TỰ DO NỘI TÂM

Tu doNguyên tác: La Liberté intérieure
Bản tiếng Anh: Interior Freedom (Helena Scott)
Tác giả: Jacques Philippe
Dịch giả: LM Minh Anh (Gp. Huế)
Thông tin bản quyền:  Được sự chấp thuận của dịch giả, LM Minh Anh, để post ở suyniemhangngay.net

                                                        PHẦN GIỚI THIỆU

           “Ở đâu có Thần Khí của Chúa, ở đó có tự do” Thánh Phaolô
           Chúng con xin dâng lên Chúa ước muốn, cùng đích, tâm trí, toàn thể con người chúng con qua đôi bàn tay và trái tim của Đức Trinh Nữ.  Rồi tinh thần chúng con sẽ sở hữu sự tự do tâm hồn quý giá đó, đến mức tránh xa mọi căng thẳng, muộn phiền, thất vọng, gò bó và hẹp hòi.  Chúng con sẽ vượt qua đại dương của sự từ bỏ, được giải thoát khỏi chính mình và gắn bó với Người là Đấng Vô Thủy Vô Chung. Mẹ Yvonne-Aimée de Malestroit
           Cuốn sách này nói đến chủ đề nền tảng của đời sống Kitô giáo: tự do nội tâm.  Mục đích của nó thật rõ ràng.  Mọi Kitô hữu cần khám phá ra rằng, ngay trong những hoàn cảnh bên ngoài bất ưng nhất, bên trong chúng ta vẫn có một khoảng không tự do mà không ai có thể lấy đi, bởi Thiên Chúa là nguồn mạch và là bảo chứng của tự do đó.  Không có khám phá này, chúng ta sẽ luôn luôn bị giới hạn cách nào đó và sẽ không bao giờ nếm hưởng được hạnh phúc đích thực.  Nhưng nếu chúng ta học cách để cho khoảng không tự do nội tâm này mở ra, thì dù cho bao điều làm chúng ta đau khổ, vẫn không gì thực sự có thể đàn áp hay nghiền nát chúng ta.
           Luận điểm được triển khai cách đơn sơ nhưng rất quan trọng: tự do nội tâm chúng ta có được tỷ lệ thuận chính xác với sự trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến của mình.  Tập sách này sẽ đặc biệt xem xét làm sao mà động lực của những gì người xưa gọi là các “nhân đức đối thần” lại trở nên trọng tâm của đời sống thiêng liêng.  Nó cũng nhấn mạnh vai trò chính yếu của đức cậy trong sự trưởng thành nội tâm của chúng ta.  Đức trông cậy không được trau dồi thực sự nếu tách khỏi sự khó nghèo trong tâm hồn.  Như thế, toàn bộ cuốn sách được xem là một luận đề về mối phúc thứ nhất, “Phúc ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ”.
           Chúng ta sẽ trở lại một số đề tài đã được bàn đến trong những cuốn sách trước của tôi và chúng sẽ được phân tích sâu sắc hơn: bình an bên trong, đời sống cầu nguyện và sự dễ bảo đối với Thánh Thần.
           Khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba, cuốn sách này hy vọng sẽ giúp những ai ước ao mở lòng mình ra đón nhận sự canh tân nội tâm kỳ diệu mà Chúa Thánh Thần muốn mang đến cho tâm hồn con người; bằng cách này, họ đạt tới sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa.

Download (PDF, 1.09MB)

Download tác phẩm: Sách dạng pdf, xin nhấn vào đây để tải về máy.

TÌM KIẾM VÀ GIỮ LẤY BÌNH AN

23Một tiểu luận nói đến Bình An Nội Tâm

Nguyên tác: Recherche la Paix et Poursuis-la
Bản tiếng Anh: Searching for and Maintaining Peace (George & Jannic Driscoll)
Tác giả: Jacques Philippe
Dịch giả: LM Minh Anh (Gp. Huế)
Thông tin bản quyền:  Được sự chấp thuận của dịch giả, LM Minh Anh, để post ở suyniemhangngay.net

                                                                            LỜI TỰA

Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em (Cl 3, 15)
Cảm nghiệm, thầy dạy cho con sự bình an
Bằng yêu thương, bình an ngập cõi lòng
Yêu Thiên Chúa, yêu cả người thân cận
Là lối thẳng, con tới bến chờ mong (Thánh Gioan Bonilla)
           Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy biến động và lắng lo.  Khuynh hướng này không chỉ hiển nhiên trong đời sống thường nhật của những người đương thời với chúng ta mà còn thường xuyên biểu hiện trong đời sống thiêng liêng cũng như trong đời sống Kitô giáo.  Việc kiếm tìm Thiên Chúa, dõi theo đường thánh thiện và những nỗ lực yêu thương phục vụ tha nhân của chúng ta vẫn thường xuyên bị đe doạ bởi muôn vàn âu lo và vô số biến động thay vì đầy tin tưởng và bình an – mà lẽ ra chúng ta sẽ có một khi thấm đượm tinh thần trẻ thơ như Tin Mừng đòi hỏi.
           Tuy nhiên, cần biết rằng, con đường dẫn đến Thiên Chúa, dẫn đến sự trọn lành mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi chúng ta thì ngắn hơn, hiệu năng hơn và thật hiển nhiên, dễ dàng hơn khi chúng ta học biết dần dần cách thức giữ lấy bình an thẳm sâu trong tâm hồn ở bất cứ hoàn cảnh nào.  Vì lẽ, lúc bấy giờ, tâm hồn đã phó mặc cho sự dẫn dắt của Thánh Thần, và với ân sủng của Người, Thiên Chúa có thể hành động nhiều hơn những gì mà tâm hồn có thể thực hiện bằng sức riêng của mình.
           Đó là những gì chúng tôi hy vọng làm sáng tỏ qua những ưu tư được trình bày trong phần một của cuốn sách này.  Tiếp đến, hãy nhìn lại một số hoàn cảnh chúng ta thường gặp và tìm cách giải thích cách thức đương đầu với chúng dưới ánh sáng Tin Mừng, để từ đó, mỗi người có thể giữ lấy bình an nơi tâm hồn.  Theo truyền thống của Hội Thánh, giáo huấn này thường được truyền đạt bởi những bậc thầy linh hướng.  Phần ba của cuốn sách giới thiệu một số bản văn chọn lọc của những tác giả thuộc các thời đại khác nhau, đó là những chia sẻ và minh hoạ về các chủ đề mà một vài vị linh hướng sẽ trình bày.

Download (PDF, 841KB)

Download tác phẩm: Sách dạng pdf, xin nhấn vào đây để tải về máy

ĐƯỢC GỌI ĐỂ SỐNG

56Nguyên tác: Appelés à la vie
Bản tiếng Anh: Called to Life (Neal Carter)
Tác giả: Jacques Philippe
Dịch giả: LM Minh Anh (Gp. Huế)
Thông tin bản quyền:  Được sự chấp thuận của dịch giả, LM Minh Anh, để post ở suyniemhangngay.net

                                                                       GIỚI THIỆU

           Làm thế nào tôi có thể sống một cuộc sống sung mãn?  Bằng cách nào tôi được hạnh phúc?  Làm sao tôi có thể trở thành một người nam hay một người nữ trọn vẹn?  Những câu hỏi muôn thuở đó được đặt ra ngày càng nhiều trong thế giới hôm nay, một thế giới mất phương hướng, một thế giới mà ở đó, không ai chấp nhận những giải pháp có sẵn và mỗi người phải tự tìm lấy những câu trả lời.  Chống lại những chuẩn mực áp đặt từ bên ngoài, con người hôm nay, trong thực tế, tìm cách tận dụng cuộc sống và xây dựng hạnh phúc theo hiểu biết riêng của họ về nó.  Lý tưởng hạnh phúc của một con người đến từ nền giáo dục và trải nghiệm riêng của họ; thế nhưng, dẫu nhận ra hay không nhận ra điều đó, lý tưởng đó vẫn được khuôn rập đậm nét bởi văn hoá và các phương tiện truyền thông đương thời.  Thông thường, hạnh phúc như thế thật mong manh, nó không thể đứng vững khi con người đối diện với ốm đau, thất bại, chia ly và những thử thách phải đương đầu khác.  Và rồi, dường như cuộc đời không thể hiện những gì đã hứa hẹn với chúng ta từ thuở thanh xuân.
           Dẫu vậy, tôi vẫn tin rằng, cuộc đời mỗi người là một hành trình kỳ diệu.  Mặc cho gánh nặng của những khổ đau và thất vọng, cuộc sống vẫn ban tặng mỗi người những phương tiện để lớn lên trong nhân cách, tự do và bình an nội tâm; đồng thời, cuộc sống vận dụng toàn bộ khả năng của con người hầu giúp nó đạt đến tình yêu và niềm vui.  Tuy nhiên, với một điều kiện, mỗi người phải từ bỏ những dự định riêng hầu cuộc sống có thể dẫn dắt họ qua từng biến cố vui buồn đang khi học biết và đón nhận những lời mời gọi ngỏ với mình từ ngày này qua ngày khác.
           “Lời mời gọi” là từ khóa của cuốn sách này.  Ý tưởng đơn giản nhưng đầy ý nghĩa này chắc chắn sẽ là nền tảng của những dự định đạo cũng như đời nơi chúng ta.  Con người không thể đạt được viên mãn bằng cách chỉ thực hiện những kế hoạch riêng của mình.  Những kế hoạch này tuy chính đáng, cần thiết và phải đem trí óc, sức lực của mình ra để hoàn thành; nhưng ngần ấy chưa đủ, vì khi gặp phải thất bại nó có thể khiến chúng ta vỡ mộng.
           Một thái độ khác, một thái độ mà cuối cùng mang tính quyết định và hiệu quả hơn; thái độ này phải đi cùng với sự khởi đầu và thực hiện những kế hoạch của chúng ta: đó là thái độ lắng nghe những tiếng gọi, những lời mời gọi lúc này lúc khác, bí nhiệm… liên tiếp đến với chúng ta trong suốt cuộc đời.  Thái độ lắng nghe và sẵn sàng này thậm chí còn quan trọng hơn chính những kế hoạch.  Tôi tin rằng, chúng ta có thể hoàn thiện nhân cách chỉ khi nào biết đón nhận và đáp trả những tiếng gọi mà cuộc sống ngỏ với chúng ta mỗi ngày: tiếng gọi thay đổi, lớn lên, trưởng thành, mở rộng lòng và chân trời hiểu biết, bỏ lại đằng sau sự chai cứng của con tim và đầu óc hẹp hòi của mình để đón nhận thực tại cách tin tưởng và rộng mở hơn.
           Những lời mời gọi này đến với chúng ta bằng nhiều cách.  Đôi khi chúng đến qua những trải nghiệm hay gương lành của những người khác khiến chúng ta xúc động, thi thoảng chúng đến từ những khát khao dấy lên trong lòng mình hoặc từ những đòi hỏi của người thân và thông thường, chúng đến từ những trang Thánh Kinh.  Những lời mời gọi này bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta sự sống, Đấng không ngừng dõi mắt trên chúng ta, dịu dàng mong mỏi dẫn dắt và luôn can thiệp cho mỗi con cái Người cách kín đáo, dầu không thể nhìn thấy nhưng lại rất hiệu quả.  Dẫu rất nhiều người, tiếc thay, không ý thức sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa, lời mời gọi này vẫn tự bộc lộ cho những ai biết đặt mình trong thái độ lắng nghe và sẵn sàng.
           Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải của kẻ chết.  Người không ngừng đưa tay với lấy chúng ta, cách mầu nhiệm nhưng chắc chắn, Người thông chuyển vào sự sống mỗi người các giá trị, vẻ đẹp và hoa trái ngoài sức tưởng tượng như lời thánh Phaolô đã nói:
Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới; xin tôn vinh Người trong Hội Thánh và nơi Đức Kitô Giêsu đến muôn thuở muôn đời. Amen (Ep 3, 20-21).
           Thật đáng buồn nếu con người tự tách khỏi hành động của Thiên Chúa và chôn vùi chính mình trong thế giới hạn hẹp, hão huyền của những dự tính riêng.
           Đằng sau bao lời mời gọi gởi đến trong cuộc sống, chỉ có một tiếng gọi duy nhất: tiếng gọi của Thiên Chúa. Tiếng gọi đó thể hiện đầy tràn và trọn vẹn nhất trong mầu nhiệm Đức Kitô. Nhận biết và đáp lại tiếng gọi này, con người nhận ra nhân tính của mình và khám phá hạnh phúc đích thực, một niềm hạnh phúc sẽ thuộc về họ cách trọn vẹn trong vinh quang của cuộc sống mai ngày. Trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô, thánh Phaolô nói đến niềm hy vọng phi thường mà tiếng gọi của Thiên Chúa trong Đức Kitô mở ra cho chúng ta:
           Tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì anh em, khi nhắc tới anh em trong những lời cầu nguyện của tôi.  Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu (Ep 1, 16-19).
           Trong những trang tiếp theo tôi muốn đưa ra tầm quan trọng và những hoa trái tốt đẹp của ý tưởng này, sau đó tôi sẽ bàn đến một số hoàn cảnh trong đó, thường bắt gặp tiếng gọi của Thiên Chúa, đó là: những biến cố lớn trong cuộc đời, Lời Chúa (chủ đề của một chương dài) và những khát khao mà Thánh Thần đánh thức trong tâm hồn chúng ta.
           Tôi sẽ nhấn mạnh rằng, mỗi tiếng gọi đến từ Thiên Chúa đều là một lời mời gọi đến với sự sống. Ơn gọi đầu tiên của chúng ta là sống.  Một tiếng gọi không thể xuất phát từ Thiên Chúa trừ phi nó dẫn chúng ta đến một cuộc sống mãnh liệt hơn, một cách thức sống tươi đẹp hơn và gắn kết vào sự sống vốn có của con người đúng nghĩa của nó với một niềm tin tưởng hơn trong mọi khía cạnh: thể lý, tâm lý, tình cảm, trí tuệ và tâm linh.
           Nhưng để kết thúc phần giới thiệu này, tôi muốn nói đến tiềm năng độc giả có thể có được từ cuốn sách này.  Tôi coi ý tưởng “được gọi” trong một ngữ cảnh Kitô giáo, được sử dụng như một từ vựng nhà đạo bởi tôi tin phần lớn những từ ngữ sâu sắc, được soi sáng đã từng được thốt ra trong thân phận con người đều có thể được tìm thấy trong Thánh Kinh và đặc biệt trong Tin Mừng.  Dẫu thế, bất cứ ai cũng có thể tìm ở đây nhiều điều thật giá trị.  “Được Gọi” là một cái gì thật là nền tảng đối với thân phận con người.
           Cuối cùng, một đôi nét về trách nhiệm, tự do và khao khát.
           Trách nhiệm bao hàm sự hiện hữu của một tiếng gọi, của một bổn phận.  Một người chịu trách nhiệm về những hành động của mình không chỉ nhận trách nhiệm về ảnh hưởng của họ đối với tha nhân, nhưng còn thừa nhận, họ có những chọn lựa trước khi hành động, có thể tốt hoặc xấu tuỳ trường hợp. Dẫu vậy, để ý tưởng tự do có trọng lượng thực sự, giả thiết phải cần đến việc nhận ra một loại tiếng gọi nào đó.  Việc sử dụng tự do của con người sẽ trở nên tuỳ tiện và tầm thường trừ phi đó là sự đáp lại một lời mời gọi đến từ một điều gì đó trỗi vượt hơn nó.  Còn đối với lòng khao khát, nó chỉ trở nên một cấu trúc tâm lý đơn thuần, sản phẩm của một sự thôi thúc giả tạo trừ phi nó được hiểu ở một cấp độ sâu thẳm nhất như một tiếng gọi.  Bên dưới những khát khao vốn thường mâu thuẫn nhau của lòng người, một khao khát kiên định đang tiềm tàng: khát khao nên hoàn hảo, khát khao hạnh phúc. Để khát khao có thể được tôn trọng như một điều gì đó không thể bị coi thường, một điều gì đó thuộc về con người thực sự, chứ không chỉ đơn thuần ít nhiều thèm muốn hay thôi thúc, chúng ta phải nhìn thấy trong nó những dấu vết của một tiếng gọi đến từ trên cao.
           Sẽ không làm sao hiểu được con người nếu tách nó khỏi một tiếng gọi trở nên người hơn.  Vậy tiếng gọi đó đến từ đâu?  Đâu là nguồn cội của nó?  Đây là câu hỏi then chốt của một cuộc đời.  Dẫu đứng trong quan điểm Kitô giáo, tôi vẫn tin rằng, những suy tư sau đây vẫn có một điều gì đó để nói với bất cứ ai thành tâm thiện chí.

Download (PDF, 1.3MB)

Download tác phẩm: Sách dạng pdf, xin nhấn vào đây để tải về máy.

DÀNH GIỜ CHO CHÚA

xyz

Nguyên tác: Du temps pour Dieu
Bản tiếng Anh: Time for God (Helena Scott)
Tác giả: Jacques Philippe
Dịch giả: LM Minh Anh (Gp. Huế)
Thông tin bản quyền:  Được sự chấp thuận của dịch giả, LM Minh Anh, để post ở suyniemhangngay.net

                                                             DẪN NHẬP

Theo truyền thống Công Giáo Tây Phương, thuật ngữ “cầu nguyện” bao gồm nhiều hoạt động khác nhau.  Những trang sau đây tập trung chủ yếu vào việc kết hiệp với Chúa: cầu nguyện, bao gồm việc đối diện với Thiên Chúa trong cô tịch, và lặng thinh vào một khoảng thời gian nào đó để đi vào thông hiệp mật thiết yêu thương với Người.  Các nhà linh hướng bậc thầy coi việc thực hành đều đặn hình thức cầu nguyện này là con đường ưu tiên không thể thiếu dẫn vào một đời sống Kitô hữu đích thực – một con đường dẫn đến hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa, con đường giúp mỗi người đáp lại lời mời gọi nên thánh mà Người gửi đến cho chúng ta.

Một sự kiện thật tuyệt vời, ngày nay, đang có nhiều người khát khao Thiên Chúa, họ cảm thấy khao khát mãnh liệt một đời cầu nguyện riêng tư; họ ước mong làm sao có được thời giờ dành cho việc cầu nguyện như một cái gì đó thật đều đặn.  Thế nhưng, họ lại phải đương đầu với những trở ngại… nên không thực hiện ước mơ đó một cách nghiêm túc, đặc biệt thực hành nó cách kiên trì.  Đôi khi, họ không nhận được một lời khích lệ cần thiết nào đó để thúc giục họ bắt đầu, hoặc cảm thấy bất lực vì họ hoàn toàn không biết phải khởi sự làm sao.  Thỉnh thoảng, sau một vài cố gắng, họ thoái chí trước những khó khăn và rồi, bỏ luôn việc cầu nguyện.  Điều đó thật đáng tiếc, vì theo những chứng từ hiển nhiên của tất cả các thánh, kiên trì kết hiệp với Chúa là cánh cổng hẹp dẫn chúng ta vào Nước Trời; đó là phương thế duy nhất giúp con người lãnh nhận những quà tặng “mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người” (1Cr 2, 9).  Kết hiệp với Chúa là nguồn mạch hạnh phúc đích thực.  Ai trung thành kết hiệp với Chúa sẽ không bỏ lỡ việc “nếm thử và nhìn xem Chúa tốt lành biết mấy” (Tv 34).  Ai kết hiệp với Chúa sẽ tìm thấy nước trường sinh Đức Giêsu đã hứa ban, “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4, 14).

Xác tín chân lý này, tôi muốn đưa ra trong tập sách bạn đang có trên tay một vài lời khuyên, một ít định hướng và một số thực hành cụ thể trong việc kết hiệp với Chúa cách đơn giản cũng như rõ ràng hết sức có thể.  Tôi hy vọng điều này có thể giúp ích cho hết thảy những ai thành tâm ước mong kết hiệp với Chúa để rồi họ cũng có thể bắt đầu cất bước và vững tiến trên con đường cầu nguyện mà không bị trấn áp bởi những khó khăn không thể tránh khỏi.

Rất nhiều sách vở bàn đến công việc này.  Các nhà chiêm niệm tên tuổi đã nói đến kết hiệp với Chúa hay hơn tôi nhiều và tôi sẽ thường xuyên trích dẫn lời họ.  Tuy nhiên, đối với tôi, các tín hữu ngày nay xem ra đang cần một sự trình bày về giáo huấn truyền thống của Hội Thánh làm sao cho thật đơn giản và dễ tiếp cận hơn, làm sao việc trình bày đó có thể thích ứng với nhãn quan và ngôn ngữ của thời đại.  Để trình bày được như thế, giả thiết cũng cần đến một khoa sư phạm nào đó mà theo sự khôn ngoan của mình, Thiên Chúa đang dùng hôm nay để dẫn dắt các linh hồn đến sự trọn lành; dĩ nhiên, không phải lúc nào khoa sư phạm đó cũng giống với những gì thuộc các thế kỷ trước.  Đó là những lý do khiến tôi viết nên tập sách này.

Download (PDF, 899KB)

Download tác phẩm: Sách dạng pdf, xin nhấn vào đây để tải về máy.

THẦY DẠY KHÁT KHAO

Đọc Tin Mừ1ng Theo Thánh Gioan

Nguyên tác: Le Maître du désir
Tác giả: Eloi Leclerc
Dịch giả: LM Minh Anh (Gp. Huế)
Thông tin bản quyền:  Được sự chấp thuận của dịch giả, LM Minh Anh, để post ở suyniemhangngay.net
Imprimi potest:  Fr. Abel Basneville
Secrétaire provincial des Franciscains, Paris, le 12 février 1997

                                                                GIỚI THIỆU

Con người muốn sống. Con người được tạo dựng để sống. Không chỉ tự nhiên tìm cách bảo tồn sự sống, nhưng chúng ta còn muốn phát triển nó, làm cho cuộc sống của mình hạnh phúc hơn, tươi đẹp hơn, thanh cao hơn, mạnh mẽ hơn; tắt một lời, sống động hơn. “Vì chưng, gánh nặng nặng nề nhất là tồn tại mà không sống” (Victor Hugo).  Sống có ý nghĩa gì nếu không có niềm vui sống?

Đấng Tạo Thành đã đặt trong chúng ta khát vọng sống mãnh liệt này. Thánh Irênê thành Lyon viết, “Vinh quang Thiên Chúa, chính là con người sống”. Thiên Chúa chúng ta không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của kẻ sống. Sứ điệp Tin Mừng nhất thiết phải là một sứ điệp sự sống. Đấng Phục Sinh mở cho chúng ta hành trình của một cuộc sống không suy tàn, một cuộc sống chiến thắng mọi quyền lực sự chết.

Trong bốn sách Tin Mừng, Tin Mừng Gioan hẳn là cuốn sách nói với chúng ta nhiều nhất về sự sống sung mãn Đức Giêsu mang đến cho trần gian. Vì thế, không thể đọc Tin Mừng này nếu ở mỗi trang, chúng ta không ý thức đặt mình dứt khoát trước sự hiện diện của một sức sống tuôn tràn, toàn vẹn, rạng rỡ được trao ban một cách hào phóng vô hạn. Về sức sống này, thánh Gioan so sánh nó với cảnh mặt trời mọc. Dường như ngay khi lần đầu trào tuôn, khi sự sống đó vừa bộc lộ thì những con mắt trần gian phải nhoà đi. Dường như khi cốt lõi sự sống vừa hé mở và để lộ bí mật cho vị tông đồ trẻ thì tận đáy lòng Gioan đã dậy lên một niềm thôi thúc, một năng lực sáng tạo, một năng lực của những khởi đầu vĩ đại. Bức thư thứ nhất của Gioan đã làm vang vọng sự phấn chấn của tác giả Tin Mừng thứ tư, “Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi” (1Ga 1, 2).

Download (PDF, 1.08MB)

Download tác phẩm: Sách dạng pdf, xin nhấn vào đây để tải về máy.

BÀI CA CỦA BÌNH MINH

Ngu12yên tác: The Song of The Dawn
Tác giả: Eloi Leclerc
Dịch giả: LM Minh Anh (Gp. Huế)
Thông tin bản quyền:  Được sự chấp thuận của dịch giả, LM Minh Anh, để post ở suyniemhangngay.net

Nihil Obstat: Mark P. Hegener, O.F.M. Censor Deputatus
Imprimatur: Msgr. Richard A. Rosemeyer, J.C.D. Vicar General, Archdiocese of Chicago

                                                                  LỜI NÓI ĐẦU

Người ta có thể ngạc nhiên khi những ý tưởng sâu sắc lại được tìm thấy trong những tác phẩm thi ca của các nhà thơ hơn là của các triết gia; bởi lẽ, nhà thơ vận dụng hết mọi nỗi niềm và khai thác tối đa khả năng tưởng tượng.  Như đá lửa, trong chúng ta, có những hạt giống của ánh sáng.  Qua lý trí, triết gia khơi dậy chúng, đang khi nhà thơ làm cho chúng chiếu toả rạng ngời hơn nhờ đặc ân tưởng tượng.
Descartes, Cogitationes Privatae
           Không gì lố bịch bằng khi lỗ tai một con lừa thòi ra dưới chiếc mũ của một bác sĩ.  Có lần ở Montréal, tôi tổ chức một cuộc hội thảo về Bài Ca Thọ Tạo của Thánh Phanxicô Assisi.  Trong cuộc trao đổi theo sau bài nói chuyện, một người rất danh giá đưa ra nhận định, “Thế giới, trong đó thánh Phanxicô sống, có một đầu óc tiền khoa học và cách tự nhiên, ngài đã chia sẻ trí lực này.  Đây là lý do tại sao ngài có thể nói về “Chị Nước của chúng ta.”  Nhưng với những nhãn quan khoa học hôm nay, chúng ta không thể nói theo cách này nữa; thậm chí không thể nói là nước nữa nhưng phải nói “H2O.””
          
“Bạn quá duy lý đến nỗi không thể tin vào mặt trời,” Holderin nói với các tác giả tư sản thời mình. Tương tự, tôi có thể đáp lại diễn giả trên, “Ngài quá duy lý đến nỗi không tin vào Chị Nước.”
          
Sẽ không ngoài lề khi nhắc lại rằng, thơ không phải là một ngôn ngữ tiền khoa học, tiền lý trí hay một cách thức diễn đạt những gì sơ khai và cổ thời mà khoa học đã thay thế.  Khoa học là một ngôn ngữ, thơ là một ngôn ngữ khác.  Thơ không chỉ diễn đạt sự vật cách khác nhưng còn nói lên những điều gì đó. Khi khen ngợi thế giới, nhà thơ nói đến giấc mơ thâm sâu của con người.  Vì thế, cả khi dường như đang mô tả thiên nhiên, nhà thơ vẫn có thể thổ lộ một bí mật mà chỉ linh hồn mình biết.  Mọi thơ ca đều bí ẩn, chúng tiến về một vùng đất hứa khởi từ một thiên đường bị lạc mất.  Vì thế, thơ ca mở rộng thế giới với những tưởng tượng, với những kỳ quan.  Nhưng như Aragon cho thấy, “Kỳ quan có giá trị như một đối kháng chống lại một thế giới phân tán cũng như sáng tạo và siêu việt vốn dẫn đến một thế giới tốt đẹp hơn.”
          
Hãy cùng đọc lại Bài Ca Anh Mặt Trời của Phanxicô Assisi trong ánh sáng này.
           Khi hát về thọ tạo, Phanxicô không chỉ nói đến những gì bên ngoài nhưng còn gợi lên cả một thực tại mênh mông mới mẻ bên trong; ở đó, tinh thần con người và thọ tạo vật chất gặp nhau, cùng khám phá chính mình trong một sự hài hòa tuyệt diệu.  “Anh Mặt Trời”, “Chị Nước”, chúng ta cần trở nên một nhà thơ lớn để có thể đặt những từ ngữ đơn giản này lại với nhau; thậm chí lớn hơn nữa, để dám nói, “Chị, Mẹ Trái Đất của chúng ta.”  Những lời lẽ thường ngày này bất ngờ được kết hợp trong tình yêu và ước mơ, tổ chức một cuộc về nhà; chúng diễn đạt một sự giao hòa bí nhiệm; ở đó, con người và thế giới được tái sinh trong sự hiệp nhất ban đầu.
           Thế nhưng, chiều sâu của kinh nghiệm này sẽ qua đi nếu chúng ta quên rằng, Bài Ca Thọ Tạo trước tiên là một tiếng ca ngợi khen ngân vang đến tận Đấng Tối Cao, Đấng vượt trổi, Đấng mà con người không thể gọi tên Ngài. Sự tinh tế của bài ca nằm ở chỗ là một tiếng kêu thất thanh lên tận Đấng siêu việt, vốn được khẳng định rất rõ ràng trong khổ thơ đầu tiên và dường như con người phải được nới lỏng khỏi trần thế để rồi bất chợt được dẫn đến một sự hiệp thông huynh đệ và diệu kỳ với mọi thọ tạo. Tiếng kêu thấu tận tầng trời cao nhất ở đây băng xuyên qua sự hiệp thông này.  Đó là điểm đầu tiên mà chúng ta cố gắng đưa ra ánh sáng.
           Điểm thứ hai cũng cần được lưu ý.  Hiệp thông huynh đệ với các thọ tạo cùng sự tán dương nồng nhiệt, hiệp thông ấy diễn đạt cũng là ngôn ngữ của con người mở ra với tất cả hữu thể của mình. Con người không thể có một tương quan huynh đệ đích thực và mật thiết với các yếu tố trong vũ trụ nếu không hoà quyện chính mình với tất cả những gì mà các yếu tố này biểu trưng, nghĩa là, tìm về những dấu tích từ nội tâm của mình, với tất cả những sức mạnh đen tối bao gồm hữu thể ban đầu của nó.
           Trong Bài Ca Mặt Trời, Phanxicô khám phá ý nghĩa chói lọi của thọ tạo nhưng ngài khám phá bằng cách bắt đầu từ một trải nghiệm bên trong vốn là một cuộc khởi nguyên mới, một cuộc sáng tạo mới.  “Dường như ngài là một con người mới, một con người của thời đại đang đến,” người viết tiểu sử đầu tiên của ngài nói về ngài như thế. Chính trong việc trở thành con người mới này mà Phanxicô nhận biết ý nghĩa của thọ tạo.  Bài ca của ngài không chỉ là sự tri ân đầy xúc động với Tạo Hoá, nhưng còn thực hiện một sự biến đổi bên trong.  Ngài ca khen cuộc sáng tạo mới nơi chính tâm hồn con người.
           Phanxicô Assisi không viết những luận đề uyên bác, nhưng khi muốn nói cho chúng ta nhãn quan của mình về vạn vật, thì người anh em của những người hát rong này bắt đầu hát.  Ngài hát về mọi thọ tạo và trong bài hát của mình, ngài cho chúng ta thấu hiểu những chiều kích sâu xa của tâm hồn, trong đó, những năng lực căn bản của đời sống đã phục hồi tính trong suốt ban đầu cùng sự chói ngời của mặt trời lóe sáng.

Download (PDF, 520KB)

Download tác phẩm: Sách dạng pdf, xin nhấn vào đây để tải về máy.

SADHANA – MỘT NẺO ĐƯỜNG DẪN TỚI THIÊN CHÚA

123Linh Thao Kitô Giáo Theo Lối Đông Phương

(Toàn tập, Không rút gọn)
Nguyên tác Anh ngữ: SADHANA – A WAY TO GOD – Christian Exercises in Eastern Form
Tác giả:  Anthony De Mello S.J.
Dịch giả: LM Minh Anh (Giáo Phận Huế)
Thông tin bản quyền:  Được sự chấp thuận của dịch giả, LM Minh Anh, để post ở suyniemhangngay.net
Imprimi Potest: Bertram Philipps, S.J. Praep. Prov. Bomb.
Imprimatur:  +C. Gomes, S.J. Bishop of Ahmedabad
January 24, 1978 AN IMAGE BOOK PUBLISHED BY DOUBLEDAY (1984)

                                                GIỚI THIỆU

Trải qua mười lăm năm trong đời với tư cách là một người giảng phòng và linh hướng giúp nhiều người cầu nguyện, tôi nghe hàng chục người than phiền rằng, họ không biết phải cầu nguyện thế nào; dẫu đã nỗ lực hết sức, dường như họ vẫn không đạt được tiến bộ nào trong việc cầu nguyện; họ thấy cầu nguyện thật buồn tẻ và nhàm chán.

Tôi cũng nghe nhiều vị linh hướng nhìn nhận sự bất lực trong việc chỉ dẫn cách thức cầu nguyện cho người khác, hoặc chính xác hơn, làm thế nào để có được sự no thoả và tràn đầy từ việc cầu nguyện. Điều này luôn làm tôi ngạc nhiên, vì lẽ tôi thấy việc giúp người khác cầu nguyện là điều tương đối dễ dàng. Không chỉ dựa vào một vài uy tín cá nhân của mình để nói lên điều đó, nhưng tôi còn quy nó vào một vài nguyên tắc rất đơn giản mà tôi đã theo đuổi trong đời sống cầu nguyện riêng của mình cũng như trong việc hướng dẫn những người khác về vấn đề cầu nguyện. Nguyên tắc thứ nhất, cầu nguyện là một thao luyện mang lại sự tràn đầy và no thoả, và thật hoàn toàn hợp lý để tìm kiếm những điều này từ việc cầu nguyện. Nguyên tắc thứ hai, cầu nguyện là công việc của con tim hơn là của lý trí. Quả vậy, càng sớm thoát khỏi lý trí và lãnh vực suy tư, cầu nguyện càng có khả năng trở nên hoan hỷ và bổ ích. Phần lớn các linh mục và tu sĩ coi việc cầu nguyện ngang với việc suy tư, đó chính là nguyên nhân thất bại của họ. Có lần, một người bạn Dòng Tên nói với tôi rằng, anh đã đến gặp một vị thiền sư Ấn Giáo để hỏi ông về bước đầu của nghệ thuật cầu nguyện. Vị thiền sư nói với anh, “Hãy tập trung vào hơi thở”. Bạn tôi tiến hành thực hiện chỉ ngần ấy trong vòng năm phút. Đoạn, thiền sư nói, “Khí mà con đang hít thở là Thiên Chúa, con đang hít Thiên Chúa vào, con đang thở Thiên Chúa ra. Hãy ý thức điều đó, và tiếp tục chăm chú lắng nghe ý thức đó”. Sau khi điều chỉnh phần nào câu nói ấy theo cái nhìn thần học, bạn tôi đã làm theo những chỉ dẫn này – hết giờ này qua giờ nọ, ngày này qua ngày khác – và anh rất đỗi ngạc nhiên khi khám phá rằng, cầu nguyện cũng có thể đơn giản như việc hít vào, thở ra. Đồng thời, anh cũng khám phá trong việc luyện tập này một chiều kích thẳm sâu, một sự no thoả và bổ dưỡng tinh thần mà anh không tìm thấy trong nhiều giờ đã dành trọn cho việc cầu nguyện trong nhiều năm.

Những thao luyện tôi đề nghị trong tập sách này rất phù hợp với phương pháp của vị thiền sư Ấn Giáo kia, người mà tôi chưa từng gặp cũng như chưa từng nghe nói kể từ ngày đó. Tôi cũng nắm một số nguyên tắc trong vấn đề cầu nguyện, nhưng tôi sẽ nói về chúng cùng với những thao luyện theo sau và sẽ giải thích chúng tiềm ẩn đàng sau những thao luyện đó như thế nào.

Tôi thường đề nghị những thao luyện này cho các nhóm. Tôi gọi họ là Các Nhóm Cầu Nguyện, hay đúng hơn, Các Nhóm Chiêm Niệm, trái với quan niệm chung, một nhóm suy niệm nào đó. Quả vậy, trong những hoàn cảnh nào đó, chiêm niệm thực hiện theo nhóm thì hiệu quả hơn thực hành riêng lẻ. Tôi viết ra những thao luyện này ở đây, hầu như chính xác theo hình thức và ngôn từ dành riêng cho các nhóm. Nếu bạn dự định hướng dẫn một Nhóm Chiêm Niệm và dùng tập sách này như một tài liệu, thì những gì bạn phải làm là lấy bản văn của mỗi thao luyện, đọc nó cho nhóm một cách chậm rãi và xin nhóm thực hiện theo những chỉ dẫn bạn đã đọc cho họ. Bản văn, dĩ nhiên, sẽ phải được đọc chậm rãi, cần tạm ngưng nhiều chỗ, đặc biệt những chỗ đánh dấu ba chấm. Chỉ đọc bản văn cho những người khác sẽ không làm bạn trở nên một hướng dẫn viên giỏi của một Nhóm Chiêm Niệm. Vì rằng, trong mức độ nào đó, chính bạn sẽ phải là một chuyên gia chiêm niệm. Bạn sẽ phải cảm nghiệm một đôi điều mà bạn đang đọc cho những người khác, và bạn cũng phải có một vài kỹ năng trong nghệ thuật linh hướng.

Những thao luyện này không thay thế những kinh nghiệm cá nhân và những kiến thức linh hướng, nhưng chúng sẽ phù hợp với một khởi đầu tốt, và chắc chắn, chúng sẽ thực hiện cho bạn và nhóm của bạn một vài điều hữu ích. Tôi cẩn thận loại khỏi tập sách này những thao luyện vốn đòi hỏi người hướng dẫn cầu nguyện phải là một chuyên gia. Và nếu có bất kỳ nguy cơ gây hại nào trong quá trình thực hành bất cứ bài nào trong những thao luyện này, tôi sẽ chỉ ra và hướng dẫn cách thức để tránh.

Tôi dâng tập sách này cho Đức Trinh Nữ Maria, mà với tôi, Ngài luôn luôn là một mẫu gương chiêm niệm. Hơn thế, tôi tin rằng, chính lời chuyển cầu của Ngài đã giành biết bao hồng ân cho tôi và cho nhiều người được tôi hướng dẫn trong việc cầu nguyện; nếu không có sự chuyển cầu ấy, chúng tôi sẽ không bao giờ có được những hồng ân đó. Đây là lời khuyên đầu tiên của tôi dành cho bạn nếu bạn ước ao thăng tiến trong nghệ thuật chiêm niệm: Hãy xin Mẹ Maria làm Quan Thầy và xin lời cầu thay nguyện giúp của Ngài trước khi cất bước vào nẻo đường này. Ngài được đặc sủng lôi kéo Thánh Thần xuống trên Giáo Hội như Ngài đã làm trong biến cố Truyền Tin và Lễ Ngũ Tuần khi cầu nguyện với các Tông Đồ. Nếu bạn xin Mẹ Maria cùng cầu nguyện với bạn và cho bạn, bạn thật may mắn.

Download (PDF, 774KB)

Download tác phẩm: Sách dạng pdf, xin nhấn vào đây để tải về máy.

THÁNH AMBRÔSIÔ

ZZMột trong các người viết tiểu sử về thánh Ambrôsiô nói rằng: Vào ngày Phán Xét Chung sẽ vẫn còn sự tách biệt giữa những người thích thánh nhân và những người cực kỳ ghét bỏ ngài.  Thánh Ambrôsiô nổi tiếng là một người có những quyết định táo bạo ảnh hưởng đến đời sống của những người cùng thời.

Vào năm 33 tuổi, thánh Ambrôsiô đã có tất cả mọi sự – một sự nghiệp đầy hứa hẹn là luật sư, một vị thế quan trọng trong chính trường là tổng trấn Milan, ngoài ra ngài còn là người bạn và đồng chí với hoàng đế, cùng với một gia tài kếch sù.

Và rồi vị giám mục của Milan từ trần.  Vào lúc ấy, khoảng năm 374, nhiều tà giáo muốn tiêu diệt Giáo Hội.  Vị cố giám mục Milan từng hậu thuẫn cho lạc giáo Arian chống lại giáo huấn về thiên tính của Ðức Kitô.  Vậy ai sẽ là người kế vị – người Công Giáo hay người của phe Arian?  Cả hai phe đụng độ nhau ở vương cung thánh đường và một cuộc bạo động xảy ra.

Duy trì trật tự công cộng là trách nhiệm của quan tổng trấn Ambrôsiô, nên ngài vội vã chạy đến nhà thờ và hùng hồn lên tiếng, không ủng hộ phe phái nào cả, nhưng ủng hộ sự hoà bình.  Ngài xin dân chúng hãy bình tĩnh, kềm chế sự nóng nẩy và chọn lựa giám mục mà không cần phải xô xát.

Trong khi ngài đang nói, bỗng dưng có người hô to, “Bầu Ambrôsiô làm giám mục!”  Thế là tất cả mọi người đều đồng thanh, “Ambrôsiô là giám mục!”

Các vị giám mục khác của tỉnh thì quá vui mừng khi được phủi tay trước vấn đề khó khăn này.  Nhưng Ambrôsiô không dễ hy sinh một sự nghiệp đầy hứa hẹn để chấp nhận công việc của một giám mục đầy nguy hiểm – một công việc ảnh hưởng đến tính mạng trong thời lạc giáo.  Bởi thế Ambrôsiô bỏ trốn.  Khi ngài cầu viện đến hoàng đế để thay đổi quyết định nói trên với lý do là ngài chưa rửa tội, vị hoàng đế lại tuyên bố rằng ông rất vui mừng khi chọn được quan tổng trấn thích hợp với chức giám mục.  Ambrôsiô trốn tránh trong nhà của một nghị sĩ, nhưng ông này đã đem nộp Ambrôsiô khi ông biết quyết định của hoàng đế.

Không còn biết trốn vào đâu nữa, Ambrôsiô ra đầu hàng.  Vì ngài bị ép buộc phải chấp nhận chức giám mục, nên sẽ không ai ngạc nhiên nếu ngài vẫn tiếp tục lối sống cũ, như trước khi được tấn phong. Tuy nhiên, ngay sau đó Ambrôsiô đã phân phát tài sản cho người nghèo và tự đặt mình dưới sự chỉ dẫn của Thánh Simplician để học thần học và Kinh Thánh.

Phe Arian tưởng rằng Ambrôsiô sẽ là giám mục “của họ” vì ngài từng là một viên chức của triều đình, và nhiều người trong chính quyền đều thuộc phe Arian.  Nhưng Ambrôsiô đã dùng sở trường của một luật sư và tài hùng biện để chống lại phe Arian bất cứ nơi nào, dù ở nhà thờ, triều đình, thượng viện, hay ngay cả trong hoàng tộc.  Tính ngoan cố của ngài khi không chấp nhận chức giám mục lúc đầu, nay lại trở thành vũ khí trong cuộc chiến chống lại lạc giáo và giúp ngài quyết tâm theo đuổi sự thánh thiện.

Khi người Goth xâm chiếm đế quốc và bắt nhiều người làm con tin, Ðức Giám Mục Ambrôsiô đã phải dùng chính tài sản của mình để chuộc.  Ngài nói sự bác ái có giá trị nhất là chuộc kẻ tù đầy.  Ngay cả các bình vàng của Giáo Hội, ngài cũng đem bán để lấy tiền chuộc.  Ngài nói, “Cứu vớt các linh hồn cho Chúa thì tốt hơn là duy trì tài sản.  Ðức Kitô đã sai các tông đồ đi rao giảng mà không có vàng bạc, và cũng không cần vàng bạc để thành lập Giáo Hội của Người.  Giáo Hội làm chủ vàng bạc, không phải để tích trữ, nhưng để phân phối và giúp đỡ những người kém may mắn.”

“Chắc chắn Chúa sẽ hỏi chúng ta: ‘Tại sao con lại để quá nhiều người nghèo đói?  Vì con có vàng bạc, con phải cấp dưỡng cho họ’ & Có thể nào chúng ta trả lời rằng: ‘Vì con không muốn để đền thờ của Chúa không được trang hoàng.’  Nhưng những gì không mua được bởi vàng bạc thì cũng không có giá trị bởi vàng bạc.  Phương cách tốt nhất để sử dụng vàng bạc của Ðấng Cứu Thế và hãy cứu vớt những người lâm cảnh hoạn nạn.”

Ðức Giám Mục Ambrôsiô luôn luôn lưu tâm đến người nghèo hơn là quyền lực.  Ngài thường khiển trách người giầu khi lãng quên người nghèo: “Thiên Chúa tạo nên vũ trụ trong một phương cách để tất cả những gì là của chung sẽ đem lại no ấm cho con người, và trái đất là sở hữu chung của tất cả mọi người.  Tại sao bạn lại từ chối một người cũng có quyền đối với thiên nhiên như bạn?  Của cải bạn cho người ăn xin không phải của chính bạn, nhưng đó là phần của người ấy mà bạn phải hoàn trả cho họ.  Trái đất thuộc về tất cả mọi người.  Bởi thế, bạn đang trả nợ mà lại nghĩ đang ban bố một ơn huệ.”

Khi hoàng đế từ trần, Hoàng Hậu Justina, một người phe Arian, trở thành nhiếp chính cho đứa con trai bốn tuổi.  Maximus, một cựu sĩ quan Rôma, biết rằng cái chết của hoàng đế sẽ làm suy yếu đế quốc nên dự định tấn công.  Justina xin Ambrôsiô thương lượng với tên này.  Mặc dù Justina là một kẻ thù, Ambrôsiô đã lên đường thi hành nhiệm vụ và đã thuyết phục được Maxima ngừng xâm lăng.

Thay vì biết ơn Ambrôsiô, Hoàng Hậu Justina lại yêu cầu Ðức Giám Mục Ambrôsiô trao lại vương cung thánh đường cho phe Arian.  Thánh nhân trả lời rằng ngài không bao giờ nhường đền thờ của Thiên Chúa.

Dân chúng đứng về phe Ðức Giám Mục Ambrôsiô.  Ngài thừa khả năng để thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ Justina.  Nhưng ngài thận trọng không dùng bất cứ lời nói hay hành động nào để khích động dân chúng.

Khi một số người Công Giáo bắt giữ một linh mục phe Arian và kết án tử hình, Ðức Giám Mục Ambrôsiô đã nhân danh hòa bình xin tha cho vị linh mục này và nói rằng: Thiên Chúa sẽ phải đau khổ khi thấy cảnh máu chảy thịt rơi.  Ðức Ambrôsiô gửi các linh mục và phó tế của ngài đến giải thoát cho vị linh mục Arian này.

Sau đó Hoàng Hậu Justina thuyết phục con mình ban bố luật lệ để hợp pháp hóa lạc giáo Arian và cấm người Công Giáo không được chống đối người Arian.  Không ai có thể đệ trình một thỉnh cầu chống với một tổ chức tôn giáo đang có thế lực.

Vào Chúa Nhật Lễ Lá, trong bài giảng, Ðức Giám Mục Ambrôsiô tuyên bố không nhường lại các nhà thờ.  Cả giáo đoàn, vì lo sợ cho tính mạng, đã phòng thủ trong nhà thờ với vị chủ chăn là Ðức Giám Mục Ambrôsiô.  Quân triều đình bao vây chung quanh ngăn chặn mọi đường tiếp tế, để dân chúng vì đói mà phải ra đầu hàng.  Cho đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh, tất cả mọi người vẫn kiên trì phòng thủ.

Khi chạm trán với lực lượng bao vây, Ðức Giám Mục Ambrôsiô nói, “Vũ khí của tôi chỉ là nước mắt. Tôi không muốn từ bỏ nơi đây, nhưng tôi không chống cự bằng võ lực.”

Ðể trấn an dân chúng đang khiếp sợ, Ðức Giám Mục Ambrôsiô dạy họ hát thánh vịnh do chính ngài sáng tác.  Ngài chia cộng đoàn làm hai bên để đối đáp.  Ðây là lần đầu tiên việc hát đáp ca được ghi nhận trong lịch sử Giáo Hội.

Tiếng nhạc và lời kinh vượt ra ngoài bốn bức tường của thánh đường và làm rúng động tâm hồn các binh lính.  Không bao lâu, chính họ cũng cất tiếng phụ họa.  Sự vây hãm chấm dứt.

Vì biết quân triều đình đang tập trung vào việc chống đối người Công Giáo, Maximus một lần nữa lại quyết định tấn công Rôma. Justina và hoàng tộc thật kinh hãi.  Không biết trông vào ai, sau cùng họ lại quay về với người mà họ từng tấn công và đe dọa.  Họ xin Ðức Giám Mục Ambrôsiô đến gặp Maximus và ngăn chặn sự tấn công.

Trong một hành động tha thứ có thể nói lạ lùng, Ðức Giám Mục Ambrôsiô lại thi hành nhiệm vụ cho kẻ thù.  Khi Maximus từ chối thoả hiệp, ngài vội vã trở về để chuẩn bị.  Justina và hoàng tộc trốn sang Hy Lạp, trong khi Ðức Giám Mục Ambrôsiô ở lại chống đỡ.  May mắn thay, vị hoàng đế đông phương là Theodosius đã can thiệp và đánh bại Maximus.  Tuy nhiên, sau đó Theodosius đã chiếm quyền kiểm soát toàn thể đế quốc Rôma.  Theodosius là người Công Giáo và sau này trở thành người bạn chí thiết của Ðức Giám Mục Ambrôsiô.

Ðức Giám Mục Ambrôsiô từ trần năm 397, khoảng 57 tuổi.   Lễ kính được đặt vào ngày 7 tháng Mười Hai, là ngày ngài “bị” tấn phong giám mục.

Sưu tầm

 

ĐIỆU CA CỦA NGƯỜI MÙ

Tôi vào đời không có màu sắc.  Tôi đi trong biển đêm không giới hạn hoàng hôn hay bình minh.  Cuốn lịch của tôi chỉ có một tờ, dài bằng cuộc đời.  Tờ lịch mở ra là ngày sinh và bóc đi là ngày chết.  Chiều lên hay chiều xuống, rừng thay mùa đổi lá, thửa vườn tôi vẫn không đổi thay.  Bốn mùa đời tôi chỉ có vậy, vang vang một cung điệu trầm của bóng tối, ngày lẫn vào đêm.

Tôi vào đời trong không gian không có hình dáng.  Mây về ngang trời hay mây đi xa, mùa thu êm ả hay hoa xuân rạo rực trên đồi, không gian tôi vẫn thế.  Tôi không biết gần, không biết xa.  Chung quanh tôi có khi cận kề mà như xa tít tắp.  Có khi xa lắm mà lại như bên cạnh.

Tôi dò dẫm cuộc đời trong bước chân rất chậm.  Tôi tìm tôi trong cuộc sống bằng tiếng nói của con tim chứ không thể bằng con mắt.

Bởi tôi mù, tôi không bao giờ biết thế nào là ánh sáng, nên ánh sáng của tôi là một thứ ánh sáng không nắm bắt được bằng ánh mắt của xác thân.  Cứ mặt trời lên, mặt trăng về là vũ trụ tuần tự lên xuống theo ánh sáng.  Ánh sáng trong trí tuệ mà thôi.  Bởi thế, những gì con người nhìn thấy và gọi là ánh sáng thì không phải ánh sáng của tôi.  Không so sánh được với ánh sáng thì bóng tối của tôi cũng khác.  Do đấy, bóng tối của tôi cũng khác xa bóng tối được xác định bằng nhãn quang của con người.  Lương tâm tôi xác định bóng tối cho tôi.

Với thân phận mù lòa, con mắt của tôi không phải là ngôn ngữ định nghĩa về bóng tối và ánh sáng.  Tôi đi tìm ánh sáng và bóng tối trong lương tâm và trí tuệ

Từ bóng tối và ánh sáng trong tim tôi, tôi vào đời bằng điệu ca của người mù, điệu ca cũng đến từ con tim nơi tôi suy niệm về bóng tối và ánh sáng đó.  Ðây là bài ca:

–  Xin thương xót tôi!
–  Xin thương xót tôi!
–  Xin thương xót tôi!
–  Xin thương xót tôi!

Tôi là người mù nên bị xếp chung một loại với những người mù khác.  Mở Phúc Âm để nhìn lại những bức ảnh của người mù, người ta sẽ thấy bốn trường hợp Phúc Âm nhất lãm ghi lại cũng là bốn lần chúng tôi hát điệp khúc ấy.

Trong Tin Mừng Mátthêu lần thứ nhất:

Khi Ðức Kitô ra khỏi đó thì có hai người mù theo Ngài mà kêu rằng: “Lạy Con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt. 9:27)

ZZTrong Tin Mừng Mátthêu lần thứ hai:

Có hai người mù ngồi ở vệ đàng; nghe biết Ðức Kitô đi ngang qua, thì họ kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt. 10:29-30)

Trong Tin Mừng Máccô:

Con của Timê là Bartimê, một người mù ăn xin, ngồi ở vệ đàng.  Nghe biết là Ðức Yêsu Nazarét đó, thì hắn lên tiếng kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mc. 10:46-47)

Trong Tin Mừng Luca:

Có người mù nọ đang ngồi ăn xin ở vệ đàng.  Nghe có đông người đi ngang qua, hắn dò hỏi cho biết chuyện gì thế.  Người ta cho hắn biết là có Yêsu Nazareth ngang qua.  Và hắn la lên rằng: “Lạy con vua Ðavit, xin thương xót chúng tôi!” (Lc. 18:35-38)

Những người mù chúng tôi không có bài ca nào khác.  Trước chân dung Ðức Kitô, chúng tôi chỉ có điệu ca duy nhất.  Chúng tôi chỉ lập đi, lập lại mãi:

–  Xin thương xót chúng tôi! Xin thương xót chúng tôi!

Chúng tôi không nhìn thấy khuôn mặt của Ðức Kitô.  Bao nhiêu người đã chứng kiến dấu lạ Ngài làm và tin Ngài.  Ðối với kẻ mù lòa như chúng tôi, niềm tin của chúng tôi cũng khác lắm.  Vì không bao giờ nhìn thấy, bởi đó, chúng tôi kiếm tìm niềm tin dựa vào lòng thương xót.  Chúng tôi không thấy dấu lạ.  Chúng tôi chỉ tin rằng Ngài có lòng thương xót.  Và hễ nghe tin Ngài sắp đi ngang qua là chúng tôi kêu lên:

–  Xin thương xót chúng tôi! Xin thương xót chúng tôi!

Ngày ngày ngồi ở vệ đường xin ăn, tôi chỉ biết về Ðức Kitô bằng cách lắng nghe tiếng người qua lại chuyện trò.  Một người mù trong nhóm chúng tôi bị kết tội là do tội lỗi của cha mẹ hắn ta, hoặc có thể tội riêng hắn mà phải mù.  Ngài bảo rằng không phải tội của ai cả.  Nhưng là để quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện (Yn 9:1-41).  Ðấy, Ngài lại có lòng thương xót.

Ngồi ở vệ đường, tôi nghe kể về Ðức Kitô đã đến với những kẻ khốn cùng như chúng tôi.  Bị trách là tại sao vào thăm nhà những người thu thuế tội lỗi, thì Ngài bảo là người đau yếu mới cần thầy thuốc (Mc. 2:15-17).  Gặp kẻ khốn cùng vì câm điếc, mù lòa, tật nguyền là Ngài xót thương họ ngay (Mt. 15:29-31).  Bao nhiêu lần Ngài cứu chữa những người còng lưng, bất toại trong ngày Sabat (Mt. 12:9-14).  Ngài không bảo chúng tôi về, ngày mai hãy tới vì Ngài phải coi ngày Sabat trọng hơn sự khốn khổ của chúng tôi.  Lòng thương xót của Ngài không bao giờ là tình thương được định theo thời khóa biểu.

Ngồi bên vệ đường, tôi suy nghĩ về lòng xót thương.  Tôi thấy lòng thương xót nào mà không phải chờ đợi bằng chương trình của những thời khóa biểu thì đấy là lòng thương xót thật.  Tôi thấy chỉ vì thương xót chúng tôi mà Ngài mất đi niềm thương xót của các thầy tư tế, các kinh sư.

Cũng như những tháng ngày ngồi bên vệ đường, cũng bằng con tim thôi, tôi thấy lòng thương xót nào mà sẳn sàng chịu thương đau với người mình thương xót thì đấy là lòng thương xót thật.  Những ngày thinh lặng bên chợ đời, cũng chỉ bằng con tim, tôi nhìn thấy chân dung Ngài.  Làm sao màu sắc có thể vẽ được lòng thương xót?  Tôi chỉ vẽ hình ảnh Ngài bằng điệu ca:

–  Xin thương xót chúng tôi! Xin thương xót chúng tôi!

Những lời kêu của chúng tôi làm người chung quanh nhàm chán lắm: “Những kẻ đi trước quát bảo hắn im đi” (Lc. 18:39).  Ðức Kitô không bao giờ chán nghe điệu ca ấy, không bao giờ từ chối bài ca của người mù chúng tôi.  Ngài biết từng bước lần mò trong đời sống của kẻ mù lòa tội nghiệp như thế nào.  Ngài không từ chối tiếng gọi của chúng tôi, vì trong điệu ca, chúng tôi đã gọi đúng tên của Ngài.

Tên Ngài là Ðấng hay xót thương.  Và niềm tin của chúng tôi là tin Ngài là Ðấng hay thương xót.

******************************

Lạy Chúa, đọc trong Phúc Âm nhất lãm, chúng con đã thấy bốn trường hợp nhắc đến người mù là bốn lần có điệp khúc “xin thương xót chúng tôi.”  Hôm nay, lập lại bài ca thương xót trước mỗi lần dâng lễ:

–  Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con!

Là chúng con lập lại bài ca của người mù thủa xưa.  Nhắc tới ánh sáng người mù đã nhìn thấy là lập lại lòng thương xót của Chúa.  Họ đã nhìn thấy một tên gọi đẹp nhất để gọi Chúa:  Chúa là Ðấng hay thương xót.

Ngày nào con yêu điệp khúc đó trong đời con là ngày đó con hạnh phúc.  Nếu con không biết Chúa là Ðấng thương xót con, con sẽ lạc lõng.

Lạy Chúa, mỗi lần đi lễ, nghe điệp khúc ấy, con muốn Chúa cho con trong niềm tin, cậy, mến nói với Chúa rằng: Con hạnh phúc vì Chúa luôn thương xót con.

Nguyễn Tầm Thường, S.J