong dải ngân hà, không có hai ngôi sao giống nhau hoàn toàn.  Những ngôi sao khác nhau về kích cỡ, về cường độ ánh sáng và về tốc độ vận chuyển.  Thiên Chúa là Đấng “ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147,4).  Thiên Chúa cũng biết mỗi người chúng ta, và Ngài khắc tên chúng ta trong bàn tay của Ngài.  “Ta đã gọi con bằng chính tên con.  Con là của riêng Ta” (Is 43,1).

Chúa Giêsu mời gọi những ai muốn theo Chúa phải tỏa sáng như những ngôi sao trên bầu trời.  Sống trên đời, mỗi người một tên gọi, một khuôn mặt, một cá tính, một nghề nghiệp và một sở thích.  Tuy vậy, lý tưởng chung của tất cả đều là sự hoàn thiện, mặc dù khái niệm “hoàn thiện” được hiểu khác nhau.

Tỏa sáng giữa đời, đó là sứ mạng của mỗi chúng ta.  “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.”  Đây vừa là lời mời gọi, vừa là một mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ.  Chúa Kitô là ánh sáng thế gian.  Những ai đi theo Người cũng phải trở nên ánh sáng, vì tin vào Chúa là cố gắng nỗ lực mỗi ngày để trở nên giống như Người.  Lệnh truyền này không phải là lý thuyết, nhưng là những đề nghị thực hành cụ thể.  Đó là những việc thiện hảo mà người môn đệ thực hiện đối với những người xung quanh.  Những việc tốt lành này sẽ giúp người tín hữu toả sáng giữa đời.  Những người chưa tin Chúa sẽ nhận ra Người thông qua những cử chỉ tốt lành mà người môn đệ đang làm.

Một cách cụ thể hơn, ngôn sứ Isaia đã diễn giải những việc làm giúp chúng ta tỏa sáng giữa đời: đó là cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ những người cô thế cô thân, những người đau khổ bần hàn.  Vị ngôn sứ viết: “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành…”  Những việc làm nhân ái có tác động thật diệu kỳ: khi giúp đỡ ai, thì vết thương nơi mình được chữa lành.  Khi thương người nghèo, thì lời cầu nguyện lên Chúa được Ngài nhận lời.  Khi cho đi, là khi nhận lãnh.  Khi quên mình, thì gặp lại bản thân.  Đó là sự kỳ diệu của sẻ chia và phép lạ của lòng nhân ái.  “Nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thỏa lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng của người sẽ chiếu tỏa trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ.”  Thiên Chúa là Đấng rộng rãi quảng đại.  Ngài sẽ ban lại gấp trăm cho những ai từ tâm chia sẻ với tha nhân.

Tác giả Thánh vịnh cùng chung một cảm nhận: Ánh sáng sẽ bừng lên nơi người từ bi nhân hậu và công chính.  Ánh sáng ấy vừa là ánh sáng thần thiêng đến từ Thiên Chúa, vừa là ánh sáng tỏa lan nơi tâm hồn người thánh thiện.  Quả vậy, những ai bao dung quảng đại sẽ cảm nhận được sự an bình và niềm vui đến từ Thiên Chúa.

Nhân loại vừa trải qua thời kỳ khó khăn.  Con virus Côrôna nhỏ bé đã làm đảo lộn thế giới.  Hệ luỵ của đại dịch Covid-19 sẽ còn tồn tại nhiều năm.  Trong những thời khắc của đại dịch, người ta được chứng kiến những nghĩa cử cao đẹp thấm đậm tình người.  Cũng trong thời đại dịch, nhiều người lợi dụng để trục lợi trên đau khổ của đồng bào.  Họ mượn chức danh của mình để vơ vét không thương tiếc, miễn sao thu lợi thật nhiều.  Thế mới thấy, lòng tham của con người là vô đáy, và sự vô cảm của con người thật khủng khiếp.  Người ta bất chấp lương tâm, bất chấp sự đau khổ của tha nhân, miễn là thu tích được nhiều tiền cho bản thân và cho gia đình.  Những người này, không chỉ bị pháp luật lên án, mà còn bị lương tâm cắn rứt suốt đời vì sự bất công tham lam và ăn chặn của người nghèo.

“Anh em là muối cho đời.”  Ai trong chúng ta cũng biết tác dụng và ích lợi của muối.  Thiếu muối, mọi đồ ăn đều trở nên vô vị.  Vào thời Chúa Giêsu, khi chưa có tủ lạnh như hiện nay, muối không chỉ để nêm vào món ăn, mà còn là chất liệu bảo quản thực phẩm.  Chúa muốn những ai tin vào Người phải trở nên muối ướp trần gian, tức là làm lan tỏa xung quanh sự thánh thiện, mặc dù đời còn đầy bóng tối của bất công và ghen ghét hận thù.

Làm sao có thể trở thành muối và ánh sáng giữa một cuộc sống đầy cạnh tranh và mưu mô tính toán.  Thánh Phaolô trả lời: nhờ Đức Giêsu Kitô (Bài đọc II).  Đối với thánh nhân, Đức Giêsu là lý tưởng duy nhất.  Mối bận tâm lớn nhấn của thánh Phaolô là làm sao để trung thành với Đức Giêsu.  Trọn cuộc đời của thánh nhân là dành cho Chúa.  Dù gông cùm, tù đầy, đòn vọt và sự khinh bỉ của người đời, vị Tông đồ dân ngoại vẫn không hề nao núng, vì “chiều cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39).  Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cậy dựa vào lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa, chứ đừng dựa vào người phàm.  Nhờ đó, chúng ta có đức tin chân thật và vững chắc.

Chúng ta đang sống trong những ngày đầu xuân Quý Mão.  Nắng ấm của mùa xuân làm cho lòng người ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc.  Xin cho mỗi chúng ta cũng trở nên như nắng xuân, đem sức sống, sự bình yên và niềm vui cho mọi người.  Nguyện xin Chúa Xuân chúc phúc cho mỗi chúng ta.  Amen.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

SÁU TRỰC GIÁC CỦA THÁNH GIOAN BOSCO

Thánh Gioan Bosco, linh mục người Ý xuất thân trong một gia đình khiêm tốn hai trăm năm trước và được phong thánh năm 1934, ngài là nhà giáo đầu tiên của trẻ em đường phố.  Ngài đã biến giấc mơ tuổi trẻ của mình thành hiện thực để giúp các trẻ em kém may mắn.  Ngày hôm nay chúng ta vẫn còn học hỏi ở ngài rất nhiều điều.

  1. Ngăn ngừa, không trấn áp

Ở giữa thế kỷ 19, thời của tác phẩm Những kẻ khốn cùng (Les Misérables) của văn hào Victor Hugo với nhân vật Jean Valjean, giáo dục dựa trên “cây roi” và các trẻ em không ‘thẳng thớm’ được sửa trị ngay.

Năm 1850, linh mục người Ý 35 tuổi đã can đảm lên án cách giáo dục trấn áp truyền thống đối với các em “bụi đời,” ngài chống lại lối giáo dục xưa cổ “vâng lời trước, thương yêu sau.”

Linh mục Jean-Marie Petitclerc dòng Salê giải thích: “Đây là sai lầm của lối giáo dục Pháp, đã đào tạo các cô thầy trấn áp thay vì yêu thương học sinh.  Thánh Gioan Bosco đã tái lập thương yêu, ngài giải thích, đơn giản là phải học cách quản lý nó.”

Thánh Gioan Bosco chiến đấu để những người chung quanh mình tôn trọng trẻ em, lắng nghe trẻ em, làm cho các em tin tưởng và giao trách nhiệm cho các em.

Ngài nói, “vì sao chúng ta lại muốn thay thế bác ái bằng sự lạnh lùng của luật lệ.”  Theo ngài, phải có tình thương thật sự với những người mà mình nhìn họ như đi ngược với mình.  Ngài tin ở một “phương pháp phòng ngừa, linh động và được hỗ trợ bởi một tình yêu nhân từ.”  Năm 1844 ngài nhanh chóng thành lập Nhà nguyện Valdocco, một khu phố nghèo ở thành phố Turin.  Ngài có trực giác, các em bé nổi loạn này không nên ở với nhau mà nên hòa chung với các em bé khác.

Linh mục Petitclerc giải thích: “Thánh Gioan Bosco nuôi các học sinh miền quê đã nhận một giáo dục tốt trong môi trường gia đình của các em,” như thế ngài đã có sáng kiến một xã hội hòa trộn trước thời.

  1. Đội ngũ làm nên sức mạnh

Dựa trên sức mạnh của riêng mình để tạo đường hướng gần gũi và khuyến khích các em gặp khó khăn là chuyện không tưởng.

Sẽ là nguy hiểm!

Ở Valdocco, Thánh Gioan Bosco cho các em nhà ở, giải trí, đào tạo các em nổi loạn ở ngoại ô thành phố Turin, ngài nhanh chóng thành lập nhóm với các em trẻ ngài đã huấn luyện.  Các em có trách nhiệm, đến lượt các em, các em đào tạo lại các em khác.  Điều này làm chúng ta nhớ lời của Cha Phêrô: “Bạn không giúp tôi một tay để tôi giúp các người trẻ này sao?” 

  1. Dịu dàng và kiên nghị

Thánh Gioan Bosco không tình cờ chọn dòng “Salê”: ngài vinh danh Thánh Phanxicô Salê, nổi tiếng về đức tính dịu dàng và bác ái.  Nhưng vì sao ngài không gọi đó là những “người Bosco?”

Linh mục Petitclerc cho biết: “Đó là dấu hiệu khiêm tốn của ngài.  Ngài giao công việc của mình cho Thánh Phanxicô Salê, để nhớ vị thánh lớn ở thời đối thoại khi có căng thẳng những người công giáo và tin lành năm 1595.”

Nhà dòng Ý nhanh chóng gọi đây là “bầu khí salê.”  Một liên kết giữa tình yêu và lý trí, giữa dịu dàng và kiên nghị.  Ở đây có tình gia đình thân yêu, các em có được “an toàn nhưng không khép kín,” các em cũng có các “hụt hẫng nhưng không bị bỏ rơi trước các lo âu của mình.”

“Bầu khí salê” là làm vui lòng nhau, chứng tỏ qua việc chia sẻ trong khi chơi cũng như khi gặp khó khăn.  Như Thánh Gioan Bosco nói: “Đó là loại bỏ hàng rào nghi kỵ chết người.”

Chính trong bầu khí này, Thánh Gioan Bosco vun trồng bằng cách “nói nhỏ vào tai” mỗi em và “lời nói vào buổi tối” này giúp các em xem lại ngày sống của mình, khuyến khích các em, vừa từng em, vừa cả nhóm. 

  1. Mọi người cùng hòa mình với nhau!

Khái niệm mới trong tương quan giữa nhà giáo và học sinh là không còn khoảng cách giữa thầy giáo “trên cao” và học sinh “không biết gì.”

Khái niệm này mở đầu cho một sư phạm liên minh, nơi mọi người có một khoảng cách phù hợp.  Nhà giáo phải ở giữa học sinh của mình: Ai muốn được yêu thì phải chứng tỏ mình yêu thương.

“Phải yêu thương người trẻ trong những gì các em thích,” có nghĩa là phải quan tâm đến sở thích của các em.  Phải nhất quán giữa lời nói và việc làm: “Chúng ta không thể cự lại sự hội tụ của đức tin và việc làm,” Linh mục nhà giáo cho các trẻ em đường phố Guy Gilbert cũng đã nói như vậy.

Nó áp đặt sự tôn trọng đi đôi với thẩm quyền trên các trẻ em đã mất phương hướng.  Đối với Thánh Gioan Bosco, thẩm quyền cũng như tình yêu: một quan hệ không thể làm bằng chỉ huy. 

  1. Ước mơ điều tốt nhất

Điều Thánh Gioan Bosco dạy chúng ta còn tinh tế hơn, người có tầm nhìn không phải là người mơ mộng dịu dàng.  Hơn mọi thánh khác, Thánh Gioan Bốt-cô “dựa trên các trực giác lớn của mình qua các giấc mộng ban đêm mà Đức Giáo hoàng Piô  IX đã xin ngài ghi lại, các giấc mộng này là động lực hành động của ngài.

Như mục sư Martin Luther King đã tuyên bố: “Tôi có một giấc mơ…”, Linh mục Petitclerc giải thích, Thánh Gioan Bosco đã đi theo giấc mơ của mình và làm cho các giấc mơ thành công việc cụ thể.”

Thánh Gioan Bosco đã đi tới đàng trước qua các giấc mơ liên tiếp từ năm 9 tuổi, chúng ta tự hỏi ngài có tự cao hay hoang đường không.  Nhưng nhìn kết quả thì chúng ta thấy giấc mơ đã được thực hiện.

Linh mục Petitclerc giải thích, khi Thánh Gioan Bosco nói: “Tôi mơ” thì điều này không thể bàn cãi.  Chính Đức Giáo hoàng cũng đã chú tâm nghe ngài…  Toàn bộ “hệ thống” giáo dục mà chúng ta mơ ước có được hiệu quả của nó là do ngài đã xem trọng các giấc mơ ban đêm của mình.

  1. Mở ra với thế giới

Sức mạnh – ngày nay vẫn còn – của Thánh Gioan Bosco là ngài mang lại sự đảo ngược này trong tâm trí của thời bài-giáo sĩ mà toàn bộ xã hội đã bị ngả ngiêng từ thôn quê đến đô thị kỹ nghệ hóa.

Giai đoạn đột biến mất phương hướng này nhắc lại thời buổi chúng ta, thời buổi người trẻ khó hướng về tương lai.  Thánh Gioan Bosco đã xoay sở và làm được, ngài thoát ra khỏi khuôn khổ nghiêm ngặt của tôn giáo để làm cho các chính trị gia “thế tục” hiểu được.

Là linh mục, ngài đã in dấu ấn của mình trong việc phòng ngừa nạn phạm pháp nơi các em vị thành niên, và đã làm cho các chính trị gia rất bài tôn giáo thời đó ngạc nhiên.

Năm 1857, bộ trưởng Ý Urbano Rattazzi khuyên ngài thành lập một dòng của các “tu sĩ theo con mắt của Giáo hội và các công dân tự do theo con mắt của Quốc gia.”

Văn hào chống giáo sĩ Victor Hugo, chính ông cũng ngạc nhiên về Thánh Gioan Bốt-cô và ông đã gặp ngài nhiều lần.

Lời khuyên cuối cùng của Thánh Gioan Bosco: nhà giáo sẽ thành công khi đưa ra một nền giáo dục toàn bộ, giảng dạy mở ra với người khác và với thế giới.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch