VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.

Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt.  Không có gì vĩnh cửu ở đời này.  Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi.  Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô.  Cả đến con người cũ cũng không còn.  Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.

ZZSự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử.  Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại.  Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời.  Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai.  Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ.  Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày.  Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối.  Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.

Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới.  Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả.  Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới.  Thế giới không còn thời gian.  Thế giới vĩnh cửu.  Thế giới không còn đau khổ.  Thế giới hạnh phúc tràn đầy.  Vì Chúa sẽ thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc tình yêu.  Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới.  Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào.  Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu.  Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu.  Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.

Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất.  Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này.  Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới.  Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời.  Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất.  Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa.  Sẽ đi đến chung cuộc.  Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.

Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới.  Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể.  Cho người đói ăn.  Cho người khát uống.  Cho người rách rưới ăn mặc.  Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy.  Đây là những việc vừa tầm tay mọi người.  Ai cũng có thể làm được.  Ai cũng có điều kiện để làm.

Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

DI CHÚC

Rồi cũng có một ngày, bác sĩ sẽ nói với tôi rằng bộ não của tôi không còn khả năng hoạt động nữa, hay nói cách khác là cuộc đời tôi hầu như đã chấm dứt.

Khi điều đó xảy ra, xin đừng cố gán ghép một cuộc sống nhân tạo vào trong cơ thể tôi bằng tất cả những thứ máy móc đó.  Xin đừng gọi đó là “giây phút lâm chung” của cuộc đời tôi, mà hãy gọi đó là một khởi đầu của sự sống mới vì tôi sẽ góp tấm thân này để giúp những người khác có được một cuộc sống lành lặn hơn.

Hãy đem ánh sáng của tôi dâng tặng cho một người đàn ông chưa từng một lần nhìn thấy ánh nắng mặt trời, chưa bao giờ được thấy gương mặt dễ thương của trẻ thơ, và chưa từng nhìn thấy tình yêu trong đôi mắt của một người phụ nữ.

ZZHãy tặng trái tim của tôi cho một người luôn bị trái tim mình hành hạ bằng những cơn đau đớn triền miên.

Hãy truyền những giọt máu của tôi cho cậu bé đang thương tích đầy mình sau tai nạn giao thông kia để nó có thể sống cho tới ngày được nhìn thấy cháu chắt của mình.

Tôi sẽ hiến hai quả thận của mình cho những ai phải sống lần hồi qua ngày bằng chiếc máy chạy thận nhân tạo.

Hãy lấy xương của tôi, từng thớ thịt của tôi, và tất cả những sợi dây thần kinh này nữa nếu điều đó giúp cho những đứa trẻ tật nguyền có thể đi lại được.

Hãy nghiên cứu từng ngóc ngách trong bộ não của tôi.  Nếu cần thiết, hãy lấy cả các tế bào, đem phát triển chúng, thí nghiệm chúng để một ngày nào đó chúng có thể giúp cho một cậu bé câm có thể bật lên tiếng nói hay để một cô bé bị điếc có thể nghe thấy tiếng mưa rơi bên ngoài cửa sổ.

Nếu tôi có còn lại gì thì hãy đem thiêu tất cả rồi thả tro vào trong gió, biết đâu nhờ gió mang đi, chúng cũng giúp ích được gì cho những bông hoa xinh đẹp kia.

Nếu buộc phải đem chôn thứ gì đó của tôi, xin hãy chôn đi tất cả những tội lỗi, yếu kém, hay những định kiến mà tôi đã dành cho những người chung quanh.

Hãy đem tội lỗi của tôi đến cho quỷ dữ.  Đem linh hồn tôi đến cho Thượng đế.  Nếu như, dù chỉ tình cờ thôi, bạn muốn nhớ đến tôi, thì hãy thay tôi làm những điều tốt hay nói những lời yêu thương với những ai đang cần đến bạn.  Nếu bạn làm đúng tất cả những điều tôi đã dặn, thì tôi sẽ không bao giờ chết!

***********************************************

Lạy Chúa,

Đứng trước cái chết, con cũng run sợ như ai
Vì con chưa thấy sẵn sàng để gặp Chúa.
Cả cuộc đời con, con đã lo toan rất nhiều,
Nhưng điều quan trọng nhất là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy
Thì con lại chưa làm gì cả.
Con thật dại khờ khi nghĩ rằng con sẽ có đủ thời gian,
Con sẽ làm được điều đó bất cứ lúc nào con muốn.
Nhưng sự thật là con chưa bao giờ tự làm chủ được sự sống của mình
Làm sao con lại dám cho mình cái quyền làm chủ được sự chết?
Ngày nào đó con đến trước mặt Chúa
Không biết Chúa có nhận ra con hay không,
Hay là Chúa bảo “đi cho khuất mắt Ta, hỡi phường gian ác”

Lạy Chúa là Chúa Tạo Vật,
Con xin Chúa sự khôn ngoan
Để sống trọn vẹn giây phút hiện tại
Trong ân nghĩa của Chúa
Để rồi ngày nào đó con đi gặp Chúa,
Sẽ không như hai người xa lạ
Nhưng là hai người rất thân quen.
Lúc đó, Chúa sẽ gọi con bằng tên rất trìu mến
Và giang đôi tay đón con vào lòng.  Amen!

Sưu tầm

CHẾT TRONG BÀN TAY TIN YÊU

ZZThật khó để nói lời an ủi khi đứng trước cái chết, dù người quá cố đã sống trọn cuộc đời, sống thọ và ra đi trong bình an.  Đặc biệt khó hơn khi người chết còn trẻ, còn cần được chăm sóc nuôi dưỡng, khi họ chết trong hoàn cảnh không được lý tưởng cho lắm.

Là một linh mục, tôi đã nhiều lần chủ lễ các tang lễ của những người chết trẻ vì bệnh tật, tai nạn, hay tự vẫn.  Những đám tang như thế luôn luôn buồn thảm và mang tính hoài  nghi.  Tôi còn nhớ một đám tang như vậy: Một học sinh trung học chết vì tai nạn xe hơi.  Gia đình, bạn bè, và bạn học của em lòng đầy thương tiếc đến dự chật kín cả nhà thờ.  Mẹ cậu, vẫn còn trẻ, ngồi ở hàng ghế đầu, lòng bà nặng trĩu với nỗi tang thương mất mát của mình, nhưng rõ ràng bà quặn thắt khi nghĩ về đứa con.  Và hơn hết, em chỉ là một đứa trẻ, phần nào vẫn còn cần người chăm sóc, vẫn cần mẹ.  Và bà mẹ cảm nhận em chết trẻ như thế, theo cách nào đó, cũng đã làm em trở thành em bé mồ côi.

Chẳng có mấy lời có tác dụng trong trường hợp như thế này, nhưng có vài lời mà chúng ta buộc phải nói, ngay cả trong một ngày như thế, khi cái chết vẫn còn trước mặt, khi người ta không cảm được bao nhiêu sự an ủi về mặt tình cảm được.  Phải nói gì trước một cái chết như thế?   Đơn giản là cậu bé bây giờ đang ở trong bàn tay yêu thương hơn, âu yếm hơn, dịu hiền hơn, và đáng tin cậy hơn đôi tay của chúng ta, rằng ở bên kia có một người mẹ đón nhận em, săn sóc nuôi dưỡng mà em vẫn còn cần, giống như ở đời này vậy.  Không một ai sinh ra mà lại không nằm trên bàn tay ẵm của mẹ cả.  Đó chính là hình ảnh mà chúng ta cần phải giữ trước mắt để có thể hình dung cái chết một cách lành mạnh hơn.

Vậy cụ thể hơn, hình ảnh này là gì.  Một vài hình ảnh nền tảng và dịu hiền như hình ảnh người mẹ ôm và ru đứa con mới sinh của mình.   Lời bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng, Silent Night, bài thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng nhất mọi thời đã lấy cảm hứng từ hình ảnh này.  Joseph Mohr, một linh mục trẻ người Đức, chiều trước lễ Giáng Sinh, đã đi đến một căn nhà tranh trong rừng để rửa tội cho một em bé mới sinh.  Khi ông ra về, đứa trẻ ngủ ngon trong lòng mẹ.  Ông được đánh động quá đỗi trước hình ảnh đó, trước sự sâu thẳm và bình an của hình ảnh đó, rồi khi trở về nhà xứ, ngay lập tức ông viết nên những dòng lừng danh của bản Đêm Thánh Vô Cùng.  Người hướng dẫn dàn nhạc của ông, đã thêm một vài hợp âm guitar cho những dòng này, biến chúng thành những dòng bất hủ.  Hình ảnh khuôn mẫu tuyệt đối cho yên bình, an toàn, và bảo đảm chính là hình ảnh em bé sơ sinh ngủ trong lòng mẹ. Hơn nữa, khi một đứa trẻ chào đời, không chỉ có một mình người mẹ háo hức muốn ẵm bồng mà tất cả gia đình mọi người đều muốn.

Có lẽ chẳng có hình ảnh nào phù hợp, mạnh mẽ, có sức an ủi, và chính xác hơn nữa để minh họa những gì xảy đến với chúng ta khi chết đi và tỉnh dậy trong sự sống bất diệt cho bằng hình ảnh bà mẹ ẵm đứa con mới sinh của mình.  Khi qua đời, chúng ta chết trong bàn tay Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta đã được đón nhận với quá đỗi yêu thương, trìu mến, dịu hiền như khi chúng ta được mẹ ẵm trên tay lúc mới sinh.  Hơn nữa, chắc chắn ở đó, chúng ta được an toàn hơn khi sinh ra trên thế gian này.  Tôi cũng nghĩ, ở đó sẽ có những vị thánh quây quần xung quanh, chờ đến lượt mình để được ẵm em bé mới sinh.  Và như thế thật an tâm nếu chúng ta chết trước khi sẵn sàng để chết, khi vẫn còn cần được chăm sóc nuôi nấng, khi vẫn còn cần một người mẹ.  Chúng ta đang ở trong đôi bàn tay an toàn, ân cần, và đầy tình chăm sóc.

Đó có thể là niềm an ủi thâm sâu bởi cái chết đẩy tất cả mỗi người chúng ta vào tình trạng mồ côi, và mỗi ngày, đều có những người chết trẻ, bất ngờ, thiếu chuẩn bị, những người vẫn còn cần được chăm sóc.  Tất cả chúng ta khi qua đời, vẫn còn đang cần một người mẹ, nhưng đức tin bảo đảm cho chúng ta rằng chúng ta sẽ được sinh ra trong đôi bàn tay đáng tin cậy hơn và được nuôi dưỡng hơn đôi bàn tay của nhân loại.

Tuy nhiên, dù có lẽ sẽ đem lại an ủi, nhưng nó vẫn không thể chấm hết nỗi đau buốt vì mất đi người thân yêu.  Chẳng gì cất đi được nỗi đau buồn đó cả, vì chẳng có gì được định để làm việc đó.  Cái chết là vết sẹo không phai trong tâm hồn chúng ta vì đó chính là những đau đớn do tình yêu mà ra.  Dietrich Bonhoeffer đã nói về điều này như sau: “Không có gì có thể khỏa lấp việc mất đi người chúng ta yêu thương. … Thật vô lý khi nói rằng Thiên Chúa lấp đầy khoảng trống, Thiên Chúa không lấp đầy nó, nhưng ngược lại, ngài vẫn để nó trống rỗng và như thế giúp chúng ta giữ mối giao tình với người đã mất cho dù cái giá của nó là nỗi đau.  … Ký ức của chúng ta, nếu càng nhiều và càng thiết tha, thì sự chia lìa càng nên khó khăn hơn.  Nhưng lòng biết ơn biến đổi những nhói buốt trong ký ức thành niềm vui thanh bình.  Vẻ đẹp của quá khứ không phải là chiếc gai đâm xé da thịt nhưng chính là tặng vật quý báu.”

Rev. Ron Rolheiser, OMI

*************************************

Tôi đã được phép giã từ.
Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em!
Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường.

Này đây chìa khóa tôi gài lên cửa,
Và cả căn nhà cũng trao trọn anh em.
Chỉ xin anh em lời tạ từ lần cuối,
Thắm đượm tình thân.
Từ lâu rồi, sống bên nhau,
Chúng mình là láng giềng lối xóm;
Nhưng anh em đã cho tôi
Nhiều hơn tôi cho lại anh em.

Bây giờ ngày đã rạng,
Đèn trong xó tối nhà tôi đã tắt.
Lệnh triệu ban rồi,
Tôi đi đây.

Rabindranath Tagore

Nén bạc

Ngày xưa, triết gia Platô (427–347 BC, trước công nguyên) người Hy Lạp đã đưa ra một thí dụ điển hình giúp chúng ta kiến tạo những điều ưu tiên trong cuộc đời.  Hãy tưởng tượng cuộc đời như một hình tam giác lớn; xếp đặt tất cả những điều coi là quan trọng dọc theo cạnh đáy của hình tam giác.  Rồi bắt đầu di chuyển những điều ưu tiên hơn lên trên.  Khi chúng ta di chuyển chúng lên trên như vậy, cạnh đáy của hình tam giác càng thu hẹp nhỏ lại để đưa những điều quan trọng hơn lên trên đỉnh của hình tam giác.  Chúng ta sẽ đặt những điều ít quan trọng nằm ở phía dưới và sẽ giữ lấy những điều coi như quan trọng hơn ở trên.  Sau cùng, khi chúng ta đạt tới đỉnh của hình tam giác, chỉ còn một chỗ duy nhất mà thôi.  Kết quả là, chúng ta sẽ tự hỏi chính mình, “Cái gì quan trọng nhất trong cuộc đời, ở trên tất cả mọi sự?”  Câu trả lời, dĩ nhiên là sống hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, là đầu tư cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa.

ZZQua dụ ngôn những nén bạc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã tin tưởng trao ban cho mỗi người một cuộc sống, một khả năng, một kho tàng để chúng ta phát triển trở nên phong phú bằng cách sẵn lòng đầu tư khả năng của mình vào chương trình và mục đích của Ngài.

Thiên Chúa muốn chúng ta chấp nhận hy sinh cho chương trình của Ngài.  Ngài muốn hoạt động và phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống của chúng ta.

Một vị vua kia có ba người con trai, mỗi người với những tài năng riêng của mình.  Người thứ nhất có tài trồng cây ăn trái.  Người thứ hai chăn nuôi cừu.  Và người thứ ba kéo đàn vĩ cầm (violin) rất hay.  Một hôm nhà vua phải đi ra khỏi nước một thời gian lâu dài.  Trước khi ra đi, vua gọi ba người con lại và căn dặn rằng vua tin tưởng nơi họ làm cho dân chúng hài lòng trong lúc vua vắng mặt.

Lúc đầu mọi sự rất tốt đẹp.  Nhưng rồi mùa đông tới, một mùa đông lạnh giá chưa từng có.  Không còn đủ củi cho dân chúng sưởi.  Người con thứ nhất phải đối diện với một quyết định vô cùng khó khăn, có nên để dân chúng chặt một số cây ăn trái làm củi sưởi không?  Khi nhìn thấy dân chúng run rẩy trong giá buốt, cuối cùng người anh cũng phải cho phép họ làm.

Người con thứ hai cũng đã phải đối diện với một quyết định khó khăn.  Dân chúng khan hiếm lương thực để ăn trong mùa đông.  Anh có nên cho phép họ giết đàn cừu yêu quý của mình làm lương thực không?  Khi nhìn thấy trẻ con than khóc vì đói, anh đau lòng và để cho họ giết đàn cừu làm lương thực ăn qua mùa đông.

Dân chúng đã có củi để sưởi và thịt cừu để ăn trên bàn.  Tuy nhiên mùa đông khắc nghiệt vẫn cứ tiếp tục kéo dài.  Tinh thần của họ trở nên chán nản, không ai có thể làm cho họ vui vẻ, phấn khởi lên được.  Dân chúng tìm kiếm đến người con thứ ba biết kéo đàn vĩ cầm, nhưng anh từ chối không muốn chơi đàn cho họ nghe.  Cuối cùng tình thế trở nên tuyệt vọng, nhiều người đã bỏ xứ, dọn đi nơi khác.

Đến một ngày, nhà vua trở về nước.  Ông vô cùng buồn bã vì thấy rằng nhiều người đã bỏ nước ra đi.  Ông gọi ba người con lại để tường trình xem chuyện gì đã xẩy ra. Người con thứ nhất nói, “Thưa cha, con hy vọng rằng cha sẽ không giận con, nhưng mùa đông đã quá lạnh và con đã cho phép dân chúng chặt cây ăn trái xuống làm củi để sưởi.”  Người con thứ hai nói “Thưa cha, hy vọng rằng cha cũng sẽ không giận con vì khi lương thực khan hiếm, con cho phép dân chúng làm thịt bầy cừu của con.”

Nghe vậy, nhà vua thay vì giận dữ, đã ôm lấy hai người con, hãnh diện và hài lòng về họ.  Rồi người con thứ ba tiến đến với cây đàn vĩ cầm trên tay và thưa, “Thưa cha, con đã không thể nào chơi đàn nổi vì cha đã không có mặt ở đây để thưởng thức những tiếng đàn đó, hơn nữa dân chúng cũng đang chịu khổ vì đói lạnh, làm sao vui được!”

Bấy giờ người cha mới nói rằng “Hỡi con, hãy kéo đàn cho cha nghe vì bây giờ lòng cha buồn rầu tan nát.”  Người con cầm cây đàn vĩ cầm lên kéo, nhưng tự cảm thấy rằng những ngón tay của mình đã trở nên cứng nhắc vì bỏ lâu không thực tập.  Dù cố gắng hết sức, anh cũng không thể nào nhúc nhích được những ngón tay.  Sau đó người cha nói, “Con đã có thể làm cho dân chúng phấn khởi lên bằng tiếng nhạc của con, nhưng con đã từ chối không làm.  Nếu xứ sở này đã mất đi một nửa số dân, đó là lỗi tại con.  Nhưng bây giờ chính con cũng không còn có thể chơi đàn được nữa.  Đó chính là hình phạt cho con vậy”.

Để sống một cách phong phú hơn chúng ta phải biết sử dụng tài năng đã đón nhận từ Thiên Chúa. Trong dụ ngôn những nén bạc, ba người đầy tớ được trao ban những nén bạc.  Một nén bạc tương đương với 15 năm lương của một người lao động suốt cả ngày.  Trong Anh ngữ nén bạc được dịch là “talent,” lại còn có nghĩa là tài năng thiên phú tự nhiên trong các sinh hoạt sáng tạo như nghệ thuật, âm nhạc, thi phú… Tài năng tự nhiên có thể được hiểu rộng rãi hơn gồm những ơn lành chúng ta đã đón nhận từ Thiên Chúa, đặc biệt là đức tin, sức khoẻ, kiến thức và những cơ hội may mắn…  Những tài năng này đã được ban cho chúng ta không phải để cất dấu, làm mai một đi, nhưng phải được đầu tư để làm cho chúng sinh hoa kết quả.

Sưu tầm

GỌI HỒN VÀ HỒN GỌI

Nhiều người tin là có những thầy bùa có thể gọi hồn người chết về nhập vào người sống để nói chuyện.  Có người đến xin hồn cho biết những chuyện kín như ai lấy cắp tiền bạc của mình.  Có kẻ muốn hỏi hồn ý kiến phải quyết định như thế nào trong những việc hệ trọng.  Do đó, mới có chuyện “gọi hồn”.

Người ta chỉ gọi hồn người chết.  Trong Phúc Âm cũng có nói đến chuyện “gọi hồn.”  Chuyện rất lạ.  Người trong Phúc Âm kể không gọi hồn kẻ chết mà là hồn người sống!  Trước khi tìm hiểu chuyện gọi hồn này trong Phúc Âm, ta thử đặt vấn đề: “gọi hồn” hay là “hồn họi”?  Người ta đã nói đến “gọi hồn” rồi, có thể có vấn đề “hồn gọi” không?

Không có xác, hồn đi lang thang, người ta gọi là “hồn ma vất vưởng.”  Không có hồn, chỉ có xác nằm đấy, người ta bảo là “xác ma không hồn.”  Con người là tổng hợp của cả hồn và xác.  Thiếu một trong hai thì người ta gọi là “ma!”  Hễ có tổng hợp là có liên hệ tương quan.  Tin Mừng có nói đến liên hệ này giữa xác hồn.  “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ.  Vì linh hồn thì hăng hái, nhưng thân xác lại yếu đuối” (Mt 26:4).

Thân xác yếu đuối, linh hồn hăng hái.  Có khác nhau trong tương quan giữa xác và hồn.  Như thế, thân xác có tiếng nói của thân xác.  Hồn có ngôn ngữ của hồn.  Vậy có “gọi hồn” thì cũng có “hồn gọi.”  Hai ngôn ngữ khác nhau thì “hồn gọi” rất khác với “gọi hồn.”  Một đàng là hồn gọi thân xác theo mình.  Một bên là thân xác gọi hồn đến với mình.

ZZMột Con Người: Hai Tiếng Gọi

Nhà văn Tuý Hồng có cuốn tiểu thuyết nhan đề: “Tôi Nhìn Tôi Trên Vách.”  Đức Cha Bùi Tuần viết tập sách thiêng liêng, đặt tên là: “Nói Với Chính Mình” tựa đề những tác phẩm trên nói lên một nội dung là có băn khoăn, có thao thức, mà cách nào đó có vấn đề giữa mình với mình.

Trong thư gửi giáo đoàn Roma, Phaolô cũng tự “tôi nhìn tôi trên vách” rồi thú nhận về con người mình:

“Tôi khám phá ra luật này: Khi tôi làm sự thiện thì thấy sự ác xuất hiện ngay.  Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì lề luật Thiên Chúa.  Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi tỏng luật của tội là luật vẫn nằm trong chi thể tôi” (Rm 7:21-23).

Nói “tôi nhìn tôi” là nói đến hai nhân vật.  Một bên là chủ thể nhìn, một bên là khách thể bị nhìn.  Cũng vậy, khi “nói với chính mình” là có người nói, có người nghe.  Nhưng ở đây, người nghe cũng là người nói, người nhìn cũng là kẻ bị nhìn.  Trong tương quan xác – hồn thì ai theo ai khi nghe tiếng phía bên kia gọi” Ai dừng lại khi thấy phía bên kia nhìn mình?

Hồn Gọi

Hồn gọi là hồn muốn nói với xác.  Hồn bất tử.  Hồn không thể chết.  Đặc tính ấy cho thấy hồn có một giá trị cao hơn xác.  Trong đời sống thường nhật, người ta đồng ý là vật chất rất cần thiết, nhưng tinh thần có giá trị đẹp hơn vật chất.  Chẳng hạn như lòng chung thuỷ thì đáng ca ngợi hơn nhan sắc.  Tình yêu thì quý hơn bạc vàng.  Vì thế, mới có những hy sinh cao thượng.  Có người chết cho quê hương, có kẻ chết vì lý tưởng.  Do đấy, mới có những thiên anh hùng ca.

Lúc đói, ngôn ngữ của xác bảo: Hãy ăn.  Tất cả thú vật đều làm thế.  Xác càng đói thì tiếng đòi ăn của xác càng mạnh.  Ấy vậy mà có lúc đói ta vẫn chống lại, không ăn.  Như thế, tiếng nói bảo: “đừng ăn” không thể đến từ xác.  Nó phải là tiếng của hồn ta gọi xác ta.  Khi xác muốn ăn mà hồn bảo “đừng” là hồn tìm lý do, lý luận và điều khiển xác.  Bởi đó, “hồn gọi” là hồn suy luận, phân tích và hướng dẫn xác trước khi để cho sự việc xảy tới.

Ta ít nghe nói đến “hồn gọi”, nhưng trong đời sống hằng ngày, chẳng mấy lúc mà hồn không gọi xác.  Khi xác đói, ta xoè tay muốn lấy trộm củ khoai, hồn suy nghĩ rồi bảo: Không!  Thiếu tiếng “hồn gọi”, xác chỉ nói ngôn ngữ tự nhiên của đòi hỏi sinh lý thì con người và loài vật giống nhau.  Tiếng “hồn gọi” là tiếng lương tâm Thượng Đế in dấu nơi con người nên bao giờ cũng đúng, nó chỉ đạo cho xác.  Và như thế, tiếng “hồn gọi” bao giờ cũng là tiếng gọi đẹp.  “Hướng đi của xác thịt là sự chết, còn hướng đi của hồn là sự sống và bình an” (Rm 8:6).

Cũng có những trường hợp lương tâm sai, nhưng là do con người làm sai.  Tuy nhiên, dẫu có sai, nó chỉ sai một phần nào, chứ lương tâm không thể mất dạng.  Những câu nói tự nhiên hằng ngày như “hãy lắng nghe tiếng lương tâm”, đấy chẳng phải là chứng từ chấp nhận hồn nói với xác hay sao. Và khi chấp nhận như thế, chẳng phải là đã đồng ý cho hồn một sứ mạng hướng dẫn xác hay sao.

Gọi Hồn

Nếu xác có ngôn ngữ riêng thì tiếng xác “gọi hồn” thế nào?  Ngay cả những người biết Phúc Âm cũng tin hồn cao hơn cả thể xác.  Nguyễn Du, trong Kiều viết rằng: “Xác là thể phách, hồn là tinh anh.”  Vì hồn tinh anh nên người ta mới “gọi hồn” người chết về mà vấn ý.  Nhưng chuyện “gọi hồn” trong Phúc Âm thì rất lạ.  Tin Mừng Matthêu ghi câu chuyện “gọi hồn” người sống như sau:

Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây?  Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu!”  Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, và tích trữ tất cả lúa và của cải của mình vào đó.  Lúc đó ta sẽ nhủ lòng: hồn tôi hỡi, mình bây giờ ê chề của cải, dư xài nhiều năm.  Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12:16-19).

Đã chết đâu mà ông phú hộ ấy gọi hồn về.  Làm sao hồn có thể ăn mà lại gọi hồn đến?  Có người đem khoanh thịt ra mộ bia rồi lại đem về.  Đó là biểu tượng nhớ thương nhiều hơn là tin rằng hồn thực sự ăn.  Hồn thuộc thế giới thiêng liêng, làm sao lấy thịt thà, rượu bánh là vật chất mà đãi hồn là thế giới vô hình?  Vậy mà ông phú hộ mời hồn đến “ăn uống vui chơi cho đã.”  Cái lầm lẫn của ông ta là cho hồn thứ không thể ăn.  Tiếng “gọi hồn” của ông ở đây là một nghịch lý hoang tưởng.  Ông ta tin vào hoang tưởng này và kiên quyết “gọi hồn”.

Phúc Âm kết đã kết thúc cái phi lý đó:

“Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: Đồ ngốc!  Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?  Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc12:20-21).

Liên hệ hồn xác gọi nhau là những tiếng gọi cho những hướng đi khác biệt.  Giữa “hồn gọi” và “gọi hồn” có một phân tranh rất rõ.  “Anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn” (1Phêrô 2:11).

Hãy để ý là trong câu chuyện gọi hồn của ông phú hộ, theo mạch văn tường thuật, ta thấy trong căn nhà ấy rất vắng.  Không có ai.  Không thấy ông nói đến vợ con, không thấy nói đến anh em, không thấy nói đến bạn bè, không thấy nói đến người hàng xóm, chỉ có mình ông ta lẻ loi.  Nổi bật lên là một thế giới khép kín lạnh lùng.

Không có ai để mà gọi, chỉ xác của ông gọi hồn ông thôi.  Hồn không ăn được thóc chứa trong kho, hồn không uống được ly rượu trên bàn.  Ông gọi sai chỗ, ông cho lầm đối tượng.  Tại sao vậy?  Vì ông quá cô độc không có ai nên mới phải gọi hồn về ăn?  Hay tại ông chỉ muốn cho hồn ông ăn thôi nên ông chẳng có ai chung quanh cuộc đời và ông thành cô độc?  Hình ảnh chỉ có một mình ông trong căn nhà vắng là bóng hình rất âm u.

Hồn không ăn được mà ông ta cứ gọi hồn, câu chuyện kỳ lạ là ở chỗ ấy.

Đi qua nghĩa trang vào ngày rằm, ta thấy xôi gà, những khoanh thịt trước mộ người chết.  Khi chết rồi người ta mới đem đồ ăn cho hồn.  Hay nói cách khác, hễ có hồn, có đồ ăn là có bóng hình mộ người chết.  Hình ảnh “gọi hồn” này làm cho căn nhà của ông phú hộ phảng phất một chút ma quái của thế giới bên kia.  Trong cái sống đã có cái chết.  U uẩn.  Một nấm mồ.

Qua những tháng ngày trăn trở nhìn mình, biết có tiếng “hồn gọi.”  Ray rứt khi mình nghe mình và cũng muốn có tiếng “gọi hồn.”  Rồi, Phaolô nói với chính mình phải bỏ tiếng “gọi hồn” đi mà nghe tiếng “hồn gọi”:

“Nếu anh em sống theo xác thịt anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em được sống” (Rm 8:13). “Hướng đi của xác thịt là phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa” (Rm 8:7).

Trong căn nhà vắng, bóng hình người phú hộ cô độc cất tiếng “gọi hồn”.  Nghe như âm vang hồn đã xa rồi.  Và quả là thế.  Trong ý nghĩa của Phaolô than thuở: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rom 7:20).  Thì, lúc này hồn ông phú hộ đang trăn trở lắm với tiếng gọi của thân xác.  Hồn ấy muốn đi xa.  “Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm. 7:20).  Hồn chạy trốn.  “Vẫn biết rằng lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét tôi lại làm” (Rm 7:14-15).  Giằng co.  Âm vang của xác “gọi hồn” rất kỳ bí, tàn bạo.

Đời Phaolô đã khổ sở trong tiếng gọi của xác.  Có hai tiếng gọi thật đấy, nhưng Phaolô đã nghe tiếng “hồn gọi” chứ không để xác “gọi hồn” theo.  “Được cả thế gian mà mất linh hồn thì nào lợi ích gì?” (Mt 16:26).

Ta thấy trong căn nhà ông phú hộ chỉ có một mình ông.  Phải chăng sự say mê đi tìm, tích luỹ gạo thóc ấy làm ông cô độc?  Cô độc, không có ai chung quanh, một mình, và sau cùng, xác người phú hộ cất tiếng cười mời hồn đến.  “Hồn tôi hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm.  Thôi, cứ nghỉ chơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”  Sự sai lầm trong tiếng trong tiếng “gọi hồn” của ông đã được Chúa đặt lại thành câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng người, thì nhũng gì người sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12:20-21).

Câu hỏi ấy cũng vẫn là câu hỏi cần thiết cho cuộc sống hôm nay để nhắc nhở chính mình về hạnh phúc đích thực mai sau cho linh hồn.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ.

VỀ NƠI TĨNH LẶNG

Bên cạnh cuộc sống ồn ào, vội vã, có người về nơi tĩnh lặng, những vành khăn tang, những tiếng kèn đồng đưa tiễn, những lời kinh chen lẫn tiếng ồn ào của xe cộ, những chiếc máy phát âm thanh, những tiếng rao, cười nói.  Người yên lặng ra đi như gợi lại một lời Chúa bảo các Tông đồ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31).

Tĩnh tâm: Để tâm hồn thanh thản yên tĩnh không trĩu nặng buồn hay vui, không mê ảo, không xáo động.  Tâm tĩnh là một trạng thái tựa mặt hồ tĩnh lặng soi bóng hàng cây, bầu trời, rõ nét, không lẫn lộn.  Hiệu quả tâm tình ZZluôn là sáng suốt sáng tạo, trong sáng trong suy nghĩ.  Như lời thầm thì, kinh nghiệm của Thánh Phanxicô Assisi trong bài ca mặt trời, nói về tĩnh lặng của tâm hồn để kể về anh mặt trời, chị mặt trăng, anh gió và chị nước, trong đó lời của thiên nhiên tỏ bày những tâm tư sâu kín của cõi lòng con người.  Tĩnh lặng để nói với đóa hoa chưa nở về buổi khai nguyên, về những gì sắp hoàn tất và ngay cả những gì chưa thể hoàn tất.  Trong nội tâm sâu kín của con người cũng mang đầy ước vọng, khi dồi dào, phong phú; khi khô hạn, héo hon; khi vui tươi hoặc cả khi buồn chán.  Yên tĩnh để tiếng nói của Tình Yêu vô tận ngỏ lời, vì trong tiếng nói Tình Yêu ấy sẽ như làn gió mát đuổi cơn nồng, có thể như ngày mới của bình minh chiếu toả.  Sức mạnh không vận dụng từ bên ngoài mà vận dụng tự nội tâm thanh vắng.  Chúa Giêsu nói với các Tông đồ sau khi vui mừng gặt hái kết quả của chuyến loan báo Tin Mừng: “tìm nơi thanh vắng”.

Nơi an nghỉ: Trong tiếng nói yên tĩnh nhất của “chị chết”, mọi người đều không thoát nổi, nhưng “chị chết” cũng cần tập chết đi cho mỗi ngày.  “Hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6, 11).  Chết, một sự an nghỉ hoàn toàn, không tội lỗi trọng nào, ấy là cái chết đối với tội lỗi.  Vậy “chị chết”, như hạt lúa gieo vào lòng đất, trong mình nó ươm mầm một sự sống, như bình minh sẽ mọc sau đêm tối.  Tĩnh lặng của sự chết không phải là kết thúc mà là một thời gian cần thiết nghỉ ngơi, lấy lại sức lực, đổ rỗng những nặng nề mang lấy gánh nhẹ nhàng.  Kinh nghiệm của tĩnh lặng từ nơi “chị chết” giống như thời gian lặng yên nhìn lại mình trong sám hối, chuẩn bị cho việc đối diện với chính mình bằng việc xưng tội.  Bình minh sẽ lên, chính vì thế, trong bài ca mặt trời của Thánh Phanxicô vẫn liên kết chị chết với anh mặt trời, để không chết trong lần thứ hai là chết trong tội trọng đáng thương, thiếu mất một bình minh.

An tĩnh để kể về tình yêu

Tình yêu như Thánh Phanxicô tường thuật, đó là lời kể của Thiên Chúa thì thầm trong các thụ tạo.  Kể cho đất nghe, chính bàn tay Thiên Chúa đã làm nên, kể cho nắng nghe, Chúa đã làm ra mặt trời, kể cho người nghe, tất cả thụ tạo được trao cho họ…  Ân nghĩa dồi dào từ mẹ thiên nhiên, nếu con người biết yên tĩnh để lắng nghe, sẽ nhận ra vì yêu thương “con người được tạo dựng giống hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa” (St 1, 27).  Con người được yêu thương để sống yêu thương, con người sẽ không tàn phá thiên nhiên, con người sẽ sống hài hoà với nhau, tôn trọng sự sống của nhau.  Con người an tĩnh sẽ tường thuật tình yêu trong cuộc đời mình, “không thù hận, không oán ghét, không mừng vui vì những bất công, không ích kỷ tìm tư lợi” (x. 1 Cr 13, 4).  Tĩnh lặng để nhận ra lẽ sống của “Kinh Hoà bình”, “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”  Rất nhiều sứ điệp để kể về về tình yêu để con người sống trong thế giới hoà bình.  Tắt đi những chiến tranh, những vũ khí hạng nặng, những thứ giết người hàng loạt, những sự kiện khủng bố, những lời dao búa, những tính chất côn đồ…

Yên tĩnh để suy nghĩ về những điều tuyệt diệu của cuộc sống bằng lời mời gọi “vào nơi tĩnh lặng”, sống tâm tư của tháng mười một, nơi các linh hồn đang an nghỉ và kể về bình an của sự chết trong ánh sáng bình minh.

LM Giuse Hoàng Kim Toàn

 

SẴN SÀNG

Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến.   Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể.  Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.

Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ.  Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được.  Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.

ZZViệc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được.  Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào.  Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu.  Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.

Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại.  Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại.  Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không?  Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không?  Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình.  Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng.  Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được.  Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được.  Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được.  Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời.  Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.

Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Henri đơ Bavie, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài.  Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôngang.  Một hôm thánh Uôngang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi.  Henry suy nghĩ mãi, không hiểu “sau sáu…” nghĩa là gì?  Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng?  Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc.  Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra.  Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng?  Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần.  Sáu tuần lại qua đi vô sự.  Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng?  Sáu tháng lại qua đi.  Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng?  Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức.  Sau sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế.  Dầu vậy, ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết.  Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.

Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu.  Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt.  Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực.  Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn và cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng.  Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.

Chúng ta hãy nhớ, một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành.  Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.

Sưu tầm

SỨ ĐIỆP CỦA NGÔI MỘ ĐÁ

ZZCó ai trong chúng ta mà đã không hơn một lần đến viếng người thân và đã trầm ngâm bên ngôi mộ.  Có biết bao hình thức khác nhau của ngôi mộ: một đá, mộ xây, mộ xi măng, mộ đất.  Mỗi ngôi mộ thường chỉ được ghi vài dòng chữ đơn sơ nói lên tên, tuổi ngày sinh và ngày mất của người nằm bên dưới ba tấc đất.  Dừng chân suy tư bên những ngôi mộ, có lẽ mỗi người chúng ta đã tự hỏi: phải chăng cuộc đời con người, đã có thời huy hoàng là thế, mà nay chỉ còn lại ngôi mộ lanh lẽo với vài dòng chữ đó thôi sao?

Không!  Ngôi mộ không chỉ là nấm đất vô hồn.  Đó là nơi an nghỉ của một con người, một cuộc đời. Nằm dưới ngôi mộ là cả một lịch sử đời người với những tháng ngày vinh quang xen lẫn với ô nhục; với những giọt nước mắt và những nụ cười; với một thời yêu thương và một thuở giận hờn… nói tóm lại, dưới ngôi mộ là cả một chặng đường của một con người có Thiên Chúa luôn đồng hành.  Vì vậy, ngôi mộ đá có biết bao điều nói với chúng ta:

1- Điều thứ nhất ngôi mộ đá nói với chúng ta: cuộc đời này thật mỏng manh quá đỗi.  Như bông hoa phù dung sớm nở tối tàn, cuộc đời thật ngắn ngủi.  Mới ngày nào còn cắp sách đến trường, hôm nay đã lên ông lên bà, rồi già lão, bệnh tật, rồi chấm dứt cuộc đời.  Khi nghĩ về cuộc đời quá ngắn ngủi như thế, xin đừng mưu mô tính toán mà làm gì.  Xin đừng chia rẽ và giận ghét làm chi.  Cuộc đời này ngắn lắm, tiền bạc trên thế gian này nhiều lắm, bàn tay ta có tham mấy cũng chẳng vơ vét hết được.  Rồi đến lúc bàn tay xuôi xuống, lạnh cóng, cô đơn, chẳng nắm giữ được gì.

2- Điều thứ hai ngôi mộ đá nói với chúng ta: đây chỉ là một điểm dừng.  Những ngôi mộ đá không nằm yên bất động mãi mãi.  Cũng như cuộc đời này chỉ là cõi tạm, là quán trọ, ngôi mộ chỉ là một chỗ dừng chân.  Thân xác con người được an táng trong lòng đất như hạt giống được gieo xuống.  Hạt ấy bị mục nát, nhưng đó là điều cần thiết để mọc lên một cây mới.  Sẽ có ngày Thiên Chúa mở tung các ngôi mộ.  Sẽ có ngày Ngài cất tấm khăn tang bao trùm thế giới.  Khi ý thức ngôi mộ chỉ là nơi dừng chân, chúng ta được yên ủi, vì chúng ta không mãi mãi mất những người thân, nhưng họ đang an giấc trong bụi đất, chờ ngày phục sinh.  Chính vì vậy, một số nghĩa trang công giáo được gọi là “nhà chờ”, một số phòng chứa hài cốt được gọi là “phòng đợi.”  Đây chính là nơi chờ đợi đến ngày ra trình diện trước nhan Chúa và để gặp gỡ Ngài.

3- Điều thứ ba ngôi mộ đá nhắc nhở chúng ta về một ngôi mộ trống: sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần -Tin Mừng Thánh Gioan kể lại – Maria Mađalêna ra mồ từ sáng sớm và bà thấy ngôi mộ trống. Ngôi mộ ấy là mộ của Đức Giêsu.  Ngài đã được an táng ba ngày trước và nay không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chiến thắng tử thần.  Thân xác Người không bị hư nát trong mồ.  Thiên Chúa đã cho Người sống lại vinh quang.  Cùng với Người, những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại như vậy “ai tin Ta sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 47).  Như vậy, ngôi mộ nhắc nhở chúng ta về biến cố Đức Giêsu phục sinh và đồng thời nhắc chúng ta rằng những người đang an nghỉ nơi đây sẽ được sống lại. Người lành được sống lại để hưởng vinh quang; kẻ dữ được sống lại để lĩnh án phạt đời đời.

Như vậy, khi dừng chân suy niệm bên mộ người thân, chúng ta hãy lắng nghe điều được phát biểu qua những nấm mộ tưởng chừng như vô tri vô giác và lạnh băng ấy.  Suy nghĩ về cuộc đời, về linh hồn, về sự chết cũng giúp chúng ta hãy cố gắng sống hoàn thiện hơn.

GM Giuse Vũ Văn Thiên

THÁNH MONICA

ZZHoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng, và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào.  Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu.  Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng.  Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng.  Ông Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người.  Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về với đức tin Kitô Giáo.  Ông Patricius chết năm 371, sau khi rửa tội được một năm để lại người vợ goá và ba con nhỏ.

Người con cả, Augustine Hippo, nổi tiếng nhất (sau này là thánh).  Vào lúc cha chết, Augustine mới 17 tuổi và là sinh viên trường hùng biện ở Carthage.  Thánh Monica thật đau buồn khi thấy con mình đi theo tà thuyết Manikê và sống cuộc đời phóng đãng.  Có những lúc Thánh Monica không cho con được ăn ngủ ở trong nhà.  Và rồi một đêm kia, ngài được thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin.  Từ đó trở đi ngài sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con.  Quả vậy, ngài ở gần đến nỗi Augustine cũng phải bực mình.

Khi 29 tuổi, Augustine quyết định đi Rôma để dạy về hùng biện.  Một tối kia, Augustine nói với mẹ là anh ra bến tầu để từ giã bạn bè.  Nhưng, anh lại lên tầu đi Rôma.  Thánh Monica thật đau lòng khi biết mình bị lừa, nhưng ngài nhất định đi theo.  Vừa đến Rôma thì ngài lại biết là Augustine đã đi Milan.  Mặc dù việc di chuyển khó khăn, Thánh Monica vẫn nhất định bám sát.

Ở đây, Augustine bị ảnh hưởng bởi một giám mục, Ðức Ambrôsiô, là vị linh hướng sau này của Thánh Monica.  Augustine chấp nhận mọi lời khuyên của đức giám mục, và tập được đức khiêm tốn đến độ ngài có thể từ bỏ được nhiều tật xấu.  Thánh Monica trở thành người lãnh đạo của nhóm phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi ở Tagaste.

Ngài tiếp tục cầu nguyện cho Augustine trong những năm anh theo học với đức giám mục.  Vào Phục Sinh năm 387, Ðức Ambrôsiô rửa tội cho Augustine và một vài người bạn của anh.  Không lâu sau đó, cả nhóm đi Phi Châu.  Lúc ấy, Thánh Monica biết cuộc đời ngài sắp chấm dứt, ngài nói với Augustine, “Con ơi, không có gì trên trần gian này làm mẹ vui lòng cả.  Mẹ không biết có gì còn phải thi hành và tại sao mẹ lại ở đây, vì mọi hy vọng của mẹ ở trần gian này đều đã được hoàn tất.”  Sau đó không lâu ngài bị bệnh và chịu đau đớn trong chín ngày trước khi từ trần.

Tất cả những gì chúng ta biết về Thánh Monica là trong tác phẩm Tự Thú của Thánh Augustine.

Thánh Monica rất được mộ mến, nên nhiều người đã nhận tên Thánh Monica.  Giáo Hội tôn vinh ngài là bổn mạng của các bà mẹ, cách riêng các bà mẹ Công Giáo.  Nhiều đoàn thể hay thành phố lấy tên Ngài như thành phố Santa Monica, Los Angeles để kỷ niệm lần đầu tiên các nhà truyền giáo đến đây đúng ngày Lễ kính Thánh Monica 27/8.

Nhờ có được một Người Mẹ Tuyệt Vời, sau này Augustinô trở thành nhà giảng thuyết hùng biện, học giả uyên bác, một Thánh Giám Mục được phong là Tiến sĩ Hội Thánh.

Trong xã hội ngày nay, mọi thứ đều sẵn sàng, từ mì ăn liền, cà phê uống liền, đến việc tiêu xài liền (instant-credit) khiến chúng ta không còn kiên nhẫn.  Tương tự như thế, chúng ta cũng muốn lời cầu xin của chúng ta được đáp trả ngay lập tức.  Thánh Monica là gương mẫu của sự kiên nhẫn.  Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng ưa gắt gỏng, và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.

***************************************

Lạy Chúa, giữa những nghịch cảnh của cuộc sống gia đình, xin Chúa cho chúng con là những bà mẹ Công Giáo luôn biết siêng năng cầu nguyện.  Ngay cả đôi khi lời cầu nguyện của chúng con xem ra chưa được chấp nhận ngay, xin cho chúng con không sờn lòng nản chí nhưng biết phó thác vào ơn quan phòng của Chúa.  Xin cho chúng con hiểu rằng không phải những lời nói xuông của chúng con nhưng chính là những chứng tá yêu thương của chúng con trong những hy sinh hàng ngày mới đem lại ơn hoán cải cho những người xung quanh chúng con.  Amen!

Sưu tầm

NHẬT KÝ TÂM HỒN ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN XXIII

john-xxiiiTác giả:  Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII
Bản Dịch Việt Ngữ: Lm. Trần Văn Thông
Linh mục Trăng Thập Tự cập nhật theo ấn bản Senatus 1970 và bản Pháp ngữ của Ed. Du Cerf, 1964.

           Quyển sách không cần đề tựa dài dòng, chỉ cần đọc những dòng đầu, đủ khiến bạn suy nghĩ và biết đâu bạn sẽ có nhiều quyết định đổi mới đời sống, vì chỉ riêng tên gọi Gioan XXIII đã gây niềm thông cảm và tin tưởng sâu xa nơi lòng bạn.
Đây là những dòng tâm huyết trong ngần của một con người, của người linh mục, đơn sơ nhưng chứa đựng sức sống bên trong dồi dào với những vẻ đẹp hấp dẫn, an ủi và khích lệ người đọc.
Đây là những trang nhật ký, tác giả đã tự ghi lại khi tuổi vừa 14, từ năm 1895 đến vài tháng trước khi về cùng Chúa (lễ Hiện xuống 1962), BẢY MƯƠI NĂM dài của con người từ chủng sinh đến cương vị Giáo hoàng.
Chính Đức Gioan XXIII đề tên cho quyển sách là “Tâm hồn Nhật ký” từ năm 1902, dưới ánh đèn dầu leo lét của chủng viện, sau giờ nguyện ngắm.  Những quyển Nhật ký được ngài đọc lại luôn để tự kiểm thảo và nhìn thẳng vào tâm hồn mình.
Mùa xuân 1961, một năm trước khi về Nhà Cha, Đức Gioan XXIII, rơi lệ khi đọc lại những nét chữ của quyển Nhật ký số 1, tức những gì đã được ghi khi ngài vừa 14 tuổi, và ngài bảo vị thư ký: “Khi tôi chết rồi, cha có thể phổ biến những quyển Nhật ký nầy.  Biết đâu nó có ích cho những bạn trẻ đang tiến về chức linh mục và những ai muốn sống liên kết với Thiên Chúa”.

Download (PDF, 1.63MB)

Download tác phẩm: Sách dạng pdf, xin nhấn vào đây để tải về máy.

Báo link download hỏng
Thân chào quý đọc giả,
Trong quá trình đọc sách online hoặc download sách, nếu có đường link download nào bị hỏng, sách không đọc được, hay không tải xuống được xin làm phiền quý đọc giả để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới mỗi trang sách để chúng tôi cập nhật lại link download.
Trân trọng!