“THIÊN CHÚA BAO DUNG VÀ QUẢNG ĐẠI”

Dụ ngôn “Người gieo giống” mở đầu chương 13, đồng thời cũng mở đầu một chuỗi những dụ ngôn trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu.  Trước đó, Chúa Giê-su tranh luận với những biệt phái và luật sĩ về sứ mạng của Người.  Những lập luận của Chúa khiến họ tức giận đến nỗi nhóm Pha-ri-sêu bàn bạc để tìm cách giết Người (x. Mt 12, 13-14).

Dụ ngôn “Người gieo giống” có thể được soạn thảo trong bối cảnh cộng đoàn tín hữu tiên khởi đang gặp nhiều khó khăn, thậm chí bị bách hại.  Tác giả Mát-thêu muốn trả lời những vấn nạn đặt ra lúc đó: tại sao có ít người tin Chúa Giê-su?  Tại sao cộng đoàn tín hữu bị khinh miệt và kỳ thị?  Câu trả lời là: Thiên Chúa vô cùng quảng đại.  Ngài gieo hạt giống khắp nơi.  Nếu có những người đón nhận Chúa và có những người khước từ, là vì họ có tự do và họ sẽ phải lãnh trách nhiệm về chọn lựa của họ.

Thiên Chúa vô cùng quảng đại.  Đó cũng là nội dung của Bài đọc I, trích sách ngôn sứ I-sai-a.  Ngài gieo hạt giống sự thiện vào lòng con người như sương sa từ trời rơi xuống, làm cho đất đai mầu mỡ và cây cỏ xanh tươi.  Mưa móc và sương sa từ trời không chọn chỗ để rơi xuống.  Hạt giống Lời Chúa cũng thế.  Chúa gieo mầm sự thiện vào mọi nền văn hoá, mọi thời đại và mọi truyền thống.  Tất cả những điều tốt đẹp và thiện hảo nơi những nền văn hoá đều phản ánh sự thánh thiện và tốt lành của Chúa, vì Ngài là nguồn cội của Chân, Thiện, Mỹ.

Nếu ở chương 12 của Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Chúa Giê-su tranh luận với người biệt phái và luật sĩ, thì ở chương 13, Người lại ngỏ lời với đám đông dân chúng.  Hạt giống Lời Chúa được gieo cho hết mọi người, mà đám đông này là đại diện.  Xin lưu ý, thánh Mát-thêu mở đầu trình thuật bằng câu: “Chúa Giê-su từ trong nhà đi ra ngồi ở ven hồ,” và dụ ngôn cũng khởi đầu với chữ “đi ra”: “Người gieo giống đi ra gieo giống…”.   Chính Chúa Giê-su là người gieo giống.  Người từ cung lòng Chúa Cha, đã đến trần gian để loan báo Nước Trời.  Người không mệt mỏi đi đến mọi nơi khắp xứ Palestia.  Người đến với mọi hạng người, từ thành viên Thượng Hội đồng (ông Ni-cô-đê-mô), đến những người biệt phái, những luật sĩ, những người thu thuế, những bệnh nhân đủ loại, thậm chí cả cô gái làng chơi.  Người gieo hạt giống Nước Trời nơi tâm hồn họ, giúp họ nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa, để rồi phục thiện và trở nên con người hoàn hảo.

Nếu dụ ngôn được nói với đám đông dân chúng, thì lời cắt nghĩa dụ ngôn lại chỉ được ngỏ với các môn đệ, tức là những người theo Chúa và sẽ tiếp nối công việc của Người.  Khi giáo huấn đám đông, Chúa Giê-su đưa ra một lời mời gọi thường thấy ở nhiều nơi khác: “Ai có tai thì nghe.”  Đây chỉ là lời mời gọi, không phải là một lệnh truyền hay một điều kiện ràng buộc.  Tuy vậy, khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giê-su nêu rõ ý muốn của Người, là các ông phải hiểu và trở nên những mảnh đất màu mỡ để đón nhận hạt giống Lời Chúa.  Đây là một điều kiện tiên quyết để trở nên môn đệ Chúa Giê-su.  Chúa Giê-su trích dẫn ngôn sứ I-sai-a, để trấn an các ông rằng: thời nào cũng có những người khước từ Lời Chúa.  Nơi đâu cũng có những người bưng tai bịt mắt trước lời mời gọi nên trọn lành.  Điều đó không có chi mới lạ.  Khi nghe những lời này, các môn đệ (và các tín hữu hôm nay) dễ dàng đón nhận hoàn cảnh khó khăn, trước thái độ chống đối của một số người Do Thái (và của mọi thời đại) đối với cộng đoàn những người tin Chúa Giê-su.

Đương nhiên, Tin Mừng hôm nay không nhằm mục đích để chúng ta ngồi “tỉa tót” xem ai trong cộng đoàn là người thuộc loại đất nào để bình phẩm chê trách.  Thực ra, trong mỗi chúng ta, đều có 4 loại đất này.  Ma quỷ, môi trường xung quanh và chính những nết xấu của bản thân chúng ta luôn tranh giành ảnh hưởng với hạt giống Lời Chúa, và nếu không thận trọng và khôn ngoan, thì Lời Chúa dễ bị bóp nghẹt.

Nếu trong cuộc sống đời thường, mảnh đất gai góc, đá sỏi và vệ đường không thể thành đất màu mỡ, thì tâm hồn một tín hữu khô khan dửng dưng thờ ơ lại có thể trở nên một mảnh đất phì nhiêu, nhờ lòng bao dung của Thiên Chúa.  Thánh Phao-lô (Bài đọc II) khuyến khích chúng ta hãy hy vọng và cậy trông, vì Thiên Chúa là Đấng giải thoát chúng ta, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần nơi chúng ta.

Nếu Chúa Giê-su là Người Gieo Giống Số Một, thì mỗi tín hữu cũng phải trở nên người gieo giống trong phận vụ và hoàn cảnh của mình.  Bởi lẽ, nhờ bí tích Thanh tẩy, Ki-tô hữu trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su, cùng tham gia vào sứ mạng của Người.  Trần gian là một cánh đồng rộng rãi mênh mông.  Chúng ta đang là những người gieo giống trên cánh đồng ấy.  Ai gieo điều tốt lành, sẽ gặt điều thiện hảo.  Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.  Chúa hứa với chúng ta điều ấy.  Mảnh đất tâm hồn của chúng ta sẽ càng trở nên màu mỡ, nếu chúng ta cộng tác phần mình để cùng với Chúa Giê-su gieo hạt giống chân lý nơi cánh đồng trần gian.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

THÁNH BÊNÊĐICTÔ, VIỆN PHỤ (480-547)

1. Đôi Hàng Tiểu Sử

Thánh Bênêđictô sinh tại Norcia năm 480 trong một gia đình giàu sang quý tộc.

Khi nhỏ, cha mẹ cho ngài được ăn học ở địa phương, để gần gũi với gia đình, để dễ bề đào tạo tính tình đức hạnh theo khuôn mẫu tổ tiên.

Năm 14 tuổi, thánh nhân được gởi đến học ở Rôma.  Học ở Rôma được một thời gian, ngài thấy Rôma không phù hợp với mình vì cuộc sống ở Rôma lúc đó rất suy đồi trụy lạc.  Để giữ gìn linh hồn mình được luôn trong sạch.  Ngài đã trốn khỏi kinh thành, muốn tìm đến một nơi thanh vắng, sống đời ẩn tu tịch mạc.  Ý muốn của Ngài đã được Chúa ưng thuận.  Miền hoang địa cách Rôma 40 dặm là nơi Ngài đã dừng chân để được sống cuộc đời tịch liêu thân mật với Chúa.  Trong khi còn đi lang thang tìm một hang trú ẩn, Bênêđictô gặp được thầy Rômanô, một tu sĩ cùng chí hướng với mình.  Tình yêu và lý tưởng đã kết hợp hai người thành đôi bạn chí thiết.  Rômanô chỉ cho Bênêđictô một hang rất kín chưa hề có một vết chân người lui tới.  Bênêđictô sống ở đó ba năm.  Hằng ngày thầy Rômanô mang bánh cho Ngài.  Sau thời gian vắn vỏi sống đời ẩn dật hoàn toàn, Chúa muốn đặt ngọn đèn thánh thiện của Bênêđictô lên nơi cao để soi dẫn cho nhiều người.

Ma quỷ thấy nhân đức của ngài thì luôn tìm đủ cách quấy phá.  Đứng trước những cám dỗ của ma quỉ, Ngài luôn làm dấu Thánh giá xua đuổi chúng.  Còn những người muốn sống đời nhân đức trọn lành tìm đến, thì Ngài luôn sẵn sàng hướng dẫn giúp đỡ, dạy bảo.  Nhờ đó mà danh thơm thánh thiện của ngài lan rộng khắp nơi.  Cả những người quý phái ở Rôma cũng đến xin làm môn đệ ngài.  Ngài thành lập 12 tu viện nhỏ, để tiếp nhận họ và giúp họ tập rèn nhân đức.

Số người muốn tu luyện theo đường lối thánh nhân mỗi ngày một đông, nên năm 520, ngài phải dời về Montô Cátsinô, thành lập tu viện.  Đây là tu viện đầu tiên của thánh Bênêđictô.  Chính Ngài soạn tu luật cho tu viện.  Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây.

Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đã có sự hiện diện của các đan viện sống theo lý tưởng của Ngài.  Các tu sĩ của Ngài đã hết lòng yêu mến và tuân giữ ba đặc điểm như ba cột  trụ chi phối và nâng đỡ đời sống của mình.  Ba cột trụ đó là cầu nguyện, học hành và lao động Người tu sĩ hằng ngày chuyên cần cầu nguyện, siêng năng học hỏi Lời Chúa và làm việc chân tay để tự nuôi sống.

Bênêdictô qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547.  Từ cuối thế kỷ VIII, Ngài đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7.  Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ra tông thư “Sứ giả hoà bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.

Sau khi Ngài qua đời, các môn đệ của thánh nhân đặt xác thầy mình bên cạnh xác em gái Ngài, trong mộ Ngài đã dọn sẵn cho mình ở dưới bàn thờ thánh Gioan Baotixita.

Cuộc đời trần thế của thánh nhân tới đây kết liễu, nhưng danh thơm và sự nghiệp vĩ đại của Ngài sẽ còn tồn tại như bia đá ngàn thu, Người ta quên sao được bộ tu luật bất hủ của Ngài đã làm hứng khởi bao tâm hồn đạo đức là kim chỉ nam cho những ai muốn nên thánh thiện.  Đàng khác sự tiến phát mau lẹ của dòng và con số đông đảo của những tu sĩ rải rác khắp năm châu, phải chăng chính là dấu Chúa quan phòng hằng chúc phúc cho sự nghiệp của đấng thánh qua muôn thế hệ.

2. Con đường nên thánh.

a. Chỉ muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Trong cuốn “đối thoại,” thánh Grêgôriô cả, sử gia của Bênêđictô, mệnh danh Ngài là “người của Thiên Chúa.”  Ơn gọi của Bênêđictô độc đáo ở chỗ là “chỉ muốn đẹp lòng duy nhất mình Thiên Chúa.  Ngài thực thi tốt và liên lỉ các nhân đức đối thần đến nỗi tất cả cuộc sống Ngài được Thiên Chúa qui hướng.  Người của Thiên Chúa trước tiên là người của lòng tin.  Điều này ta thấy được dễ dàng qua qui luật.  Sử gia Daniel Rops: “Tất cả con người Bênêđictô là ở trong qui luật.  Nếu ta muốn chấm phá dung mạo thiêng liêng của Ngài, thì phải rút những nét tự Qui luật, đó là bức chân dung trung thực nhất về Ngài.”  Thánh Grêgôriô khẳng định : “Ngài không dạy điều gì khác Ngài đã sống.”  Cho mỗi vấn đề mới được nêu ra, Ngài đã trả lời trước tiên bằng mỗi tác động đức tin.  Vậy thì Đan Viện là gì? – thưa, là “Trường phụng sự  Chúa,” cho nên đồ đạc và tài sản của đan viện phải được coi như những  “bình thánh,” cung hiến cho Thiên Chúa  (Qui luật 31).

Mọi công việc phải được xử lý một cách lương thiện “Để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh” (57).  Nhưng trong việc nào, ta gặp Thiên Chúa hoàn  toàn hơn? – Đó là Nhật Tụng, là việc của Thiên Chúa.  Do đó “Đừng coi việc gì quí hơn Nhật Tụng” (43).  Điều này không có nghĩa là ta gặp được Chúa ít hơn trong nơi khác.  Trái lại, viện phụ là Đức Kitô (2), khách và nhất là người nghèo là Đức Kitô (53).  Bệnh nhân cũng còn là Đức Kitô (36).  Ở mọi nơi, đan sĩ có thể gặp Đức Kitô.

b. Luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.

Năm 539, nước Ý phải cơn đói kém lớn lao chưa từng thấy; nhân dân khắp nơi đều phải điêu linh khổ sở túng đói.  Kho lẫm của tu viện thánh Bênêđictô cũng đến ngày hết sạch lương thực: ngày kia chỉ còn có 5 chiếc bánh để cho cả nhà hàng trăm người dùng bữa.  Thấy các thầy ai cũng rầu rầu mặt, vị tu viện trưởng khả kính liền buông lời trách mát các thầy vì thiếu lòng tin tưởng.  Ngài nói:

– Sao các anh em buồn rầu vì thiếu bánh? Ngày hôm nay chúng ta còn ít, thì ngày mai chúng ta sẽ có dư dật.

Hôm sau quả thấy có hai trăm thùng bột mì đựng trong các bao mà không ai biết là Thiên Chúa toàn năng đã sai ai đem đến.  Các tu sĩ ai nấy dâng lời tạ ơn Chúa và từ đấy không bao giờ phải lo túng thiếu cả, khi trời làm đói kém, mất mùa cũng vậy.  Lần  khác có một người bị truy tố vì không có tiền trả một món nợ cấp bách.  Ông đến bày tỏ tình cảnh của mình với Tu viện trưởng Bênêđictô và xin Ngài thương giúp.  Thánh nhân trả lời rằng: mình không có đủ 12 đồng tiền vàng để cho ông, rồi Ngài tiếp thêm để an ủi:

– Ông cứ về và hai ngày nữa trở lại đây, vì hôm nay tôi không có để mà cho.

Trong hai ngày đó thánh nhân cầu nguyện nhiều; ngày thứ ba con nợ trở lại, người ta thấy trên mặt hòm vẫn chứa bột mì có 13 đồng vàng, thánh nhân bảo người nhà đem trao cho con nợ tội nghiệp kia và nói:

– Ông hãy lấy 12 đồng mà trả nợ còn một đồng để mà chi tiêu riêng.

b. Quy luật của đời sống cộng đoàn:

“Các đan sĩ hãy cố công và hâm mộ luyện tập lấy thứ thiện tâm ấy, đó là:

Ân cần tôn kính lẫn nhau;
Hết sức kiên nhẫn chịu đựng các nhược điểm hồn xác của nhau;
Thi đua vâng lời nhau;
Không ai tìm ích lợi cho mình;
Trái lại, hãy tìm lợi ích cho nhau;
Thực thi nghĩa vụ huynh đệ với lòng trong sáng;
Kính sợ Chúa trong tình thương;
Yêu mến Viện Phụ bằng tình yêu chân thành và khiêm tốn;
Và sau hết tuyệt đối không quí trọng gì hơn Chúa Kitô, Đấng dẫn đưa hết thảy chúng ta lên cõi đời đời.”

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

BÀI HỌC TỪ NHỮNG NẺO ĐƯỜNG

Vài năm trước đây, Hollywood có làm một bộ phim về cuộc đi bộ hành hương Camino ở Tây Ban Nha, tựa đề là “Những Nẻo Đường,” bộ phim thuật lại câu chuyện của người cha có người con bị chết trong một tai nạn không lâu sau khi anh vừa bắt đầu cuộc hành hương Camino dài năm trăm dặm này.  Người cha, do Martin Sheen thủ vai, đã bị đứa con mình ghẻ lạnh, nhưng khi đến Pháp, điểm khởi hành cuộc hành hương của con để nhận tro, ông thấy mình phải hoàn tất chuyến đi của con mình, với hành lý và tro của con, ông lên đường.

Ông không biết chắc vì sao mình lại lên đường, ngoài việc ông cảm thấy có một lý do nào đó, đây là điều ông phải làm cho con trai mình, và điều này, theo cách nào đó, sẽ làm rõ sự ghẻ lạnh mà đứa con đã dành cho ông, và đây cũng là điều ông phải làm để nguôi đi sầu đau trong lòng.  Dù đang ở trong tình trạng khủng hoảng và bất mãn xã hội, nhưng trên đường đi, ông được bầu bạn với ba người, mỗi người đi vì một nguyên do khác nhau.

Người đầu tiên là một người đàn ông từ Hà Lan, ông đi để giảm cân, nếu không giảm cân, vợ sẽ ly dị.  Người thứ hai là một phụ nữ Canada thuộc Pháp, bề ngoài thì đi để bỏ thuốc lá, nhưng chính ra là để vươn lên sau một quan hệ đổ vỡ.  Người thứ ba là nhà văn Ireland, lên đường trong hy vọng vượt lên ‘khối văn học khép kín’ của mình.  Như thế câu chuyện tập trung vào bốn người đồng hành không tưởng này, vì mỗi người mang trong đầu một mục tiêu riêng cho chuyến đi này.

Họ bền chí và hoàn thành cuộc hành hương, họ tới được nhà thờ chính tòa Santiago, họ thấy thói quen hàng thế kỷ của vô số khách hành hương khi đến đích đã đánh dấu mốc đến của mình, nhưng rồi họ nhận ra, họ chưa đạt được những gì họ hy vọng.  Người đàn ông Hà Lan vẫn chưa giảm được cân nào, cô người Canada – Pháp chưa thể bỏ thuốc lá, nhà văn Ireland nhận ra vấn đề thực sự của mình không phải là khối đá văn giả khép kín của mình, còn người cha trong chuyến hành hương thay cho con, thấy mình làm việc này vì các lý do khác, những lý do của riêng ông thì đúng hơn.  Không một ai trong họ có được điều mình muốn, nhưng mỗi người đều có được điều mình cần.  Những nẻo đường sự sống làm việc như nẻo đường Camino Santiago.

Tôi đã học được chính bài học này khi thực hiện cuộc đi bộ Camino một năm trước.  Tôi đến đó với một ước mơ trong lòng.  Đã sáu tháng trôi qua, sau đợt hóa trị, tôi được hồi sinh cùng nguồn sinh lực mới, đang trong kỳ nghỉ phép, tôi mong đi bộ hết con đường cổ xưa và nổi tiếng này để củng cố sức lực và tinh thần mình.  Sức của tôi đã tốt hơn đúng như tôi kỳ vọng trước khi lên đường.  Nhưng việc cơ thể mạnh lại là một con đường dài, rất dài so với nhưng gì tôi hình dung.

Và tôi mơ qua chuyến đi này, tôi có thể viết được một tác phẩm nội tâm sâu sắc, đọc một vài quyển sách thần nghiệm cổ điển, pha trộn chiều sâu thần nghiệm với sự huyền bí của tuyến đường cổ xưa này, cũng như sẽ viết được một vài bài báo, và khi trở về sẽ là người chiêm niệm có độ sâu sắc hơn.  Tôi mong là thế, nhưng các nẻo đường lại có những hướng khác cho tôi.

Vì mỗi ngày chúng tôi bỏ nhiều thì giờ ở trên đường, nên thực tế tôi không có thì giờ để đọc hay viết báo.  Đến tối, thì tôi mệt lử, không còn sức để đào sâu nội tâm.  Chính yếu là tôi chỉ muốn đi tắm và ăn một bữa ăn nóng sốt.  Quyển sách chính mà tôi mang theo, Đám Mây Vô thức vẫn còn ở đáy vali, tôi chưa giở ra trang nào.  Tôi thu xếp để mỗi ngày có vài giờ cầu nguyện riêng trên đường, nhưng đây không phải là dạng nội tâm sâu đậm mà tôi tưởng tượng.  Tôi đã tưởng tượng về những gì tôi muốn đạt đến, nhưng cũng như các nhân vật trong bộ phim trên, đó không phải là những điều tôi cần.

Con đường dạy tôi một điều khác, sâu sắc hơn, cần thiết hơn và khiêm nhượng hơn.  Điều tôi học được từ chuyến đi với ba người bạn thân chính là việc tôi nhận ra tôi là đứa con nít được nuông chiều.  Linh mục độc thân, không có những đòi hỏi bắt buộc của hôn nhân, con cái, và gia đình hơn bốn mươi năm qua, tôi nhận ra lối sống và thói quen của mình chỉ tập trung vào cái tôi và chiều theo tính riêng của tôi đến mức như thế nào.  Tôi thường nhớ lại những khoảnh khắc đời mình, ít nhất là trong nhịp sống mỗi ngày.  Chuyến đi bộ Camino dạy cho tôi biết tôi phải xác định những vấn đề của đời mình, và đó là việc cần thiết cấp bách và nghiêm trọng hơn việc đọc và hiểu quyển Đám Mây Vô thức nhiều.  Chuyến đi bộ Camino dạy tôi có một số con đường quan trọng, tôi cần phải lớn lên!

Robert Funk đã viết, ân sủng là chuyện âm thầm: Nó gây đau đớn từ bên trong, từ nơi mà chúng ta nghĩ là khó bị tổn thương nhất.  Chúng ta lập luận đạo đức để tránh nó, nhưng nó khắc nghiệt hơn những gì chúng ta nghĩ.  Và nó lại càng độ lượng hơn chúng ta nghĩ, nhưng nó không bao giờ dễ dãi lúc chúng ta nghĩ nó đáng phải dễ dãi.  Cũng như cuộc hành hương đi bộ Camino Santiago vậy.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU

Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.  Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng (Mt 11, 29-30).

Người đời tưởng rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải tôn mình lên và hạ bệ người khác xuống, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù…  Nhưng nghĩ như vậy là thiển cận và sai lầm.

Lịch sử loài người đã tỏ cho thấy cho dù những bạo chúa hung tàn nhất như Nê-rô hay Tần Thủy Hoàng chẳng hạn, cũng chỉ có thể dùng cường quyền và bạo lực để chiếm lấy ngai vàng trong một thời gian nhưng không thể chinh phục được lòng người.  Những nhân vật nầy cũng chưa hề được xem là hùng mạnh, là anh dũng. Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King…  Lịch sử nhân loại nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng sự hiền hoà, bất bạo động để chiến thắng bạo tàn, biết “dùng nhu để thắng cương, biết dụng nhược để thắng cường” (Lão Tử).

Thế nên, mặc dù Chúa Giêsu có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Người kêu gọi mọi người nên học nơi Người là đức tính hiền hậu và khiêm nhường.  “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp” (Mt 5, 4).

Câu chuyện sau đây minh chứng cho thấy sự hiền lành khiêm nhu có thể chiến thắng hung hăng và thô bạo.

Thời chiến quốc, vua nước Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc.  Tướng Liêm Pha cậy mình có công lớn hơn mà lại bị đặt dưới quyền Tương Như nên đâm ra căm tức, thề rằng nếu gặp mặt Lạn Tương Như là giết.

Tương Như nghe nói thế bèn tìm cách lánh mặt Liêm Pha hoài.  Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha đi tới, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra tiếp tục hành trình.

Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn hỏi Tương Như: Chúng tôi tưởng ngài là bậc đại trượng phu nên đem lòng quý trọng, từ bỏ nhà cửa, xa lìa thân thích để đến đây hầu ngài.  Nay thấy ngài là tướng quốc, thứ hạng còn cao hơn Liêm tướng quân, lại để Liêm tướng quân dọa giết mà không đáp lại; ngài đã tránh mặt Liêm tướng quân ở triều đình, nay lại tránh ở ngoài đường.  Sao ngài lại sợ Liêm tướng quân quá vậy?  Chúng tôi rất lấy làm xấu hổ, vậy chúng tôi xin rút lui, không theo hầu ngài nữa.

Tương Như nói: Các ngươi xem Liêm tướng quân có oai phong, cao trọng bằng vua Tần không?”  Bọn xa nhân thưa: Không.”

Tương Như nói: Uy danh của vua Tần, thiên hạ đều kinh sợ không ai dám chống, vậy mà một mình Tương Như nầy dám mắng nhà vua giữa triều đình, lại dám làm nhục cả đám quần thần nữa.  Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư?  Nhưng ta nghĩ sở dĩ Tần không dám đánh nước ta là vì ngại có ta và Liêm tướng quân.  Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống.  Tần mà nghe tin ấy tất sẽ thừa cơ tiến đánh nước ta.  Sở dĩ ta chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ đó thôi.”

Nghe vậy, bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao hiểu được đại chí của tướng công.”

Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm, rồi trần vai áo đến trước cửa nhà Tương Như tạ tội: Tính tôi thô bạo, đội ơn tướng quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!

Tương Như đỡ Liêm Pha dậy, hai người nắm tay nhau khóc và thề nguyền kết bạn suốt đời sống chết có nhau.
(Trích “Thuật xử thế của người xưa” của Thu Giang Nguyễn Duy Cần).

Thế là bằng đường lối nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn của Liêm Pha.  Đúng như Pascal nhận xét: “Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi hạ mình quỳ xuống.”

Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả sự khiêm hạ là hình tượng về nước.  Nước luôn tỏ ra mềm mỏng, dịu dàng, tránh va chạm và xô xát.  Cho dù nước có bị tấn công thô bạo, nước cũng không hề kháng cự bao giờ.

Khi người ta dùng búa tạ đập vào khối đá rắn chắc, đá dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan.  Khi người ta dùng búa tạ giáng vào nước, nước dùng sự mềm mại dịu hiền của mình đối lại, thế là nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lỉm xuống tận đáy bùn!

Nước luôn luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao, nên nước luôn được bảo toàn.

Tuy mềm mại và luôn tìm chỗ thấp hèn như thế, nhưng nước lại có sức mạnh phi thường.

Khi có một đám cháy rừng bộc phát thiêu rụi hàng ngàn mẫu rừng nguyên sinh và trong khi bao nhiêu nỗ lực của con người với những phương tiện hiện đại nhất không tài nào dập tắt được, thì người ta chỉ còn biết cầu mưa!  Khi mưa trút xuống hàng tỉ mét khối nước thì thần hỏa mới chịu bó tay và rừng xanh mới có thể phục hồi.

Nước tuy mềm mại dịu dàng nhưng có thể bào mòn đá cứng.  Nước tuy không cánh nhưng có thể bay tới mây trời; nước không có mũi dùi mũi khoan nhưng có thể thấm nhập đến tầng sâu nhất trong lòng đất.  Nước đi đến đâu thì đem lại sự sống dồi dào cho nơi đó.

Như thế, nước tuy thấp kém, mềm mỏng, dịu hiền nhưng lại có sức mạnh vô song.

Những minh hoạ trên đây giúp chúng ta xác tín hơn vào lời dạy đầy khôn ngoan của Chúa Giêsu được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp” (Mt 5, 4).

Lm. Ignatiô Trần Ngà

TÔMA: VỊ TÔNG ĐỒ QUYẾT TÌM CHÂN LÝ

Thánh Tôma là một trong những vị Tông đồ đã trở nên nguyên cớ cho nhiều vấn đề nan giải.  Dù rằng Tin Mừng trực tiếp nói đến Ngài không nhiều.  Tuy nhiên những khi Ngài xuất hiện trong những áng văn Tin mừng, đặc biệt trong Tin Mừng thứ tư, thì dường như là có sự cố gì đó.  Có thể không đầy đủ và cũng có thể thiếu chính xác nhưng ta thử lần theo những gì Tin Mừng tường thuật để khám phá chân dung của vị Tông đồ mà bấy lâu nay được hay bị gán nhãn hiệu như là kẻ cứng lòng tin.

Sau khi hóa bánh ra nhiều cho dân chúng no nê, Chúa Giêsu đã tự mạc khải căn tính của Người.  Người chính là bánh từ trời xuống, bánh ban sự sống đời đời (x. Ga 6).  Trong dip Lễ Lều tiếp đó, Chúa Giêsu đã tuyên bố Người từ Chúa Cha mà đến và đạo lý của Người là bởi Thiên Chúa.  Người mời gọi mọi người hãy tin vào Người để được sống đời đời (x. Ga 7).  Người tự xưng mình là Đấng Hằng Hữu, một danh xưng mà người Do Thái chỉ dành riêng nói về Giavê Thiên Chúa.  Người còn khẳng định mình có trước Abraham (x. Ga 8-9).  Tiếp đến trong ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ, Chúa Giêsu lại một lần nữa tuyên bố Người chính là Thiên Chúa.  Một chuỗi dài những diễn từ làm chói tai người Do thái.  Họ không chỉ thấy khó chịu và bỏ đi mà còn tức giận tìm cách giết Chúa Giêsu.  “Chúng tôi ném đá ông không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,33).  Chúa Giêsu đã phải lánh sang bên kia sông Giođan.  Thế nhưng khi nghe tin Lagiarô đau nặng gần chết, thì Người lại cương quyết lên Giêrusalem dù đã có nhiều người ngăn cản.  Khi ấy, Tôma đã nói với anh em: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16).  Không biết câu nói của Tôma là lời giận lẫy hay là lời động viên anh em?  Tin mừng không tường thuật thái độ của các Tông đồ, nên ta khó mà suy diễn.  Tuy nhiên dù là lời giận lẫy hay là lời động viên anh em, thì qua câu nói ấy ta nhận ra một thái độ “quyết đi đến cùng” của Tôma.

Trong đêm Tiệc ly, khi Thầy trò hàn huyên tâm sự, Chúa Giêsu đã tỏ lộ: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em… Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14, 2-4).  Tôma lại một lần nữa “đi đến cùng.”  Ngài không chịu dừng lại ở tình trạng nửa vời: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường” (Ga 14, 5).  Xin cám ơn sự quyết tâm đi đến cùng của thánh Tông đồ.  Chính nhờ thái độ “đến cùng” của Ngài trong việc tiếp cận chân lý mà chúng ta được biết Chúa Giêsu là “đường, là sự thật và là sự sống” và “không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Chúa Giêsu” (x. Ga 14, 6).

Sau khi chịu tử nạn, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với các môn đệ mà không có Tôma.  Không biết Ngài vắng mặt vì lý do gì đây.  Tuy nhiên ngay sau đó Ngài đã hiện diện với tập thể các môn đệ.  Khi nghe các bạn kể: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!  Ông Tôma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20,25).  Chỉ mình Tôma cứng tin chăng?  Xin đừng vội quả quyết.  Các Tin Mừng nhất lãm tường thuật rằng các tông đồ khác khi nghe các bà phụ nữ thuật lại việc Chúa Phục Sinh hiện ra thì họ cũng chẳng tin (x. Lc 24,8-11).  Cả đến khi Chúa hiện ra cũng có mấy người hoài nghi (x. Mt 28, 17), đến nỗi Chúa Giêsu đã khiển trách các Ngài (x. Mc 16, 14).  Những sự kiện này có thể giúp ta suy diễn rằng nếu các tông đồ khác ở trong trường hợp vắng mặt khi Chúa Phục sinh hiện ra, thì cũng sẽ “cứng tin” như Tôma.  Tuy nhiên, hình như chỉ mình Tôma đặt ra điều kiện để rồi mới tin.  Thái độ của thánh Tông đồ nói lên một cách nào đó sự “đến cùng” của Ngài trong việc truy tìm và đón nhận chân lý.

Xin cám ơn Thánh Tông đồ Tôma.  Nhờ Ngài mà chúng ta được Chúa Kitô Phục Sinh mạc khải chân lý này: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29).  Đức tin không hệ tại ở việc “thấy” chân lý cho bằng “cảm nhận” chân lý.  Tôma đã tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28), là nhờ ông đã cảm nhận được tình yêu của Thầy Chí Thánh hơn là nhờ thấy Thầy.  Thầy Chí Thánh sẵn sàng thoả mãn điều kiện của ông đặt ra, cho dù chỉ đặt ra với các bạn đồng môn.  Cảm được tình yêu của Thầy, Tôma không cần xỏ tay vào lỗ đinh hay thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy để kiểm chứng.  Tình yêu của Thầy đã nói lên tất cả hơn mọi điều ông đang thấy.  Quả thật nếu chỉ dựa vào những gì ta thấy bằng mắt trần hay bằng trí khôn thì thật khó tiếp cận với Đức tin.  Đám lính canh mồ cũng đã thấy các sự kiện lạ, “thấy thiên thần Chúa từ trời xuống…” và “dù có khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi” mà đâu có niềm tin (x. Mt 28, 2-4).  Biết bao nhiêu người đã thấy Chúa Giêsu khi sinh thời và cả khi Ngài phục sinh thế mà đâu phải tất cả đều có niềm tin.

Phúc cho ai không thấy mà tin.  Chữ phúc ở đây không muốn nói lên công trạng của người tin.  Cũng như các chữ phúc trong các mối phúc thật, chữ phúc muốn diễn tả một tình trạng được ưu ái, được thuận lợi.  Người nghèo, người đau khổ… họ có phúc không phải do công lao của họ hay do chính sự nghèo, sự đau khổ, nhưng vì họ được Chúa đoái thương cách đặc biệt.  Cũng thế, người tuy không thấy nhưng được cảm nghiệm tình yêu của Chúa thì dễ có đức tin hơn.  Đọc Tin mừng chúng ta nhận ra sự thật này.  Rất nhiều người trông thấy Chúa Giêsu cũng như thấy phép lạ Chúa làm, nhưng vẫn thiếu lòng tin.  Còn những ai cảm nhận được cái tình của Chúa thì rất dễ có lòng tin.  Nhưng để cảm nhận được tình yêu của Chúa thì chúng ta cũng cần một thái độ cương quyết đến cùng một cách nào đó.  Giakêu trèo lên cây sung để quyết nhìn cho được Giêsu.  Bà mẹ người Canaan có cô con gái bị bệnh cũng quyết lẽo đẽo theo Thầy Giêsu…

Tiếp nối theo chân Thánh Tông đồ Tôma, Âugustinô là một người khát khao tìm chân lý liên lỉ.  Ngài dường như đã hoài công với cái thấy của trí khôn.  Nhưng sự kiên trì của Ngài đã có kết quả khi Ngài cảm nhận “Thiên Chúa ở trong tôi hơn cả tôi.  Thiên Chúa biết tôi hơn cả tôi biết tôi.”  Chính cái cảm nghiệm ấy đã giúp Ngài đón nhận đức tin.  Dù đức tin đã dẫn Ngài đến đức ái “hãy yêu đi, rồi làm gì thì làm,” thì Ngài vẫn không ngừng tìm kiếm chân lý: “linh hồn tôi khắc khoải mãi cho đến ngày được nghỉ yên trong Chúa.”

Chúa Thánh Thần được ban tặng cho nhân trần, đặc biệt cho Hội Thánh Chúa.  Một trong những sứ mạng của Người là dẫn Hội Thánh Chúa đến cùng chân lý mà Đức Giêsu mặc khải “Khi nào Thần Chân lý đến, Người sẽ dẫn anh em đến chân lý toàn vẹn” (Ga 16, 13).  Sứ mạng của Chúa Thánh Thần vẫn mãi còn tiếp nối theo thời gian cho đến ngày Người cùng với Tân Nương là Hội Thánh đón chào ngày quang lâm của Đức Kitô (x. Kh 22, 17).

Nguồn mạc khải đã nên hoàn hảo nơi Đức Giêsu Kitô.  Con Thiên Chúa là Lời tối hậu của Chúa Cha nói với nhân loại; sau Người, không còn một mặc khải nào khác (x. MK số 4).  Nhưng Hội Thánh chưa bao giờ cho rằng mình đã nắm trọn vẹn chân lý, vì rằng sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dẫn Hội Thánh Chúa đến sự thật toàn vẹn đang còn đó.  Chính vì thế mà theo dòng lịch sử Hội thánh Chúa luôn mở rộng tâm hồn để cho Thánh Thần tác động.  “Dù Mặc khải đã hoàn tất, nhưng vẫn chưa được diễn đạt hoàn toàn rõ rệt, nên Hội Thánh phải không ngừng tìm hiểu một cách tiệm tiến qua dòng thời gian” (GLCG chung số 66).

Một thánh Tiến sĩ lừng danh như thánh Toma Aquinô khi gần cuối đời cũng đã muốn đốt đi các tác phẩm thần học cao siêu mà ngay cả hôm nay Hội Thánh vẫn hưởng dùng.  Thái độ của Ngài không chỉ biểu lộ sự khiêm nhu mà còn xác nhận rằng những tìm tòi, hiểu biết của mình vẫn còn thiếu sót và còn nhiều hạn chế.

Gần đây, Ủy Ban soạn thảo đề cương cho Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần qua sự góp ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam để rồi nhìn nhận Hội Thánh Chúa “là dấu chỉ Nước Trời” chứ không phải là chính Nước Trời.  Điều này đã được thánh Công đồng Vaticanô II, một Công đồng được xem như là một lễ hiện xuống mới, minh định.  Hội Thánh Chúa Kitô thiết lập chính là dấu chỉ, là phương thế để Người tiếp tục công trình cứu độ của Người theo dòng thời gian.  Tuy nhiên, ngoài Hội Thánh hữu hình thì Thiên Chúa vẫn có những đường lối, những phương thế khác mà chỉ mình Chúa biết, để Người thông ban ơn cứu độ cho con người, nhưng tất cả đều phải nhờ, phải qua Đức Kitô, Đấng Cứu độ và là Đấng trung gian duy nhất.

Để kết thúc những chia sẻ này, xin mượn lời Thánh Công đồng Vaticanô II khuyên bảo các nhà đào tạo hàng linh mục tương lai: “Trong cách thức giảng dạy, phải kích thích nơi chủng sinh lòng hâm mộ quyết liệt tìm kiếm, khảo sát và minh chứng chân lý, đồng thời cũng chân nhận những giới hạn của trí óc con người.” ( ĐT số 15 ).  Quyết liệt tìm kiếm chân lý là một động thái bao hàm sự khiêm nhu nhìn nhận mình chưa thấu đạt chân lý.  Chân nhận những giới hạn của trí óc con người cũng là sự khiêm nhu nhìn nhận rằng chỉ nhờ tác động của Chúa Thánh Thần ta mới có thể tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa (x.1Cr 12, 5), một chân lý mang ơn cứu độ cho muôn người.  Điều này muốn nói rằng, chính khi cảm nhận được tình yêu của Chúa thì ta sẽ tiếp cận với chân lý.  Và chân lý sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8, 32).  Chắc chắn những gì Thánh Công đồng muốn nơi các chủng sinh, các linh mục tương lai thì cũng muốn cho hết mọi tín hữu.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

CHẠM ĐẾN ÂN SỦNG

“Thấy mẹ vợ Phêrô đang sốt liệt giường.  Chúa Giêsu chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi.”

“Tham dự tang lễ của Brezhnev, George Bush vô cùng xúc động trước sự ‘không đồng tình’ âm thầm của bà quả phụ.  Bà cúi xuống, chậm rãi, trang trọng, làm một dấu thánh giá trên ngực chồng.  Ở đó, trong tòa nhà uy quyền, ‘biểu tượng’ của những người vô thần, vợ của người đàn ông quyền lực nhất hy vọng rằng, chồng mình đã sai.  Bà cầu xin lòng thương xót Chúa cho ông được ‘chạm đến ân sủng’ Ngài, khi thánh giá Ngài chạm đến trái tim ông.”

Kính thưa Anh Chị em,

Trên đây là ghi nhận của Gary Thomas trong cuốn “Christianity Today”, “Kitô Giáo Ngày Nay.”  Lời Chúa hôm nay cũng nói đến việc ‘được Thiên Chúa chạm đến’ hay ‘được chạm đến Ngài.’ Trong cái nhìn đức tin, chúng ta gọi đây là việc ‘chạm đến ân sủng.’

Nhạc mẫu của Phêrô sốt liệt giường.  Không ai xin Chúa Giêsu chữa cho bà, kể cả bà; đúng hơn, Ngài “thấy” bà đang liệt, nên đến gần bà, “chạm đến tay bà,” và bà được lành.  Ngay sau khi được chạm đến, “Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài!”  “Chỗi dậy” tượng trưng cho tất cả những gì phải làm ngay khi được ân sủng cảm hoá.  Ân sủng có tác dụng làm cho chỗi dậy; nói cách khác, mỗi khi được ‘chạm đến ân sủng,’ chúng ta chỗi dậy!  Chỗi dậy khi thoát khỏi tội lỗi bởi đã chạm đến ơn tha thứ của Bí Tích Hòa Giải; chỗi dậy khi Chúa bước vào cuộc đời, ban cho chúng ta sự định hướng sáng suốt và niềm hy vọng sau một biến cố nào đó.  Mỗi lần chỗi dậy là mỗi lần được củng cố trong đức tin, được xua tan gánh nặng tội lỗi và sự mê muội; đồng thời, vươn lên trong sức mạnh mới để tạo nên một sự khác biệt.

Bà đã “tiếp đãi các ngài.”  Đây phải là hậu kết tất yếu của việc chỗi dậy nơi một người đã ‘chạm đến ân sủng.’  Ân sủng không được ban để ai đó quay lại với tội lỗi, nhưng để đứng lên phục vụ Chúa và tha nhân.  Theo một nghĩa nào đó, ân sủng đặt chúng ta trở lại sứ vụ của mình; đó có thể là một gánh nặng nhưng là một ‘gánh nặng thánh;’ một gánh nặng sẽ hoá nên nhẹ nhàng, gánh ân sủng, gánh ân phúc, “Vì ách Tôi êm ái, gánh Tôi nhẹ nhàng.”

Thú vị thay!  Abraham và Sara trong bài đọc Sáng Thế cũng đã ‘chạm đến ân sủng.’  Dưới cụm sồi, ‘ba người khách lạ’ cũng tự tìm đến nhà Abraham; ông ‘chỗi dậy’ phục vụ các ngài.  Như nhạc mẫu Phêrô yếu liệt, Sara cũng bất lực, héo hắt vì không thể sinh con; hình ảnh này nói lên một điều gì đó tàn úa, chết chóc.  Vậy mà phụ nữ son sẻ này, rồi đây, sẽ được xót thương.  Và như thế, việc ‘chạm đến ân sủng’ của hai người đã làm tươi mới tất cả.  Kìa, dưới mái lều của họ, sẽ có tiếng cười trẻ thơ.  Thâm thuý thay lời ngợi khen Magnificat của Maria, Đấng Đầy Ân Sủng, qua lời đáp ca, “Chúa đã nhớ lại lòng thương xót của Người!”

Anh Chị em,

“Chúa Giêsu chạm đến tay bà.”  Mỗi ngày, trên các bàn thờ, qua các Bí Tích, Chúa Giêsu chạm đến thân xác chúng ta.  Không chỉ ‘chạm đến ân sủng,’ chúng ta chạm đến Đấng là nguồn ân sủng; đúng hơn, Giêsu Ân Sủng chạm đến chúng ta.  Và không chỉ chạm đến thân xác, Ngài còn đi vào linh hồn, trở nên của ăn, của uống nuôi sống chúng ta.  Noi gương Abraham và nhạc mẫu Phêrô, bạn và tôi chỗi dậy, đi tới, với những bước chân hân hoan cho việc phụng sự Thiên Chúa và tha nhân trong mọi đấng bậc tùy theo ơn gọi của mình.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con bất lực, héo úa và tội lỗi.  Xin chạm đến con, hầu con hồi sinh, trở nên tươi mới và cũng có thể đứng lên, đi tới, đem ân sủng Chúa chạm đến anh chị em con!”  Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CHO ĐI, TỨC LÀ LÃNH NHẬN

Một số độc giả, nhất là những độc giả ngoài Kitô giáo, có thể cảm thấy “sốc” khi đọc Bài Tin Mừng hôm nay: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thày, thì không xứng đáng với Thày….”  Có lẽ nào Đức Giêsu lại dạy những điều ngược đời, trái với luân thường đạo lý.  Để hiểu nội dung và sứ điệp của Lời Chúa, chúng ta phải xác định vị trí của đoạn Tin Mừng này trong ngữ cảnh những bài giảng của Đức Giêsu về truyền giáo.  Người đưa ra những điều kiện, những yêu sách mà những ai muốn làm môn đệ của Người phải chấp thuận.  Đối với những ai muốn đi theo Đức Giêsu, họ phải vượt qua mọi thứ rào cản.  Những rào cản này có thể là quan niệm về một cuộc sống an phận, có thể đó là của cải tiền bạc, nhưng cũng có thể đó là những mối liên hệ rất thân thiết.  Đức Giêsu đã dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả sự hy sinh đối với những ai muốn làm môn đệ của Người.  Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể khám phá ra quy luật “Cho đi, tức là lãnh nhận” được thể hiện qua những cặp từ mang ý nghĩa rất sâu sắc như sau:

– Ai tìm thì sẽ mất; ai chịu mất thì sẽ tìm lại được: ngược hẳn với quan niệm thông thường.  Ở đây Đức Giêsu muốn nói đến sự dấn thân của người môn đệ.  Khi sẵn sàng cho đi thì sẽ tìm được chính bản thân mình.  Sự ích kỷ (tức là chỉ tìm chính bản thân mình, đặt mình làm chuẩn mực cho người khác) thì sẽ làm cho con người lâm vào tình trạng vong thân, đánh mất chính mình.

– Ai đón tiếp thì chính mình sẽ được đón tiếp: khái niệm “đón tiếp” ở đây được hiểu rộng hơn quan niệm thông thường.  Đón tiếp là cộng tác, là sẻ chia, là thông cảm, là đón nhận.  Đón tiếp một người nào còn là sự quảng đại đối với người đó.  Đức Giêsu đã đồng hóa với những người bé mọn đến nỗi ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Người.  Người còn hiện diện nơi những môn đệ, nơi những người được sai đi, để rồi mỗi khi chúng ta đón tiếp người môn đệ là đón tiếp Chúa.  Hơn thế nữa, họ được vinh hạnh đón tiếp chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Con mình đến trần gian.

– Ai giúp người khác thì bản thân mình sẽ được giúp đỡ: sự giúp đỡ được nêu trong Tin Mừng chỉ đơn giản là một bát nước lã, là điều ai cũng có thể làm được.  Ấy vậy mà món quà tưởng chừng như vô giá trị ấy lại có ý nghĩa trước mặt Chúa và xứng đáng nhận phần thưởng.  “Của cho không quan trọng bằng cách cho,” một bát nước lã đã trở thành quà tặng có giá trị, vì nó được trao tặng với cả tâm hồn, với tình mến yêu và lòng chân thành.  Người đàn bà tại thành Sunam đã quảng đại đón tiếp Ngôn sứ Êlisê (Bài đọc I).  Chính nhờ sự đón tiếp đó mà Bà và gia đình đã được thưởng công.  Bà đã sinh con vào lúc tuổi già xế bóng.  Việc sinh con đã đem lại cho bà niềm vui, vì đó là điều bà mong ước.  Bà đã đón tiếp Ngôn sứ với cả tấm lòng và sự quảng đại.

Khi cho đi, mình được nhận lãnh, khi tha thứ, mình được thứ tha, khi mến yêu, mình được yêu mến.  Đó là triết lý sống của Thánh Phanxicô Khó Khăn đã được thể hiện qua Kinh Hòa Bình quen thuộc.  Triết lý ấy, rất đơn sơ mà sâu sắc, rất dễ dàng thực hiện mà đem lại hiệu quả thiết thực.  Triết lý sống này đã thấm đượm tinh thần của Tin Mừng.  Chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta điều đó: Người đã cho đi, đã yêu mến, đã thứ tha để làm gương cho chúng ta.

Chúng ta được mời gọi để sống như Đức Giêsu đã sống, yêu như Đức Giêsu đã yêu.  Chân lý này được gói gọn trong lời Chúa đã nói: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. “Vác thập giá”, đó chính là con đường chúng ta đang đi.  Đó chính là những biến cố đang xảy đến trong cuộc sống hằng ngày.  Đó cũng là niềm vui nỗi buồn hòa quyện trong cuộc sống để làm nên những lời tôn vinh Thiên Chúa, khi chúng ta đón nhận những biến cố ấy với tâm tình của Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu đã cùng thập giá để tôn vinh Chúa Cha.  Thánh Phaolô đã gọi những hy sinh của người tín hữu là “chết đi cùng với Đức Kitô” (Bài đọc II).  Đây là cốt lõi Đức tin của người công giáo: những ai cùng chết với Chúa Kitô sẽ được sống lại với Người.  Mỗi ngày, chúng ta được mời gọi sống ơn gọi của Bí tích Thanh Tẩy, tức là chấp nhận để cho những nết xấu chết dần trong ta và để ơn sủng của Chúa lớn mãi trong tâm hồn.

Chúng ta đang tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong tháng Sáu này.  Thánh Tâm Chúa đã mở ra để trở nên nguồn ân sủng cho nhân loại, cách riêng cho các tín hữu.  Xin Thánh Tâm Chúa trở nên trường học về lòng hy sinh và tình yêu mến cho mỗi chúng ta.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG LẠ LÙNG

Giáo hội mừng kính hai Thánh Tông đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày.  Hai con người khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng có rất nhiều cái chung: Cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, cùng chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó, và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma.  Cả hai Ngài cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng.  Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn, cùng trở thành nền móng xây tòa nhà Giáo hội, cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo.  Hai Thánh Tông Đồ được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6.

Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng.  Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người.  Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha; Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự.  Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Hai tên gọi cùng được đổi mới.

Theo cách dùngThánh Kinh, tên không những chỉ là danh xưng dùng để gọi một người mà còn là hiện thân của một người (x. Từ điển Công Giáo phổ thông).  Tên gọi nói lên một sứ mạng.  Tên mới biểu tượng một thân phận mới, một bản chất mới.  Ađam đặt tên cho mọi giống vật và đặt tên cho vợ: “Ngươi sẽ gọi tên vợ là Eva, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3,20).  Abram được đổi tên để nhận lấy một sứ mạng cao cả: “Tên ngươi không còn là Abram nữa, mà là Abraham… Sarai, vợ ngươi, sẽ không còn là Sarai nữa.  Song tên nó là Sara.  Bởi Sara, ngươi có một người con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Isaac” (St 17,5-20).  Tổ phụ Giacop được đổi tên là Israel: “Người đó hỏi ông: “Tên ngươi là gì?”  Ông đáp: “Tên tôi là Giacop.  “Người đó nói: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Giacop nữa, nhưng là Israel, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng.” (St 32,28-29).  Theo lời Sứ thần Gabriel, Đức Maria đặt tên cho con là Giêsu.  Ông Giacaria đặt tên cho con trai là Gioan.

Khi Anrê dẫn em trai là Simon đến gặp Chúa Giêsu, Người nhìn Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô) (Ga 1,42).  Chúa xây dựng Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô: “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá.  Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).  Chúa còn trao chìa khoá Nước trời cho Phêrô.

Saolô là một biệt phái nhiệt thành.  Trên đường đến Đamát, thình lình một luồng sáng từ trời bao tỏa lấy Saolô.  Ông ngã xuống đất và nghe một giọng nói với ông: “Saolô, Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?  Saolô hỏi: “Ngài là ai?”  Và có tiếng trả lời “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,1-5).  Saolô đã bị mù lòa.  Ông làm những gì được chỉ bảo.  Ba ngày sau, ông Annanias đến, đặt tay trên Saolô và ngay lập tức có cái vảy bong ra khỏi mắt và ông được sáng.  Ông đứng dậy và chịu phép rửa (Cv 9,6-18).  Từ đó, Chúa Giêsu biến đổi Saolô thành một Tông đồ dân ngoại.  Kể từ chương 13 sách CVTĐ, Saolô có tên mới là Phaolô.

Đặt tên cho một người là định hướng cuộc đời người ấy theo tên gọi.  Từ đó Chúa có một chương trình trong sự quan tâm trìu mến của người đặt tên.  Tên Giêsu là sứ mạng của Người (Mt 1,21) nghĩa là cứu độ (Cv 14,3), cứu thoát (Cv 4,12), đem lại sự sống siêu nhiên cách viên mãn (Col 3,17).  Ai cầu nguyện nhân danh Đức Giêsu, theo ý hướng của Người sẽ luôn luôn được nhận lời (Ga 15,16); Ai kêu cầu tên Người sẽ được cứu thoát (Rm 10,13); Những ai tin vào tên Người sẽ làm nên Hội Thánh (1 Cor 1,2) và từ đó được gọi là Kitô hữu (Cv 11,26).  Simon và Saolô đón nhận tên gọi mới là Phêrô và Phaolô với sứ vụ cao cả là đá tảng và là cột trụ của Giáo Hội.

Hai khuôn mặt cùng một niềm tin

Có nhiều dư luận nói về Chúa Giêsu.  Người hỏi các môn đệ: “Các con bảo Thầy là ai?”  Simon Phêrô nhanh nhẹn đáp: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).  Chúa Giêsu rất hài lòng về câu trả lời của Phêrô.  Người nói với Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17).  Phêrô tuyên xưng niềm tin.  Chúa Giêsu đặt thánh Phêrô làm đầu Giáo Hội (Mt 16,18).

Từ khi nhận phép rửa, Phaolô đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Kitô khiến nhiều người Do Thái ngạc nhiên tự hỏi: “Ông này chẳng phải là người ở Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giêsu sao?  Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?” (Cv 9, 21).  Phaolô đã làm bẽ mặt những người Do Thái ở Đamát, khi minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Cv 9, 22).  Phaolô đã được các tông đồ tin tưởng nhờ đó ngài và các tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem.  Phaolô mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa Giêsu Kitô (Cv 9, 28).

Phêrô tuyên xưng đức tin.  Trên đá tảng Phêrô, đức tin được xây dựng.  Phaolô làm sáng tỏ đức tin.  Vị tông đồ dân ngoại hăng hái đem đức tin gieo trồng khắp mọi nơi.  Hai khía cạnh của đức tin luôn sống động trong Giáo Hội, sứ mạng củng cố đức tin, xây dựng nội bộ và sứ mạng truyền giáo, đem đức tin đến với muôn dân.

Hai tính cách cùng một lòng mến

Thánh Phêrô, tính tình nóng nảy, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh.  Nói về ông người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của ông.  Đó là lần ông đã chối Chúa.  Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: “Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến ‘dzụ’ ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt.”  Lý do, ông viết tiếp: “Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột.”  Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề.  Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.

Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất.  Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng.  Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại.  Tuy nhiên, thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục.  Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ngài.  Nhờ đó, ngài đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa.  Thánh Phêrô có lòng quảng đại.  Khi được Chúa gọi, ông nhanh nhẹn bỏ tất cả mọi sự rồi theo Chúa.  Thánh Phêrô có một đức tin chân thành và lòng gắn bó keo sơn với Chúa: “Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.”  Đức tính đáng cảm phục nhất chính là lòng khiêm nhường.  Đó là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức.  Khiêm nhường là mẹ các nhân đức.  Rõ ràng, trong trái tim Phêrô lúc nào cũng yêu Chúa.  Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì Phêrô cũng không giận Chúa.  Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa.  Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.

Saolô là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem.  Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và trên đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.  Được ơn trở lại, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại.  Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi.  Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi.  Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.  Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu” (Pl 3,7-9).  Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô.  Ngài trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất, thành lập nhiều Giáo đoàn, mở mang phát triển Hội Thánh cách quang minh chính đại, khiến bản thân phải ra tòa, tù tội, vất vả trăm đường.  Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân.  Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cor 12,9).  Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2cor 4,8-9).  Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14).  Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2,20).  Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ vụ.  Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?  Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?…  Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).

Hai vị Thánh Tông Đồ có chung một lòng mến, một niềm tin và một khát khao nên thánh.  Cả hai vị đều có những lầm lỗi và yếu đuối.  Và cả hai đều hối hận, đều yêu mến Chúa thật tình.  Chúa đã gọi và chọn hai vị làm Tông Đồ.  Nhân danh và nhờ quyền năng Chúa Giêsu Kitô, hai vị đã làm được nhiều phép lạ.

Phêrô cùng với Gioan chữa lành một người què từ lúc lọt lòng mẹ vẫn ngồi ăn xin ở Cửa Đẹp Đền Thờ (x. Cv 3, 7 – 9 ); Phêrô làm cho người chết sống lại (x. Cv 9, 40 – 42); Phêrô chữa nhiều người đau ốm bệnh hoạn mà dân chúng khiêng họ ra tận đường phố để khi Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông phủ lên một bệnh nhân nào đó, và tất cả đã được chữa lành (x. Cv 5, 15 – 16)…

Phaolô đã chữa lành một người bẩm sinh bị bại chân tại Lítra (x. Cv 14, 8 – 10).  Phaolô cũng làm cho một người đã chết sống lại (x. Cv 20, 9 – 12).  Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết Phêrô bị bắt giam trong ngục, đã được Chúa sai thiên sứ đến cứu thoát khỏi tay vua Hêrôđê (x. Cv 12, 1–11).  Cả hai vị được đầy quyền năng và vinh quang trước mặt người đời.

Cuối cùng hai vị cũng bị bắt và chịu chết vì Danh Đức Giêsu Kitô.  Cả hai vị đã bằng lòng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh.  Hai vị đã trở nên trụ cột của Giáo Hội.  Phêrô là Anh Cả, đứng đầu Tông Đồ Đoàn.  Phaolô là Tông Đồ Dân Ngoại.  Hai vị có tính tình khác nhau, trình độ văn hóa khác nhau, khả năng làm việc khác nhau, nhưng lại cùng hoạt động, cùng xây dựng Nước Chúa.  Những khác biệt của hai vị là để bổ túc cho nhau, giúp đỡ nhau, cùng nhau thăng tiến trong sứ vụ Tông đồ.  Trên “tảng đá Phêrô” và “cột trụ Phaolô,” Giáo Hội Chúa Kitô bền vững và phát triển đến thiên thu vạn đại.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng.  Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng.  Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.  “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả,” đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

THÁNH GIOAN TẨY GIẢ 

Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là “ngày sinh nhật trên trời” của người, ngày người sinh ra trên trời.  Duy chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ thế.  Tưởng không có gì lạ.  Tất cả cuộc đời của thánh nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra, chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.

Con người của một sứ mạng

Có những người cho rằng người ta sinh ra ở đời là “bị vất vào đó,” một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa.  Thông thường hơn, người ta nói mỗi người có một định mệnh.  Trước định mệnh ấy con người đành bó tay chịu đựng, không cách nào thoát ra được.  Người Công giáo thì tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa, rằng không phải một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó đã ném họ vào đời, nhưng chính Tình Yêu của Chúa “gọi” họ vào cuộc sống, và khi cho một con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định, một dự tính về người ấy, không phải như một kế hoạch áp đặt nhưng như một sứ mạng để hoàn thành trong tự do và trách nhiệm, hầu cho con người được hạnh phúc và cuộc đời họ được thành tựu đích thực.  Ta gọi sứ mạng đó là một “ơn gọi.”  Về mặt này, trường hợp của ông Gioan Tẩy Giả là tiêu biểu và rõ ràng.

Qua tường thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ Chúa Cứu Thế gặp nhau v.v…  Trong các biến cố đó, ta thấy có sự can thiệp lạ lùng của Chúa vào trong cuộc đời của Gioan để định hướng cho nó.  Điều đáng nói hơn là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn vẹn, cho tới cùng.  Ông rút lui sớm vào hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian là để được sống trọn vẹn hướng về Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ “dọn đường.”  Ông rao giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám hối đổi đời vì thời gian không còn nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới.  Sau khi thiên hạ đã rời ông để quay sang Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi,” ông tuyên bố như thế (Ga 3,30).  Rồi cả cái chết của ông cũng là một phần không thể tách lìa sứ mạng của một kẻ “dọn đường” và “làm chứng cho ánh sáng và sự thật.”

Gioan và Hêrôdê

Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản.  Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do dự.  Một đàng thì sống khắc khổ, giản dị, còn đàng kia lại thích xa hoa, hưởng thụ.  Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy vợ của anh mình.  Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan.  Nhưng ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng.  Và tuy là người cai trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình.  Thế nên ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt làm vợ.  Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.  Một lời hứa bốc đồng.  Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính, của bản năng.  Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi.  Bà bảo con gái hãy xin cái đầu của Gioan.  Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm ông không muốn giết con người công chính này.

Vua Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp hèn.  Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những đỉnh cao.

Thánh Gioan Tẩy Giả và chúng ta

Như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta.  Nhưng làm sao biết được?  Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên “theo hình ảnh của Thiên Chúa,” “có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa” và “chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa.”  Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người.  Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa.  Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: “Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy?  Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó.  Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu, (sđd, số 6).

Đó là ý định chung của Thiên Chúa là ơn gọi chung của chúng ta.  Mỗi người sẽ phải thể hiện ơn gọi đó cho nên mình tùy theo diễn tiến cụ thể đời mình, theo những điều kiện và hoàn cảnh sống thực tế, khi ra sức tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong lề luật của Người và lời dạy của Giáo hội, trong việc bổn phận của bậc sống mình, trong lương tâm ngay thẳng, trong luật lệ chính đáng của xã hội, trong các biến cố…

Không phải tự nhiên và dễ dàng mà chúng ta có thể thực hiện ý định của Chúa đối với chúng ta.  Trong mỗi người đều có hai khuynh hướng: một nâng ta lên cao, một kéo ta đi xuống.  Chúng ta thường xuyên kinh nghiệm rằng hai khuynh hướng thiện ác đó đấu tranh kịch liệt với nhau ngay trong ta.  Muốn chiến thắng, phải tỉnh thức và cầu nguyện, phải tập nghe theo tiếng nói của lý trí, của lẽ phải và lương tâm, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; đồng thời cũng phải tập sống khổ chế, nghĩa là sống có kỷ luật, biết hy sinh và từ bỏ.  Làm sao có thể có một đời sống tinh thần phong phú nếu lúc nào cũng tìm kiếm và chiều theo những sự dễ dãi, thoái mái, nếu lúc nào cũng chạy theo vui thú vật chất và xác thịt?

Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc.  Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa.  Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa.  Đó là hai làng kinh tế mới.  Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc đạo.  Đặc biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận.  Khi tôi đến, ông đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi.  Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm.  Để tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980.  Bây giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an.  Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái.  Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.

Theo “ơn gọi” và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương vị Tiền Hô.

Lm Nguyễn Hồng Giáo

ĐỪNG SỢ

Cuộc sống xung quanh chúng ta có biết bao nỗi sợ.  Từ trong nhà ra ngoài phố, chúng ta có thể gặp nguy hiểm bất kỳ lúc nào.  Nguy hiểm do thiên tai, do bạo lực, do tai nạn giao thông.  Ngoài những nỗi lo cơm áo gạo tiền, con người còn phải lo sợ trước sự bon chen, mưu mô, thủ đoạn của người đời.  Trước những lo sợ bủa vây tứ phía, người ta đối phó bằng nhiều cách khác nhau: có những người buông xuôi phó mặc cho dòng đời trôi dạt, hoặc thỏa hiệp với sự dữ, làm điều bất chính.  Có những người can đảm vững tâm, vượt thắng mọi sợ hãi, thanh thoát giữa đời.  Giữa bối cảnh đầy lo âu này, người tín hữu được Chúa Giêsu trấn an khích lệ: “Đừng sợ!”

Ông Bà ta thường nói: “Cây ngay không sợ chết đứng.”  Điều này có nghĩa là chúng ta cứ sống theo sự thật, vì sự thật sẽ giải thoát và minh oan cho chúng ta.  Một cuộc sống gian dối, bao che sẽ đến lúc phơi bày ra ánh sáng.  Ngôn sứ Giêrêmia là một người công chính, nhưng ông bị bách hại, đe dọa và vu khống đủ điều.  Những kẻ thù ghét ông đã gọi ông là “Lão tứ phía kinh hoàng.”  Tuy vậy, ông vẫn một lòng cậy trông vào Chúa.  Ông tin rằng, Chúa sẽ phù trợ ông.  Ngài cũng sẽ minh oan cho ông, vì ông sống ngay thẳng.  Bài đọc I là lời cầu nguyện của ngôn sứ Giêrêmia trong cơn bách hại.  Đó cũng là lời khuyên những ai sống công chính mà bị ghen ghét, hãy cậy trông vào Chúa và hãy sống ngay lành trong bất kỳ hoàn cảnh nào.  “Đức Chúa hằng ở bên con, như một trang chiến sĩ oai hùng…”  Thiên Chúa là Đấng phán xét công minh.  Ngài thấu hiểu lòng dạ con người.  Ngài thương xót và cứu vớt những ai sống ngay lành thánh thiện.  Những ai cậy trông Chúa, Ngài chẳng bỏ rơi bao giờ.

Chúa Giêsu tiếp nối giáo huấn của Cựu ước.  Người khuyên chúng ta đừng sợ những người chỉ giết được thân xác mà không giết được tâm hồn.  Chúa nhắc chúng ta, “hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.”  Đấng ấy chính là Thiên Chúa.  Tuy vậy, sự “sợ hãi” này không giống như sợ hãi trước sự đe dọa khủng bố hoặc bách hại.  Sự sợ hãi mà chúng ta dành cho Chúa đi kèm với sự “kính mến,” nên chúng ta còn gọi đó là sự “kính sợ.”  Sự kính sợ này không làm cho chúng ta xa cách Chúa, trái lại, giúp chúng ta vững chí cậy tin.  Vì vậy, liền sau đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhận ra sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, đồng thời phó thác trọn vẹn cuộc sống của chúng ta nơi Ngài, để Ngài dẫn dắt và che chở chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống.  Hai hình ảnh được Chúa Giêsu nêu để chứng minh sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, đó là con chim sẻ và sợi tóc trên đầu.  Những vật xem ra là tầm thường và vô giá trị, mà cũng được Chúa quan tâm.  Con người chúng ta đáng giá bội phần, vì mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa, có ý chí, tự do và trách nhiệm về những hành vi cử chỉ của mình.

Sự kính sợ Chúa còn dẫn chúng ta đến việc mạnh dạn tuyên xưng đức tin nơi Ngài.  Người tín hữu là người tuyên xưng đức tin trong mọi lãnh vực, mọi hoàn cảnh của cuộc sống.  Việc mạnh mẽ can đảm tuyên xưng đức tin như một điều kiện cần thiết cho hạnh phúc đời sau.  Bởi lẽ, nếu chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, thì chính Người sẽ “bảo lãnh” cho chúng ta trước tòa Chúa Cha.  Thánh Phaolô quảng diễn điều này khi so sánh Đức Giêsu với ông Ađam.  Do ông Ađam mà sự chết thống trị.  Nhờ Đức Kitô mà thế gian được sống.  Đức Kitô là nguồn ân sủng dồi dào của Thiên Chúa.  Những ai đón nhận Người, thì được ngụp lặn trong nguồn ân sủng phong phú đó.  Nhờ đó, họ không còn sợ hãi, nhưng vững lòng cậy tin (Bài đọc II).

Một vấn nạn thường được đặt ra: tại sao có nhiều người làm điều ác mà vẫn phát đạt và vẫn cứ nhởn nhơ?  Người Á đông chúng ta tin vào thuyết nhân quả, “gieo gió gặt bão”; Giáo huấn của Cựu ước khẳng định “Sống làm sao, Chúa sẽ trả cho như vậy;” Chúa Giêsu dạy “đong đấu nào sẽ nhận đấu ấy.”  Đây là điểm gặp gỡ chung giữa các tôn giáo và một số nền văn hóa.  Mỗi chúng ta, thay vì bức xúc trước những vấn nạn trên, thì hãy chuyên tâm làm việc lành.  Bởi lẽ, người làm việc lành chắc chắn được Thiên Chúa ghi nhận và ban ơn.  Thực tế đã chứng minh điều ấy.  Hơn nữa, người tín hữu vững tin nơi Đức Giêsu là Đấng Cứu độ trần gian.  Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào cho những ai tin tưởng và cậy trông nơi Người.

Giữa bao nỗi sợ của cuộc sống hằng ngày, người tín hữu sẽ tìm được nơi ẩn náu nhờ sự phó thác cậy trông vào Chúa.  Nhờ ơn nâng đỡ của Ngài, chúng ta không còn sợ hãi.  Nhờ phúc lành của Chúa, những lo lắng ưu sầu của cuộc sống sẽ biến thành niềm vui và hy vọng.  Thực tế đã chứng minh cho chúng ta, người tin tưởng vào Chúa luôn lạc quan, vì họ xác tín rằng Chúa luôn đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.  Khi khích lệ chúng ta: Đừng sợ!  Chúa cũng sai chúng ta lên đường để kể lại những điều lạ lùng Chúa đã và đang làm cho mỗi chúng ta.  Như thế, chúng ta sẽ góp phần giảm thiểu những nỗi sợ hãi đang ám ảnh nhiều người trong cuộc đời.

“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào Chúa, Israel ơi!
Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 130,2-3).

Sống ngay lành và thánh thiện; vững vàng phó thác và cậy trông nơi Chúa quan phòng, đó chính là thông điệp mà Lời Chúa hôm nay muốn gửi đến chúng ta.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên