KHÔNG PHẢI TẤT CẢ ĐỀU RÕ RÀNG

“Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng!”

J. Wolfgang von Goethe, 1749-1832, một trong những nhân vật hàng đầu của thơ ca hiện đại Đức, từng nói, “Trước một bộ óc vĩ đại, tôi cúi đầu; trước một trái tim vĩ đại, tôi quỳ gối!”

Kính thưa Anh Chị em,

Trọng kính Trái Tim Chúa Giêsu, Hội Thánh ‘quỳ gối’; kính nhớ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, Hội Thánh ‘cúi đầu!’  Trái Tim Chúa Con bày tỏ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người; Trái Tim Mẹ Chúa tỏ bày tình yêu con người dành cho Thiên Chúa.  Đó là một tình yêu vô điều kiện, dẫu phải dò dẫm trong đức tin; bởi lẽ, trước kế hoạch ‘diệu dụng’ của Thiên Chúa, Mẹ đón nhận tất cả, dẫu ‘không phải tất cả đều rõ ràng!’

Trong gia đình Nazareth, sự ngạc nhiên không bao giờ nguôi ngoai, ngay cả trong những khoảnh khắc hốt hoảng như lạc mất Con trong đền thờ: đó là khả năng kinh ngạc trước sự biểu hiện dần dần của Con Thiên Chúa.  Đó chính là sự kinh ngạc mà ngay cả các thầy dạy trong đền thánh cũng phải sững sờ.  Nhưng kinh ngạc là gì; có gì đáng ngạc nhiên?  Ngạc nhiên và kinh ngạc là trái ngược với việc coi mọi thứ là đương nhiên; nó trái ngược với việc giải thích hiện thực chung quanh và các sự kiện lịch sử chỉ theo tiêu chí của chúng ta.  Ngạc nhiên là cởi mở với người khác, hiểu lý do của người khác.  Thái độ này rất quan trọng để hàn gắn những mối quan hệ giữa các cá nhân đã bị tổn hại, và cũng không thể thiếu để chữa lành những vết thương mới chớm nở trong môi trường gia đình, cộng đoàn.

Yếu tố thứ hai chúng ta có thể nắm bắt từ trình thuật là nỗi lo lắng của Mẹ Maria và thánh Giuse khi không tìm được Con.  Nỗi lo lắng mà họ trải qua trong ba ngày Chúa Con mất tích cũng sẽ là nỗi lo lắng của chúng ta khi chúng ta xa Chúa Giêsu.  Chúng ta có cảm thấy lo lắng khi quên Chúa Giêsu hơn ba ngày khi không cầu nguyện, không đọc Tin Mừng, không cảm thấy cần sự hiện diện và tình bạn an ủi của Ngài?

Thật khó cho Maria để hiểu hết ý nghĩa từng biến cố xảy ra trong đời của Con mà chóp đỉnh là mầu nhiệm thập giá.  Trên đồi Canvê, Mẹ cảm nhận đó là kế hoạch của Thiên Chúa và Mẹ sẵn sàng cho điều đó; bởi lẽ, nó đã được chuẩn bị qua từng biến cố trước đó mà Mẹ đã suy đi nghĩ lại trong lòng.  Không cần hiểu nhiều, nên Mẹ chẳng thắc mắc nhiều; trái lại, đón nhận, thuỷ chung và tìm mọi cách để hoàn thành nó.  Mẹ biết, Mẹ có một vai trò trong đó, và chuẩn bị nó qua một đời sống nhiệm hiệp với Con dưới sự chỉ dạy của Thánh Thần.

Anh Chị em,

“Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng!”  Đó là cách ứng xử tuyệt vời, cao thượng của Mẹ trước các mầu nhiệm.  Làm sao một phàm nhân có thể hiểu được kế hoạch của Thiên Chúa?  Vẫn có thể!  Vì trong đức tin, Mẹ lần dò, tìm hiểu và tín thác tuyệt đối vào Chúa; hơn nữa, trong trái tim Mẹ không có chỗ cho cái tôi!  Cũng thế, sẽ không bao giờ chúng ta hiểu hết giá trị, mục đích và ý nghĩa đời mình trong chương trình của Chúa, trừ khi bạn và tôi có một đời sống cầu nguyện và chờ đợi như Mẹ; nghĩa là trung thành bước đi trên con đường Chúa vạch sẵn, dẫu nó là con đường không mấy rõ ràng.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết kinh ngạc trước các biến cố Chúa cho xảy đến trong đời, nhất là những khi con mù tịt, dạy con không chỉ ‘cúi đầu’, nhưng còn biết ‘quỳ gối!’” Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

HỌ HÀNG VỚI CHÚA

Cách nay ít năm, tại bệnh viện Milwankee, có một bé sơ sinh mù và còn bị chuẩn đoán là đần độn bẩm sinh do bại liệt não.  Sau khi sanh ít ngày, người mẹ đã nhẫn tâm bỏ đứa con sơ sinh tật nguyền.  May mắn cho em, một chị y tá tên là May Lempke, thấu hiểu tình trạng bé sơ sinh bị bỏ rơi đồng nghĩa với cái chết, đã nhận em về nuôi.

Chị May cùng chồng đặt tên cho đứa con nuôi đặc biệt của mình là Leslie.  Họ thay nhau xoa bóp cho Leslie hằng đêm, cầu nguyện cho Leslie hằng ngày.  Chị May khóc suốt vì Leslie đau đớn.  Leslie càng lớn, sự chăm sóc Leslie càng nhiêu khê: chị May phải khéo léo cột Leslie vào chiếc ghế để em khỏi té nếu chị muốn rời em.

Một ngày nọ, May thấy dường như Leslie có những biểu hiện khác thường khi nghe những bản nhạc.  Thế là, vợ chồng chị mua một cây đàn piano cũ và tranh thủ đánh đàn cho Leslie nghe; mua nhiều băng đĩa hoà tấu hy vọng Leslie được vui.

Bỗng vào một đêm đông năm 1971, vợ chồng May nghe thấy ai đó đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của Tchaikovsky.  Họ thức dậy để xem tiếng đàn lạ từ đâu.  Họ sửng sốt thấy Leslie đang vẹo mình trước đàn và chơi nhuần nhuyễn bản nhạc.  Từ đó, các bản nhạc Leslie đã nghe như đã tồn trữ trong óc và nay đang tuôn ra trên đôi tay của cậu.  Leslie giờ đây đã 28 tuổi, đi lại vẫn khó khăn, nói năng vẫn ngọng ngịu, nhưng là một tài năng âm nhạc.  Các bác sĩ giải thích: Leslie bị chậm phát triển về trí tuệ do não bị tổn thất nhưng lại cực kỳ tài năng.  Tài năng đó được duy trì và bộc phát nhờ tình yêu đặc biệt của cha mẹ nuôi là vợ chồng chị May Lempke (theo Reader’s Digest).

Đứng trước nghịch cảnh Leslie, liên hệ do máu huyết đã chào thua liên hệ do đức ái.  Hôm nay trong Tin Mừng, Đức Giêsu đang giới thiệu mối liên hệ đức ái đó.  Một cách nào đó, Đức Giêsu đã gọi mối liên hệ này là họ hàng của Ngài.

Thiết lập họ hàng thiêng liêng

Trong xã hội có nhiều mối liên hệ.  Rộng nhất là mối liên hệ đồng loại, rồi đến chủng tộc màu da.  Hẹp hơn là mối liên hệ đồng bào.  Nhỏ hơn là mối liên hệ đồng hương liên kết những người chung nơi chôn nhau cắt rốn.  Cuối cùng là mối liên hệ họ hàng huyết tộc nảy sinh do sự đồng một dòng máu di truyền.  Ngoài ra còn có mối liên hệ đồng môn, đồng nghiệp, đồng chí, đồng cảnh ngộ và bạn kết nghĩa…

Trong các mối liên hệ ấy, mối liên hệ họ hàng huyết tộc là phổ biến nhất, cụ thể nhất, và xét trong lãnh vực tự nhiên thường là bền chặt nhất.  Thế mà, khi đề cập đến mối liên hệ này, Đức Giêsu đã đặt vấn đề: “Ai là mẹ, là anh em ta?”  Mẹ và anh em theo nghĩa thường thì một em bé còn bế ngửa cũng biết và cảm nhận được!  Sao Chúa lại hỏi vậy?  Ở đây, Đức Giêsu đang mạc khải một mối liên hệ, đối với Ngài, mật thiết nhất và bền vững vĩnh cửu mà mối liên hệ máu huyết đứng bên sẽ trở nên quá nhỏ bé.  Đó là mối liên hệ họ hàng thiêng liêng phát sinh do đức Tin, phát triển nhờ đức Ái, và kiên trì nhờ đức Cậy trông.  Chất lượng của mối dây liên kết họ hàng thiêng liêng này hệ tại mức độ của sự thực hành lời Chúa.  Một người con càng thương cha mẹ thì càng dễ vâng lời, và càng vâng lời thì tình nghĩa con cái với cha mẹ càng thêm chất lượng.  Cũng vậy, một người chỉ thực sự là con cái Chúa khi biết đón nhận thánh ý Chúa và càng thực thi thánh ý Chúa thì tình nghĩa với Chúa càng thêm chất lượng.  Đức Giêsu gọi người đó là mẹ và là anh em của Ngài.

Khi Đức Giêsu đưa tiêu chuẩn xác định họ hàng dựa trên việc biết nghe và thực hành lời Chúa thì đồng thời Ngài cũng mặc nhiên cảnh báo có những trường hợp ngỡ là gần Chúa mà thật ra lại xa Ngài vời vợi.  Quả thế, những người có họ hàng máu huyết với Chúa, biết rõ về Chúa, gặp gỡ Chúa thường xuyên nhưng không bước theo Chúa bằng việc thực thi đường lối Chúa chỉ dạy vẫn mãi mãi là kẻ xa lạ với Chúa.

Cuộc đời Đức Giêsu diễn tả cho ta thấy một Thiên Chúa mê say con người: Ngài quên ăn quên nghỉ vì phần rỗi anh em (x. Ga 4, 5-34); Ngài nỗ lực đẩy lui Satan, không để cho ma quỷ tác oai tác quái nơi thế giới con người như kẻ “múa gậy vườn hoang.”  Ai không đồng cảm với Chúa, không cùng Ngài trên một chiến tuyến chống lại Satan bằng việc nói không với Satan và nói có với Ngài trong đời sống… người đó luôn là kẻ xa lạ, thậm chí chống lại Ngài dù bề ngoài xem ra họ rất gần Ngài.  Kết cục, có lắm người phải ngã ngửa khi nghe Ngài kết luận: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!”  Trong số đó có người là đồng hương, quá gần gũi với Chúa và có cả những kinh sư, luật sĩ, những người vẫn mang danh là chuyên viên trong đạo.

Phá vỡ họ hàng thiêng liêng

Nếu vâng nghe lời Chúa giúp ta nên họ hàng nghĩa thiết với Chúa thì ngược lại, bất tuân lệnh là biến mình thành kẻ xa lạ với Ngài.  Sự bất tuân khởi đi bằng sự thiếu tín nhiệm.  Adam – Evà trước khi giơ tay hái quả cấm thì trong lòng đã dấy lên sự không tin Chúa tốt lành (x St 3, 1-6).  Anh em họ hàng của Chúa trước khi đi bắt Chúa thì lòng họ đã không tin việc Chúa làm là bình thường, là khôn ngoan.  Chỉ có lòng tín nhiệm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa mới giữ con người sống trong đạo lý Chúa.  Mất tín nhiệm đồng nghĩa với khởi sự phản bội.  Không trung thành với đường lối Chúa biến người ta đang là kẻ nghĩa thiết họ hàng với Chúa thành kẻ xa lạ, và hơn nữa thành kẻ thù của Tình Yêu.  Adam – Evà sau khi trái lệnh Chúa, đã đánh mất tình thân với Chúa, chẳng còn cảnh ngày ngày gặp Chúa đàm đạo thân tình nữa (x. St 3, 8-10).

Thiếu lòng tin vững chắc vào sự sống đời sau dễ làm cho ta trái ý Chúa ở đời này.  Đúng vậy, mọi lỗi phạm thường do ta thiển cận, chỉ thấy cái được trước mắt mà không thấy cái mất lớn lao đằng sau.  Người ta sẵn sàng chịu thương chịu khó để hy vọng được mùa lúa bội thu; người ta chấp nhận khổ luyện để hy vọng chiến thắng.  Cũng vậy, khi đã xác tín vào phần thưởng phục sinh vinh quang vô tận Chúa dành cho kẻ nghĩa thiết với Chúa thì bằng mọi giá ta sẽ duy trì mối liên hệ họ hàng với Chúa.  Mọi sự từ bỏ ở đời này để vâng ý Chúa sẽ là chuyện nhỏ khi ta đã thấy được vinh quang lớn lao mai sau.

Howard kelly là một nhà sinh vật học nổi tiếng kiêm bác sĩ.  Lần kia, sau một ngày nghiên cứu, ông đến một nhà nghèo xin nước uống.  Một bé gái xuất hiện và ân cần biếu ông một ly sữa tươi mát.  Ông cám ơn và mong có dịp đền ơn bé.  Ít lâu sau, mẹ bé đau nặng, người ta chuyển mẹ bé tới một bệnh viện trên thành phố.  Cuối cùng bà khỏi bệnh nhưng không biết lấy tiền đâu để trả viện phí.  Như một phép lạ, bác sĩ chữa bệnh xuất hiện trên tay cầm phong bì bên trong viết: Viện phí đã được thanh toán để trả ơn một ly sữa.  Ký tên – Bác sĩ Kelly.

Hy sinh cả đời thì có đáng gì so với vinh hạnh được là họ hàng của Chúa.

Trích Logos B

CẦU NGUYỆN BẰNG THÁNH VỊNH

Trong thánh vịnh, Thiên Chúa cư xử theo những cách mà Ngài không được phép cư xử trong thần học.

Câu này của cố thần học gia Sebastian Moore nên được nêu bật trong thời đại mà ngày càng ít người muốn dùng thánh vịnh để cầu nguyện, vì họ cảm thấy bị xúc phạm với nhiều điều thỉnh thoảng họ gặp phải trong thánh vịnh.  Ngày càng có nhiều người phản đối dùng thánh vịnh như một cách cầu nguyện (hoặc họ muốn thanh lọc thánh vịnh), vì các thánh vịnh nói về giết người, báo thù, thịnh nộ, bạo lực, gây chiến và trọng nam khinh nữ.

Một số người nói làm sao họ có thể cầu nguyện với những lời đầy hận thù, thịnh nộ, bạo lực, nói về vinh quang của chiến tranh, về tiêu diệt kẻ thù nhân danh Thiên Chúa?  Một số khác thì phản đối tính trọng nam khinh nữ trong các thánh vịnh, khi thần thánh là nam và người nam được tôn sùng quá đáng.  Số khác lại thấy khó chịu về mặt thẩm mỹ.  Họ phản đối: “Đây là những vần thơ dở!”

Có lẽ các thánh vịnh không phải là thi ca tuyệt mỹ và chắc chắn là thoang thoảng có bạo lực, chiến tranh, thù hận, mong muốn báo thù, tất cả đều nhân danh Thiên Chúa.  Phải thừa nhận, nó cũng có tính chất trọng nam khinh nữ.  Nhưng những điều này làm cho thánh vịnh có một cách diễn đạt xấu để cầu nguyện sao?  Tôi xin phép được đưa ra một vài điểm ngược lại.

Một trong những định nghĩa kinh điển về cầu nguyện là “nâng tâm trí và tâm hồn lên cùng Thiên Chúa.”  Đơn giản, rõ ràng, chính xác.  Tôi cho rằng vấn đề thật sự, chính là những lúc cầu nguyện, chúng ta hiếm khi thực sự làm vậy.  Thay vì dâng lên Thiên Chúa những gì thực sự ở trong tâm trí và tâm hồn, thì chúng ta lại có khuynh hướng xem Thiên Chúa là người mà chúng ta cần giấu diếm chân tướng sự thật của những suy nghĩ và cảm giác trong mình.  Thay vì dốc trọn tâm trí và tâm hồn, chúng ta lại thưa với Chúa những gì chúng ta nghĩ là Ngài muốn nghe, những gì không phải là suy nghĩ muốn giết người, khao khát báo thù hay sự thất vọng về Thiên Chúa.

Nhưng, bày tỏ những cảm giác đó mới là điều quan trọng.  Điều khiến cho các thánh vịnh đặc biệt thích hợp cho việc cầu nguyện, chính là vì các thánh vịnh không giấu diếm sự thật với Thiên Chúa, mà lại bày tỏ toàn bộ cảm giác thực sự của con người chúng ta.  Thánh vịnh là tiếng nói thành thật về những gì đang diễn ra trong tâm trí và tâm hồn chúng ta.

Đôi khi chúng ta cảm thấy tốt đẹp và bộc phát muốn nói ra những lời tôn vinh và cảm tạ, thì thánh vịnh cho chúng ta những lời đó.  Những lời này nói về sự tốt lành của Thiên Chúa trong mọi sự, là tình yêu, tình bạn, đức tin, sức khỏe, thức ăn, rượu, và vui hưởng.  Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng cảm nhận như thế.  Cuộc sống có những lúc cô đơn, lạnh lẽo, thất vọng, cay đắng âm ỉ hoặc bạo phát.  Các thánh vịnh cho chúng ta lời thành thật để có thể mở lòng về những cảm giác âm ỉ này với Thiên Chúa.  Cũng vậy, có những lúc chúng ta cảm thấy mình bất xứng, không xứng với sự tin tưởng và yêu thương mình được ban cho.  Và thánh vịnh cũng cho chúng ta lời để nói ra, xin Thiên Chúa thương xót và làm mềm trái tim chúng ta, rửa sạch chúng ta và cho chúng ta một khởi đầu mới.

Cũng vậy, có những lúc chúng ta cảm thấy thất vọng cay đắng với Thiên Chúa, và cần cách để bày tỏ.  Thánh vịnh cho chúng ta lời để nói ra (“Vì sao Ngài im lặng?”, “Vì sao Ngài quá xa con?”), cho chúng ta ý thức Thiên Chúa không sợ những giận dữ, cay đắng của chúng ta, mà như người cha người mẹ đầy yêu thương, Ngài chỉ muốn chúng ta đến và kể với Ngài những chuyện này.  Các thánh vịnh là những phương tiện đầy ơn ích cho việc cầu nguyện, vì chúng nâng lên những suy nghĩ và cảm giác khác nhau của chúng ta lên Thiên Chúa.

Tuy nhiên, có những lý do làm chúng ta thấy khó khăn với thánh vịnh.  Trước hết, thời đại chúng ta thường gạt bỏ ẩn dụ và thích hiểu theo nghĩa đen, một vài hình ảnh trong thánh vịnh lại chướng tai gai mắt.  Thứ hai, chúng ta có khuynh hướng chối bỏ cảm thức thực sự của mình.  Thật khó để thừa nhận những cảm giác mà đôi khi chúng ta đều có, là tự đại, ám ảnh tình dục, ghen tương, cay đắng, hoang tưởng, muốn giết người, thất vọng với Thiên Chúa, hoài nghi trong đức tin.  Những lời cầu nguyện của chúng ta quá thường đi ngược lại những suy nghĩ và cảm giác thật của mình.  Chúng ta cầu nguyện những điều mà chúng ta nghĩ là Thiên Chúa muốn nghe.  Thánh vịnh thì trung thực hơn.

Cầu nguyện với sự trung thực tuyệt đối là một thách thức.  Tác giả Kathleen Norris nói như sau: “Nếu cầu nguyện đều đặn, thì không thể nào cầu nguyện cho chuẩn được.  Đâu phải lúc nào chúng ta cũng ngồi thẳng thớm, càng không thể lúc nào chúng ta cũng có những suy nghĩ thánh thiện.  Khi cầu nguyện, chúng ta đâu thể lúc nào cũng mặc bộ đồ đẹp nhất, thường là mặc những bộ đồ đủ sạch sẽ.  Chúng ta đọc quyển sách chúc tụng của Kinh Thánh thông qua mọi tâm trạng và tình trạng cuộc sống.  Những lúc thấy thảm thê tột độ, chúng ta vẫn hát.  Ngạc nhiên thay, thánh vịnh lại không phủ nhận những cảm giác thật của ta, mà lại cho chúng ta được phản chiếu nó, ngay trước mặt Thiên Chúa và mọi người.”  Những câu cách ngôn tạo cảm giác tốt đẹp thể hiện cảm giác chúng ta nên có, chúng không thể nào thay thế được tính thực tế đời thực của các thánh vịnh bày tỏ những cảm giác thật mà đôi khi chúng ta có.  Bất kỳ ai nâng tâm trí và tâm hồn lên Thiên Chúa mà không bao giờ nói đến những cảm giác cay đắng, ghen tương, thù hận, ghét bỏ, và chiến tranh, thì nên làm người soạn những câu bắt tai để viết thiệp, chứ đừng đi làm cố vấn tâm linh cho bất kỳ ai.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

BỐN PHÉP LẠ THÁNH THỂ MỚI

Mặc dù đã có rất nhiều phép lạ Thánh Thể từ thời Trung Cổ, nhiều phép lạ đã xảy ra trong thế kỷ trước, với một số phép lạ đã được xác nhận trong 20 năm qua.  Các phép lạ này là bằng chứng sống động cho giáo lý của Giáo Hội Công giáo rằng mặc dù hình dạng của bánh và rượu vẫn còn, nhưng bản chất đã được thay đổi hoàn toàn (nhờ quyền năng của Thiên Chúa) thành Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô.  Đó là giáo huấn dựa trên Kinh Thánh và Thánh Truyền vẫn không thay đổi về bản chất từ thời các tông đồ.

Ngoài ra, Giáo Hội đã công nhận rằng đôi khi Thiên Chúa can thiệp theo cách hữu hình hơn và có thể thay đổi ngay cả hình dạng của bánh rượu thành Mình Máu Ngài.  Hoặc Thiên Chúa có thể bảo quản tấm bánh đã thánh hóa một cách kỳ diệu trong một khoảng thời gian dài, vượt qua những gì tự nhiên đối với bánh.

1. TẠI LEGNICA – BA LAN

Năm 2013, Đức Giám Mục Zbigniew Kiernikowski, giáo phận Legnica, cho biết: “Ngày 25-12-2013, khi đang cho rước lễ, một Bánh Thánh rơi xuống, sau đó được cầm lên và đặt vào một bình nước.  Ngay sau đó, các vết màu đỏ xuất hiện.  Đức Giám Mục Stefan Cichy, giáo phận Legnica, đã thành lập một ủy ban để nghiên cứu hiện tượng này.  Tháng 02-2014, một mảnh nhỏ màu đỏ của Bánh Thánh được tách ra và đặt trên khăn thánh.  Ủy ban đã lấy mẫu để tiến hành các cuộc kiểm tra kỹ lưỡng của các viện nghiên cứu thích hợp.”

Sau khi điều tra, Bộ phận Pháp y cho biết: “Trong hình ảnh mô bệnh học, các mô đã được tìm thấy có chứa các phần cơ có vân chéo. (…) Toàn bộ (…) rất giống cơ tim với những thay đổi thường xuất hiện trong cơn hấp hối . Các nghiên cứu di truyền chỉ ra nguồn gốc con người của mô.”

2. TẠI SOKÓŁKA – BA LAN

Trong Thánh Lễ Chúa Nhật 12-10-2008, tại nhà thờ giáo xứ Thánh Antôn ở Sokolka, một Bánh Thánh đã rơi khỏi tay linh mục khi đang cho rước lễ.  Linh mục ngừng cho rước lễ, cúi xuống cầm Bánh Thánh lên, rồi đặt Bánh Thánh vào một bình nước nhỏ.  Bình thường thì Bánh Thánh sẽ tan trong nước, sau đó sẽ được xử lý đúng quy cách phụng vụ.

Sau Thánh Lễ, theo lời yêu cầu của cha xứ Stanislaw Gniedziejko, sơ Julia Dubowska đã đổ nước và Bánh Thánh vào một bình chứa khác.

Một tuần sau, vào ngày 19-10-2008, sơ Julia thấy có mùi thơm dịu dàng của bánh không men.  Khi mở hộp đựng, sơ nhìn thấy ở giữa Bánh Thánh – phần lớn còn nguyên vẹn – có một vết cong màu đỏ tươi, giống như vết máu: một phân tử sống của cơ thể.  Nước không bị loang màu sắc.

Một phần của Bánh Thánh đã thay đổi và được lấy để phân tích riêng bởi hai chuyên gia, giáo sư Maria Sobaniec-Lotowska và giáo sư Stanislaw Sulkowski, để đảm bảo độ tin cậy của kết quả.

Kết quả của cả hai nghiên cứu độc lập đều hoàn toàn phù hợp.  Họ kết luận rằng cấu trúc của Bánh Thánh đã biến đổi giống hệt với mô cơ tim của một người sắp chết.  Theo giáo sư Maria Sobaniec-Lotowska, cấu trúc của các sợi cơ tim liên kết chặt chẽ với cấu trúc của bánh, theo cách mà con người không thể làm được.

3. TẠI TIXTLA – MEXICO

Ngày 21-10-2006, trong một cuộc tĩnh tâm của giáo xứ, một Bánh Thánh sắp được trao đã tiết ra chất màu đỏ.  Đức Giám Mục Alejo Zavala Castro đã triệu tập một ủy ban thần học điều tra để xác định xem đó có là một phép lạ hay không.  Tháng 10-2009, ngài đã mời tiến sĩ Ricardo Castañón Gómez tiến hành nghiên cứu khoa học với một nhóm các khoa học gia và xác minh tính chất kỳ diệu của sự việc.  Tiến sĩ Gómez đã hoàn thành cuộc điều tra.

Nghiên cứu khoa học được thực hiện từ tháng 10-2009 đến tháng 10-2012, với nhận định này: “Chất màu đỏ được phân tích tương ứng với máu, trong đó chứa Hemoglobin và DNA có nguồn gốc từ con người.  Hai nghiên cứu được thực hiện bởi các chuyên gia pháp y lỗi lạc với các phương pháp luận khác nhau đã cho thấy rằng chất này có nguồn gốc từ bên trong, loại trừ giả thuyết rằng ai đó có thể đã đặt nó từ bên ngoài.  Đó là loại máu AB, giống như máu ở Khăn Liệm Turin.  Một phân tích hiển vi về độ phóng đại và độ xuyên thấu cho thấy phần trên của máu đã đông lại từ tháng 10-2006.  Hơn nữa, tháng 02-2010, các lớp bên trong cho thấy sự hiện diện của máu tươi.

4. TẠI CHIRATTAKONAM – ẤN ĐỘ

Ngày 28-04-2001, tại nhà thờ giáo xứ Đức Mẹ Chirattakonam, cha xứ nhận thấy một hình ảnh kỳ lạ xuất hiện trên một Bánh Thánh, và ngài đã ghi lại chính xác những gì xảy ra.

Lúc 8 giờ 49 sáng, tôi đã đặt Mình Thánh để mọi người tôn thờ.  Một lúc sau, tôi thấy như có ba chấm trên Thánh Thể.  Tôi ngừng cầu nguyện và bắt đầu nhìn vào Mặt Nhật, cũng mời các tín hữu chiêm ngưỡng dấu ba chấm.  Sau đó, tôi mời các tín hữu tiếp tục cầu nguyện và đóng cửa Nhà Tạm…  Sáng thứ Bảy, 05-05-2001, tôi mở cửa nhà thờ để cử hành phụng vụ bình thường.  Tôi đến mở cửa Nhà Tạm để xem điều gì đã xảy ra với Thánh Thể trong Mặt Nhật.  Tôi thấy ngay trong Bánh Thánh có một hình tượng giống như mặt người.  Tôi vô cùng xúc động và yêu cầu các tín hữu quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện.  Tôi nghĩ chỉ mình tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt, vì vậy tôi đã hỏi người giúp lễ xem có thấy gì ở Mặt Nhật hay không.  Người giúp lễ trả lời: “Con nhìn thấy bóng dáng một người đàn ông.”

Cuối cùng, hình ảnh trở nên rõ ràng hơn và là một người giống như Chúa Giêsu Kitô đội vòng gai.  Hình ảnh kỳ diệu đã được Tổng Giám Mục Beatitude Cyril Mar Baselice, tổng giáo phận Trivandrum, điều tra.  Mặt Nhật với Bánh Thánh vẫn được lưu giữ trong nhà thờ cho đến ngày nay.

Philip KosloskiTrầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ Aleteia.org)

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã làm cho thế giới nên rực rỡ
với sự hiện diện huy hoàng của Chúa.
Chúa ôm trọn phận người chúng con
để chúng con có thể chia sẻ thiên tính của Chúa.
Chúa mạc khải chính Chúa cho chúng con
qua Bánh Hằng Sống bởi trời.

 Xin chia sẻ ánh sáng thần linh của Chúa cho con
để con có thể thấy Chúa trong Thánh Thể.
Xin tuôn đổ vào tim con lòng tôn kính và ngỡ ngàng
về quà tặng Mình và Máu của Chúa.
Nhờ mầu nhiệm Thánh Thể
Xin liên kết trái tim chúng con với Chúa
để chúng con trở nên mối hiệp thông cho thế giới
và được sống với Chúa đến muôn đời.  Amen!

HÃY NHẬN LẤY MÀ ĂN!

Trước tình trạng giảm sút người tham dự Thánh lễ tại Hoa Kỳ, nhất là từ sau đại dịch Covid-19, Hội đồng Giám mục nước này đang thực hiện một phong trào được gọi là “Phục hưng Thánh Thể,” với mục đích mời gọi các tín hữu hãy trở lại với truyền thống yêu mến Thánh Thể của Giáo hội.  Phong trào này kéo dài trong 3 năm, bắt đầu từ ngày 19/6/2022.  Và đỉnh cao của cuộc phục hưng là Đại hội Thánh Thể Toàn quốc sẽ diễn ra ở Indianapolis từ ngày 17 đến 21/7/2024.

Với cuộc phục hưng này, các vị chủ chăn của Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ muốn khẳng định: các cuộc khủng hoảng đức tin, gia đình, luân lý, xã hội của thời đại này chỉ có thể chữa lành bằng phương thuốc thiêng liêng là bí tích Thánh Thể.  Quả vậy, một thế giới phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa, sẽ tự hủy diệt và biến thành bãi chiến trường, bạo lực sẽ tràn lan.  Bí tích Thánh Thể được gọi là “Bí tích cực trọng,” vì Chúa Giê-su thực sự hiện diện trong bí tích này.  Đó không chỉ là sự hiện diện thụ động khô khan, mà Chúa còn trở nên của ăn của uống cho các tín hữu.  Đến với bí tích Thánh Thể sẽ giúp chúng ta gặp gỡ Chúa, nhờ đó những tổn thương được phục hồi và những khiếm khuyết nơi con người sẽ được nâng đỡ.

Cùng với phong trào “Phục hưng Thánh Thể,” Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ mời gọi mỗi tín hữu hãy mời một người trở lại nhà thờ.  Những người này đã lâu không còn tham dự Thánh lễ và không sinh hoạt với cộng đoàn.  Việc làm này thể hiện ý nghĩa của bí tích Thánh Thể, là Bí tích của tình hiệp thông – hiệp thông với Chúa và với anh chị em.  Sáng kiến phục hưng đức tin và lòng yêu mến Thánh Thể sẽ bao gồm việc phát triển các tài liệu giảng dạy mới, đào tạo cho các lãnh đạo giáo phận và giáo xứ, ra mắt trang web dành riêng cho việc phục hồi lòng yêu mến Thánh Thể, và triển khai một nhóm đặc biệt gồm 50 linh mục, những vị sẽ đi khắp đất nước để rao giảng về bí tích Thánh Thể.

Tại Việt Nam chúng ta, các buổi cử hành Thánh Thể và Chầu Mình Thánh quy tụ rất đông tín hữu tham dự, đó là điều đáng mừng.  Tuy vậy, lòng yêu mến Thánh Thể nơi nhiều tín hữu vẫn chỉ đóng khung ở sinh hoạt cộng đoàn, khá ít người dành thời gian để cầu nguyện riêng và thinh lặng trước Thánh Thể.  Thiếu những giây phút cầu nguyện riêng trước Thánh Thể, người tín hữu khó có thể gặp gỡ thân tình cá vị với Đức Giê-su.  Phong trào “Phục hưng Thánh Thể” của Giáo hội Hoa Kỳ nhắc chúng ta cần sống mầu nhiệm Thánh Thể một cách rõ nét và hiệu quả hơn.

“Hãy nhận lấy mà ăn!”  Đây là lời của Chúa Giê-su, khi Người thiết lập bí tích Thánh Thể.  Đây không phải là một lời nói có ý nghĩa tượng trưng hay dùng hình ảnh so sánh.  Đức Giê-su hiến mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng đức tin của tín hữu.  Như người mẹ sẵn sàng hy sinh mọi sự cho con mình, Đức Giê-su để lại cho trần gian chính máu thịt mình.  Thánh Thể là bí tích yêu thương.  Nơi Thánh Thể, Chúa Giê-su hiện diện âm thầm khiêm tốn, để gặp gỡ và lắng nghe những nỗi niềm của nhân thế.  Ngài cùng đi với con người trong mọi nẻo đường của cuộc sống còn nhiều thử thách chông gai.

Qua các Bài đọc Lời Chúa của năm B, Phụng vụ dẫn chúng ta khởi đi từ lễ nghi Cựu ước đến lễ nghi của Tân ước.  Những gì đã được thực hiện trong thời Cựu ước, chỉ là hình bóng cho lễ nghi của Tân ước.  Thánh Phao-lô cũng đề cập tới so sánh này trong Bài đọc II.  Nếu trong Cựu ước, lễ dâng là máu bò máu dê, thì đến thời Tân ước, lễ dâng là chính máu của Chúa Giê-su, Con Chiên vẹn sạch.  Đức Giê-su là Chiên Vượt qua mới, gánh trên vai mình tội lỗi của muôn dân.  Người chịu phạt thay cho con người ở mọi thời đại.  Người là Của Lễ Toàn Thiêu, dâng hiến mình trên thập giá.  Nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su dạy chúng ta bài học hy sinh, sống vì hạnh phúc của tha nhân, khiêm tốn phục vụ và yêu thương mọi người.

“Hãy nhận lấy mà ăn!”  Chúa đang nói với chúng ta như đã nói với các môn đệ năm xưa.  Ăn Thịt Chúa và uống Máu Chúa là kết hợp mật thiết với Người, nhờ đó được chia sẻ sức sống siêu nhiên của Người.  Nhờ bí tích Thánh Thể, chúng ta được cải hóa tâm hồn và dần dần trở nên giống như Chúa, được ở trong Người, như lời Người nói: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy.”  Một khi được nuôi dưỡng bằng Thịt và Máu Chúa Giê-su, các tín hữu cũng được mời gọi sống hiệp thông hài hòa với anh chị em mình.  Thánh Phao-lô viết cho giáo dân Cô-rin-tô: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17).

Hãy đến với Chúa Giê-su Thánh Thể để tôn vinh tình yêu thương của Thiên Chúa.  Hãy năng nhận lãnh lương thực thiêng liêng để chúng ta được thần linh hóa và được nếm hưởng hạnh phúc Thiên đàng ngay khi còn sống nơi dương thế.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

TRIỀU THIÊN HOA HỒNG

PHI LỘ – Tháng Năm là Tháng Hoa Đức Mẹ – Mẹ Muôn Hoa.  Ngày sẽ hết, tháng sẽ qua, năm cũng sẽ chấm dứt, và rồi đời người cũng kết thúc.  Cuối Tháng Hoa này cũng là cuối tháng Năm của thời gian, nhưng Tháng Hoa tâm linh không chấm dứt, và mỗi giây phút của cuộc sống Kitô hữu vẫn mãi là Mùa Hoa bất tử dâng kính Mẹ Muôn Hoa.  Đó là hãy siêng năng lần Chuỗi Mai Côi dâng kính Đức Mẹ: mỗi Kinh Kính Mừng là một Đóa Hoa Hồng, một Chuỗi Mai Côi là một Triều Thiên Hoa Hồng.

Trong vương quốc của con người, triều thiên (vương miện) được làm bằng kim loại quý, là biểu tượng của uy quyền và thế lực.  Trong Vương quốc của Thiên Chúa, triều thiên hoàn toàn khác.  Triều thiên Nước Trời làm bằng cây và cành nho sống động mà Thiên Chúa chọn để bày tỏ quyền lực đích thực có cội rễ trên thế gian.  Nói cách khác, đó là sự khiêm nhường – có từ nguyên từ La ngữ là “humus,” nghĩa là “từ trái đất.

Triều thiên đầu tiên trong các triều thiên vĩ đại nhất được biểu hiện vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh với sự chịu nhục nhã của Chúa Giêsu.  Triều thiên thứ nhì được Mẹ Thiên Chúa biểu hiện, Thiên Chúa đã sai Đức Mẹ đến cho chúng ta biết cách thức bí mật và uy tín đến với Chúa Con.  Cách này liên quan triều thiên sống động – triều thiên được làm bằng loại hoa hoàn hảo, nhắc chúng ta nhớ tới nghịch lý của Kitô giáo (paradox of Christianity) – qua quá trình có cội rễ trên trái đất – tức là lòng khiêm nhường (humility), và được liên kết với nỗi đau khổ của Đức Kitô, để sinh hoa kết quả.  Loại hoa này là Hoa Hồng – nữ vương của các loài hoa – có những cánh hoa chỉ được nuôi dưỡng bằng thân cây có nhiều gai nhọn.

Như hoa hồng là nữ chúa của các loài hoa, Kinh Mai Côi (Mân Côi, Rosary nghĩa là Vòng Hoa Hồng) cũng là kinh của các lòng sùng kính.  Đó là kinh nguyện đơn sơ và khiêm nhường, và như lịch sử cho chúng ta biết, Kinh Mai Côi là một trong các kinh nguyện mạnh mẽ nhất mà Giáo Hội sử dụng trong cuộc chiến tâm linh.  Kinh Mai Côi có sức mạnh tạo thành các vị thánh lớn và là sức mạnh chiến thắng kẻ thù của Giáo Hội.  Kinh Mai Côi là kho báu, ngoài Phụng Vụ và các Bí Tích.  Đó là kinh nguyện của Trời được dành riêng cho Giáo Hội khi gian nan, nguy khốn.  Thiên Chúa cần Kinh Mai Côi, và chính Đức Mẹ cũng đã khuyên chúng ta phải cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi để thế giới khả dĩ bình an, khi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ tại Fatima năm 1917.  Đó là năm của cuộc Cách Mạng Tâm Linh, vì Đức Mẹ đã tỏ mình là “Đức Mẹ Mai Côi.

Tại sao lại quan trọng?  Đơn giản thôi, vì Kinh Mai Côi là lòng sùng kính hoàn hảo gồm ba kinh nguyện quan trọng nhất – Kinh Lạy Cha (chính Chúa Giêsu dạy), Kinh Kính Mừng (một nửa là lời Sứ thần Gáp-ri-en, một nửa là lời cầu của cả Giáo Hội), và Kinh Sáng Danh (cơ binh Thiên Thần hát mừng Thiên Chúa, sách Khải Huyền cho biết).  Linh hồn chúng ta được dành cho Thiên Chúa và phải chiến đấu với ma quỷ.  Vì thế, Kinh Mai Côi được Thiên Chúa trao cho chúng ta qua mặc khải của Ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ, như Kinh Thánh đã cho biết, và được Giáo Hội chuyển giao.  Qua Kinh Mai Côi, chúng ta sống Mầu Nhiệm Cứu Độ của Đức Kitô, liên kết với Đức Mẹ và hiệp nhất với Giáo Hội.  Miệng tụng, tay lần, chúng ta cùng nhau “đếm” hồng ân Thiên Chúa dành cho chúng ta.  Tóm lại, chúng ta liên kết trọn vẹn các thành phần của một Kitô hữu: thân thể, trí óc và linh hồn.  Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng Kinh Mai Côi là đường dẫn vào miền chiêm niệm sâu sắc: “Lý do quan trọng nhất để khuyến khích đọc Kinh Mai Côi vì Kinh Mai Côi là phương tiện hữu hiệu để các tín hữu chiêm niệm Mầu nhiệm Kitô giáo mà tôi đã đề xuất trong Tông thư Novo Millennio Ineunte (Khởi Đầu Thiên Niên Kỷ Mới) là cách tập luyện nên thánh: Điều cần trong đời sống Kitô hữu được phân biệt trong Nghệ thuật Cầu nguyện” (Tông thư Rosarium Virginis Mariae, số 5, ban hành ngày 16-10-2002).

Có những động lực thúc giục chúng ta cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi, vì Kinh Mai Côi có sức mạnh vô hạn.  Tại sao?  Mỗi khi lần Chuổi Mai Côi, ít nhất 50 lần chúng ta lặp đi lặp lại mầu nhiệm đặc biệt nhất trong lịch sử: Con Thiên Chúa hóa thành nhục thể, Thiên-Chúa-làm-người.

Điều chúng ta cần làm là xem lại lịch sử Giáo Hội và xem vai trò của Kinh Mai Côi quan trọng thế nào trong việc thay đổi lịch sử thế giới.  Bắt đầu từ thế kỷ XIII, Thánh Đa-minh được trao Chuỗi Mai Côi để làm phương tiện chống lại tà thuyết An-bi (*).  Thánh Đa-minh cầu nguyện và rao giảng Kinh Mai Côi, Đức Mẹ đã làm cho quân đội An-bi đã thất bại.  Thánh Louis de Montfort giải thích: “Kinh Mai Côi là ngọn giáo bằng lửa, được nối kết với Lời Chúa, tạo nên sức mạnh có thể hoán cải những tâm hồn chai lì…  Đây là bí mật mà Đức Mẹ đã dạy Thánh Đa-minh và Chân phước Alan để có thể hoán cải những người theo tà thuyết và các tội nhân” (Thánh Louis Marie-Grignion De Montfort, “Bí Mật Kinh Mân Côi”, đoạn 51).

Khi Hồi giáo đã lan tràn hầu như khắp Âu châu và họ nhắm vào Rôma, Đức Giáo Hoàng Piô V kêu gọi Hoàng đế lần Chuỗi Mai Côi xin chiến thắng hải quân của Hồi giáo đang tiến vào Ý quốc.  Tại chiến trận Lepanto nam 1571, quân đội Công giáo đã chiến thắng quân Hồi giáo, nhờ sự can thiệp siêu nhiên là Kinh Mai Côi, Đức Mẹ đã cứu Âu châu thoát hiểm họa là tà thuyết An-bi.  Đức Giáo Hoàng Clement XI ghi nhớ chiến thắng này nên thiết lập lễ “Đức Mẹ Chiến Thắng” vào ngày 7-10-1716, về sau được đổi tên là lễ “Đức Mẹ Mân Côi.

Không lâu sau đó, tại Fatima năm 1917, Đức Mẹ đã xác nhận là “Đức Mẹ Mân Côi” và công khai kêu gọi chúng ta đọc Kinh Mai Côi để cầu nguyện cho hòa bình.  Thật kỳ lạ, ngày 6-8-1945, tại Hiroshima (Nhật Bản), tám khối nhà cao lớn đã tan thành bình địa vì bom nguyên tử nhưng có 8 tu sĩ Dòng Tên sống sót.  Được hỏi tại sao không bị nhiễm chất phóng xạ mà còn sống, tu sĩ Hubert Schiffer cho biết: “Chúng tôi tin mình còn sống vì chúng tôi sống theo mệnh lệnh Fatima.  Chúng tôi sống và hằng ngày lần Chuỗi Mai Côi.

Chuỗi Mai Côi có sức mạnh như Đức Mẹ đã nói, có sức nối kết chúng ta với Mầu Nhiệm Cứu Độ và Sức Mạnh của Đức Kitô – Đấng là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14:6).  Vì thế, ma quỷ RẤT GHÉT và RẤT SỢ Kinh Mai Côi. Nó luôn tìm mọi cách ngăn cản chúng ta đọc Kinh Mai Côi, nhất là trong các gia đình.

Kinh Mai Côi là bản tóm lược của Kinh Thánh.  Tôi xin đề nghị các gia đình mấy điều: (1) Nếu quá bận rộn và khó cùng nhau đọc Kinh Mai Côi chung trong vòng 20 phút, hãy cùng nhau đọc “hai chục” vào buổi sáng và đọc “ba chục” vào buổi tối (sau khi ăn tối hoặc trước khi đi ngủ), (2) Theo kinh nghiệm cá nhân tôi, không có gì làm cho con cái bình an và chuẩn bị đi ngủ tốt hơn là đọc Kinh Mai Côi, (3) Điều quan trọng là hãy cố gắng suy niệm khi lần chuỗi, đừng đọc như vẹt hoặc đọc cho xong lần, (4) Hãy để một thành viên gia đình đọc một đoạn Kinh Thánh trước mỗi chục kinh, chúng ta cần Kinh Thánh giúp suy niệm.

Hãy cố gắng duy trì việc đọc Kinh Mai Côi chung trong gia đình.  Hãy nghĩ rằng chúng ta được nhiều ân sủng cho linh hồn mình và cho các thành viên gia đình.  Rất chí lý khi Giáo Hội dạy chúng ta cầu nguyện: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.  Phải chăng vì “thuộc lòng” nên chúng ta chỉ như máy móc, không nhận thấy ý nghĩa và cần thiết?  Đức Mẹ không bao giờ quên những gì chúng ta làm vì yêu mến Mẹ, dù chỉ là điều nhỏ.  Món quà thật tuyệt vời chúng ta dành cho nhau: Kinh Mai Côi!

Để tạm kết, tôi xin nhắc lại lời của nữ tu Lucia dos Santos – người lớn nhất trong ba trẻ được thấy Đức Mẹ tại Fatima, nhắc chúng ta nhớ rằng Kinh Mai Côi là vũ khí đơn giản mà hiệu quả trong việc chiến đấu với ma quỷ và mọi thử thách, ngay cả mối đe dọa của cái gọi là IS (Nhà nước Hồi giáo), như một loại thế chiến mới, mối đe dọa này nhằm làm suy sụp nền kinh tế toàn cầu, nhắm vào các thai nhi và gia đình.

Nữ tu Lucia nói: “Trong thời cuối cùng này, thời chúng ta đang sống, Đức Mẹ đã chỉ cho cách hiệu quả là đọc Kinh Mai Côi khi gặp bất cứ khó khăn gì, dù đời thường hoặc tâm linh, dù riêng hay chung,… Tất cả đều có thể giải quyết bằng Kinh Mai Côi.  Không có khó khăn nào mà chúng ta không thể giải quyết bằng Kinh Mai Côi” (Lm Augustín Fuentes phỏng vấn nữ tu Lucia dos Santos, 26-12-1957).

Ts Peter Howard (Giáo sư Thần Học tại Học Viện Đào Tạo Tâm Linh Avila)
Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ SpiritualDirection.com)

(*) Albigensianism: Phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác).

THÁNH MARIA MADALENA ĐỆ PAZZI (1566-1607)

Thánh Maria Madalena Pazzi sinh năm 1566 tại Florence.  Khi rửa tội Ngài được đặt tên là Catarina.  Ngay từ nhỏ, Ngài đã ham thích cầu nguyện và làm việc lành.  Muốn cho Ngài vui thích, cứ việc đọc cho Ngài nghe truyện các thánh hay là dẫn Ngài tới nhà thờ.

Lên 7 tuổi lòng thương người của Ngài đã tiến xa tới độ nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo.  Có dịp về miền quê, niềm vui chính của Ngài là tập họp trẻ em lại để dạy giáo lý cho chúng.  Một lần kia, khi mới bắt đầu dạy đạo cho một em bé con một nông dân, thì Ngài phải báo cho biết là phải trở về Florence.  Ngài đã buồn rầu đến độ không cầm được nước mắt, cha Ngài chỉ có thể an ủi Ngài bằng cách dẫn em bé ấy về để dạy cho xong.

Thánh nữ có lòng sùng kính phép Thánh thể một cách đặc biệt.  Lên 10 tuổi, tức là năm 1576, Ngài được rước lễ lần đầu.  Dịp này, Ngài đã khấn dâng mình trọn vẹn cho Chúa.  Năm 13 tuổi Ngài còn tự ý làm một mão gai để đội đầu mỗi khi đi ngủ để cảm thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.

Đến 16 tuổi, Catarina đã ao ước được gia nhập dòng Carmêlô.  Sau một thời gian luỡng lự, cuối cùng cha mẹ Ngài đã chấp nhận, Catarina vào dòng ngày 14 tháng 8 năm 1582 và ngày 30 tháng giêng năm 1583, được mặc áo dòng với danh hiệu Maria Madalena.  Cuộc đời Ngài là một phép lạ liên tục.  Một cơn bệnh xâu xé Ngài.  Có nữ tu hỏi thánh nữ xem bí mật nào đã giúp Ngài nhẫn nại chịu đựng như vậy, chỉ vào cây thánh giá Ngài trả lời: – Hãy xem điều Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc tôi.  Những ai nhớ tới những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng những đau khổ của mình lên Thiên Chúa, họ chỉ còn thấy êm ái đối với những gì mình phải chịu mà thôi.

Đau đớn vì bệnh hoạn, thánh nữ lại hay xuất thần.  Những yếu tố ấy đều góp phần xây dựng đời sống thánh thiện của Ngài.  Dù suốt năm năm liền kể từ tháng 6 năm 1585, Ngài đã phải trải qua một cuộc thử thách dữ dằn, Thiên Chúa cho Ngài thấy sự dữ đang diễn ra trong Giáo hội, những xúc phạm do hàng giáo sĩ và do các giám mục gây nên.  Các tu sĩ trong cộng đoàn vấp phạm vì những khuyến cáo Ngài trình lên Đức gíao hoàng và các đức giám mục để thực hiện cuộc canh tân.  Sự nghi ngờ của họ trở thành sự khinh bỉ, khi thánh nữ chịu cơn thử thách khủng khiếp này, là thấy mình bị Thiên Chúa bỏ rơi.  Thêm vào đó, Ngài còn bị cám dỗ trở nên kiêu căng thất vọng.

Dầu vậy, ý chí của Ngài bám chặt vào Chúa không ngơi, Ngài chỉ còn biết rên rỉ: – Tôi không hiểu mình có còn trí khôn nữa không.  Tôi không thấy mình còn có gì đáng kể ngoài một chút thiện chí là không bao giờ dám xúc phạm đến Thiên Chúa.

Nhưng nhìn lên thánh giá Ngài thêm phấn khởi: – Đừng chết, nhưng chớ gì được chịu đau khổ mãi.

Bị cám dỗ quá, Ngài gieo mình vào bụi gai, bình thường Ngài hãm mình kinh khủng và thường mặc áo nhặm.

Năm năm bão tố trôi qua nhằm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong khi hát kinh tạ ơn, Maria Madalena đã bỗng xuất thần và thưa với bề trên trong niềm vui mừng: – Bão tố qua rồi, xin hãy giúp con cảm tạ Chúa tạo thành khả ái.

Từ đây Ngài chỉ còn ước muốn vô cùng là được làm việc để tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn.  Ngài luôn tìm kết hiệp với thánh ý Chúa.  Thánh Thần đọc cho Ngài những ý tưởng thâm sâu và hai chị thơ ký đã ghi thành một pho sách được các người nhân đức và thông thái ở Ý chuẩn nhận.

Với nhiệt tình, Ngài đã nguyện hy sinh không muốn biết đến một sự dịu ngọt nào nữa.  Khi làm phó bề trên, Ngài bị tật bệnh dày vò lại còn mất ơn an ủi, cha linh hướng tìm cách an ủi, nhưng Ngài nói:

– Không, đó không phải là thứ an ủi con tìm kiếm. Con chỉ ước mong được đau khổ đến lúc cuối đời.

Khi sắp từ trần thánh nữ nói:

– Tôi sắp từ giã mà không hiểu tại sao một thụ tạo lại quyết tâm phạm tội chống lại Chúa tạo thành được.

Với các nữ tu vây quanh, Ngài nói những lời sau cùng:

– Tôi sắp từ giã các chị để đi vào vĩnh cửu, tôi xin các chị như là một ân huệ cuối cùng là chỉ yêu mến một mình Chúa, đặt trọn niềm hy vọng nơi Ngài và chịu đựng tất cả vì tình yêu Ngài.

Thánh nữ từ trần ngày 25 tháng 5 năm 1607.  Thân xác Ngài vẫn còn nguyên vẹn cho tới ngày nay.

Sưu tầm

TÌNH YÊU DIỆU VỜI

Một sinh viên vô thần nói với một vị linh mục: thưa cha, tôi thấy trong Kitô giáo có một chân lý khó tin, lạ lùng gọi là “mầu nhiệm Ba Ngôi.  Phải hiểu thế nào kiểu nói “Thiên Chúa có một bản tính nhưng ba ngôi vị?  Một mà ba, ba mà một!  Thật khó hiểu, nếu không nói là phi lý!

Vị linh mục hỏi: Anh còn trẻ, chắc đang sống kinh nghiệm tình yêu?

Ủa!  Sao cha hỏi lại thế ?  Đúng là tôi đang yêu thật!

Theo anh, tình yêu trước hết đòi hỏi phải có những gì?

Đòi hỏi phải có từ hai người trở lên!  Tự ái chỉ là ích kỷ, không thể gọi là tình yêu được!

Đúng lắm!  Nhưng tình yêu hướng đến cái gì?

Hướng đến sự hiệp nhất!  Tất cả phải nên một!  Tình yêu nam nữ hướng đến hiệp nhất tâm hồn, thể xác và cuộc sống.  Tình đồng chí, tình bằng hữu… hướng đến hiệp nhất cuộc sống và tâm hồn!

Nhưng theo anh, sự hiệp nhất này có bao giờ đạt được chăng?

Phải nói ngay đó chỉ là ước vọng.  Ví dụ, những năm đầu cuộc sống hôn nhân thì “anh nói em nghe, em nói anh nghe,” nhưng năm sau thì “cả hai cùng nói, hàng xóm nghe!”  Trong một tập thể nhiều người, đồng tâm nhất trí lại càng khó thực hiện.

Cái chỉ là ước vọng nơi con người, thì đã thành hiện thực nơi Thiên Chúa.  Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa độc nhất, nhưng vì Ngài là Tình Yêu nên có Ba Ngôi.  Ngài là Ba Ngôi, nhưng vì là Tình Yêu, nên đã hợp nhất thành một Thiên Chúa.

Cho tôi hỏi câu cuối cùng: Tại sao là ba mà không phải là hai, như trong tình yêu nam nữ?

Sau này có gia đình, anh và vợ chỉ yêu nhau mà không muốn có con, sợ thêm hy sinh, thêm trách nhiệm, tình yêu anh chị có chân thật và bền vững không?

Thưa không!  Tình yêu chúng tôi phải chảy tràn qua và thể hiện thành một đứa con, ít nhất một đứa; nếu không thì chỉ là tình yêu mình trong người bạn đời của mình.  Ngoài ra, tình yêu ấy còn phải trải rộng cho mọi người chung quanh nữa!

Anh bạn thân mến, anh sắp hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rồi.  Nhưng đừng áp dụng quá sít sao đấy nhé!

Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu.  Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau :

Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.

Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất.  Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa.  Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.  Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa.  Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất.  Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định:  Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu.  Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta.”

Kinh thánh mạc khải cho biết “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).  Mà nếu Chúa là tình yêu, thì tình yêu không thể hiện hữu một mình.  Yêu là phải cho đi, phải san sẻ; và yêu cũng phải là đón nhận.  Thánh Augustinô đã ví Chúa Cha là nguồn mạch, là điểm phát xuất của Tình Yêu; Chúa Con là hội tụ, là điểm quy chiếu của tình yêu; và Chúa Thánh Thần là sự liên lạc hai chiều, là mối dây liên kết của tình yêu.

Tình yêu xuất phát từ Chúa Cha, đến với Chúa Con, qua Chuá Thánh Thần.  Trong mầu nhiệm tình yêu, Cha trao tất cả cho Con; Con dâng hiến tất cả cho Cha; và Thánh Thần là sự hiệp thông của trao ban và lãnh nhận hai chiều giữa Chúa Cha và Chúa Con.  Chúa Cha không hiện hữu cho chính mình, nhưng cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Cũng vậy, Chúa Con không hiện hữu cho mình, nhưng cho Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.  Và Chúa Thánh Thần cũng hiện hữu vì Chúa Cha và Chúa Con.

Qua con người và cuộc đời của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, chúng ta cảm nhận rằng Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ, giàu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung.  Thiên Chúa không là gì khác ngoài Tình Yêu.  Ngài có thể làm tất cả vì Ngài Toàn Năng, nhưng đúng hơn, Ngài chỉ có thể làm những gì mà tình yêu có thể làm, và Ngài không thể làm những gì trái với tình yêu, vì bản chất của Ngài là yêu thương.

Không ai lý giải cặn kẽ được tình yêu nhưng vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài nên cứ nhìn vào tấm gương tình yêu phản chiếu nơi con người, ta có thể bập bẹ đôi điều về Thiên Chúa:

1) Yêu là ra khỏi mình để hướng tới người khác:

Nói đến yêu là chúng ta nói đến người thứ hai, thứ ba, là nói đến một đối tượng khác với chúng ta.  Nếu Thiên Chúa là Tình Yêu mà Ngài chỉ yêu một thân mình Ngài thì đó là ích kỷ, và như vậy không phải là Thiên Chúa của tình yêu.  Nếu “Thiên Chúa là Tình Yêu” thì Thiên Chúa ấy không cô độc một mình.  Từ đời đời Ngài đã hướng về Chúa Con, đã yêu thương Chúa Con bằng Tình Yêu khôn tả là chính Chúa Thánh Thần.

2) Yêu là chấp nhận sự khác biệt của nhau:

Nếu chúng ta chỉ yêu cái gì giống mình, cái gì hợp với sở thích của mình, chỉ yêu những người tốt bụng thì không phải là yêu người mà chỉ là yêu mình, là chúng ta đã bóp chết tình yêu, không làm nảy nở tình yêu.  Yêu thương là chấp nhận cái hay lẫn cái dở, sự giàu có lẫn sự nghèo nàn của người mình yêu vì họ khác với mình.  Chúa Cha yêu Chúa Con, nghĩa là Chúa Cha khác với Chúa Con.  Chúa Con phải là một Ngôi Vị khác với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa mới là Tình Yêu.

3) Yêu nhau là muốn nên một với nhau:

Càng yêu nhau thì càng hài hòa trong chính sự khác biệt, vì “yêu nhau củ ấu cũng tròn.”  Chúng ta vẫn thường nói về tình yêu vợ chồng: “Ta với mình tuy hai mà một.”  Bản chất con người là giới hạn nên sự hiệp nhất của con người không toàn vẹn, song quyền năng vô hạn của Thiên Chúa làm cho sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là trọn vẹn tuyệt đối.  Chúa Cha và Chúa Con yêu nhau hết mình, yêu đến quên mình nên đã trở nên một trong Tình Yêu là Chúa Thánh Thần.

Như thế chỉ trong tình yêu, chúng ta mới dễ hiểu: tự bản chất, Thiên Chúa không thể là một ngôi vị đơn độc; và rằng chỉ trong tình yêu ‘chín bỏ làm mười,’ chúng ta mới hiểu được Thiên Chúa vừa là ba, lại vừa là một.

Chúng ta có thể quan niệm mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như một gia đình: Gia Đình Thiên Chúa.  Gia đình tuy có ba thành phần khác nhau, song luôn luôn hiệp nhất với nhau.  Yếu tố nòng cốt để có sự hiệp nhất trong gia đình chính là tình yêu, và tình yêu làm nên hạnh phúc, mà bản chất của Thiên Chúa lại là Tình yêu.  Chúng ta cũng thuộc về Gia Đình Thiên Chúa khi sống yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta.  Thực vậy, sống yêu thương là sống ở trong Thiên Chúa; và đó là Nước Trời, vì “ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8).  Gia đình yêu thương là làm cho hạnh phúc ngắn hạn của trần gian này được biến đổi trở thành hạnh phúc vĩnh cửu trong Gia Đình Thiên Chúa (x. Mầu nhiệm Ba ngôi, Giáo lý GP Đà lạt).

Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau.  Ba Ngôi là một gia đình.  Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa.  Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau.  Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo.  Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin.  Thực tại Ba Ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý.  Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.

Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ.  Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.  Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.  Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài.  Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực.  Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô, khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.

Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống, đó là tình yêu thần linh.  Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ.  Với chúng ta, sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua Thánh Thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,34).  Khi chia sẻ chén hiệp thông của Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một (Ga 17,21).

Người tín hữu đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa.  Đức Hồng y Henry de Lubac diễn tả: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương.  Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng.  Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.  Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương.  Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa.  Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa.  Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn và đau khổ.  Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.

Qua phép rửa nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, chúng ta trở thành nghĩa tử của Chúa Cha (x.Rm 8,15), em của Chúa Con (x.Rm 8,29) và đền thờ của Thánh Thần (x.1Cr 6,19), hợp thành Giáo Hội là “dân thánh được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi” (Hiến chế GH 4).  Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa.  Thiên Chúa là tình yêu.  Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương.  Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.  Trong gia đình, cha mẹ, con cái yêu thương nhau thì càng hiệp nhất nên một.  Tình yêu là dây liên kết mọi người nên một gia đình hạnh phúc ấm êm.  Gia đình là nơi sống và diễn tả huyền nhiệm Ba Ngôi rõ nét nhất.

Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu.  Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”  Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, sống tình yêu thương trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

THÁNH NHÂN HAY TỘI NHÂN?

Cuối cùng, chúng ta là thánh nhân hay tội nhân?  Tận sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta là lòng tốt hay ích kỷ?  Hay chúng ta là người hai mặt, với hai nguyên lý bẩm sinh, một tốt một xấu, luôn luôn đối nghịch nhau?

Chắc chắn, trong kinh nghiệm của mình, chúng ta cảm nhận có một xung đột.  Có một thánh nhân trong chúng ta muốn noi gương những gì cao cả của cuộc sống, và cũng có một cái tôi khác trong chúng ta lại muốn đi trên con đường xấu.  Tôi cảm mến lòng chân thành của Henri Nouwen khi cha nói lên xung đột này: “Tôi muốn là thánh nhân nhưng tôi không muốn bỏ lỡ bất kỳ cảm xúc nào của một tội nhân.”  Điều này do áp lực lưỡng cực bên trong chúng ta làm cho chúng ta khó thực hiện những lựa chọn luân lý rõ ràng.  Chúng ta muốn những điều đúng đắn, nhưng cũng muốn những điều sai trái.  Tất cả mọi lựa chọn đều là một sự từ bỏ nên tranh chấp giữa thánh nhân và tội nhân bên trong chúng ta tự nó biểu lộ qua sự bất lực không thể thực hiện những chọn lựa chắc chắn của chúng ta.

Nhưng chúng ta không chỉ cảm thấy áp lực này khi đấu tranh để có một quyết định luân lý rõ ràng, chúng ta còn cảm nhận áp lực này hàng ngày trong các phản ứng liên tục với những tình thế tác động bất lợi cho chúng ta.  Nói đơn giản, chúng ta luôn bị giằng co giữa nhỏ nhen và quảng đại, giữa hằn thù và tha thứ, bất cứ lúc nào chúng ta thụ động chịu tác động từ những người khác.

Ví dụ, tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm như sau: chúng ta đang làm việc trong một tâm trạng tốt, nghĩ về những điều yên bình và nhẫn nại, ấp ủ những cảm giác ấm áp, không muốn hại gì ai, rồi một cộng sự viên không có thiện ý đến, họ khinh thường hay xúc phạm chúng ta theo kiểu nào đó.  Trong tích tắc, toàn bộ thế giới nội tâm của chúng ta bị đảo ngược.  Một cánh cửa đóng sầm lại, và chúng ta bắt đầu cảm thấy lạnh lẽo hằn học, nghĩ về bất kỳ điều gì ngoại trừ những gì nồng ấm, chúng ta dường như trở thành một con người khác, từ quảng đại thành hằn học, từ thánh nhân thành kẻ mang những cảm xúc giết người để mua vui.

Đâu mới là con người thật của chúng ta?  Thực sự chúng ta là gì, thánh nhân với tâm hồn quảng đại, hay tiểu nhân hằn học nhỏ nhen?  Dường như, chúng ta là cả hai, thánh nhân và tội nhân, vì lòng tốt và ích kỷ, cả hai đều luân lưu trong con người chúng ta.

Có một điểm hay là không phải lúc nào chúng ta cũng phản ứng giống nhau.  Đôi khi bị khinh thường, xúc phạm, thậm chí bị công kích bất công, chúng ta vẫn phản ứng kiên nhẫn, thông hiểu, và tha thứ.  Tại sao?  Điều gì thay đổi cơ chế hóa học trong con người chúng ta?  Tại sao có lúc chúng ta đáp lại sự nhỏ nhen bằng lòng quảng đại, và lúc khác bằng hận thù?

Xét cho cùng, chúng ta không biết được nguyên do, và đó là một phần trong mầu nhiệm tự do của con người.  Có những yếu tố nhất định đóng vai trò trong chuyện này: chẳng hạn nếu tâm chúng ta đang tốt thì khi gặp trường hợp chối bỏ, khinh thường, đối xử bất công, chúng ta dễ phản ứng một cách nhẫn nại và thông hiểu với lòng quảng đại hơn.  Ngược lại, nếu chúng ta đang mệt mỏi, áp lực, và cảm thấy mình không được yêu thương trân trọng, thì chúng ta dễ phản ứng tiêu cực, lấy hận thù đáp trả hận thù.

Nhưng, có lẽ, tận cùng, có một thực thể sâu sắc hơn nữa đang hoạt động trong tất cả các hành động của chúng ta, một thực thể vượt ngoài cảm xúc của chúng ta.  Cách chúng ta phản ứng với một tình huống, hiền hòa hay thù hằn, phần lớn dựa vào một điều gì đó khác hơn.  Các Tổ phụ ngày xưa có một khái niệm và đã định danh nó.  Họ  tin rằng mỗi chúng ta đều có hai phần hồn, một phần hồn rộng mở và một phần hồn nhỏ nhen, và cách chúng ta phản ứng với bất kỳ hoàn cảnh nào, phần lớn dựa trên phần hồn mà chúng ta suy nghĩ và hành động với nó vào thời điểm đó.  Như thế, nếu tôi bị xúc phạm hay bị tổn thương, với phần hồn rộng mở của tôi, thì tôi dễ đáp trả bằng nhẫn nại, thông hiểu và tha thứ.  Ngược lại, nếu tôi bị xúc phạm và tổn thương khi phần hồn nhỏ nhen của tôi tác động, thì tôi dễ đáp trả bằng nhỏ nhen, lạnh lùng, và thù hằn.  Và theo các Tổ phụ, cả hai phần hồn này hiện diện trong lòng chúng ta, chúng ta vừa quảng đại vừa nhỏ nhen, vừa thánh nhân vừa tội nhân.  Thách thức của chúng ta là dùng phần hồn quảng đại nhiều hơn phần hồn nhỏ nhen.

Nhưng chúng ta phải cẩn thận, đừng hiểu điều này theo thuyết nhị nguyên.  Khi xác nhận có hai phần hồn, một phần quảng đại và phần kia nhỏ nhen, các Tổ phụ không dạy chúng ta một biến thể của thuyết nhị nguyên cũ, cụ thể cho rằng trong chúng ta có hai nguyên lý bẩm sinh, một tốt một xấu, luôn luôn tranh chấp để giành quyền điều khiển tâm hồn và linh hồn của chúng ta.  Dạng tranh chấp này thực sự không diễn ra trong chúng ta, mà chỉ là giữa hai nguyên lý tách biệt này với nhau.

Thánh nhân và tội nhân bên trong chúng ta không phải là những thực thể tách biệt.  Đúng hơn, thánh nhân bên trong chúng ta, hay phần hồn quảng đại, không chỉ là cái tôi thực sự của chúng ta, mà đúng ra là cái tôi duy nhất của chúng ta.  Tội nhân trong chúng ta, hay phần hồn nhỏ nhen, không phải là một nhân thể riêng biệt hay một thế lực tinh thần riêng biệt cứ đấu tranh mãi với thánh nhân, mà đơn giản đó chỉ là phần bị tổn thương của thánh nhân, một phần của thánh nhân đã bị nguyền rủa và không bao giờ được chúc lành cho đúng.

Và không nên để cái tôi bị tổn thương của chúng ta lại bị quỷ hóa và bị nguyền rủa thêm lần nữa.  Đúng hơn, nó cần được đối đãi tốt và được chúc lành – và rồi như thế nó sẽ thôi không nhỏ nhen và thù hằn khi gặp phải nghịch cảnh.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN

Có người bảo Chúa Thánh Thần là Ngôi Vị hay bị quên. Người ta thường cầu xin Ngài khi bắt đầu gặp gỡ hội họp, nhưng sau đó chẳng ai còn nhớ đến Ngài nữa.  Thật ra Chúa Thánh Thần ở gần ta hơn ta nghĩ rất nhiều, đến độ nếu không có Thánh Thần thì chẳng có Kitô giáo, cũng chẳng có kitô hữu.   Đời kitô hữu tràn ngập sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng không có khuôn mặt hữu hình như Đức Giêsu, nhưng các hoạt động của Ngài thì có thể thấy được.

Dần dần Hội Thánh sơ khai nhận ra rằng Thánh Thần không chỉ là một quyền năng từ trên cao, mà còn là một Đấng, một Ngôi Vị thần linh như Cha và Con.  Ngài còn được gọi là Thần Khí, hay Đấng Bảo Trợ.  Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Thánh Thần là Chúa, và là Đấng ban sự sống, đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Con.  Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống.  Nước là nguồn mạch đem lại sự sống, nên Đức Giêsu ví Thánh Thần với mạch nước vọt lên, mạch nước đem lại sự sống đời đời (Ga 4,14).

Ai tin vào Đức Giêsu sẽ được lãnh nhận Thần Khí như những dòng sông đầy tràn nước hằng sống (Ga 7,38-39).  Hơi thở là dấu hiệu của sự sống.  Đức Giêsu phục sinh đã trao ban Thánh Thần cho môn đệ
bằng cách thổi hơi thở của mình trên các ông (Ga 20,22).

Thánh Thần là hơi thở của Đấng đầy tràn sức sống mới.  Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống.  Ngài hiện diện và hoạt động trong mọi Bí tích.  Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, ta được tái sinh trong nước và Thánh Thần (Ga 3,5), được rửa tội nhân danh Thánh Thần để thành thụ tạo mới.  Khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, ta nhận được ấn tín của Chúa Thánh Thần, và được sai đi làm chứng cho toàn thế giới (Cv 1,8).  Khi lãnh nhận Bí tích Hòa giải, ta được tha tội nhờ quyền năng của Thánh Thần (Ga 20,22-23).  Khi linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể, trước khi đọc lời truyền phép trên bánh và rượu, linh mục cầu xin Chúa Cha sai Thánh Thần đến trên lễ vật để biến đổi chúng thành Mình và Máu Chúa Giêsu.

Lời Chúa mà ta đọc và nghe trong Thánh Lễ là Lời đã được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần (MK 12).  Lời ấy sẽ được rao giảng nhờ Thánh Thần soi sáng (MK 9).  Đức Giêsu nhận mình là Đấng ban sự sống (Ga 5,21; 17,2).  Khi về với Cha, Ngài ban cho ta Thánh Thần.  Thánh Thần là Đấng ban sự sống, Đấng sẽ ở với, ở bên và ở trong chúng ta mãi mãi (Ga 14,16-17).  Thân xác chúng ta đáng quý vì là Đền Thờ của Thánh Thần (1 Cr 6,19).  Thánh Thần là Thầy giúp ta nhớ lại giáo huấn của Đức Giêsu, và dẫn ta tới sự thật toàn vẹn và trọn vẹn (Ga 14,26; 16,13).

Thánh Thần là vị Thầy dạy ta cầu nguyện, dạy ta gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! (Rm 8,15; Gl 4,4).  Thánh Thần vừa ban ơn riêng cho từng người (1 Cr 12,4-11), vừa hiệp nhất mọi người thành một thân thể (1 Cr 12,13).

Không thể nào hình dung một Hội Thánh mà lại không có Thánh Thần.  Thánh Thần là “linh hồn” của Hội Thánh.  Kinh Sáng Danh cổ xưa nhất là: “Sáng danh Đức Chúa Cha, nhờ Đức Chúa Con, và trong Chúa Thánh Thần.”

Kitô hữu là người sống trong Thánh Thần của Đức Giêsu.  Dù chúng ta đã lãnh bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, nhưng chúng ta vẫn phải luôn cầu xin Cha trên trời ban cho ta Thánh Thần mỗi ngày (Lc 11,13).  Càng để cho Thánh Thần tự do hoạt động trong cuộc sống, cây đời của chúng ta càng sinh hoa trái tốt tươi (Gl 5,22-23).

***************************

Lạy Cha, xin ban cho chúng con Thánh Thần.

Vì không có Thánh Thần,
Cha sẽ là Đấng nghìn trùng xa cách,
Đức Kitô trở thành nhân vật của quá khứ,
Sách Tin Mừng là mớ chữ vô hồn,
Hội Thánh chẳng khác nào một tổ chức trần thế.

Vì không có Thánh Thần của Cha,
quyền uy trở thành sức mạnh thống trị,
truyền giáo trở thành tuyên truyền,
việc phụng tự trở thành một thứ lễ bái,
cách hành xử của Kitô hữu thành thứ đạo đức của nô lệ.

Nhưng nếu có Thánh Thần,
vũ trụ này được nâng lên,
những quặn đau để sinh ra Nước Cha mang ý nghĩa,
Đức Kitô phục sinh thật sự hiện diện,
Tin Mừng thành sức sống vô bờ,
Hội Thánh có nghĩa là hiệp thông.

Nếu có Thánh Thần của Cha,
quyền uy của Hội Thánh là khí cụ phục vụ,
truyền giáo trở thành một lễ Hiện Xuống mới,
phụng vụ là một tưởng niệm và là một thực tại,
các hành động của con người mang tính thần linh.

Lạy Cha, xin ban Thánh Thần cho chúng con.

(dựa theo Đức Thượng phụ Athenagoras)